Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST

Lời nói đầu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cơ chế quản lý kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở rộng quan hệ ngoại thương. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu là nguồn tăng thu ngoại tệ, nâng cao khả năng phát triển nền ki

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế. Song nhập khẩu lại là điều kiện cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu cho phép tận dụng được tiềm năng về khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới. Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết bị, vật liệu vật tư không ngừng tăng lên . Cùng với tiến trình phát triển của đất nước, công ty Thương mại du lịch và dịch vụ TST đã không ngừng vươn lên tự hoàn thiện mình. Hoạt động kinh doanh XNK nói chung và kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị, vật liệu vật tư... nói riêng đã đạt được những kết quả bước đầu tương đối khả quan. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty không thoả mãn với những việc đã làm được mà luôn trăn trở để thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ mà Bộ Thương mại giao phó. Trong điều kiện bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới có nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu á vẫn còn dư âm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nước trong khu vực. Bên cạnh đó chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước cũng còn nhiều tồn tại như biểu thuế nhập khẩu chưa khoa học, thủ tục hành chính còn nhiều phiền phức... Trước rất nhiều khó khăn như vậy làm thế nào để hoạt động nhập khẩu của công ty đạt hiệu quả cao? làm thế nào để phát huy thế mạnh của công ty có uy tín trong và ngoài nước? đó là những câu hỏi đặt ra từ thực trạng hoạt động nhập khẩu ở công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST. Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty em đã tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty và đã chọn đề tài: "Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST" làm luận văn tốt nghiệp. Do tính phức tạp của vấn đề, sự hạn hẹp về thời gian nên bài viết của em còn nhiều điểm chưa hoàn chỉnh, không thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong sự góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn Bùi Đức Dũng cùng tập thể cán bộ phòng kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn của mình. Chương I Nhập khẩu hàng hoá - một hoạt động cơ bản của kinh doanh Thương mại Quốc tế trong nền kinh tế thị trường I. Tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. 1. Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế. 1.1. Khái niệm và vai trò của Thương mại Quốc tế đối với sự phát triển của mỗi Quốc gia. Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một quốc gia với quốc gia khác, là một bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc tế của một nước với các nước khác trên thế giới. Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia. Từ sự khác biệt về tài nguyên, khoáng sản, lực lượng sản xuất, kỹ thuật công nghệ… đã làm cho chi phí để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác biệt giữa nước này với nước khác. Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia. Thương mại Quốc tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh doanh Thương mại Quốc tế. Thương mại Quốc tế cho phép mua được những hàng hoá và dịch vụ ở những thị trường có giá rẻ hơn, sau đó bán chúng ở những thị trường có giá cao. Nhưng điều lý thú hơn cả là không phải lúc nào ta cũng mua được các sản phẩm có giá rẻ và bán chúng với giá đắt mà cái chính là chúng ta lợi dụng được lợi thế so sánh, nhờ đó qua trao đổi Quốc tế mà cả hai bên đều có lợi. Nói đến Thương mại Quốc tế không thể không tìm hiểu về các lý thuyết kinh tế, đặc biệt là quy luật lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Một quốc gia phải tập trung vào sản xuất và trao đổi sản phẩm mà ở đó thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn giữa các mức chi phí cá biệt của Quốc gia đó với mức chi phí trung bình Quốc tế trên thị trường Thế giới. Do đó có thể thấy cốt lõi của lợi thế so sánh là sự khéo léo lựa chọn, biết kết hợp giữa ưu thế của một nước với ưu thế của nước khác để đạt được lợi thế tối đa trên cơ sở một khả năng hạn chế. Như vậy, một Quốc gia muốn phát triển thì phải bảo đảm hiệu quả tối đa của việc chuyên môn hoá trên cơ sở lợi thế so sánh. Làm được điều đó thì bất cứ một quốc gia nào cũng có thể tham gia vào thị trường Thương mại Quốc tế một cách có lợi nhất. 1.2. Vị trí của công tác nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế đối với một quốc gia. Nước ta cũng như nhiều nước khác có khả năng rất lớn về nhiều mặt như: tài nguyên thiên nhiên, lao động... song không chỉ nhằm vào chúng một cách độc lập mà hy vọng đạt hiệu quả cao. Tức là nói ngắn gọn không thể có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên cơ sở hoàn toàn tự cấp tự túc. Để khai thác hiệu quả tiềm năng trên, chúng ta phải có vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để có những yếu tố này chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp mà phương pháp cơ bản nhất là thông qua Thương mại Quốc tế trong đó chủ yếu và giữ vị trí chủ động là hoạt động nhập khẩu. Trong điều kiện chúng ta còn tương đối lạc hậu về kinh tế công nghệ kỹ thuật thấp kém thì việc thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc hiện đại hoá lực lượng sản xuất không thể ngày một ngày hai mà chỉ có thể tiến hành từng bước bằng nhập khẩu trong một thời gian dài. Việc thay đổi chiến lược kinh tế từ "đóng cửa” sang "mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở sẽ tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng của nước chúng ta trong phân công lao động Quốc tế một cách có lợi nhất. Thương mại Quốc tế chỉ ra cho một nước lợi thế của mình, nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất. Nhập khẩu sẽ giúp chúng ta gỡ những vướng mắc mà những nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu đó là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền kinh tế Thế giới thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng. - Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức sống của nhân dân. - Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu mã cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước. - Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển trong xã hội. - Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất. - Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cấp, tự túc. - Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc quá hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được). - Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá. 3. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của môi trường, điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của người kinh doanh đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra đây một vài hình thức nhập khẩu đang được sử dụng tại các doanh nghiệp của nước ta hiện nay. 3.1. Nhập khẩu trực tiếp: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế. Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ phần lãi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ. Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức. Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, còn hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập. 3.2. Nhập khẩu uỷ thác. Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối tác kinh doanh... nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp Xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng: - Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài - Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác. 3.3. Nhập khẩu liên doanh. Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu. Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng: - Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài. - Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp Nhà nước). 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. 4.1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế: Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. Vì nó thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động của các chính sách, chế độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi thực hiện, sửa đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đãi của một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước đó mà còn ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xã hội với những nước đó. Đồng thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy định luật pháp Quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này. 4.2. Tỷ giá hối đoái. Nhân tố này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại. Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Vì vậy khi tiến hành bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững xem hiện nay quốc gia mà mình định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc ấn định này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh hàng nhập khẩu. 4.3. Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài. Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu bên kia là thị trường ngoài nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng nào đó trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung cấp, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác dụng đến thị trường nhập khẩu. 4.4. Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp Thương mại trong và ngoài nước. Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ đó làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu. Còn nếu như sản xuất kém phát triển không sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó nó ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn nhu cầu nhập khẩu đẩy nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển. Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động bị thu hẹp, mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh, hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao. Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và ngoài nước, sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các nền kinh tế. Chính vì vậy, nó tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động, tinh thần sáng tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách trong nền kinh tế. 4.5. Hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới hình thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào. Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như xã hội và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh. 4.7. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc: Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công việc có thể tiến hành thuận lợi, kịp thời. Còn việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là một công việc hết sức quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc nghiên cứu và áp dụng những công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống thông tin và giao thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu. Trên đây, chúng ta đã xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều nhân tố khác. Vì vậy hoạt động nhập khẩu hết sức phức tạp và có mối tác động qua lại tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong nền kinh tế. II. Nội dung chính của hoạt động nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu là một quá trình bao gồm rất nhiều khâu từ khâu nghiên cứu thị trường đến khâu tiếp nhận và bảo quản hàng hoá. ở mỗi khâu đều cần phải nghiên cứu thực hiện một cách đầy đủ kỹ lưỡng, đồng thời phải đặt các khâu trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Có như vậy hoạt động nhập khẩu mới đạt được hiệu quả cao, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu tái sản xuất mở rộng trong nước, thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao đồng thời cũng đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu rất phức tạp và biến động muôn hình muôn vẻ nhưng nhìn chung các hoạt động nhập khẩu đều bao gồm các bước sau: 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đòi hỏi cần được tiến hành liên tục thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước. Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản phẩm nhập khẩu, từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như vậy phải trả lời được những câu hỏi sau: * Thị trường trong nước cần những mặt hàng gì? Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ra sao? Cần phải xác định được nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng một cách cụ thể về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, số lượng để nhập khẩu hàng hoá về thoả mãn đúng, đủ, kịp thời những nhu cầu đó. * Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở trong nước như thế nào? Mỗi sản phầm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của mỗi sản phẩm bao gồm các pha: pha giới thiệu, pha phát triển, pha hưng thịnh, pha bão hoà, pha suy thoái, ở mỗi pha chu kỳ sống, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra thành hành động mua cũng cũng rất khác nhau. Do vậy để kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm và nắm bắt được sản phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống. Bên cạnh nghiên cứu nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu, cần phải nghiên cứu để biết được cung trong nước về hàng hoá đó. Chênh lệch nhu cầu về hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến cung của một hàng hoá là khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó. Do vậy, muốn biết được nên kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gì với số lượng là bao nhiêu cần phải nghiên cứu tình hình trong nước về sản xuất mặt hàng đó như thế nào. 1.2. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế. Một trong những yếu tố quan trọng của thị trường là cung về hàng hoá. Kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là một yếu tố khách quan. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất trên phạm vi quốc tế. Tức là việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu thông mà còn nghiên cứu cả trong lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá. Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật hoạt động của chúng- thể hiện qua nhu cầu, cung ứng, và giá cả - liên hệ với điều kiện của doanh nghiệp và nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu ở trong nước để quyết định kinh doanh mặt hàng gì và lựa chọn đối tác kinh doanh thích hợp. 1.3. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Dung lượng thị trường không phải là yếu tố tĩnh mà thường xuyên biến động do nó chịu sự tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu dung lượng thị trường nhằm mục đích xác định được vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Còn việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường để có thể dự đoán được sự biến động của nó trên cơ sở đó vạch ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tập trung vào những nhân tố chủ yếu sau: * Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: bao gồm: sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. - Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nắm vững ảnh hưởng của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng các kết quả nghiên cứu thị trường và giá cả để chọn thời gian giao dịch thích hợp nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. - Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Một số hàng hoá chịu ảnh hưởng của các yếu tố mang tính chất thời vụ do đó việc sản xuất, lưu thông, tiêu dùng những hàng hoá này cũng rất khác nhau nên sự tác động của nhân tố thời vụ đến dung lượng thị trường của những hàng hoá khác nhau cũng rất khác nhau. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm của mặt hàng kinh doanh và tính chất thời vụ của nó để ra các quyết định đúng đắn về hành động mua, vận chuyển và phân phối hàng hoá đó trong nước. * Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài. Có những nhân tố không làm thay đổi dung lượng thị trường hàng hoá một cách nhanh chóng mà ta có thể dễ dàng nhận biết ngay được. Những nhân tố này có thể gây những biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng phải trải qua một quá trình chứ không phải trong một thời gian ngắn. Có thể đến các nhân tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế. * Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời: Các nhân tố có thể kể đến là: các yếu tố tự nhiên, thiên tai, bão lụt, hạn hán.. gây ra sự biến đổi cung cầu của một số mặt hàng nhất định. Cần phải nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó được với các tình huống bất ngờ xảy ra. 1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới. Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả Thương mại Quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu. * Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Tuỳ theo mục đích mà dự báo xu hướng biến động của giá cả trong thời gian ngắn và dài. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm. Dự báo trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại. * Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá. Các nhân tố tác động lâu dài: - Nhân tố chu kỳ: sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu. - Nhân tố lũng đoạn và giá cả: lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu vực thị trường tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán. - Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xảy ra khi trên thị trường có xu hướng cung lớn hơn cầu khiến cho giá có xu hướng giảm xuống. Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có xu hướng lớn hơn cung làm cho giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả. - Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của nó, mà còn được quyết định bởi giá trị của một đơn vị tiền tệ hiện hành. Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường là sự biểu hiện giá trị của nó thông qua những đồng tiền mạnh (như Đôla Mỹ, Demac Đức, Bảng Anh...). Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường, bản thân giá trị của đồng tiền cũng có thể bị thay đổi. Lạm phát và giảm phát làm cho giá cả của hàng hoá tăng lên hay giảm xuống một cách bất thường. * Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch. Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác định được mức giá cho từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập. Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các trung tâm giao dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới về hàng hoá đó. Đồng thời cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ khu vực thị trường các nước bạn hàng đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định giá cho chính xác. Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào hàng của các đơn vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính đến các thay đổi của sản phẩm và các yếu tố có liên quan để đưa ra một mức giá nhập khẩu hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. 2. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu. 2.1. Lựa chọn đối tượng giao dịch Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề lựa chọn đối tượng để giao dịch và lựa chọn thương nhân. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chúng ta cần nghiên cứu tình hình chung của nước đó như khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu của họ, chính sách, luật pháp, tập quán thương mại... Khi lựa chọn thương nhân để giao dich, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn người sản xuất để nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi muốn thâm nhập vào thị trường mới, mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý môi giới lại có ý nghĩa quan trọng. Để lựa chọn được chính xác và đúng đắn, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần phải tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, uy tín và mối quan hệ của họ trong kinh doanh. Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương pháp chủ yếu sau: - Điều tra qua tài liệu và sách báo hay còn gọi là điều tra tại phòng làm việc. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương đối tốn kém. Tài liệu thường dùng để nghiên cứu là các bản tin giá cả thị trường của VNTTX và của trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo cáo của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, các báo tạp chí như: MOCI (Pháp), Far Eastern Economic Review (Anh), Financial Time (Anh)... - Điều tra tại chỗ (Fiel reseach) theo phương pháp này người ta cử người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân. Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm được những thông tin chắc chắn và toàn diện. Ngoài hai phương pháp trên đây, người ta còn có thể sử dụng các phương pháp sau: mua, bán thư, mua dịch vụ thông tin của các công ty điều tra tín dụng, thông qua người thứ ba để tìm hiểu... 2.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng. a. Thương lượng, đàm phán hợp đồng nhập khẩu. Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lựa chọn đối tượng giao dịch, các doanh nghiệp tiến hành xúc tiến việc chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập khẩu. Nhưng để tiến tới ký hợp đồng mua bán với nhau, người nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch, công việc này trong hoạt động ngoại thương gọi là đàm phán có thể đàm phán giao dịch qua th._.ư tín, điện thoại... nhưng đối với những hợp đồng lớn, phức tạp, cần giải thích thoả thuận cụ thể với nhau thì nên giao dịch đàm phán với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán theo phương pháp này tuy chi phí cao nhưng đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng. Trình tự đàm phán như sau: - Hỏi giá: do bên mua (bên nhập khẩu) đưa ra, tức là phải nêu rõ tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán (loại tiền thanh toán, thể thức thanh toán...). Về phương diện pháp lý thì đây là lời thỉnh cầu trước khi bước vào giao dịch, về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả hàng hoá và các điều kiện mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá. - Phát giá: luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán ngoại thương, phát giá là chào hàng thường do người xuất khẩu thể hiện ý định bán hàng của mình bằng cách nêu rõ các điều kiện đã nêu trong hỏi giá (chú ý có thêm điều kiện giao hàng). - Hoàn giá: bên mua không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới. - Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng. - Xác nhận: hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất với nhau về điều kiện giao dịch có thể lập hai văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho nhau. Trong các bước giao dịch đàm phán trên thì chào hàng và đặt hàng là hai khâu được quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. Việc giao dịch, đàm phán sau khi đã có kết quả sẽ dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. b. Hợp đồng nhập khẩu. Hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng kinh tế ngoại thương, trong đó có sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhau về chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, nghĩa vụ thanh toán, trả tiền nhận hàng. Hợp đồng kinh tế ngoại thương của nước ta bắt buộc phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Bởi đây là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện. Hợp đồng nhập khẩu có các điều khoản chủ yếu như sau: + Phần mở đầu: Ghi thông tin về số hợp đồng, ngày và nơi ký hợp đồng, về chủ thể hợp đồng (tên giao dịch Quốc tế, địa chỉ, số điện thoại...) + Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải ghi rõ, chính xác để không xảy ra hiểu lầm, có thể ghi rõ địa danh sản xuất (xuất xứ hàng hoá), nhà sản xuất, quy cách, tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học (nếu có)... + Điều khoản số lượng: Ghi rõ số lượng, khối lượng, trọng lượng, quy cách, đơn vị đo lường... Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải dự liệu theo một sai số có thể chấp nhận được. Trọng lượng hàng hoá có thể tính cả trọng lượng bì hoặc không (phải ghi rõ). Cũng có thể tính trọng lượng hàng hoá theo trọng lượng thương mại tức là có độ ẩm tiêu chuẩn. + Điều khoản phẩm chất: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng hoá, tính năng cơ, lý, hoá, công suất, hiệu suất (máy móc), thẩm mỹ... để phân biệt hàng hoá này với hàng hoá khác. Cũng có thể căn cứ vào mẫu mã hàng hoá và các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán Thương mại Quốc tế. + Điều khoản bao bì: Điều quan trọng nhất trong kinh doanh Thương mại Quốc tế là phải bảo đảm hàng hoá có bao bì phù hợp tính năng, hình dáng kích thước của hàng hoá và phương thức vận tải. Còn về phương thức xác định giá cả của bao bì: nếu bên bán chịu trách nhiệm cung cấp bao bì, thì việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp: giá cả bao bì được tính vào giá cả hàng hoá (không tính riêng), giá cả của bao bì do bên mua trả riêng, và giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hoá. + Điều khoản cơ sở giao hàng: Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh XNK đều có thể áp dụng một trong 13 điều khoản cơ sở giao hàng Incoterm 2000 + Điều khoản giá cả: bao gồm đồng tiền tính giá và mức giá. Đồng tiền tính giá có thể dùng tiền của nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá tức mức giá Quốc tế mà các bên phải tuân theo. Phương pháp quy định giá có thể theo các loại sau: Giá cố định: tức là giá được quy định khi ký kết hợp đồng mà không sửa đổi. Giá quy định: được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giá linh hoạt: là giá có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giá di động: người ta quy định mức giá ban đầu, sau đó tính toán lại trong khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá ban đầu. Nhưng trong việc xác định giá cả, thông dụng hơn cả người ta luôn luôn định rõ điều kiện cơ sở giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy là vì điều kiện giao hàng đã bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người bán phải chiụ trong việc mua hàng như: vận chuyển, bốc dỡ, mua bảo hiểm, chi phí lưu kho, làm thủ tục hải quan... Vì vậy trong các hợp đồng mua bán, mức giá bao giờ cũng được xác định căn cứ và điều kiện cơ sở giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng ấy thường được ghi bên cạnh rõ ràng. + Điều khoản giao hàng: nội dung của điều khoản này xác định thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên không có thoả thuận gì khác thì thời hạn này là lúc di chuyển rủi ro, tổn thất từ người bán sang người mua. Giao hàng không đúng hạn có thể thiệt hại và phải bồi thường. Có ba kiểu quy định giao hàng: giao hàng có định kỳ, giao hàng không có định kỳ và giao hàng ngay. Phương thức giao hàng: có thể quy định tiến hành tại một địa điểm nào đó, có thể giao sơ bộ, giao cuối cùng hoặc có thể giao nhận về số lượng, chất lượng... Thông báo giao hàng: các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ thông báo giao hàng. Tức là quy định nội dung và số lần thông báo khi người bán giao hàng xong. + Điều khoản thanh toán trả tiền: trong việc thanh toán trả tiền hàng, các bên thường phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiển, phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái. Đồng tiền thanh toán: giống như các điều khoản trên quy định trong Thương mại Quốc tế, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Thời hạn thanh toán: trong Thương mại Quốc tế, bên nhập khẩu có thể trả tiền trước, trả tiền sau hoặc trả tiền ngay. Phương thức thanh toán: trong giao dịch Quốc tế, phương thức thanh toán phổ biến nhất là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi và an toàn nhất. Nó là sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua trả tiền cho bên bán hoặc bất cứ người nào theo lệnh của bên bán trong một thời hạn nhất định khi bên bán xuất trình bộ chứng từ đầy đủ và đã thực hiện mọi yêu cầu được quy định trong một văn bản được gọi là thư tín dụng (letter of credit L/C). Có hai loại thư tín dung: thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C) và thư tín dụng không thể huỷ ngang (ỉnevocable L/C). Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại L/C do ngân hàng mở (ngân hàng phát hành L/C) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào không cần báo trước cho người hưởng lợi (bên bán). Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại L/C mà trong thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ hoặc sửa đổi nội dung, đó là cam kết chắc chắn đối với người bán trong thanh toán tiền hàng, đồng thời bảo đảm hàng hoá cho người mua. Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán khi giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền. Có hai loại phiếu nhờ thu được sử dụng đó là: nhờ thu không kèm chứng từ và nhờ thu kèm chứng từ. Loại phiếu nhờ thu không kèm chứng từ là phương thức trả tiền nhờ thu phiếu trơn (clean collection). Theo phương thức này, ngân hàng không nắm được chứng từ, người mua có thể dùng bộ chứng từ nhận được từ nước ngoài để đi nhận hàng mà không cần qua ngân hàng xong vẫn trì hoãn được việc trả tiền. Loại phiếu nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trả tiền phải kèm chừng (documentary collection). Theo phương thức này, ngân hàng khống chế bộ chứng từ, người mua muốn có chứng từ để nhận hàng thì phải trả tiền và chấp nhận trả tiền. + Điều khoản bảo đảm hối đoái: vì đồng tiền trên thế giới luôn bị lạm phát, mất giá hay bị thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy các bên có thể thoả thuận quy định những điều kiện bảo đảm tỷ giá hối đoái. Có thể dùng vàng hoặc đồng tiền mạnh, ổn định. + Điểu khoản bảo hành: là sự bảo đảm của người bán về chất lượng hàng hoá trong thời gian nhất định được gọi là thời hạn bảo hành. Người ta thường thoả thuận về phạm vi đảm bảo của người bán, thời hạn bảo hành và trách nhiệm của người bán trong thời hạn bảo hành. + Điều kiện bất khả kháng: trong trường hợp nếu có rủi ro xảy ra, bên đương sự được hoàn toàn và trong một chừng mực nào đó được miễn trách nhiệm nếu rủi ro đó có tính chất khách quan mà không thể khắc phụ được. Trách nhiệm của bên gặp rủi ro là phải lập tức thông báo cho bên kia bằng văn bản. Người ta thường thoả thuận chỉ định một tổ chức chứng nhận sự việc xảy ra, thường là phòng thương mại. 3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký hợp đồng phải tổ chức hợp đồng đó. Đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp Quốc gia, Quốc tế, đảm bảo uy tín của cả hai bên. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, đơn vị kinh doanh phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của các nghiệp vụ giao dịch. Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc sau: 3.1. Xin giấy phép nhập khẩu: Hiện nay, việc xin giấy phép nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam vẫn được áp dụng trong trường hợp: - Nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp phải xin giấy phép XNK của Bộ Thương mại. - Nếu là hàng hoá không thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp không cần phải xin giấy phép. 3.2. Mở L/C. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán bằng L/C thì bên mua phải lập L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng, thông thường thì L/C được mở khoảng 20-25 ngày trước thời hạn giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản trong hợp đồng nhập khẩu. Người nhập khẩu phải căn cứ vào đó để điền vào mẫu xin mở L/C gọi là giấy mở tín dụng khoản nhập khẩu. 3.3. Thuê tàu lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: những điều khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm của hàng hoá nhập khẩu và điều kiện vận tải. Chủ hợp đồng phải chú ý tới từng loại hàng hoá để thuê phương tiện vận tải cho phù hợp. Hàng hoá có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, hàng hoá có khối lượng nhỏ thì thuê tàu chậm, hàng lỏng thì thuê Tanker, hàng tươi sống thuê phương tiện vận tải có thiết bị làm lạnh... Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy thông thường, chủ hàng thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải chuyên nghiệp. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa hai bên nhận uỷ thác thuê tàu và uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác. Có hai loại hợp đồng uỷ thác: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm. Hợp đồng uỷ thác chuyến. Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn loại hình hợp đồng uỷ thác cho thích hợp. 3.4. Mua bảo hiểm. Hàng hoá chuyên chở trên đường thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất vì thế chủ hàng nhập khẩu thường mua bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm có uy tín. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm hoặc là bảo hiểm chuyến. Để ký hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững những điều kiện bảo hiểm: Bảo hiểm mọi rủi ro. Bảo hiểm có tổn thất riêng. Bảo hiểm miễn tổn thất riêng. Ngoài ra có một số loại bảo hiểm phụ: vỡ, rò, rỉ, mất trộm, ôxi hoá... và bảo hiểm đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo động, dân biến... Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ: Điều khoản hợp đồng. Tính chất hàng hoá. Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng. Loại tàu chuyên chở. Tình hình khí hậu thời tiết, chính trị, xã hội... 3.5. Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan gồm ba nội dung chủ yếu sau: - Khai báo hải quan: chủ hàng phải khai báo các loại chi tiết hàng hoá lên tờ khai về: loại hàng hoá (hàng mậu dịch, phi mậu dịch, hàng trao đổi tiền ngạch biên giới, hàng tạm nhập tái xuất), số lượng, khối lượng, giá trị hàng hoá, phương tiện vận tải, nước giao dịch... kèm theo đó là giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, bản kê chi tiết để cơ quan hải quan kiểm tra thủ tục giấy tờ. - Xuất trình hàng hoá: hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra, mọi chi phí liên quan đến việc đóng mở hàng hoá, chủ hàng phải chịu. Yêu cầu việc xuất trình hàng hoá phải đảm bảo trung thực. - Thực hiện các quyết định của hải quan: nghĩa vụ của chủ hàng là phải chấp hành mọi quyết định của hải quan về việc: nộp thuế trong vòng 30 ngày nếu hàng hoá được nhập, hoặc nộp phạt nếu hàng hoá sai quy định, tịch thu nếu hàng hoá nằm trong danh mục cấm nhập của Nhà nước. 3.6. Kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và giao nhận với tàu. Hàng nhập khẩu về qua cửa khẩu sẽ được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng của mình mà tiến hành công việc kiểm tra đó. Nếu phát hiện những tổn thất, thiếu hụt, mất mát hay đổ vỡ cơ quan chức năng sẽ lập biên bản rõ ràng. Người nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên vận đơn thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, yêu cầu lập biên bản giám định. Theo quy định của Nhà nước về việc giao dịch hàng với tàu, các cơ quan vận tải, ga cảng có trách nhiệm nhận hàng hoá trên các phương tiện vận tải vào ga cảng, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho đơn vị nhập khẩu theo lệnh của đơn vị ngoại thương đã xuất khẩu hàng hoá đó. Thông báo cho các đơn vị nhập khẩu ngày tàu về cảng. 3.7. Thanh toán. Đây là khâu trọng tâm, cuối cùng của tất cả các giao dịch, kinh doanh trong Thương mại Quốc tế. Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C, đơn vị mở L/C gửi giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi để ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng ngoại thương, đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu thấy chứng từ hợp lệ thì trả tiền cho ngân hàng, sau đó nhận chứng từ đi lấy hàng. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiềnhàng bằng phương thức nhờ thu thì sau khi nhận được chứng từ ở ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định, nếu trong thời gian này đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính đáng để từ chối thanh toán thì ngân hàng coi như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ. Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài. Chú ý: chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu hồi vốn nhanh. 3.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi làm mất thời cơ khiếu nại. Đối tượng khiếu nại là người bán nếu hàng hoá có chất lượng hoặc số lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ. Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng hoá bị tổn thất trong quá trình chuyên chở hoặc nếu sự tổn thất đó do người vận tải gây ra. Đối tượng khiếu nại là Công ty bảo hiểm nếu hàng hoá- đối tượng của bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc lỗi của người thứ ba gây nên, nếu những rủi ro này đã được mua bảo hiểm. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám định, COR, ROROPC hay CSC...), hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm)... Nếu việc khiếu nại là có sơ sở, chủ hàng xuất khẩu phải giải quyết bằng một trong những phương pháp sau: - Giao hàng còn thiếu. - Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng. - Sửa chữa hàng hỏng. - Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời hạn sau đó. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau tại hội đồng trọng tài (nếu có thoả thuận trọng tài) hoặc tại toà án. Chương II Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty Dịch vụ du lịch và Thương mại TST I. Tổng quan về công ty. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty. Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại TST - Tourism Service and Trade Company là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Công nghệ và Du lịch (DETETOUR), được thành lập theo Nghị định 388 của Thủ tướng Chính phủ và được Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp số: 5.271.012/GP ngày 22 tháng 1 năm 1994. Công ty Dịch vụ du lịch và Thương mại TST là một doanh nghiệp quốc doanh hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ xã hội mà chủ yếu là xuất nhập khẩu và dịch vụ du lịch. Công ty là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng trong và ngoài nước, được sử dụng con dấu riêng theo mẫu quy định. Doanh nghiệp được thành lập và bắt đầu phát triển, hoạt động kinh doanh trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, quyết liệt của cơ chế thị trường, vậy mà Công ty vẫn duy trì được hoạt động và tồn tại trong lúc cả nước ta đã có nhiều doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau làm ăn thua lỗ đi đến giải thể, phá sản. Do yêu cầu phát triển của Công ty, trong quá trình phát triển đã hình thành một số tổ chức như: Liên doanh với nhà máy sản xuất thuốc là Bến Thành với Công ty Ba Son, thành lập Chi nhánh của Công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh, liên doanh nhà khách tại Đồ Sơn, mở thêm trung tâm sửa chữa và bảo hành xe gắn máy, kinh doanh khách sạn Nam Đế. Do tổ chức mới được hình thành nên Công ty đặt ra phương châm vừa hoạt động vừa rút kinh nghiệm để dần dần vươn lên. Đại hội Đảng lần thứ VIII với những chính sách đổi mới đã mở ra một thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, Nhà nước chủ trương chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh giao lưu văn hoá trong nước và Quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong hoàn cảnh mới, Công ty TST với đường lối hợp lý đã tạo được mối quan hệ tốt từ Trung ương đến địa phương và được các cơ quan chủ quản ủng hộ, được Tổng công thức, từ các đồng chí lãnh đạo đến các cơ quan chức năng luôn tạo điều kiện giúp đỡ, bảo đảm cho hoạt động của Công ty như về vốn, cho phép mở rộng thêm ngành nghề, tạo điều kiện cho Công ty kinh doanh rộng hơn, đa dạng hơn. Đến này Công ty đã có một đội ngũ cán bộ nhân viên được tuyển chọn, 80% quân số có trình độ đại học và trung cấp chuyên môn có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công ty đã tạo được mối quan hệ tốt với các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Pháp, Singapore, Mỹ, ý, Đức... Đầu tư mở rộng hợp tác liên doanh và nâng cấp các cửa hàng bán lẻ, tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để thu ngoại tệ, áp dụng các biện pháp hữu hiệu để tổ chức nguồn hàng xuất nhập khẩu, định giá mua bán trên cơ sở căn cứ vào thị trường, thu thập thông tin, tham gia triển lãm hội chợ... để từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh: bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, từng bức nâng cao cơ sở vật chất của Công ty, dần dần nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên, tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, hướng nhập khẩu vào những nguồn hàng có nhiều triển vọng và mang lại nhiều lợi nhuận. 2. Cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. 2.1. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty. Công ty Dịch vụ du lịch và Thương mại TST Tên giao dịch là: Tourism Service and Trade Company. Địa chỉ: 1A Láng Hạ - Ba Đình - Hà Nội - Việt Nam. Công ty trực thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia được Bộ Thương mại cấp giấy phép XNK trực tiếp số 1.251.012/GP ngày 22 tháng 1 năm 1994, phê duyệt điều lệ và tổ chức hoạt động của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST). Công ty thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về kinh tế, nhân sự, về các hoạt động và tài sản của mình. Công ty hoạt động theo luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật doanh nghiệp và các điều lệ của Bộ Thương mại. Chức năng hoạt động kinh doanh của Công ty: Mục đích thông qua các hoạt động của Công ty, thông qua các lĩnh vực hoạt động kinh doanh XNK và đầu tư liên doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngoài nước theo luật pháp Việt Nam để phát triển sản xuất, khai thác vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và tạo nguồn hàng xuất khẩu, góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp rát, kinh doanh thương mại, dịch vụ thương mại, du lịch, liên doanh liên kết đầu tư... trong và ngoài nước theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại. Xây dựng các phương án kinh doanh và dịch vụ, phát triển theo kế hoạch và mục tiêu chiến lược của Công ty. Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện chế độ chính sách về quản lý và sử dụng tiền, vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thực hiện đầy đủ cam kết đã ký với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Quản lý toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ công nhân viên theo pháp luật, chính sách hiện hành của Nhà nước và phân cấp quản lý của Bộ để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Chăm lo đời sống, tạo điều kiện lao động cho người lao động và thực hiện vệ sinh môi trường, thực hiện phân phối lao động. Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật, thuộc phạm vi quản lý của Công ty. Công ty có quyền hạn sau: - Kinh doanh theo mục đích thành lập của Công ty và theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. - Chủ động trong sản xuất, kinh doanh, trong ký kết hợp đồng kinh tế với bạn hàng trong nước và nước ngoài về liên doanh hợp tác đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đúng chế độ chính sách của Nhà nước. - Được giao và quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản, nguồn lực. Được huy động các nguồn vốn khác theo pháp luật hiện hành để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. - Được tiếp thị quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ, tham gia hội thảo của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. - Được quyền chủ động tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao và có hiệu quả cao. Quản lý và sử dụng đội ngũ lao động, áp dụng các hình thức trả công lao động khoán khen thưởng để làm đòn bẩy tăng năng suất lao động theo đúng pháp luật và chế độ của Nhà nước quy định, sự phân cấp quản lý của Bộ Thương mại. 2.2. Cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Đứng đầu Công ty là Giám đốc, Giám đốc điều hành Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, Bộ Thương mại và tập thể công nhân viên của Công ty. Giám đốc Công ty được tổ chức máy quản lý và mạng lưới kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ của Công ty và phân cấp quản lý của Bộ. Giúp việc cho Giám đốc là một phó Giám đốc mà Công ty lựa chọn và đề nghị Tổng Giám đốc bổ nhiệm. Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, có trách nhiệm giúp Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê, thông tin kinh tế, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty theo qui định hiện hành của Nhà nước. Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng do Giám đốc quy định cụ thể Các tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (chi nhánh, xí nghiệp, trung tâm, kho trạm, cửa hàng) thực hiện chế độ hạch toán kinh tế phụ thuộc vào Công ty, được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Giám đốc Công ty quy định quy chế tổ chức và hoạt động đối với từng đơn vị phụ thuộc theo phân cấp quản lý của Bộ. Thủ trưởng các đơn vị phụ thuộc dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty có trách nhiệm điều hành theo đúng luật lệ của Công ty và pháp luật của Nhà nước. Công ty có bốn phòng ban chính, các chi nhánh và một số liên doanh như sau: - Phòng hành chính có chức năng tham mưu cho Giám đốc về tổ chức nhân sự, chế độ chính sách đồng thời tổng hợp tình hình chung của Công ty, báo cáo thông tin chính xác kịp thời về khâu tổ chức hành chính quản trị giao dịch Quốc tế. - Phòng kế hoạch có chức năng nhiệm vụ quản lý tài chính, quản lý bảo toàn và phát triển vốn hoạt động, tiền tệ của Công ty, đồng thời có nhiệm vụ thu thông tin về tài sản, công nợ, vốn phục vụ công tác quản lý kinh doanh của Công ty. - Phòng kinh doanh có chức năng mở rộng kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, tổ chức thực hiện công tác Marketin, thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị có nhu cầu. - Phòng du lịch có chức năng dẫn khách du lịch Quốc tế ra vào Việt Nam theo các tour mà Công ty ký hợp đồng. Tổ chức thực hiện nghiên cứu, đánh giá thị trường du lịch, tổ chức và xây dựng các dịch vụ kèm theo, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của khách du lịch. - Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh do một phó Giám đốc Công ty phụ trách có nhiệm vụ, chức năng là xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất (thiết bị phục vụ các ngành nông công nghiệp, hàng tiêu dùng...). Chi nhánh được xem như một bộ phận cơ sở của Công ty có khả năng tự kinh doanh, hạch toán lỗ lãi dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST) tại Hà Nội. - Khách sạn Nam Đế: tuy mới chỉ đi vào hoạt động từ đầu năm 1996, song khách sạn thường xuyên khai thác được 46,3% số phòng. Hoạt động kinh doanh của khách sạn Nam Đế là phục vụ khách nghỉ ngơi, phục vụ các cuộc hội thảo, hội nghị. Trong thời gian tới, Công ty chủ trương mở rộng hoạt động khách sạn với nhiều dịch vụ vui chơi phong phú hơn. Ngoài ra, Công ty còn có các liên doanh tham gia là: - Ba Son Fitflex (Singapore) tập trung nghiên cứu chế tạo gioăng, sản xuất ống thuỷ lực cung cấp cho Quốc phòng. - Liên doanh thuốc Fine (Pháp): có chức năng giới thiệu, quảng cáo và bán hàng tại Hà Nội và một số vùng lân cận. - Điều hoà nhiệt độ (Malayxia- Nhật) có chức năng chủ yếu cung cấp trang thiết bị cho văn phòng làm việc và một số đồ gia dụng phục vụ cho người tiêu dùng. - Trung tâm bảo hành và sửa chữa xe gắn máy (Thái- Nhật): hiện nay bắt đầu đi vào hoạt động bảo hành, bảo dưỡng xe gắn máy. - Liên doanh nhà khách ở Đồ Sơn: với cơ sở vật chất và hệ thống phòng hiện đại, đội ngũ nhân viên phục vụ trẻ đẹp, tay nghề giỏi luôn sẵn sàng phục vụ quý khách những ngày nghỉ sảng khoái. Liên doanh đang dần dần thu hút khách đến nghỉ ngơi ngày một đông. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty. Ban giám đốc Công ty Chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh Phòng kinh doanh Phòng du lịch Phòng hành chính Phòng kế toán Bason Fitflex Thuốc lá Fine Điều hoà nhiệt độ Malayxia- Nhật Trạm dịch vụ Honda Thái- Nhật Khách sạn Nam Đế Liên doanh khách sạn tại Đồ Sơn Trung tâm bảo hành và sửa chữa xe gắn máy 3. Phân tích khái quát về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 3.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. Biểu 1 : Phản ánh kết quả kinh doanh của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại TST qua hai năm 1999 - 2000. Đơn vị : triệu đồng Các chỉ tiêu Thực hiện năm 1999 Thực hiện năm 2000 So sánh Chênh lệch Tỷ trọng (%) 1. Tổng doanh thu 79.506,361 91.183,754 11.677,393 114,68 2. Tổng số thuế nộp 15.299,958 18.159,35 2.859,392 118,69 Thuế xuất nhập khẩu 12.491,5 14.183,7 1.692,2 113,55 3. Doanh thu thuần 64.206,403 73.024,404 8.818,001 113,76 4. Giá vốn hàng bán 63.068,503 71.751,404 8.682,901 113,76 5. Lợi tức gộp 1.137,9 1.273 135,1 111,87 6. Tổng chi phí 1.102,5 1.234,3 131,8 112,00 - Chi phí bán hàng 498,83 593,72 99,98 119,00 - Chi phí quản lý DN 603,67 640,58 36,91 106,11 7. Tỷ suất phí 1,38 1,35 -0,03 8. Lợi tức ròng 35,4 38,7 3,3 109,32 9. Tỷ suất lợi nhuận 1,43 1,39 -0,04 97,2 * Phân tích : Căn cứ vào số liệu trong bảng phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại (TST) ở trên, ta có thể rút ra một số kết luận như sau : - Nhìn một cách tổng quát thì tình hình kinh doanh của côngty là tốt. Tổng doanh thu thực hiện năm 2000 là tăng 114.68% so với năm 1999. Kết quả của tổng doanh thu tăng kéo theo các chỉ tiêu tiếp theo cũng tăng theo : - Tổng số thuế nộp tăng : 18.69%. Trong đó, thuế xuất nhập khẩu tăng 13.55% so với tiền tăng là 1.692.200.000đồng. Riêng về thuế lợi tức, Công ty trực thuộc Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường quản lý vì vậy được ưu tiên miễn thuế lợi tức mà chỉ phải nộp thêm một khoản đóng góp cho Trung tâm gọi là khoản nộp cấp trên. - Doanh thu thuần tăng : 13.73% - Giá vốn tăng : 13.76% - Tổng chi phí tăng : 12% - Lợi tức ròng tăng : 9.32% Đi sâu vào xem xét cốt lõi của vấn đề, ta nhận thấy : Về tỷ suất phí giảm 0.03% chứng tỏ tình hình quản lý chi phí của Công ty rất tốt. Bên cạnh đó tốc độ tăn._.sung kịp thời, nắm bắt một cách nhanh chóng thời cơ nhằm thu lợi nhuận cao. Bố trí sắp xếp mạng lưới tiêu thụ nhập khẩu, tăng thêm những điểm bán lẻ đi sâu vào thị trường trọng điểm từng vùng, từng ngành, vừa đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu vừa cung cấp được thông tin cơ bản về thị trường. Để từ đó, Công ty có thể nghiên cứu, phân tích lập kế hoạch chính xác, phù hợp. Đây là