Một số giải pháp khắc phục và nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ nước ta
Lời mở đầu
Trong một thời gian dài, các nước đang phát triển quan niệm rằng phát triển công nghiệp phải bắt đầu từ đại xí nghiệp, do vậy mới tạo cho nền kinh tế quốc dân đạt tốc độ tăng trưởng cao. Thực tế đã chứng minh các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số danh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp khắc phục và nhằm thúc đẩy sự phát triển của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế năng động hơn, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ nhận thức đó đến đại hội lần thứ VI và được bổ xung phát triển ở đại hội lần thứ VII, thứ VIII của Đảng và nghị quyết 16 của Bộ chính trị... Nhà nước đã vạch ra những định hướng lớn trong đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh nói riêng mới có điều kiện phát triển, cơ chế quản lý đối với loại hình danh nghiệp này mới bắt đầu hình thành. Tuy nhiên các bộ phận cấu thành nên cơ chế còn chưa đồng bộ, chuyển đổi chậm, khung khổ pháp lý đang được tạo ra, hệ thống chính sách đổi mới còn những bất cập... Hơn nữa, các doanh nghiệp này hiện đang gặp nhiều khó khăn như năng lực quản lý hạn chế, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin...
Để có thể tồn tại, phát triển, kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp này rất cần sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ của toàn xã hội cũng như cần nỗ lực tìm tòi học hỏi tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của bản thân doanh nghiệp; có như vậy mới có đủ năng lực góp phần vào sự hội nhập chung của nước ta trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Để góp phần xem xét và giải quyết những khó khăn nêu trên, trong phạm vi chuyên đề, tôi sẽ đưa ra một vài bất cập cũng như giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nội dung cơ bản của chuyên đề này được trình bày thành 3 chương.
Chương I: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trang của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chương III Một số giải pháp khắc phục và nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ nước ta
Chương I
Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
I. Tiêu chí, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được nhà nước quan tâm đặc biệt. Sự cường thịnh của quốc gia về kinh tế xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trườngthì doanh ghiệp có quy mô vừa và nhỏ có ý nghĩa rất quan trọng. tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có được một định nghĩa chung, một nhận thức chung có hệ thống về vai trò, vị trí và cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đề nhận diện doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có cơ sở khoa học, chúng ta hãy đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung.
+ KNDN: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng trao đổi những hàng hoá trên thị trường theo nguyên tắc tối ưu hoá lợi ích của đối tượng tiêu dùng, thông qua đó tối ưu hoá về lợi ích của chủ sở hữu về tài sản của doanh nghiệp.
1. Một số vấn đề về tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đưa ra khái niệm chính xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa rất quan trọng, tạo hiệu quả cho đúng đối tượng cần tác động. Nhiều nước trên thế giới đều chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước có những đặc thù riêng và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo thời kỳ, ngành nghề, vùng lãnh thổ.
Hiện nay phân loại theo nhiều cách khác nhau.
Thứ nhất:
+ Theo ngành kinh tế ký thuật
+ Theo hình thức sở hữu
+ Theo cấp quản lý
+ Theo quy mô trình độ sản xuất kinh doanh
+ Theo tính chất hoạt động
Việc phận loại như trên chỉ mang tính khái quát, tương đối, vì trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính tổng hợp, đa ngành, nhiều chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. Điều đó cho thấy cần phải có cơ chế quản lý linh hoạt, phù hợp với từng doanh nghiệp nói chung và từng loại doanh nghiệp có quy mô khác nhau nói riêng.
Thứ hai:
+ Nhóm tiêu chí định tính: dựa trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng trên thực tế thường khó xác định. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng.
Bảng 1: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước APEC
Nước
Tiêu chí phân loại
Ôxtrâylia
Canada
Hồng Kông
Inđônêxia
Nhật Bản
Malayxia
Mêhxicô
Philippin
Singapo
Đài Loan
Thái Lan
Mỹ
Số lao động
Số lao động, doanh thu
Số lao động, doanh thu
Số lao động, doanh thu, tổng giá trin tài sản
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ góp vốn
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ góp vốn
Số lao động, doanh thu, tỷ lệ góp vốn
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Vốn đầu tư, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Số lao động, vốn đầu tư
Số lao động
Nguồn: Ban thương mạivà đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC. 1995.
+ Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản,doanh thu, lợi nhuận.
Trong đó:
- Số lao động có thể là lao động trung bình in danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế.
- Tài sản hay vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (vốn), tài sản (vốn) cố định, giá trị còn lại của tài sản.
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm. ở Nhiều nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp là rất đa dạng. Chẳng hạn, tiêu chí sử dụng phế biểu ở các nước APEC là một số lao động (11/12 nước).
Một số tiêu chí khác tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước.
1.1. Các yếu tố tác động đến phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa, nhỏ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thuật ngữ “Doanh nghiệp vừa và nhỏ” ở phương tây viết là SUE (small and medial enterprise) hiểu theo lối triết tự là các cơ sở kinh doanh có quy mô tương đối nhỏ. Nhưng muốn nói chính xác rằng quy mô lớn đến đâu và nhỏ như thế nào là vừa thì thực sự vẫn còn là một vấn đề nan giải. Trong thực tế việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thường gồm một số yếu tố sau:
+ Tình hình làm việc nói chung trong cả nước
+ Tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó
+ Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì trị số tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản doanh nghiệp có 300 lao động và hơn một triệu USD tiền vốn là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn doanh nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan là doanh nghiệp lớn.
Tính chất ngành nghề:
Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt may) có ngành sử dụng nhiều vốn nhưng ít lao động (như hoá chất, điện) . Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh, đối chứng trong phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau. Trong thực tế ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí khác nhau. Ví dụ: các ngành sản xuất có tiêu chí thường cao hơn, các ngành dịch vụ có chỉ số các tiêu chí thấp hơn. ở Nhật Bản, lĩnh vực chế tạo khai thác xây dựng thì doanh nghiệp vừa và nhỏ có dưới 300 lao động và dưới 1.000.000 USD tổng vốn, với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ có dưới 50 lao động và dưới 100.000 USD vốn.
