Một số giải pháp kinh tế đối với các Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ

Lời mở đầu Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến nay nước ta đã thực hiện chương trình cải cách, đổi mới nền kinh tế, nhằm đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và trì trệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nước ta đã xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Đồng thời tham gia hội nhập kinh tế quốc tế qua việc tiến tới

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp kinh tế đối với các Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia nhập các tổ chức AFTA, WTO… Trước xu thế đó các doanh nghiệp càng cần phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, có khả năng cạnh tranh hơn, tránh tình trạng thua lỗ, nợ đọng kéo dài. Để tìm hiểu thực trạng thua lỗ trong các doanh nghiệp nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, em xin chọn đề tài: "Một số giải pháp kinh tế đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ" cho bài tiểu luận môn học Kinh tế vi mô của em. Trong khuôn khổ bài viết này em xin tìm hiểu kỹ hơn, sâu hơn nhưng cũng trong phạm vi hẹp hơn đó là trong các doanh nghiệp Nhà nước, một bộ phận chủ yếu, quan trọng trong thành phần kinh tế tư nhân - thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân hiện nay. Bài viết này của em gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung Chương II: Thực trạng tình hình thua lỗ của các DNNN ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Một số giải pháp kinh tế nhằm khắc phục tình trạng thua lỗ ở các doanh nghiệp Nhà nước. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Xuân Thạch đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành bài viết này! Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Mai. Chương I: Lý luận chung I- Doanh nghiệp và vấn đề thua lồ của doanh nghiệp. 1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp. 1.1. Khái niệm. Xét dưới góc độ của kinh tế học vi mô thì doanh nghiệp là những đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Theo luật doanh nghiệp của nước ta thì doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh. 1.2. Phân loại. Doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dưới đây: + Theo ngành kinh tế - kỹ thuật, ta có doanh nghiệp: công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp, vận tải, kinh doanh, du lịch, kinh doanh tiền tệ… + Theo cấp quản lý, ta có doanh nghiệp do Trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. + Theo hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, ta có đa hình thức tổ chức kinh doanh: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp công tư hợp doanh; doanh nghiệp tập thể (HTX); doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp tư nhân; Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Gần đây nước ta đã phát triển các Tổng Công ty và các tập đoàn sản xuất. Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp Nhà nước có vị trí chủ đạo trong hệ thống doanh nghiệp. + Theo qui mô sản xuất kinh doanh, ta có doanh nghiệp qui mô lớn, qui mô vừa và qui mô nhỏ. + Theo trình độ kỹ thuật, có doanh nghiệp sd lao động thủ công; doanh nghiệp nửa cơ khí; cơ khí hoá và tự động hoá. 2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 2.1. Khái niệm. DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về Nhà nước là đặc điểm phân biệt DNNN với doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của Chính phủ. 2.2. Đặc điểm. Theo Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế giới và Quĩ tiền tệ quốc tế thì DNNN có 3 đặc trưng sau: - Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp hoặc nếu không thì Chính phủ có thể thực hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp theo đuổi, và bổ nhiệm hoặc cách thức Ban quản lý doanh nghiệp. - Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ bán cho công chúng, hoặc cho các doanh nghiệp tư nhân, DNNN