cơ sở vững chắc để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Tạo điều kiện cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty nâng cao trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ. Tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát thị trường trong nước và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong công tác quản lý và điều hành kinh doanh. Thông qua đòn bẩy kinh tế, khoán cụ thể để khuyến khích cán bộ công nhân viên chủ động hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị trực thuộc, cửa hàng, trạm sửa chữa bảo hành... thực hiện các biện pháp thưởng phạt vật chất cụ thể để nâng cao trách nhiệm và khuyến khích người lao động. Mục tiêu lâu dài của Công ty là mở rộng quy mô kinh doanh với chiến lược cụ thể là đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng, xác định rõ mặt hàng chủ lực trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp với nhu cầu hiện thời của thị trường, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở coi trọng hoạt động xuất nhập khẩu, luôn luôn đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa nhu cầu thị trường với tiềm năng của Công ty để có những điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp, từ đó, góp phần vào nội dung yêu cầu tăng trưởng chung của các ngành kinh tế. Tình hình trong nước, tuy mức lạm phát không cao nhưng giá cả hàng hoá không ổn định, quản lý thị trường còn lỏng lẻo, nhu cầu hàng hoá cũng không ổn định. Chính vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của Công ty trong thời gian tới, Công ty Dịch vụ Du lịch và thương mại TST cần phải có những biện pháp khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả, cụ thể và thiết thực. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty TST. 1. Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ: 1.1. Giải pháp mở rộng thị trường. Thị trường tiêu thụ có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty, nó quyết định hàng hoá nhập khẩu của Công ty có tiêu thụ được hay không. Để tăng kim ngạch nhập khẩu ngoài việc thay đổi cơ cấu hàng hoá nhập khẩu cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, Công ty phải tìm các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác tối đa các nhu cầu hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có thể tồn tại và phát triển trong tình hình cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Muốn mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu, Công ty phải thực hiện các bước cơ bản sau: Nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường trong nước về từng mặt hàng nhập khẩu cụ thể mà Công ty đang có kế hoạch kinh doanh. Trong kinh doanh hàng nhập khẩu không thể tách rời mặt hàng với thị trường, đây là hai mặt của một vấn đề. Khó khăn lớn nhất của Công ty hiện nay là cạnh tranh với các hãng nước ngoài có tiềm lực mạnh. Vì vậy, hàng hoá nhập khẩu phải phù hợp với sản xuất và tiêu dùng trong nước, việc này đối với khả năng của Công ty không phải là khó bởi để tìm hiểu nhu cầu thị trường thì Công ty có lợi thế hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu thị trường, Công ty vẫn còn có những hạn chế, chưa xác định chính xác nhu cầu thị trường cho từng mặt hàng mà chỉ dự đoán được xu hướng biến động chung. Đây là một vấn đề rất khó khăn, để khắc phục tình trạng này, Công ty vẫn phải xây dựng cơ cấu mặt hàng một cách chắc chắn theo xu hướng chung của nó. Trong tương lai, Công ty cần khai thác có hiệu quả các lợi thế trong điều kiện trao đổi và phân công lao động quốc tế, tạo ra mặt hàng nhập khẩu mới, có khả năng thay thế và bổ xung. Trong quá trình nghiên cứu thị trường, Công ty phải xác định rõ thị trường trọng điểm và thời cơ hấp dẫn. Đối với Công ty hiện nay, thị trường trọng điểm chính là thị trường hàng hoá vật tư, nguyên liệu, máy móc, thiết bị cho công nghiệp, nông nghiệp, làm hàng xuất khẩu. Khai thác thêm nhu cầu bằng cách liên doanh, liên kết để cung cấp vật tư, nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước. Vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch nhập khẩu trong điều kiện khó khăn hiện nay thì việc liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất để tạo mối quan hệ mua bán lâu dài và vững chắc, tạo ra những đơn đặt hàng lớn, là điều hết sức cần thiết. Đây là một phương thức kinh doanh có tính chắc chắn và ổn định. Chẳng hạn như trong những năm qua, Công ty đã tạo lập được mối quan hệ liên doanh, liên kết với Nhà máy hoá chất Việt Trì, Nhà máy xà phòng Hà Nội và trở thành bạn hàng cung cấp nguyên liệu hoá chất thường xuyên và có uy tín. Bên cạnh đó, Công ty không những liên doanh với các đơn vị sản xuất trong nước mà còn liên kết với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tạo nên sự tương hỗ và phân chia lĩnh vực kinh doanh, giảm bớt sự cạnh tranh không cần thiết đáng có. Tăng cường dịch vụ nhập khẩu và các dịch vụ khác. trong những năm qua, kim ngạch nhập khẩu giảm một phần là do giá trị khâu nhập khẩu uỷ thác giảm, Công ty phải kết hợp các hình thức liên doanh, liên kết nêu trên cùng với uy tín sẵn có đối với các bạn hàng trong nước về khả năng nhập khẩu, để khai thác tối đa nhu cầu, tăng cường dịch vụ nhận nhập khẩu uỷ thác và các dịch vụ nhập khẩu khác để góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh và tăng kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra, Công ty muốn chiến thắng trong cạnh tranh cần đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khi bán hàng nhập khẩu. Bởi vì khách hàng luôn muốn mua bán một cách thuận tiện, nhanh chóng trong những điều kiện có lợi nhất. Chẳng hạn như, Công ty có thể bán hàng và vận chuyển theo yêu cầu của khách hàng như bán hàng tại địa chỉ khách hàng yêu cầu, áp dụng các phương thức bán hàng khác nhau như: bán trả góp, bán chịu... Đầu tư sửa chữa, nâng cấp các cửa hàng của Công ty trên các khu vực thị trường, mở rộng ra các thị trường mới, đảm bảo phục vụ khách hàng mọi lúc mọi nơi một cách tốt nhất. Tăng khả năng cạnh tranh của Công ty trên thương trường: như đã phân tích, trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty đã gặp không ít trở ngại trong cạnh tranh. Cạnh tranh là tất yếu khách quan trong cơ chế thị trường, chiến lược cạnh tranh có thể dẫn đến thắng lợi hay thất bại của Công ty. Vì vậy, muốn đứng vững trong cạnh tranh, cùng với các chính sách bổ xung khác, Công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh năng động, đảm bảo thích nghi môi trường bên trong với môi trường bên ngoài, thích nghi với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh và điều kiện cạnh tranh, điều kiện vật chất, khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, Công ty phải có được những thông tin chính xác về đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh mặt hàng nào, so sánh mặt hàng kinh doanh của họ với mặt hàng kinh doanh của mình về chủng loại, về giá cả, về thời gian... Tìm hiểu về kế hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chính sách giá cả của họ như thế nào? Phải luôn tìm hiểu kỹ những lợi thế, những điểm yếu của họ để từ đó đưa ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, Công ty cũng cần có mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh để phân chia thị trường, nhằm khai thác triệt để mọi ưu thế của Công ty. áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt: Giá cả là một yếu tố quan trọng mà bất cứ nhà kinh doanh nào cũng cần phải tính đến các quyết định về giá cả tác động đến khối lượng bán, doanh thu và lợi nhuận, khi định giá quá cao sẽ làm mất khách hàng, giảm khối lượng bán, giảm khả năng cạnh tranh... Khi định giá quá thấp sẽ làm cho khách hàng có cảm giác nghi ngờ về chất lượng hàng hoá của Công ty. Vì vậy, việc xác định giá cả cho hàng hoá nhập khẩu là việc hết sức khó khăn. Trong tình hình hiện nay, giá cả những loại hàng hoá nhập khẩu biến động hết sức phức tạp trên thị trường. Công ty đã có những biện pháp định giá phù hợp nhưng vẫn có nhiều hạn chế như thay đổi giá nhiều khi không theo quy luật thị trường, có khi đặt ra lợi nhuận quá cao bằng cách định giá cao hơn đối thủ cạnh tranh dẫn đến làm cho hàng hoá khó tiêu thụ. Đồng thời trên thực tế, giá cả hàng nhập khẩu của Công ty còn cao là do Công ty chưa có được mối quan hệ bạn hàng với các doanh nghiệp sản xuất ở nước ngoài nhằm tạo ra một nguồn cung cấp tận gốc, vì vậy Công ty cần tạo nguồn hàng thông qua kênh nhập khẩu trực tiếp, tổ chức nhập khẩu từ các doanh nghiệp sản xuất, các đại lý. Nói tóm lại, Công ty áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng khách hàng cụ thể. Phải có những chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng như giảm giá, chiếu cố giá phù hợp cho các đối tượng khách hàng. Phải luôn xem xét và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả, cung cầu, các chi phí vận chuyển để có biện pháp thay đổi thích hợp. Xác định giá phải bảo đảm căn cứ theo tình hình thị trường và tình hình cạnh tranh, đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Tăng cường chính sách xúc tiến quảng cáo, khai trương: Như ta đã biết, sự cần thiết trong tiêu thụ sản phẩm là phải tiến hành xúc tiến quảng cáo bán hàng. Hàng mà Công ty TST kinh doanh là những loại hàng nhập khẩu có chất lượng cao và mẫu mã luôn thay đổi thì công tác này càng trở nên quan trọng. Thực tế, hầu như Công ty đầu tư cho mặt hàng này rất ít, có thể nói là không đáng kể. Trong thời gian tới, Công ty cần thực hiện tốt mặt hoạt động này. Về nội dung quảng cáo cần phải tập trung làm cho bạn hàng và người tiêu thụ hiểu rằng: + Thế mạnh của Công ty TST là kinh doanh xuất nhập khẩu thương mại, có thị trường và mạng lưới phân phối rộng lớn, có chữ tín trong quan hệ buôn bán, có dự định về khả năng quan hệ hợp tác và đầu tư liên doanh, liên kết... + Mặt hàng kinh doanh có chất lượng đảm bảo, đúng nhãn mác, xuất xứ sản xuất và giá cả thích hợp. + Các dịch vụ tạo thuận lợi cho khách hàng một cách tối đa như bảo hành, sửa chữa. Về hình thức truyền thống có thể thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu, bảo hành sản phẩm, tham gia các hội trợ triển lãm trong và ngoài