Ngoài ra, có thể dùng kim ngạch hệ số ngành để phân loại (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
ã Vùng lãnh thổ:
Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau, nên số lương và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn, một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng nó là lớn đói với vùng núi, nông thôn. Do đó cần tính đến hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng với nhau.
ã Tính lịch sử:
Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy, trong hiện tại và tương lai có thể là vừa và nhỏ. Ví dụ: ở Đài Loan, năm 1967 trong ngành công nghiệp, doanh nghiệp có quy mô dưới 130.000 USD là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD.(1) Như vậy, trong việc xác định quy mô doanh nghiệp, cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô trung bình(Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng dể xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau.
ã Mục đích phận loại: KN dịch vụ vừa và nhỏ sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau. Ví dụ: KN dịch vụ vừa cà nhỏ với mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu mới ra đời, sẽ khác KN dịch vụ vừa và nhỏ với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghiệp sạch, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường.
Như vậy dể xây dựng quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xác định:
+ Quy mô trung bình và chung
+ Xác định hệ số Ib, Id, Ib.
Lưu ý: Yếu tố để xác đinh quy mô doanh nghiệp như vốn, lao động có sự thay thế lẫn nhau. Có thể xác đinh quy mô doanh nghiệp làm căn cứ để tính số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành nghề, trên địa bàn khác nhau theo công thức:
CT
Trong đó:
F(Sba): Quy mô doanh nghiệp thuộc một ngành và trên địa bàn cụ thể Ib,Ia, Id, tương ứng là hệ số vùng ngành và hệ số phát triển quy mô doanh nghiệp.
Sa: Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một nước.
Cần xác định: Quy mô chung doanh nghiệp vừa và nhỏ (Sa) và cac hệ số tương ứng NTN
1.2. Một số cách tiếp cận doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Trước đây, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được sử dụng để phân loại doanh nghiệp nhà nước với mục đích cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp; Doanh nghiệp loại 1, doanh nghiệp loại 2, doanh nghiệp loại 3. Tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp trung ương - địa phương.
Theo văn bản pháp lý mới nhất hiện hành (áp dụng từ năm 1993 dến nay), thì việc phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam theo năm hạng: hạng đặc biệt, hạng I, II, III, IV; dựa trên hai nhóm yếu tố là độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh và gồm 8 tiêu chí: “vốn sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, lợi nhuận, doanh thu, và tỷ suất lợi nhuận trên vốn”. (1)
Cách phân loại này phức tạp vì sử dụng nhiều loại tiêu chí và chưa tính đến tính chất đặc thù của từng ngành nghề và địa bàn. Hơn nữa đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp. Mục tiêu phân loại là nhằm phục vụ cho việc xắp xếp lại tổ chức bộ máy tổ quản lý doanh nghiệp nhà nước, làm căn cứ để xếp lương, chứ không phục vụ cho định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển.
Nhằm định hướng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, ở một số địa phương và cơ quan chức năng đã đưa ra tiêu chí phân loại cụ thể. ở thành phố Hồ Chí Minh, những doanh nghiệp có vốn pháp định trên một tỷ, lao động trên 100 người và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng là doanh nghiệp vừa, còn dưới giới hạn trên là doanh nghiệp nhỏ. ở Đồng Nai: doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có doanh thu từ sản xuất công nghiệp từ dưới 100 tỷ đồng / năm. Theo các chuyên gia kinh tế đánh giá: xí nghiệp nhỏ là xí nghiệp có mức vốn đầu tư từ 100 đến 300 triệu đồng và từ 5 đến 50 lao động. Xí nghiệp vừa là những xí nghiệp có mức vốn đầu tư 300 triệu đồng trở lên, có số lao động trên 50 người.
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước khu vực châu á và qua thực tiễn điều tra khảo sát, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của hàng ngàn doanh nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua, có thể xác định khái quát doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay như sau. (xem bảng 2)
Để phù hợp với từng ngành kinh tế, có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của từng tiêu thức.
Ngành công nghiệp nặng: quan tâm nhiều hơn đến nguồn vốn, giá trị tài sản cố định.
Ngành công nghiệp nhẹ: quan tâm hợp lý đến cả hai tiêu thức vốn và lao động.
Ngành tiểu thủ công nghiệp: quan tâm nhiều hơn đến tiêu thức lao động.
Bảng 2: Các tiêu thức chủ yếu để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Quy mô doanh nghiệp
Vốn (đồng)
Lao động (người)
Đối với doanh nghiệp sản xuất xây dựng
+ Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ
+ Trong đó doanh nghiệp có quy mô nhỏ
Đối với doanh nghiệp buôn bán dịch vụ
+ Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ
Trong đó doanh nghiệp có quy mô nhỏ
10 tỷ
1 tỷ
5 tỷ
500 triệu
500
100
250
50
Trong những biến động cụ thể, có thể dùng tiêu thức vốn thay thế lao động bằng cách tăng một lao động được giảm mức vốn bằng mức vốn bình quân cho một lao động ở loại hình sản xuất kinh doanh tương ứng. Tuỳ từng ngành cụ thể mà tiêu thức khác nhau và xác định tiêu thức nào là chủ yếu. Ví dụ: tiêu chí chủ yếu của ngành da giầy, may là số lao động, của ngành dệt sợi là cọc sợi, máy dệt.
Ngoài ra, cũng có những trường hợp ngoại lệ, đó là các doanh nghiệp được thành lập đểthu hút lao động là chủ yếu thì có thể có tới hàng ngàn lao động vẫn được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên có thể phù hợp với thực tế khách quan của nước ta với nguồn vốn có hạn, lao động dồi dào, đáp ứng được yêu cầu bức thiết của xã hội, đồng thời cũng dự tính đến tốc độ phát triển kinh tế của nước ta theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá. Sự phân loại cần phân biệt theo lĩnh vực: sản xuất và dịch vụ, với các tiêu thức cụ thể như: vốn sản xuất được coi là tiêu thức quan trọng nhất(55,2%), doanh thu đứng vị trí thứ hai và lao động thường xuyên xếp vị trí thứ ba
Bảng 3: Mức độ quan trọng của các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ qua kết quả điều tra
Tiêu chí
Tỷ lệ % theo mức độ quan trọng giảm dần
1
2
3
Vốn sản xuất
55,2
34,5
4,6
Doanh thu
33,3
29,9
29,9
Lao động thường xuyên
4,6
29,9
10,3
Nguồn: Báo cáo điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở 5 tỉnh đồng bằng sông Hồng. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tháng 10/1996.