khác. - Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói chung trong DNNN, Nhà nước chiếm hơn 50% vốn của doanh nghiệp, Chính phủ có thể gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều tổ chức theo chế độ Công ty là một pháp nhân. Nguồn thu chủ yếu đề từ hoạt động kinh doanh và thường phải thực hiện song song cả mục tiêu sinh lợi lẫn mục tiêu xã hội. 2.3. Phân loại. Có thể phân loại DNNN theo các cách sau: * Theo mức độ sở hữu, DNNN có 2 loại: - DNNN chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước. - DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn trong đó Nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định (tuỳ quyết định mỗi nước). * Theo mục tiêu kinh tế - xã hội, DNNN có 2 loại: - DNNN hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích) - DNNN hoạt động về mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) * Ngoài ra căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, DNNN có thể chia thành 3 loại: - DNNN do Chính phủ trực tiếp quản lý, không có đủ địa vị pháp nhân độc lập - DNNN có đầy đủ địa vị pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về Nhà nước. - DNNN hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước có quyền sở hữu một phần tài sản. 3. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.1. Đối với doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ sản xuất ra của cải vật chất, họ nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để quyết định xem sản xuất cái gì? Chuẩn bị đồng bộ các yếu tố đầu vào để thực hiện quyết định sản xuất (như: lao động, đất đai, thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ,…); tổ chức tốt quá trình kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa các yếu tố cơ bản của đầu vào để tạo ra hàng hoá và dịch vụ (trong đó lao động là yếu tố quyết định); Tổ chức tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, bán hàng hoá thu tiền về. 3.2. Với doanh nghiệp thương mại - dịch vụ, chuyên mua và bán hàng hoá, dịch vụ. Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn và quyết định lượng hàng hoá cần mua để bán cho khách hàng theo nhu cầu thị trường; Tổ chức việc mua các hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường; Tổ chức việc bao gói hoặc chế biến, bảo quản, chuẩn bị bán hàng hoá, dịch vụ; Tổ chức việc bán hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp và chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp theo. 3.3. Với doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ. Họ nghiên cứu nhu cầu mua, bán, vay và gửi tiền ngoại tệ và nội tệ để quyết định lượng mua, bán và cho vay ngắn hạn, dài hạn; Quy định các thủ tục cần thiết về mua, bán, vay và gửi tiền để bảo đảm an toàn, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro; Tổ chức việc mua, bán, vay và gửi theo thời gian qui định, tính toán lãi suất cho việc mua, bán, vay và gửi theo qui định; Bảo quản an tàon số tiền bán, mua, vay, gửi và kiểm tra việc thực hiện các qui định của khách hàng; phát hiện và xử lý kịp thời những rủi ro trong kinh doanh. * Các doanh nghiệp thường tìm cách rút ngắn chu kỳ kinh doanh và giải quyết một cách tốt nhất 3 vấn đề kinh tế cơ bản: Quyết định sản xuất cái gì? quyết định sản xuất như thế nào và quyết định sản xuất cho ai để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 4. Thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4.1. Một số khái niệm liên quan. * Chi phí sản xuất: là toàn bộ giá trị của các yếu tố đầu vào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian xác định. Đây chính là chi phí kinh tế, nó bao gồm chi phí tính toán (giá trị của các đầu vào doanh nghiệp mua theo giá thị trường) và chi phí cơ hội cho hoạt động kinh doanh đó. Có loại chi phí ngắn hạn và loại chi phí dài hạn. * Doanh thu: là thu nhập bán hàng của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng doanh thu TR = P.Q, Trong đó Q: Số lượng sản phẩm bán ra P: Giá bán sản phẩm * Lợi nhuận: là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí Tổng lợi nhuận ế = TR - TC (tổng chi phí) Hoặc ế = (P - ATC) x Q. Trong đó: ATC: chi phí đơn vị sản phẩm (P=ATC): Lợi nhuận đơn vị SP Có lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận tính toán; lợi nhuận bình quân và lợi nhuận siêu ngạch. 