nước, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các sản phẩm trong và ngoài ngành thương mại. Tính toán hiệu quả của quảng cáo với các chi phí bỏ ra. Có thể tiến hành quảng cáo điểm trong thời gian nhất định để giảm chi phí. Song song với các hình thức quảng cáo cần kết hợp với các hình thức xúc tiến khác như nâng cấp trưng bày các điểm bán hàng một cách đẹp mắt hấp dẫn. Xây dựng đội ngũ nhân viên bán hàng văn minh, lịch sử, tiến hành bảo hành bao gói tất cả các sản phẩm bán ra với tem mác của Công ty để bảo đảm uy tín. 1.2. Lựa chọn đúng đối tác. Ngay từ khâu chọn đối tác kinh doanh, Công ty cần phải tìm hiểu kỹ đối tác về quá trình phát triển, các lĩnh vực kinh doanh, khả năng tài chính, uy tín cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của họ. Đây là điều rất quan trọng bởi vì nó có thể giúp Công ty tránh được làm ăn với những Công ty ma, những trung gian môi giới hoặc những Công ty đang sắp phá sản... Từ đó mà hạn chế được những rủi ro trong kinh doanh. Khi lựa chọn đối tác để nhập khẩu, Công ty cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất, chất lượng sản phẩm, điều kiện địa lý, chính sách thương mại, phong tục và tập quán nước đó. Cần chú ý đến các danh tiếng trên thế giới với những mặt hàng đã được công nhận. Sau đó để chọn hãng nào cung cấp cần phải nghiên cứu các lĩnh vực như: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, ổn định, thường xuyên liên kết kinh doanh. - Khả năng về vốn, cơ sở kỹ thuật của hãng đó. - Thái độ và quan điểm kinh doanh. Khi chọn nhà cung cấp nên chọn nên mua những nhà cung cấp lớn chuyên vài mặt hàng chủ lực. Công ty nên cố gắng trực tiếp liên hệ với người sản xuất, hạn chế liên hệ thông qua các tổ chức trung gian để giảm bớt chi phí và nâng cao độ an toàn. Đối với các thương nhân nước ngoài đến Công ty đưa ra một số mặt hàng mà ta cần nhập, hay tự giới thiệu qua fax, qua thư, Công ty cần phải tìm hiểu hoạt động, đánh giá đối tượng trên cơ sở phân tích như trên. Đối với đối tượng này, Công ty có thể tìm hiểu thông qua bạn hàng trong và ngoài nước nhưng cách tốt nhất là nhờ đại diện của ta ở nước ngoài để họ cung cấp các thông tin cần thiết. Sau khi thăm dò và thu thập đủ các thông tin cần thiết, dù quyết định Công ty đưa ra là mua hay không mua hàng của hãng đó, Công ty vẫn nên trả lời một cách ngắn gọn rõ ràng bằng những thư từ điện tín mà bên kia đã gửi để giữ uy tín kinh doanh. 1.3. Quy định chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng Công ty cần chú ý nhiều tới điều khoản giá cả, mẫu mã, chất lượng, bảo hành, cơ sở và điều kiện giao hàng, địa điểm giao hàng bởi vì nếu không cẩn thận rất dễ bị thua thiệt. Hợp đồng cần quy định chặt chẽ về mọi điều khoản để tránh những rắt rối về sau. Hiện nay các điều khoản về bất khả kháng, khiếu nại, trọng tài chưa được Công ty quan tâm đúng mức. Mặc dù cho đến nay Công ty chưa gặp phải rắc rối gì, nhưng trong tương lai, không ai có thể đảm bảo rằng Công ty sẽ không gặp phải những vụ tranh chấp, những trường hợp bất khả kháng theo chiều hướng bất lợi đối với Công ty. Như vậy, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, Công ty cần phải quan tâm hơn nữa tới vấn đề này. 1.4. Giải pháp đẩy mạnh công tác giao nhận hàng nhập khẩu. * Để thực hiện tốt hợp đồng nhập khẩu, trước khi tàu cập cảng Công ty cần làm một số việc sau: - Yêu cầu nhà xuất khẩu cung cấp đầy đủ các giấy tờ cần thiết có liên quan đến lô hàng nhập khẩu. - Liên lạc với ngân hàng để mở thư tín dụng gồm việc sử dụng và thời hạn có giá trị (nếu yêu cầu thanh toán bằng LC). - Nếu hàng hoá nhập khẩu thuộc diện cần giấy phép, phải kiểm tra xem giấy phép còn hiệu lực hay không. - Phải tiến hành những công việc sơ bộ cho việc làm thủ tục hải quan, kiểm tra biểu thuế và chuẩn bị như tờ khai hải quan. - Phải tiến hành công việc cần thiết với các nhà chức trách tại cảng như đăng ký trước công nhân xếp dỡ hàng hoá, diện tích bến cảng, các thiết bị bốc dỡ và những điều kiện lưu kho. * Công tác kiểm tra chất lượng, số lượng hàng nhập khẩu: - Kiểm tra chất lượng là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng. Chất lượng của hàng nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến lượng hàng bán ra, doanh thu và uy tín của Công ty. Vì vậy Công ty cần phải quan tâm hơn nữa tới hoạt động này. Trong giai đoạn tới khi Công ty chủ trương nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thì công tác kiểm tra chất lượng cũng cần có sự sửa đổi linh hoạt hơn. Nếu như trước kia việc kiểm tra chất lượng chỉ diễn ra khi hàng tới cảng thì bây giờ Công ty nên tiến hành ngay từ khi xếp hàng lên tàu, đặc biệt với những hàng hoá mà Công ty đặt theo mẫu yêu cầu thì nên tiến hành kiểm tra ngay trong quá trình sản xuất của nhà cung cấp, việc kiểm tra này giúp Công ty nhận được hàng phù hợp với chất lượng như đã thoả thuận trong hợp đồng tránh tình trạng hàng đến nơi mà chất lượng không phù hợp phải trả lại, Công ty không nhận được hàng bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. - Kiểm tra số lượng là một mắt xích quan trọng trong quá trình mua có liên quan đến việc kiểm tra hiện trạng tất cả các hàng hoá được chuyển tới Công ty. Nó chính thức hoá hoạt động nhận hàng trước khi lưu kho, vì vậy mà công tác này cần được tiến hành khoa học hơn. Khi nhận được các chứng từ giao hàng cùng với kiểm tra chi tiết sẽ phải đối chiếu với yêu cầu của chứng từ mua hàng. Khi bốc hàng, dỡ hàng Công ty phải thường xuyên bám sát hiện trường cập nhật số liệu từng ngày từng giờ hạn chế tối đa mất mát. Công ty nên có giấy chứng nhận về trọng lượng (chứng từ lên bờ) khi chưa biết chính xác mất mát thiệt hại và trong thời gian cho phép phải nhanh chóng kiểm tra hàng để kịp thời cho thủ tục khiếu nại (nếu có). * Thủ tục hải quan và thanh toán: - Việc làm thủ tục hải quan cần phải nhanh chóng tránh để lưu kho bến bãi gây tăng chi phí. Yêu cầu đối với Công ty. + Phải chuẩn bị đầy đủ giấy tờ về lô hàng nhập khẩu như giấy phép, hoá đơn, chứng nhận xuất xứ, vận đơn, giấy chứng nhận chất lượng. + Phải kê khai đầy đủ vào tờ khai hải quan và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà chức trách kiểm tra nếu được yêu cầu. + Phải nộp thuế và chi phí đầy đủ. - Thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Nếu Công ty không thực hiện đúng theo những điều kiện thanh toán thì sẽ bị yếu thế hơn trong những cuộc thương lượng sau. Thậm chí dù là những lý do ngẫu nhiên cũng có thể làm giảm uy tín của Công ty (tiếng xấu sẽ nhanh chóng đồn xa). Bởi vậy khi đã nhận được hàng Công ty nên nhanh chóng làm các thủ tục cần thiết để thanh toán cho nhà cung cấp. Trước khi thanh toán Công ty phải kiểm tra kỹ lưỡng hoá đơn mà nhà cung cấp gửi tới xem họ có thực hiện đúng những thoả thuận trong hợp đồng hay không. Cụ thể: + Số lượng hàng hoá trong hoá đơn có phù hợp với số lượng trong hợp đồng hay không. + Giá các đơn vị hàng hoá trong hoá đơn có phù hợp với số lượng trong hợp đồng hay không. + Các điều kiện thanh toán có phù hợp với các điều kiện đã định hay không. Việc thanh toán cũng phải dựa vào báo cáo kiểm tra chất lượng hàng hoá của các bộ phận liên quan. 2. Một số giải pháp khác. 2.1. Thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Công ty theo hướng phục vụ các ngành sản xuất trong nước. Trong tình hình hiện nay, việc nhập khẩu hàng hoá phục vụ tiêu dùng không có khả năng phát triển được nữa mà phải giảm dần vì sản xuất trong nước đã gần như thay thế được hàng nhập ngoại. Ngược lại, trước yêu cầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá, sản xuất trong nước đòi hỏi phải nhập khẩu rất nhiều vật tư, máy móc, thiết bị cần thiết có chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiến mà trong nước không có khả năng tự cung cấp. Vì vậy, nếu Công ty không thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu đó thì hàng hoá của Công ty sẽ không thể tiêu thụ được hoặc có tiêu thụ được thì rất chậm và như vậy Công ty không còn khả năng cạnh tranh và không thể tiếp tục tồn tại được trên thương trường. Mặt hàng nhập khẩu của Công ty cần phải được thay đổi về cơ cấu cho phù hợp với nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Mặt hàng cần phải được chú trọng nhất đó là nguyên liệu, vật tư, thiết bị kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những ngành kinh tế đang phát triển mạnh và có nhu cầu về nguyên liệu, vật tư, thiết bị rất lớn để phục vụ cho việc phát triển đồng bộ các ngành sản xuất trong nước trong hiện tại cũng như trong tương lai. Mặt hàng truyền thống của Công ty từ trước đến nay là phương tiện vận tải và xe máy cùng với hàng tiêu dùng như linh kiện điện tử, thiết bị nội thất, đồ gia dụng... chỉ được coi là mặt hàng tạm thời trong thời gian đầu, nay cần phải giảm xuống vì nhu cầu thị trường về những mặt hàng này ngày càng trở nên bão hoà, nếu tiếp tục nhập khẩu nhiều sẽ không tiêu thụ được. Điều chủ yếu là phải lựa chọn những mặt hàng khác nhau với xu hướng biến động khác nhau để lập kế hoạch mặt hàng. Trong quá trình thực hiện các kế hoạch kinh doanh, nhiều khi mặt hàng thay đổi không đúng theo kế hoạch do nhu cầu mới nảy sinh trên thị trường, vì vậy Công ty cần luôn luôn có những chiến lược dự phòng cho trường hợp này. Chẳng hạn như, khi mới thành lập Công ty xác định mặt hàng kinh doanh nhập khẩu tạm thời là xe máy, phương tiện vận tải, hàng tiêu dùng nhưng về lâu dài thì Công ty tập trung chú ý xây dựng điều kiện để phát triển mặt hàng nguyên liệu, vật tư, thiết bị, hoá chất cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu. Để thực hiện việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, Công ty cần tiến hành một số điều chỉnh có tính chất khả thi trên cơ sở điều kiện và khả năng của mình. Việc thay đổi cơ cấu mặt hàng tuy có gây cho Công ty một số khó khăn và bỡ ngỡ xong do khi mới bắt đầu đi vào hoạt động, Công ty đã xác định rõ đâu là mặt hàng mang tính chất tạm thời, đâu là mặt hàng mang tính chất chiến lược lâu dài, từ đó có những kế hoạch hợp lý. Cụ thể là, chẳng hạn như với mặt hàng xe máy, ôtô Công ty luôn xác định đây chỉ là mặt hàng tạm thời lúc bắt đầu xâm nhập thị trường, trong tương lai mặt hàng chính của Công ty sẽ là hoá chất, vật tư, thiết bị, máy móc dùng cho công nghiệp, nông nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu. Để chuẩn bị việc mua bán và tiêu thụ mặt hàng này, Công ty đã tiến hành liên doanh liên kết với một số công ty, xí nghiệp hoá chất trong địa bàn Hà Nội cũng ở một số tỉnh lân cận. Nhờ đó khi bắt đầu nhập mặt hàng hoá chất, vật tư, thiết bị Công ty đã trở thành bạn hành cung cấp nguyên vật liệu tin cậy của các công ty, xí nghiệp này. Đến lúc này, một vấn đề mới nảy sinh là tuy đã tạo được một thị trường tiêu thụ từ các đơn vị liên doanh liên kết, xong nếu chỉ dựa vào các bạn hàng này thì không thể nâng cao doanh thu vì thế Công ty phải tiến hành một số biện pháp mở rộng thị trường (như đã nêu ở phần II1). 