Kết quả điều tra cho thấy, trong lĩnh vực sản xuất vốn sản xuất dưới 20 tỷ đồng (khoảng 1,8 triệu USD) chiếm tỷ lệ cao nhất là 50,6%. Trong lĩnh vực dịch vụ, doanh nghiệp được coi là vừa và nhỏ nếu có tổng số vốn sản xuất dưới 5 tỷ đồng (khoảng 0,5 triệu USD) chiếm 50,6% và số lao động dưới 200 người chiếm 39,1%
Bảng 4: Quy mô của doanh nghiệp được coai là lớn qua kết quả điều tra
Tiêu chí
Lĩnh vực sản xuất
Thương mại, dịch vụ
Trị số tiêu chí
Tỷ lệ %
Trị số tiêu chí
tỷ lệ %
Vốn sản xuất
(tỷ đồng)
Trên 1
Trên 5
Trên 10
Trên 20
3,4
9,2
37,9
50,6
Trên 0,5
Trên 1
Trên 5
Trên 10
3,4
5,7
50,6
40,2
Lao động
(người)
Trên 100
Trên 200
Trên 300
Trên 500
8,0
9,2
37,9
46,0
Trên 50
Trên 100
Trên 200
Trên 300
10,3
26,1
39,1
20,7
Nguồn: Báo cáo điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở 5 tỉnh đồng bằng sông Hồng. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tháng 10/1996.
Như vậy, có thể khái quát lại, các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được sử dụng bao gồm lao động, giá trị tài sản cố định, vốn sản xuất, vốn pháp định, số dư vốn lưu động, doanh thu. Trong đó, các tiêu chí được sử dụng phổ biến hơn cả là: vốn sản xuất, doanh thu và lao động thường xuyên. Tuy vậy, về trị số các tiêu chí còn chưa thống nhất, chưa được luận giải và kiểm chứng một cách đầy đủ.
ãKinh nghiệm của một số nước
Qua nghiên cứu kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ thường được dựa vào một số căn cứ sau:
+ Các tiêu chí thường được áp dụng là vốn lao động và doanh thu. Có nước chỉ dùng một tiêu chí, nhưng cũng có nước dùng đồng thời nhều tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số nước lại dùng tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng ngành.
+ Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của từng nước có khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước, cũng như quan điểm về chính sách của nước đó. (Bảng 5)
+ Do tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem xét phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ (về vật chất ) của chính phủ từng thời kỳ nên các tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước không phải là bất biến.
+ Ngay trong một nước, các tiêu chí để xác định doanh nghiệp được nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó không phải bao giờ cũng phù hợp với tiêu chí của các tổ chức khác và phù hợp với tiêu chí theo quy định của chính phủ.
Bảng 5: Tiêu chí xác đinh doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
Nước
Các tiêu chí áp dụng
Số lao động (người)
Tổng vốn và giá trị tài sản
Doanh thu
Ôxtrâylia
Canada
Hồng Kông
Inđônêxia
< 500 trong CN và DV
< 500 cho cả CN và DV
< 100 trong CN < 50 trong DV
< 100
< 0,6 tỷ rupi
< 20 triệu đô la Canada
< 2 tỷ rupi
Nhật Bản
< 100 trong bán buôn
< 50 trong bán lẻ
< 300 trong các ngành khác
< 30 triêu yên
< 10 triệu yên
< 100 triệu yên
Mêxicô
Philippin
Singapo
Myanmar
Thái Lan
Mỹ
< 250
< 200
< 100
< 100
< 100
< 500
< 7 triệu USD
< 100 triệu
pêsô
< 400 triệu S$
< 20 triệu bath
Nguồn: dẫn theo kỷ yếu khoa học: Dự án chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, viện Friedrich Ebert cộng hoà liên bang Đức. Hà Nội 1996.
1.3. Một số tiêu chí đang áp dụng tại Việt Nam
ở nước ta, do chưa có tiêu chí chung xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ nên một số cơ quan nhà nước, một số tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chủ động đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ công tác của mình. Chẳng hạn:
ã Ngân hàng công thương Việt Nam: Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng.
ã Liên bộ lao động và tài chính: Thông tư liên bộ số 21/LDTT ngày 17/6/1993 của Bộ lao động thương binh xã hội và Bộ tài chính coi doanh nghiệp coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có:
+ Lao động thường xuyên dưới 100 người
+ Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng
+ Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng
ã Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Namdo UNIDO tài trợ, đối tác là Bộ kế hoạch và đầu tư coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có:
+ Lao động từ 31 đến 200 người
+ Vốn điều lệ đăng ký dưới 0,4 triệu USD (tương đương khoảng 5 tỷ đồng)
ã Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình VN - EU: doanh nghiệp vừa và nhỏ được quỹ này hỗ trợ bao gồm các doanh nghiệp có số nhân công từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 dến 300.000 USD, tức từ khoảng 600 triệu dến 3,6 tỷ đồng.
ã Quỹ phát triển nông thôn (thuộc ngân hàng nhà nước) coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có:
+ Giá trị tài sản không quá 2 triệu USD
+ Lao động không quá 500 người
ã Tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Ngày 20/6/1998 tại thông báo số 681-KTN Thủ tướng chính phủ đã tạm thời quy định thống nhất tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định cũng nêu rõ tuỳ từng quá trình kinh tế xã hội cụ thể mà áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Tiêu chí này chỉ là quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xét về hướng lâu dài quy định trên là phù hợp. Tuy nhiên trong giai đoạn trước mắt, có thể tiếp tục nghiên cứu khă năng chi tiết hơn các tiêu chí. Chẳng hạn, tách tiêu chí áp dụng riêng cho lĩnh vực thương mại, lĩnh vực xây dựng và công nghiệp... như phần trên đã trình bày.