4.2. Doanh nghiệp bị thua lỗ. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lãi khi lợi nhuận ế > 0, hoà vốn khi ế = 0 và thua lỗ khi ế <0. Ta tập trung tìm hiểu vấn đề thua lỗ của doanh nghiệp trong ngắn và dài hạn. a. Trong ngắn hạn. MC Giá cả và chi phí ATC A R D1 = MR1 P1 AVC B D2 = MR2 P2 S C D3 = MR3 P3 D D4 = MR4 P4 Sản lượng Q1 Q2 Q3 Q4 0 * Doanh nghiệp sẽ có lãi khi chi phí đơn vị sản phẩm ATC <P và hoà vốn khi ATCmin = P Như vậy với mức giá thị trường P ≥ P2 khi đó ATCmin ≤ P, doanh nghiệp vẫn chưa bị thua lỗ và họ có thể sản xuất lượng Q ≥ Q2. Q1: Sản lượng mà doanh nghiệp đạt lợi nhuận tối đa, nơi gặp nhau của hai đường chi phí cận biên (MC) và doanh thu cận biên (MR) Q2: Sản lượng mà doanh nghiệp hoà vốn, điểm gặp nhau giữa ATC và giá bán (P = ATCmin) Q2 = FC P-AVC Với FC: Chi phí cố định AVC: Chi phí biến đổi bình quân. * Doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ khi giá cả thị trường giảm xuống thấp hơn mức P2 (ATCmin> P) - Tại mức giá P3, doanh nghiệp bị lỗ vốn lượng = CR x Q3. + Nếu doanh nghiệp ngừng sản xuất (Q = 0), mức lỗ bằng FC. + Nếu doanh nghiệp tiếp tục sản xuất với mức sản lượng Q3, doanh nghiệp sẽ bị lỗ ít hơn vì giá bán còn cao hơn chi phí biến đổi bình quân, nên có thể lấy khoản chênh lệch này bù đắp vào chi phí cố định. - Tại mức giá P = P4. Đường doanh thu cận biên gặp chi phí cận biên tại điểm J. Tại điểm này nếu doanh nghiệp giảm sản lượng tới mức Q4 thì doanh nghiệp vẫn bị lỗ vốn vì giá bán thấp hơn cả ATC lẫn AVC (P < AVCmin). Doanh nghiệp nên ngừng sản xuất. Vậy trong ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ khi ATC >P (MC> MR). b. Trong dài hạn. Vì không còn chi phí cố định, doanh nghiệp quyết định sản xuất dựa trên việc xác định lượng chi phí cố định tối ưu. Doanh nghiệp còn thấy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh khi nào doanh thu cận biên còn lớn hơn hoặc bằng chi phí cận biên (MR≥MC) Doanh nghiệp sẽ phải giảm sản lượng khi doanh thu cận biên nhỏ hơn chi phí cận biên (MC > MR). LMC LAC S P0 LAC: Chi phí bình quân dài hạn LMC: Chi phí cận biên dài hạn D=MR R C0 M Sản lượng Q1 Qm Q0 O - Khi P≥ LAC, doanh nghiệp còn có thể thu được lợi nhuận mà chưa bị lỗ vốn. Doanh nghiệp tối đa lợi nhuận tại điểm S (nơi LMC = MR) sản lượng của doanh nghiệp là Qm, tổng lợi nhuận là hình gạch chéo CoPoSR. - Khi P<LAC, doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ. Trên đây là hai trường hợp doanh nghiệp xảy ra tình trạng thua lỗ, trong ngắn hạn và trung dài hạn, mà không xét tới trường hợp thua lỗ do độc quyền gây nên. Đối với DNNN, ngoại trừ một số trường hợp như DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh vì mục tiêu phi lợi nhuận, mà vì mục đích phục vụ lợi ích công cộng là chính, có thể chấp nhận một mức thua lỗ cho phép nào đó. Còn lại, những DNNN khác cần phải làm ăn có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, nhất là khi nền kinh tế thị trường đó lại định hướng theo chủ nghĩa xã hội, kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. II- Khái quát nguyên nhân tình trạng thua lỗ. Với doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, nhìn chung sẽ thua lỗ khi tổng doanh thu nhỏ hơn tổng chi phí (TR <TC). Tóm lại, sản phẩm được sản xuất ra với mức chi phí cao nhưng lại chỉ có thể bán ra với mức giá thành thấp hoặc nợ đọng, không bán được. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này có thể kể đến đó là tình trạng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất lạc hậu, chi phí sản xuất cao. Chi phí mua nguyên vật liệu hoặc vận chuyển hàng bán tốn kém cũng đẩy chi phí sản xuất lên cao. Khả năng tổ chức quản lý kém nên dẫn tới tình trạng tham ô, hối lộ, thất thoát vốn, nợ đọng kéo dài cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và có thể dẫn tới thua lỗ,… Và còn nhiều nguyên nhân khác mà em sẽ phân tích kỹ hơn ở chương II, khi xét riêng với DNNN trong khuôn khổ bài viết này. Chương II: Thực trạng tình hình thua lỗ của các DNNN ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. I- Thực trạng DNNN và tình hình thua lỗ. Quá trình sắp xếp lại DNNN trong những năm qua đã khiến số DNNN giảm xuống đáng kể. Từ 12084 doanh nghiệp (năm 1989) giảm xuống còn 5991 doanh nghiệp (năm 2000, trong đó Trung ương quản lý 2108 doanh nghiệp tương ứng 35,6%, địa phương quản lý 3883 doanh nghiệp tương ứng 64,4%), và còn 5572 doanh nghiệp (nửa đầu năm 2001). Tổng số vốn của các DNNN khoảng 116.000 tỷ đồng, bình quân 22 tỷ/1 doanh nghiệp . Xét về số lượng, DNNN chỉ chiếm khoảng 17% tổng só doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% GDP cả nước. Tỷ trọng DNNN trong GDP tăng từ 36,5% (năm 1991) lên tới 40,07% (1998) và 40,21% (năm 1999). Tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng tương ứng từ 14,7% (năm 1991) lên 27,89% (năm 1998) và 26,29% (năm 1999). Tuy nhiên, nhìn chung các DNNN vẫn ở trong tình trạng có rất nhiều khó khăn yếu kém: Hiệu quả sản xuất kinh doanh quá thấp và có xu hướng giảm dần. Nếu năm 1995, 1 đồng vốn cho 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận thì đến năm 1998 thì chỉ cho 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp giảm dần. Năm 1993 là 6,8%, năm 1995 là 16,71%, năm 1997 là 12,3%, năm 1998 là 12.31% và năm 1999 là 11,21%. Điều này cho thấy khả năng sinh lợi của DNNN là thấp, ngày càng giảm. Theo báo cáo của Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số DNNN làm ăn có hiệu quả (theo tiêu chuẩn bảo tồn được vốn, trả được nợ, có nộp ngân sách và có lãi); 46,6% số doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Quan sát năm 1995 có 48 doanh nghiệp lỗ trên 534 doanh nghiệp được xét, năm 1997 là 35 doanh nghiệp/552 doanh nghiệp được xét. Bảng: Chỉ tiêu hoạt động của DNNN. 1995 1997 1998 1999 Tỷ trọng GDP của DNNN trong toàn bộ nền kinh tế (%) 40,18 40,48 40,07 40,21 Tỷ lệ DNNN bị thua lỗ (%) 16,49 22,00 24,50 16,90 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (DNNN) (%) 0,16 0,12 0,12 0,11 Tỷ suất nộp ngân sách trên vốn (DNNN) (%) 0,27 0,33 0,28 0,26 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 5/2000, trang 32. Nhiều DNNN bị lâm vào tình trạng nợ nần lớn. Theo như báo cáo của Ban chỉ đạo tổng thanh toán nợ Trung ương, tổng số nợ của các DNNN năm 1996 là 174.797 tỷ đồng bằng 1,14 lần so với số vốn Nhà nước trong doanh nghiệp. Năm 1997 bằng 1,16 lần; năm 1999 là 199.060 tỷ đồng, bằng 1,13 lần. Đến năm 2000 số nợ lên tới 288.900 tỷ đồng. Theo thống kê của Bộ Tài chính, hàng hoá tồn kho tại các DNNN (2001) khoảng 45.600 tỷ đồng (chiếm 12,7% tổng giá trị tài sản khối DNNN). Một số ví dụ cụ thể về tình trạng thua lỗ của các DNNN ở một số địa phương và một số ngành. Năm 1995, Nhà máy Dệt Nam Định lỗ 130 tỷ đồng, Tổng Công ty dâu tằm tơ lỗ 73,3 tỷ đồng. Trong 46 doanh nghiệp thuộc Bộ Thuỷ sản chỉ có 20 doanh nghiệp kinh doanh khá, 12 doanh nghiệp kinh doanh kém và 14 doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong ngành mía đường, lượng tồn đọng lớn do sản xuất ra nhiều mà nhu cầu ít do đó thiếu vốn để hoạt động, dẫn tới tình trạng thua lỗ nặng nề. Năm 2000 ở thành phố Hồ Chí Minh có 55 doanh nghiệp, chiếm khoảng 13,5% tổng DNNN của thành phố bị thua lỗ, số tiền lỗ ước tính 151 tỷ đồng, Hà Nội có 81 trong tổng số 773 DNNN (chiếm khoảng 10,48%) bị thua lỗ. Hải Phòng có 39/222 DNNN (chiếm khoảng 17,57%) bị thua lỗ. II- Nguyên nhân của tình trạng thua lỗ tại các DNNN thời gian qua. Sở dĩ có nhiều DNNN bị lâm vào tình trạng thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do một số nguyên nhân chủ yếu trực tiếp sau: 1. Quy mô của các DNNN ở nước ta quá nhỏ, lại chồng chéo về ngành nghề và cơ quan quản lý (vốn bình quân của DNNN gần 22 tỷ đồng; 65,45% số doanh nghiệp có vốn chiếm 5 tỷ đồng, ở nhiều địa phương 60% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng. Nhiều DNNN cùng ngành nghề, thuộc nhiều cấp quản lý cạnh tranh lẫn nhau trên cùng một địa bàn). 