2.2. Nâng cao công tác quản lý hoạt động kinh doanh. Thực trạng hiện nay của Công ty là vốn ít, thiếu cán bộ chuyên môn giỏi... trong khi đòi hỏi của cơ chế kinh doanh mới là phải không ngừng nâng cao và mở rộng, đầu tư kỹ thuật mới vào sản xuất, lắp ráp hàng hoá, kinh doanh phải năng động, hiệu quả, thích ứng với cơ chế thị trường. Tăng cường cơ sở vật chất và hệ thống kinh doanh của Công ty mà thực chất là đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, khắc phục những gì còn tồn tại. a. Về vốn: Để phát triển được nguồn vốn một cách có hiệu quả Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: - Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kế toán quản lý tài chính, tín dụng, hối đoái của Nhà nước mà trước tiên là Công ty phải hoàn thành các loại thuế phải nộp. - Tính toán khả năng lỗ lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng như dự tính trước được những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa. - Kết hợp chặt chẽ sự vận động của vốn và hàng hoá lưu thông. - Tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá. - Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi an toàn tránh được tình trạng ứ đọng vốn hay dây dưa trong thanh toán tiền hàng. - Tận dụng vốn của chủ đầu tư trong nhập khẩu uỷ thác bằng cách yêu cầu họ chuyển tiền đúng hạn. Như vậy sẽ tiết kiệm được tiền của Công ty tập trung vào các dự án nhập khẩu tự doanh. Tuy nhiên cần áp dụng linh hoạt với từng đối tượng bạn hàng để tăng sức mạnh trong cạnh tranh. - Rút ngắn hợp lý quá trình thực hiện hợp đồng: tìm đối tác cung cấp, ký kết hợp đồng, thời gian giao hàng... nhằm tăng số vòng quay vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Cần quản lý tốt lượng hàng hoá dự trữ, thanh lý kịp thời những hàng hoá ứ đọng, hàng tồn kho để giải phóng vốn. Ngoài ra, Công ty nên giao vốn cho từng phòng, từng chi nhánh để họ thực hiện chế độ tự hạch toán, tự cân đối đồng thời có kế hoạch giám sát, kiểm tra chi tiết. Điều này sẽ giúp cho các phòng, các chi nhánh chủ động hơn trong kinh doanh, đồng thời sẽ làm giảm gánh nặng quản lý cho các phòng ban khác, tránh được sự lơi lỏng trong quản lý tài chính và thắt chặt hơn mức độ trách nhiệm của từng thành viên đối với tài sản và nguồn vốn của Công ty. Ngoài công việc khai thác tối đa hiệu quả nguồn vốn hiện có của Công ty, ban lãnh đạo cần có những biện pháp năng động huy động vốn cho hoạt động kinh doanh như: - Tích cực đẩy mạnh quan hệ với các tổ chức tài chính như quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển Châu á... nhằm tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi và những sự trợ giúp khác. - Ưu tiên trích lợi nhuận thu được từ hoạt động để tăng nguồn vốn phục vụ kinh doanh. b) Về cơ sở vật chất. Cần nâng cấp sửa sang cửa hàng để thu hút khách hàng, đầu tư mở rộng hệ thống các cửa hàng, đại lý, hệ thống bảo hành... - Mở rộng thêm các điểm bán hàng ở các khu vực có dân cư đông đúc, nhất là ở vùng ngoại thành Hà Nội, chú ý nơi có nhu cầu gia tăng để tiêu thụ hàng hoá, đồng thời trang bị lại các phương tiện bán hàng như: tủ hàng, quầy hàng... - Đầu tư và tăng cường công nghệ mới cho dây chuyền lắp ráp xe máy dạng CKD, tiến tới lắp ráp để tạo ra một lượng hàng hoá ổn định cho nguồn hàng kinh doanh. c) Về lao động. - Công ty phải nhanh chóng thay đổi hoàn thiện cơ cấu cán bộ cho từng cấp và từng chức danh. Việc đổi mới cán bộ phải tập trung trước hết vào các khâu quản lý, các bộ phận xuất nhập khẩu, nhân viên kinh doanh trực tiếp, tăng cường cán bộ lãnh đạo có năng lực nghiệp vụ. Giảm bớt những bộ phận lao động không cần thiết hoặc hoạt động không có hiệu quả. - Thường xuyên đôn đốc quản lý hoạt động của các đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập để không xảy ra các vi phạm chính sách đáng tiếc gây thất thoát vốn. 3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ chủ quản. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của nhập khẩu nói riêng đều nằm dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước như: Các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược, kế hoạch phát triển kinh doanh, mặt hàng nhập khẩu, các mức thuế... Để có thể làm tốt công tác nhập khẩu, ngoài sự nỗ lực của chính bản thân Công ty thì Nhà nước cũng cần có những biện pháp, chính sách và cơ chế điều hành cho phù hợp, vận dụng quan điểm chung về kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước để chủ động cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất, phát triển kinh doanh, tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết thế mạnh của mình. Cụ thể là một số biện pháp như sau: + Xoá bỏ những hạn chế bằng hạn ngạch hoặc thay hạn ngạch bằng thuế cho một số mặt hàng chọn lọc mà Nhà nước cần bảo hộ. Thuế vẫn phải được duy trì như một công cụ thực hiện mục tiêu kinh tế nhất định. Nhưng Nhà nước cần xây dựng một biểu thuế rõ ràng, phù hợp và đơn giản hơn mà vẫn đảm bảo chặt chẽ về mặt pháp lý. Đồng thời đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong nhập khẩu tương tự như xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu từng chuyến. + Giảm giá đồng tiền nội địa sau đó giữ vững ổn định. Trong thưòi gian qua có ý kiến cho rằng: Nếu loại trừ yếu tố lạm phát của đồng Đô la Mỹ và đồng tiền Việt Nam thì thực tế đồng tiền Việt Nam tăng lên khá mạnh. ở giai đoạn phát triển, đổi mới nền kinh tế, đẩy mạnh giao lưu quốc tế và đặc biệt đẩy mạnh việc nhập khảu vật tư, nguyên liệu cần thiết cho sản xuất trong nước, chúng ta cần áp dụng chính sách tỷ giá cho linh hoạt, lấy việc ổn định giá thực tế làm mục tiêu để điều chỉnh giá danh nghĩa. Đây là cơ sở để xây dựng thành công chiến lược kinh doanh, mở cửa kinh tế, khuyến khích xuất nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, duy trì sự phát triển kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái phải phù hợp làm cho xuất khẩu có lãi và nhập khẩu có hiệu quả, sẽ khuyến khích sản xuất phát triển mà không cần đến chính sách trợ cấp trực tiếp. + Thi hành các chính sách vĩ mô phù hợp nhằm làm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô trước khi tiến hành tự do hoá thương mại, vì không có doanh nghiệp nào làm ăn thành công trong quá trình tự do hoá thương mại với mức lạm phát cao, vì thế đồng tiền nội địa thực tế bị lên giá dù Chính phủ thi hành các chính sách giảm giá. + Còn đối với thuế doanh thu và thuế xuất nhập khẩu: Việc cải cách hệ thống thuế phải nhằm sửa đổi những bất hợp lý và quá phức tạp làm cho chính sách thuế trở nên phù họp với tình hình thực tế nhằm góp phần đẩy mạnh sản xuất, mở rộng hoạt động nhập khẩu, tránh hiện tượng thất thu thuế. Đồng thời, việc sửa đổi chính sách thuế phải tuân theo mô hình có tăng có giảm, đảm bảo cân đối ngân sách. Hạ thuế suất của những mặt hàng có thuế nhập khẩu cao hơn 60% xuống mức thuế tối đa 60%. Phần chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu hiện hành với mức thuế mới được chuyển sang thuế tiêu thụ đặc biệt như với hàng tiêu thụ trong nước. * Một số kiến nghị đối với Bộ Thương mại: - Đề nghị Bộ sớm xác định rõ định hướng về mô hình kinh doanh của Công ty. Đồng thời bổ xung cho TST những ngành kinh doanh khác trong điều kiện kinh doanh có hiệu quả, không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. - Bộ cần tạo điều kiện cho Công ty phát huy tối đa khả năng kinh doanh các ngành hàng đặc biệt là các ngành hàng thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất hàng xuất nhập khẩu bằng việc cấp hạn ngạch nhập khẩu cho phù hợp với khả năng của Công ty. - Đề nghị Bộ cải tiến hơn nữa các thủ tục hành chính nhất là các quy định về cơ chế xuất nhập khẩu, các quy định trong việc đăng ký hợp đồng nhập khẩu. Cần thống nhất một phương thức, tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục hành chính nhanh gọn nhất. - Tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ khả năng về đầu tư vốn, tìm đối tác nước ngoài, tạo tiền đề cho việc mở rộng và tận dụng vốn đầu tư nước ngoài. Kết luận Cùng với xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu hiện nay có một vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Nó góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối giữa cùng và cầu, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST được đánh giá là một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình hoạt động công ty không ngừng tự hoàn thiện mình, từng bước tháo gỡ khó khăn về vốn, cải tiến phương pháp quản lý... Vì vậy uy tín của công ty đang ngày càng được nâng cao. Các sản phẩm nhập khẩu của công ty luôn đảm bảo chất lượng đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của sản xuất và tiêu dùng mà nền kinh tế nội địa chưa thoả mãn được. Tuy nhiên kinh doanh là quá trình tự hoàn thiện mình, vì vậy công ty vẫn còn có những điểm yếu cần được khắc phục. Những điểm yếu này xuất phát từ mặt hàng, thị trường, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ kinh doanh...Chính vì vậy với đề tài "Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST" em mong muốn phần nào góp ý kiến của mình nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động kinh doanh của công ty. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến thầy giáo hướng dẫn Bùi Đức Dũng và tập thể cán bộ phòng kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn của mình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23945.doc
Tài liệu liên quan