1. Định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ mang tính ước lệ. Bản thân các tiêu chí đó chưa đủ để xác định một doanh nghiệp như thế nào được coi là một doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Có nhiều điểm khác nhau về các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thí dụ: có ý kiến cho rằng các hộ sản xuất nông nghiệp cũng cần được coi là doanh nghiệp, và doa thoả mãn các tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ như quy định nên cũng được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khung khổ luật pháp kinh doanh ở nước ta hiện nay vừa thiếu vừa chưa rõ ràng. Đây là một thực tế khách quan, chưa thể khắc phục ngay được. Theo pháp luật hiện hành thì nhiều chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất (có thể chỉ là tự cung tự cấp) hay thực hiện cả việc kinh doanh (nghĩa là có mua đầu, vào bán đầu ra) vẫn chưa được coi là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Thuật ngữ doanh nghiệp chỉ được dùng dể chỉ các chủ thể sản xuất kinh doanh có đăng ký (các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân). Như vậy, khi các văn bản quy phạm pháp luật dùng thuật ngữ doanh nghiệp là để chỉ doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tức có đăng ký với cơ quan nhà nước theo quy định.
Khái niệm doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, gọi tắt là doanh nghiệp với yêu cầu, chứng minh tính pháp lý của mình là sự đăng ký với cơ quan nhà nước được sử dụng trong định nghĩa sau đây về khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
ã Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là các chủ thể kinh doanh được thành lập theo các quy định của pháp luật có quy mô về vốn hoặc số lao động phù hợp với các quy định của chính phủ.
Theo định nghĩa này thì doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, không phân biệt thành phần kinh tế, bao gồm:
+ Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo luật doanh nghiệp nhà nước.
+ Các công ty cổ phần, công ty TNHH, các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và đăng ký hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
+ Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo luật hợp tác xã.
+ Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất kinh doanh dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị định 66-HĐBT
Hiện nay, trong khu vực doanh nghiệp nhà nước có các tổng công ty 90 và 91. Các tổng công ty này bao gồm các công ty là đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập. Các công ty thành viên này có quy mô thuộc loại vừa và nhỏ. Vậy một vấn đề đặt ra là coi các công ty thành viên này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay không? Xung quanh vấn đề này hiện nay đang còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo đa số ý kiến thì đều cho rằng các doanh nghiệp thành viên của các Tổng công ty 90, 91 không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, dù các tiêu chí là phù hợp với quy định của Chính phủ.
Như đã trình bày ở trên, hiện nay Chính phủ đã có quy định về tiêu chí tam thời xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân dưới 200 người. Tuỳ theo thời gian, các chương trình hỗ trợ của Nhà nước sẽ cụ thể hoá các đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành và theo vùng khi xem xét. Như vậy, thoả mãn các tiêu chí chỉ là điều kiện cần để một doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ, chứ không phải là điều kiện đủ. Điều kiện đử để nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước phải là tính khả thi của dự án do chính doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện.
II. Vai trò, vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều nghiên cứu gần đây thường nhấn mạnh tầm quan trọng của các doanh nghiệp và và nhỏ đối với nền kinh tế quốc gia. Trong thực tế, không ít ngành công nghiệp lớn được bổ trợ đắc lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở khu vực châu á thái bình dương, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp từ 30% đến 60% GDP, trên 30% giá trị hàng hoá xuất khẩu và sử dụng từ 40% đến 75% lực lượng lao động ở mỗi quốc gia. Ví dụ ở Nhật Bản, số lượng các doanh nghiệp là 6,5 triệu, trong đó 98,7 % là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Các nước khối NIC3 giai đoạn 1985-1987 với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ đã đóng góp vào tổng sản phẩm là 25% đến 35% (khu vực sản xuất) và 60% đến 70% (khu vực không sản xuất). Nước Pháp có các doanh nghiệp vừa và nhỏ “quốc tế” đa quốc gia, các doanh nghiệp này đã thực hiện được giá trị xuất khẩu khoảng 50% giá trị xuất khẩu chung.
Trên đây ta vừa xét vị trí quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với một số nước trên thế giới. Tiếp theo ta cùng xem xét vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam một đất nước có nền kinh tế chậm phát triển.
+ Tạo ra việc làm với chi phí thấp
+ Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và các dịch vụ đa dạng
+ Góp phần giảm bớt chênh lệch thu nhập xã hội
+ Gieo mầm cho các tài năng quản lý
+ Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương
+ Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
+ Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau
+Phát huy và tận dụng các nguồn lực ở địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế
+ Giữ gìn và phát triển các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc ở Việt nam, nền kinh tế kém phát triểnchủ yếu là sản xuất nhỏ nên doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho kunh tế năng động hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó được thể hiện qua các số liệu sau đây:
1. Đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Giá trị sản lượng công nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra trong năm 1993 là 5.315 tỷ đồng chiếm 26% giá trị tổng sản lượng toàn nghành công nghiệp và 54% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương: tăng 11% so với năm 1992 và tăng 63% so với năm 1990 (giá gốc năm 1989).
Tổng mức bán lẻ hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1993 đạt hơn 29.000 tỷ đồngbằng 78% tổng mức bán lẻ của thị trường xã hội.
Năm 1993, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã vận chuyển hàng hoá với khối lượng 32,2 triệu tấn và khối lượng hàng hoá luân chuyển 2.978 triệu tấn/km, chiếm 64% tổng lượng hàng hoá vận chuyển và 56% khối lượng hàng hoá luận chuyển của các địa phương.
Trong nhiều ngành nghề: gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép, doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất 100% sản phẩm.
Kết quả điều tra cho thấy,51,7% số ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tăng trưởng kinh tế.