2. Các DNNN phổ biến là ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng (60% doanh nghiệp không đủ vốn pháp định theo qui định. Trên 50% doanh nghiệp chưa đủ vốn lưu động tương ứng với qui mô hoạt động kinh doanh phải vay vốn hoạt động. Với số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động cho kinh doanh được 50%, còn lại nằm trong vật tư mất mát, hàng hoá kém phẩm chất, công nợ không thu hồi được…). 3. Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu (phần lớn các DNNN được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa học, công nghệ và mt tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành, thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của chúng ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thời gian khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân 8-12 năm, trong khi mức khấu hao bình quân của khu vực và thế giới chỉ từ 7-8 năm. 4. Lao động trong các DNNN dôi dư nhiều mà việc bố trí sắp xếp lại rất khó khăn. Theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và xã hội, tính đến tháng 6/1998 ở 2649 DNNN đã có 1213 doanh nghiệp (chiếm 45,8%) có 63.903 lao động không bố trí được việc làm, chiếm 8,4% tổng số lao động. Đến năm 2001 số lao động không có việc làm khoảng 6%. Đây là một con số không nhỏ, nó ảnh hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. 5. Về đầu tư, cơ chế quyết định đầu tư và tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng DNNN, chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của DNNN. Đầu tư là khâu mở đầu, khai sinh ra doanh nghiệp. Quyết định đầu tư đúng (đúng thời gian, đúng địa điểm, đúng lĩnh vực hoạt động, đúng qui mô, đúng thiết bị và trình độ công nghệ…) là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau này. Ngược lại quyết định đầu tư sai thì những khó khăn, thua lỗ của doanh nghiệp khi hoạt động là điều khó tránh khỏi, dù lãnh đạo có tài ba, năng động bao nhiêu cũng khó xoay chuyển được tình hình. Cần có những chuyên gia giỏi, có nhiều kinh nghiệm, theo dõi tình hình hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh trong một thời gian dài, phân tích và dự báo được tình hình cung, cầu, cạnh tranh thị trường đối với sản phẩm sẽ đầu tư sản xuất, kinh doanh… ở nước ta, từ khi có DNNN đến nay, do nguồn vốn được lấy từ ngân sách Nhà nước, nên việc đầu tư xây dựng các doanh nghiệp đều do các cơ quan quản lý Nhà nước quyết định (quyết định ngành nghề hoạt động, sản phẩm sản xuất kinh doanh, thời gian và địa điểm xây dựng, qui mô và trình độ công nghệ của doanh nghiệp…). Tuỳ theo qui mô và tầm quan trọng của doanh nghiệp mà việc quyết định đầu tư được phân cấp, do Thủ tướng chính phủ quyết định, hay do các Bộ trưởng, các chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. Đây là các cấp quản lý Nhà nước, nhiều cơ quan không chỉ quản lý kinh tế, mà còn quản lý nhiều mặt của đời sống xã hội. Các quyết định đầu tư bị chi phối bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và nhiều yếu tố phi kinh tế khác. ở khâu tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị cũng không hiếm trường hợp tổ chức xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị là do một người, một cơ quan làm, xong bàn giao cho người khác, cơ quan khác quản lý vận hành sử dụng. Người quản lý quá trình xây dựng không phải là người sẽ quản lý sử dụng say này. Lại có không ít những tiêu cực trong quá trình xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị, vật tư… Với cơ chế quyết định đầu tư và tổ chức thực hiện đầu tư như vậy, thì sẽ có những DNNN ngay từ khi mới bước vào hoạt động đã ở vào tình huống rất khó khăn, khó có thể đứng vững được nếu không tiếp