2. Tạo việc làm cho người lao động
Hiện nay, nhu cầu về việc làm ở nước ta lên tới khoảng 3,5-4 triệu người mỗi năm, trong đó gồm số người đến tuôi lao động có nhu cầu về việc làm cộng thêm số người thất nghiệp (con số chính thức 6%) và bán thất nghiệp hiện nay do cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, số quân nhân giải ngũ. Thực tế vừa qua cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước năm cao nhất cũng chỉ thu hút 1,6 triệu lao động, nếu tính cả nhân viên của bộ máy nhà nước cũng chỉ có hơn hai triệu người. Trong khi đó, chỉ riêng khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp và thương mại trong năm 1995 đã thu hút 4 - 4,5 triệu lao động, kinh tế cá thể cũng thu hút 3,5 triệu lao động . Riêng trong công nghiệp, các cơ sở kinh tế này thu hút 50% tổng số lao động chi phí trung bình để tạo ra cho việc làm trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 740.000 đồng, chỉ bằng 3% so với các doanh nghiệp lớn.
Qua điều tra nghiên cứu 1000 doanh nghiệp nhà nước ở hai miền Nam Bắc, cả vùng thành thị và nông thôn đều cho thấy số lao động ngoài doanh nghiệp do các doanh nghiệp vưà và nhỏ tạo ra là rất lớn. Thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra phục vụ sản xuất kinh doanh, cũng như việc làm không thường xuyên ở các doanh nghiệp, thì có tới 30% tổng số những công việc trên do cá nhân và các hộ gia đình bán chuyên đảm nhận. Đặc biệt các vùng có nghề thủ công ở nông thôn và vùng ven đô như Phú Xuyên, Thường Tín, Cổ Nhuế. Hộ gia đình cá thể trở thành các “vệ tinh” cho các doanh nghiệp, số lao động ở các vệ tinh này thậm chí còn cao hơn số lao động làm việc thường xuyên ở các doanh nghiệp.
Nếu lấy hệ số mở rộng việc làm (K) là 1,2 thì số lao động do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra trong thực tế thu hút tới 4 - 4,5 triệu người. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tạo ra việc làm, thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng vốn và tài sản của nhân dân. Kết quả điều tra cho thấy vai trò tạo việc làm tăng thu nhập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đánh giá cao.
Trong điều kiện nền kinh tế thi trường mới hình thành, doanh nghiệp vừa và nhỏ mới phát triển, thì hệ số K tương đối lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ càng phát triển, hệ số K có xu hướng giảm dần nhưng hệ số k luôn luôn lớn hơn 1(K>1).
Để thấy rõ vai trò giải quyết việc làm, theo kinh nghiệm một số nước của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp (Bảng 8).
Bảng 6: Tỷ trọng lao đông làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước và vùng lãnh thổ
Tên nước
Tỷ trọng DNV&N trong tổng số DN
Tỷ trọng LĐ làm việc trong các DNV&N
Đài Loan
Hồng Kông
Hàn Quốc
Singapo
Nhật Bản
Mỹ
97%
98%
98%
97%
78%
98%
70%
62%
66%
70%
76%
70%
Mặc dù số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan thấp hơn, nhưng nó lại tạo ra tỷ lệ việc làm và kim ngạch xuất khẩu hơn Hàn Quốc và Hồng Kông. Cụ thể nó tạo ra được 66,4% tổng sản phẩm xuất khẩu của ngành gia công chế biến và 6,39 triệu việc làm, chiếm 78,7% tổng số việc làm vào năm 1986. Tỷ lệ này giảm xuống còn 70% vào những năm đầu của thập kỷ 90. Các nươc phát triểncó số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 97 - 98% tổng số doanh nghiệp cả nước, giải quyết 2/3 lực lượng lao động công nghiệp(60 - 76%).
Nhìn lại Việt Nam từ sau năm 1986, sự dôi dư lao động quy mô lớn ở khu vực kinh tế quốc doanh khi sắp xếp sản xuất theo quyết định 167/HĐBT cùng với việc hạn chế ngân sách ngày một gia tăng ở các doanh nghiệp được bao cấp, sự trở về của hàng trăm ngàn lao động ở khu vực Đông Âu và SNG, việc hồi hương của hàng chục ngàn người di tản, việc phục viên của các binh sĩ quân đội sau chiến tranh, sự dôi dư lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp theo quyết định 111/HĐBT và nhu cầu việc làm hàng năm của hàng triệu lao động đã làm cho sức ép về việc làm ngày càng trở nên bức bách. Chính vì vậy, việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng để trong thời gian ngắn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao đ._.ộng.
Nếu tính cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ thì cả nước có trên 1.000.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết cho từ 12-15% lực lượng lao động. So với một số nước trong khu vực và thế giới thì chỉ tiêu này là 50% đến 75%.Như vậy, việc thu hút lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta còn quá thấp. Khả năng tiềm tàng của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn nhưng chưa được phát huy một cách đầy đủ.
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội
Ưu thế vốn có của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là được thành lập với số vốn ít, khả năng quay vòng thu hồi vốn nhanh cũng như sử dụng tiềm năng về nguồn lao động và nguyên vật liệu sẵn có ở các địa phương...
ã Thu hút vốn
Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò quan trong trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như với một bộ phận doanh nghiệp. Nhờ vốn có thể kết hợp được với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo nên một hệ thống cơ bản cho quá trình sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, để đầu tư cho một chỗ làm việc ở Việt Nam trung bình phải mất 5 - 10 triệu đồng tiền vốn. Vốn đóng vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân và trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Vốn còn có vai trò trong việc mở rộng quy mô sản xuất và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là phát triển cho nghiên cứu triển khai và quyết định cho đầu tư các ngành nghề là mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành từ các nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ của bên ngoài là hết sức hạn chế, bù lại nó có khả năng huy đông vốn vay dựa trên cơ sở họ hàng, bạn bè thân thuộc nên đã thu hút được một khối lượng lớn về vốn của các tầng lớp dân cư. Thực tế cho thấy, năm 1994 trong công nghiệp, thương mại, vận tải, xây dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đầu tư 4.150 tỷ đồng chếm 45,6% tổng số vốn đầu tư trong các lĩnh vực này.