tục được sự hỗ trợ, ưu đãi dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Nhà nước thấtự ở vào tình thế bỏ thì tiếc, còn càng để hoạt động thì càng thua lỗ, càng trở thành gánh nặng cho Nhà nước. 6. Môi trường kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chưa hoàn chỉnh, chưa phù hợp với từng thời kỳ thực tế. Sự thay đổi môi trường kinh doanh bộc lộ nhược điểm sẵn có từ khi chúng hình thành nên tính gay gắt của nhân tố cạnh tranh chưa được thể hiện rõ. Các DNNN vẫn được sự bảo hộ, sự ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đây là một thực tế làm yếu đi tính cạnh tranh của các DNNN, khiến họ luôn trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, chưa tạo được lực đẩy thôi thúc họ phấn đấu đi lên trong sản xuất kinh doanh để thực hiện đa dạng hoá đầu tư và sản phẩm sao cho đảm bảo và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy thời gian qua, đa số các doanh nghiệp rất khó hoàn thành chỉ tiêu vì họ thiếu cả vốn, công nghệ, cơ chế quản lý và trình độ quản lý… Đặc biệt hệ thống tài chính - tiền tệ chưa phù hợp với cơ chế thị trường còn tồn tại nhiều yếu kém về thủ tục thanh kết toán, cho vay… Do ảnh hưởng tiêu cực vốn có của cơ chế thị trường tác động đến các doanh nghiệp như: tính tự phát, chạy theo lợi nhuận, sản xuất kém chất lượng… cũng làm tính cạnh tranh của DNNN càng suy giảm. 7. Vị thế của DNNN trên thị trường chưa thực sự đứng vững bằng chính thực lực của mình. Thời gian qua hiệu quả kinh doanh của các DNNN phân lớn chỉ nhờ lợi thế độc quyền và ỷ lại và Nhà nước. Chưa xây dựng cho mình được một nhẵn mác riêng cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Đây là cơ sở đảm bảo mục tiêu kinh doanh trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển bền vững. 8. Cơ chế tổ chức quản lý chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Mặc dù đã có luật DNNN và nhiều văn bản "dưới luật" đề cập đến vấn đề điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DNNN, nhưng nhìn chung chỉ thiên nặng về khía cạnh quản lý để kiểm soát, chứ chưa chú trọng khía cạnh quản lý để phát triển. Đặc biệt là cơ chế "bộ chủ quản", "cấp chủ quản" gây ra nhiều phiền toái cho các doanh nghiệp. Hầu hết trong hệ thống doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức quản lý theo kiểu trực tiến - chức năng, đưa điến sự không tương thích của bộ máy điều hành với hoạt động sản xuất kinh doanh ở cá doanh nghiệp (mô hình tổ chức này chỉ phù hợp với một số doanh nghiệp ở ngành nghề và qui mô nhất định. Còn với các DNNN có qui mô lớn như Tổng Công ty 91 thì cơ cấu tổ chức này tỏ ra kém hiệu quả). Trong các DNNN, chưa có sự tách bạch giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh. Cơ chế "xin-cho" giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước ngày càng nhiều. 9. Tình trạng quản lý tài chính trong các DNNN còn buông lỏng, yếu kém. Thực tế khảo sát ở phần lớn các DNNN không có phòng chức năng về tài chính, mà chỉ có phòng kế toán (tài vụ). Đây là một điểm yếu nghiêm trọng trong thời gian qua ở các DNNN, gây nên sự thất thoát vốn, tài sản, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng vốn, làm thiệt hại tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. 10. Chuyển dịch cơ cấu chậm, chưa theo kịp sự thay đổi của thị trường. Nhìn chung các DNNN từ năm 1991 đến nay chưa có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm đáng kể. Ngoài các xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, các xí nghiệp công nghiệp trong nước chỉ có khoảng 1/3 được coi là có trang thiết bị công nghệ vào loại tương đối tiên tiến, tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10-11%. 11. Động lực để DNNN phát triển có hiệu quả chưa được xác lập. Trong các DNNN, quyền tự chủ kinh doanh đã được chế định ở một chừng mực nhất định. Nhưng các qui định về tiền lương, tiền thưởng (các chủ trương chính sách) đối với DNNN chưa khuyến khích, chưa tạo được động lực thôi thúc cán bộ quản lý, người lao động tận tậm với công việc, phấn đấu hết mình cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua khảo sát thực tế cho thấy, tình trạng chênh lệch về thu nhập của các cán bộ ở các phòng ban chức năng là không thể phủ nhận. Chẳng hạn: cán bộ nhân viên phòng kinh doanh, phòng tài vụ thường có thu nhập cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với cán bộ nhân viên kỹ thuật, công nghệ. Từ đó gây nên tình trạng mất đoàn kết, thiếu gắn bó giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 12. Chưa có một đội ngũ Giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao, được đào tạo, rèn luyện một cách chuyên nghiệp, có quyền quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 13. Chính sách tài chính, cơ chế thu kiểu "hớt ngọn" của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Không phải chỉ trong thời gian quản lý tập trung bao cấp Nhà nước mới thu hết lợi nhuận của doanh nghiệp (còn khi lỗ Nhà nước bù), mà đến nay khi đã chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước vẫn bằng nhiều cách (thuế lợi tức, thuế lợi tức bổ sung…) để huy động hầu hết lợi nhuận của doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước, để rồi khi cần thiết mới đầu tư trở lại cho doanh nghiệp (song thực tế thu thì dễ, còn đầu tư trở lại thì rất khó khăn), lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp để tái đầu tư mở rộng sản xuất thì rất hạn hẹp. III- Các biện pháp khắc phục trong thời gian qua. Các DNNN không chỉ lâm vào tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và thua lỗ trong thời gian gần đây, mà nó đã xảy ra từ rất lâu. Và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp đưa ra và thực hiện nhằm giải quyết tình trạng này từ rất sớm. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần 3 (Quốc hội khoá VI) năm 1987 đã nêu "Phải thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh đối với đơn vị kinh tế cơ sở… đi đôi với việc đổi mới một bước cơ bản về chính sách, phương thức hoạt động và tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước nhằm tạo môi trường kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở… và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế". Quyết định 217/HĐBT của Chính phủ (14/11/1987) là một mốc đánh dấu việc giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước để đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đồng thời, từ đó bắt đầu từng bước xoá bỏ chế độ bao cấp, chuyển các xí nghiệp sang hạch toán kinh doanh. * Từ năm 1990, Nhà nước đã thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp lại, thành lập Tổng Công ty, Cổ phần hoá DNNN, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN qua 3 giai đoạn: 1. Giai đoạn 1990 - 1993: Giai đoạn đầu tiên kiểm kê, đánh giá và rà soát lại số DNNN cần thiết, xác định các doanh nghiệp có thể tiếp tục tồn tại và hoạt động theo quyết định số 315/HĐBT (ngày 1/9/1990) và Nghị định 388/HĐBT (ngày 20/11/1991) về qui chế thành lập, đăng ký và giải thể DNNN. Đồng thời, ở giai đoạn này cũng đã triển khai một bước việc cải cách cơ chế quản lý: Nhà nước tạo quyền quản lý và sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn vốn cho DNNN. Đáng chú ý là trong giai đoạn này đã có chủ trương sơ bộ về cổ phần hoá DNNN theo quyết định số 202/CT (ngày 8/6/1992) thí điểm cổ phần hoá một số DNNN. 2. Giai đoạn 1994 - 1997: Nhà nước thực hiện một bước việc sắp xếp lại DNNN, thành lập các tập đoàn kinh tế có qui mô vừa và lớn, đó là các Tổng Công ty 90, 91, xoá bỏ các Liên hiệp xí nghiệp, các Tổng Công ty có tính chất hành chính trung gian theo Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về sắp xếp lại DNNN. Mục tiêu cải cách DNNN ở giai đoạn này là hình thành một hệ thống DNNN và nâng cao khả năng tích tụ, tập trung tiềm lực kinh tế cho các Tổng Công ty. Đặc biệt trong giai đoạn này, Luật DNNN được Quốc hội thông qua (20/4/1995) đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong việc tạo