Qua các cuộc điều tra từ 1991 - 1993 cho thấy, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổng số vốn thành lập thường dưới 500 triệu đồng, vốn cho làm việc dưới 10 triệu đồng. Trong đó doanh nghiệp nhà nước chỉ cần vài chục triệu đồng, thậm chí chỉ cần vài triệu, các ngành nghề truyền thống ở vùng nông thôn bình quân vốn cho một chỗ làm việc từ 5 - 6 triệu đồng.
Vốn thành lập ít nên loại hình này dễ tạo được nhân dân tham gia hoạt động, qua đó tăng cường nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương đưa vào sản xuất kinh doanh. Ước tính tới trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phố kinh tế đã thu hút hàng ngàn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn về vốn của doanh nghiệp và thu hút khoảng 25.000 tỷ đồng cho đầu tư sản xuất kinh doanh.
ã Về lao động:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn, với các “công nghệ trung gian” với chi phí thấp nhất. Do vậy, phần lớn lao động khu vực này không đòi hỏi lao động có trình độ cao, phải đào tạo nhiều thời gian và chi phí tốn kém, chỉ cần bồi dưỡng và đào tạo ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp.
ã Về mặt kỹ thuật:
Một đất nước với hơn 80% dân số ở nông thôn còn nghèo nàn lạc hậu, khi tiến hành công nghiệp hoá thì điều kện đầu tiên là tiềm lực với các doanh nghiệp còn quá thấp, phần lớn lực lượng lại chưa được đào tạo, văn hoá thấp, bởi thế khả năng tiếp cận nhanh với hàng loạt các công nghệ tiêu biểu đều là vượt quá khả năng về tài chính và trình độ chuyên môn kỹ thuật... Do vây, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường được lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà quảng đại quần chúng lao động có thể tiếp thu nhanh chóng và làm chủ sản xuất ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đòi hỏi vốn lớn, đào tạo lâu, tốn kém chi phí. Do đó phần lớn trang thiết bị trong các doanh nghiệp đều là sản phẩm trong nước.
ã Về nguyên vật liêu:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được xây dựng trên một ưu thế nào đó về nguyên liệu tại địa phương. Việc đó sẽ tạo chi phí thấp nhất đối với sản phẩm làm ra và dễ khai thác sử dụng, qua đó cũng tạo điều kiện giải quết việc làm trong khu vực. Rất ít những doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu hập ngoại. Cuộc khảo sát 1000 DNNN cho thấy 80% nguồn nguyên liệu cung ứng cho các doanh nghiệp là ở tại địa phương.
4. Làm cho nền kinh tế năng đông, hiệu quả hơn
Do có số lượng doanh nghiệp lớn và mức tăng nhanh, nên làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt độ rủi ro trong nền kinh tế. Đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn: làm đại lý, thầu phụ, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn. Ví dụ: công ty Honda Việt nam đang hoạt động với sự trợ giúp của 21 nhà cung cấp phụ tùng, trong đó có 17 là công ty liên doanh 4 công ty của Việt Nam. Hiện nay, tại Đức hệ thống phần phụ công nghiệp chiếm 65% tổng số doanh nghiệp và ở Mỹ là 78%.
Tại Thái Lan có 600 nhà chuyên sản xuất các chi tiết và cấu kiện khác tại Nhật Bản đã nâng số lượng nhà phát triển công ngiệp tham gia chế tạo linh kiện cho TOYOTA lên tới hàng nghìn, giúp các doanh nghiệp lớn tiêu thụ hàng hoá cung cấp các đầu vào như nhiên liệu, thâm nhập mọi ngõ ngách thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được.
Một điều quan trọng là vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó phần lớn là khu vực tư nhân chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành ngề có hiệu quả cao hơn trong tương lai gần. Tuy nhiên cần lưu ý là, nếu doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế sẽ khó tăng lên được.
5. khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân
Hiện nay có nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác: tiềm năng trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề nghiệp, quan hệ huyết thống. Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành nghề truyền thống ở nông thôn là một trong những hiệu quả quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân, mà hiện nay đang có xua hướng bị mai một dần, nhằm thu hút lao động nông thôn và phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế.
6. Đa dạng hoá và tăng thu nhập của dân cư
Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn (chiếm 80% tổng dân số) chủ yếu là thuần nông. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành thị và nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh năng suất lao động, tăng thu nhập và đa dạng hoá thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra cho thấy, thu nhập của dân cư vùng có doanh nghiệp phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng thuần nông. Việc khảo sát ở một số địa phương khác cũng cho kết quả tương tự. Thu nhập trung bình của người lao động trong các doanh nghiệp bình quân khoảng 200 đến 300 ngàn đồng/tháng gấp 2,3 lần thu nhập của một hộ nông dân. Khi thu nhập của dân cư được đa dạng hoá, vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống vừa đảm bảo đời sống, nghĩa là bớt đi phần rủi ro, nhất là các vùng hay chịu ảnh hưởng của thiên tai.
7. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ởViệt Nam cũng như ở các nước, các doanh nghiệp có quy mô thường tập trung ở các thành phố và trung tâm công nghiệp. Chiều hướng đó đã gây mất trạng thái, mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế văn hoá xã hội giữa thành thị với nông thôn và giữa các vùng trong một quốc gia. Chính sự phát triển doanh nghiêp vừa và nhỏ là phương tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng, góp phần chjuyển dịch cơ cấu kinh tế đến sự phân bố chưa đều của các doanh nghiệp là vấn đề cần được lưu tâm trong việc hoạch định chính sách.
8. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng đói với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn
Để công nghiệp hoá hiện đại hoá không thể không có doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kỹ thuật hiện đại làm nòng cốt trong một ngành nhằm tạo ra sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thực tiễn cho thấy xây dựng một doanh nghiệp lớn đảm đương nhiệm vụ nòng cốt là một khả năng không mang tính thực tiễn bởi nhiều lý do đã nêu và kinh nghiệm nhiều nước chi thấy các tập đoàn công ty lớn ở các nước phát triển hiện nay và các nước đang phát triển có xuât xứ nhiều năm trước đây chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vậy biện pháp thiết thực là khả năng tích tụ các biện pháp hỗ trợ thúc đẩy tập trung cho một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đẻ các doanh nghiệp này có thể vươn lên trở thành doanh nghiệp lớn
Với doanh nghiệp vừa và nhỏ tính thích ứng nhanh là một lợi thế bởi bộ máy quản lý gọn nhẹ, đầu tư trang thiết bị máy móc với quy mô vừa và nhỏ mang tính khả thi cao nên có thể áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đây là quá trình cải tiến máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm để đáp ứng như cầu thị trường và thế mạnh trong cạnh tranh đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn tới đổi mới công nghiệp, làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra không chỉ ở chiều sâu mà ở cả chiều rộng.
Mặt khác tính năng động, hiệu quả, nhạy bén với thị trường đòi hỏi đội ngũ quản lý phải thực sự có trình độ và khả năng thực lực, đó là vai trò gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. Đây là vấn đề rất được quan tâm trong công cuộc hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước. Sự phát triển của cơ chế thị trường là trường đào tạo lớn có tác dụng thử thách, chọn lọc qua thực tế đội ngũ các nhà kinh doanh trên mặt trạn sản xuất kinh doanh. Kết quả điều tra cho thấy, 63,2% ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc phát triển đội ngũ nhà kinh doanh ở Việt Nam.
9. Đóng góp một phần đáng kể ngân sách
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với quy mô vừa và nhỏ gần như không có và chỉ có một số tổ sản xuất, gia công hàng, làm tiểu thủ công nghiệp với quy mô quá nhỏ nên nguồn thu ngân sách chủ yếu và gần như duy nhất là từ khu vực nhà nước. quá trình đổi mới kinh tế và cả các doanh nghiệp Nhà nước theo từng giai đoạn đã tạo đà cho việc ra đời hàng ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Tính theo số liệu thống kê tháng 8/1993 có 6.728 xí ngiệp tư nhân, 2.570 CT:TNHN, 91CTICP, tổng cộng 9387 doanh nghiệp chính phủ cải tổ lại doanh nghiệp Nhà nước đến cuối năm 1993 đã giảm đi 41% so với số lượng 1986. Theo đó đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) cho ngân sách nhà nước tăng lên rất đáng kể: chỉ tính doanh nghiệp Nhà nước ngoài quốc doanh (chưa kể trong khu vực nhà nước): Bảng 9
Bảng 7: Cơ cấu ngân sách nhà nước
1991
1992
1993
1994
1995
Tỷ lệ thuế, phí trên tổng thu NSNN (%)
Tỷ lệ thu thuế từ KVQD/tổng thu thuế phí (%)
Tỷ lệ thu thuế từ kVDTNN/tổng
Tỷ lệ thu thuế phí công TN % (ngoài quốc doanh)
Tỷ lệ thu thuế từ phí nông nghiệp (% ngoài quốc doanh)
95,08
38,80
9,70
9,60
7,30
88,01
31,70
21,20
9,90
7,0
90,79
29,90
19,60
10,70
4,70
89,98
30,70
17,30
10,60
3,10
94,60
29,80
16,40
11,30
2,40
Nguồn: Bộ tài chính
+ Khu vực đầu tư nước ngoài
+ Nông nghiệp (hơn 90%) các hộgia đình, HTX, đội sản xuất
Nếu tính từ năm 1986 tới hết năm 1995 thì tỷ lệ đóng thuế và phí mỗi năm của các doanh nghiệp nay luôn cao hơn hẳn so với tỷ lệ thu từ các doanh nghiệp nhà nước. Vậy ta có thể khẳng định khả năng đóng góp cho ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn và rất có triển vọng trong giai đoạn đổi mới tiếp theo. Ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại san bớt các gánh nặng cho khu vực nhà nước .
10. Những lợi thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Từ những phận tích vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta có thể rút ra một số kết luận: doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá khuynh hướng sử dụng nhiều lao động về trình độ kỹ thuật thấp. Đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của những doanh nghiệp lớn và sẵn sàng phục vụ ở nơi xa xôi, các khoảng trống, thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn bởi maketing khối lượng lớn thường là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ tạo ra nhiều điểm mạnh.
ã Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay của sản phẩm nhanh do đó, có thể sử dụng vốn tự có hay vốn ngắn hạn. Tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định tận dụng được các thời cơ. Khi nhu cầu thị trường thay đổi, doanh nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ rễ thống nhất. Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có độ rủi ro cao, rễ phát huy bản chất hợp tác.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chỉ tiến hành một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phảm hoàn chỉnh mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau dể hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình và tiến hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải. Do đó dễ dàng đổi mới công nghệ
ã Thu hút nhiều lao động, sản xuất sản phẩm có chất lượng tốt, hoạt động có hiệu quả trong điều kiện còn nhều hạn chế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn vốn ít vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay cho vốn, đặc biẹt là những nước có lao động rồi rào lại rẻ, để tiến hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện như vậy thường mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
ã Không có và ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động. Do có quy mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa chủ doanh nghiệp và người lao động không lớn và bản thân chủ doanh nghiệp cũng luôn theo sát công vệc của người lao động. Do vậy, nếu có xung đột, mâu thẫn thường không lớn dễ dàng giải quyết.
ã Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có tình trạng dộc quyền. Họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh, đó cũng là con đường để phát huy mọi tiềm năng.
ã Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước:
Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở giai đoạn đầu là phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển thì doanh nghiệp cần lựa chọn một số hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với tính toán chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, giá cả phù hợp với sức mua của người tiêu dùng. Từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
- Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp này do quy mô nhỏ, vốn ít nên cũng có mặt bất lợi:
ã Khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là người công nhân tiên tiến đòi hỏi vốn đầu tư lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng suất, chất lượngvà hiệu quả sản xuất sản phẩm, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thương trường.