lập khung pháp lý cho DNNN, triển khai nội dung cải cách DNNN. Đồng thời trong giai đoạn này, Nhà nước thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN theo Nghị định 28/CP (ngày 7/5/1996) về chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản ở các doanh nghiệp này. 3. Giai đoạn 1998 - 2000: Chính phủ tập trung giải quyết 2 vấn đề: * Sắp xếp DNNN theo phương án tổng thể từng vùng, ngành, tổ chức lại Tổng Công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế theo chỉ thị 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ. * Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi các hình thức sở hữu của DNNN như: đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN kết hợp phương án tổng thể sắp xếp DNNN theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998; thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê DNNN theo NĐ 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999. * Những biện pháp cải cách DNNN như tăng cường quyền tự chủ kinh doanh, đổi mới cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại và tổ chức Tổng Công ty Nhà nước… của Đảng và Nhà nước đều nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của khu vực DNNN. Trên thực tế, nhờ những biện pháp này, hiệu suất sản xuất kinh doanh khu vực DNNN đã được cải thiện và số lượng doanh nghiệp cũng được thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên chưa khắc phục được tình trạng "Doanh nghiệp vô chủ" di hại từ thời bao cấp, coi tài sản DNNN là "tài sản chung", "không của ai" dẫn tưói hành vi tuỳ tiện sử dụng, vô trách nhiệm, chây lười, lãng phí đã và đang trở thành trở ngại lớn đối với sự phát triển. Chương III: Một số giải pháp kinh tế nhằm khắc phục tình trạng thua lỗ ở các doanh nghiệp Nhà nước. I- Một số giải pháp chủ yếu. 1. Giải pháp của Chính phủ 1.1. Đối với những doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động cần tiếp tục thực hiện tốt các giải quyết sắp xếp lại: sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài; bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cổ phần hoá một bộ phận lớn các DNNN ở những ngành nghề, lĩnh vực không cần phải có 100% vốn Nhà nước, tập trung củng cố các doanh nghiệp lớn, có vị trí quan trọng,… như các chủ trương hiện nay của Chính phủ. Nhưng đồng thời về cơ bản và lâu dài cần đổi mới cơ chế đầu tư, cơ chế chính sách đối với việc tổ chức và quản lý DNNN, nếu không các doanh nghiệp sau khi được tổ chức sắp xếp lại và những doanh nghiệp được đầu tư xây dựng mới khi đi vào hoạt động sẽ lại tiếp tục gặp khó khăn, lại khó có thể hoạt động kinh doanh có hiệu quả. 1.2. Việc đầu tư sẽ không phải do các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước các cấp quyết định mà được giao cho các cơ quan chuyên trách được tổ chức dưới hình thức các Công ty tài chính (hay các quĩ) đầu tư vốn Nhà nước. Trừ những nguồn vốn đầu tư có các mục tiêu đã được chỉ định (thường là vốn vay hoặc tài trợ ODA, NGO, tín dụng thương mại…), còn các nguồn vốn Nhà nước dành cho đầu tư phát triển kinh tế khác, Nhà nước giao cho các Công ty đầu tư quản lý kinh doanh. Các Công ty đầu tư vốn Nhà nước là các Công ty tài chính, có tư cách pháp nhân độc lập, chịu sự quản lý của pháp luật. Có nhiệm vụ quản lý sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước có hiệu quả cao nhất. Tất cả các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các ngành, các lĩnh vực mà có vốn Nhà nước (100% vốn Nhà nước, vốn liên doanh, cổ phần của Nhà nước…) đều tổ chức thành các Công ty (một chủ hay nhiều chủ, Công ty trách nhiệm hữu hạn hay Công ty cổ phần). Các Công ty tài chính đầu tư vốn Nhà nước là người chủ sở hữu, người quyết định đầu tư, tăng hay giảm vốn Nhà nước, cử người tham gia Hội đồng quản trị để theo dõi, quản lý hoạt động ở các Công ty này. 1.3. Có chính sách hỗ trợ hơn nữa vốn, công nghệ, cung cấp thông tin, mở rộng thị trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35624.doc
Tài liệu liên quan