ã Có nhiều hạn chế về đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu... Do đó khó nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh.
ã Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường bị động trong cac quan hệ thi trường, khả năng tiếp thị.
ã khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài.
Ngoài ra, do nền kinh tế Việt Nam kém phát triển đặc biệt trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường do trình độ quản lý Nhà nước còn hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bộc lộ những khiếm khuyết của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh như:
- Trốn lậu thuế.
- Một số doanh nghiệp còn trốn đăng ký kinh doanh và kinh doanh không đúng như đăng ký.
- Làm hàng giả, hàng kém chất lượng.
- Hoạt động phân tán khó quản lý.
III. Quản lý nhà Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chính sách, giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc tạo hệ thống khung khổ pháp lý nhằm:
+ Thiết lập khái niệm khung về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Khẳng định vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Khuyến khích tìm kiếm mọi giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Điểm qua một số nước ta thấy:
- Cộng hoà liên bang Đức có luật danh nghiệp nhỏ (1966).
- Hàn Quốc có: 12 đạo luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ (1961-1966).
Luật khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978). Luật về tài trợ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới (1989).
- Philippin 16 văn bản pháp lý sắc lệnh của Tổng thống.
Luật khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừavà nhỏ (1995).
- ở Việt Nam: trên cơ sở định hướng của Đảng, Nhà nước đã tiến hành từng bước tạo lập khung khổ pháp lý cần thiết cơ bản cho hoạt động của các doanh nghiệp:
+ Nghị định 27, 28, 29/ HĐBT về kinh tế tư nhân, cá thể, HTX & kinh tế gia đình.
+Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp định.
+ Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, lụt hợp tác xã, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài.
+ Luật doanh nghiệp nhà nước.
1.1. Chiến lược phát triển & chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
ã Chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu theo hướng xác định rõ ngành nghề cần hỗ trợ, có các giải pháp định hướng cho từng giai đoạn.
ã Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn đào tạo, công nghệ. Trong đó, giảm thuế là giải pháp khá phổ biến. Ví dụ: Chính phủ Đức tài trợ cho các chương trình nghiên cứu khoa học ứng dụng & đổi mới các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1988: 149 triệu DM, năm 1990: 675 triệu DM. ở Nhật Bản: mức thuế thu nhập đánh vào danh nghiệp vừa và nhỏ = 1/3 các doanh nghiệp lớn. ở Pháp: doanh nghiệp được giảm thuế 15% thuế trong 5 năm đầu sau khi đi vào hoạt động kinh doanh.
Chính sách hỗ trợ tạo ra một môi trườg kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm môi trường chính trị pháp lý, kinh tế, tâm lý, văn hoá.
1.2. Thành lập cơ quan quản lý nhà nứơc đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cần có người bảo vệ quyền lợi & người đại diện để nói lên nguyện vọng của mình. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thực sự trở thành chủ thể của kinh doanh & là khách thể được quản lý bằng pháp luật, chính sách của nhà nước.
ở nhiều nước có một cơ quan chính phủ hoặc tổ chức bán chính phủ lo việc này. có nước còn thành lập các công ty hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiệm vụ của các cơ quan này chủ yếu là:
+ Nắm bắt nguyện vọng của các doanh nghiệp và dự báo phương hướng phát triển.
+ Tham mưu cho Nhà nước.
+ Quyết định trong một số lĩnh vực quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ; trong việc hoạch định các chính sách chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Điều phối thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: đào tạo, tư vấn.
+ Hợp tác với các quốc gia & các tổ chức quốc tế về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
ở Việt Nam: Hiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang bị phân tán quản lý bởi nhiều đầu mối. Ví dụ: trên địa bàn Hà Nội gần 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ của công nghiệp trung ương chịu sự quản lý của 22 đầu mối & trên 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ của quốc doanh địa phương do 13 đầu mối quản lý.
Sự phân tán đầu mối quản lý gây chồng chéo vừa nắm cái không cần vừa buông cái lẽ ra không cần buông. Nhiều việc cần thiết ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng không có cơ quan chăm lo tới nơi tới chốn ví dụ như các mặt quy hoạch phát triển chuyên ngành, chuyển giao công nghệ, xúc tiến thực thi các dự án tài trợ...
Theo kinh nghiện của nhiều nước, để thực hiện có hiệu quả sự giúp đỡ của Nhà nước và các tổ chức Quốc tế với các doanh nghiệp vưà và nhỏ, người ta thường xây dựng & thực hiện các chương trình, dự án có mục tiêu. Đây là một kinh nghiệm tốt vì thông qua chương trình, dự án sẽ thực hiện được sự thống nhất, đồng bộ giữa chiến lược quy hoạch với chính sách & phương tiện, điều kiện thực hiện.
1.3. Thành lập các tổ chức hỗ trợ & các hiệp hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
ã Trên thực tế, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn do tư nhân thành lập với sự hỗ trợ của Nhà nước do đó, các tổ chức này vừa mang tính kinh doanh vừa thực hiện chức năng hỗ trợ trên cơ sở nguồn ngân quỹ được cấp, chức năng chủ yếu gồm:
+ Cung cấp vốn.
+ Nghiên cứu chuyển giao công nghệ.
+ Hỗ trợ tiếp thị, đào tạo, tư vấn cho doanh nghiệp.
ã Hiệp hội là các tổ chức đại diện theo ngành hàng & theo các loại hình sở hữu để vừa bảo vệ nhau và giúp đỡ nhau, vừa nói lên nguyện vộng của chủ doanh nghiệp, người lao động. Chức năng chủ yếu là:
+ Tham mưu cho nhà nước trong xây dựng quy hoạch chính sách liên quan đến ngành mình, giới mình, lợi ích của mình. Ví dụ như: Hiệp hội công thương gia, ngành hàng, liên minh các hợp tác xã, công đoàn ngoài quốc doanh.
Chương II
Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian vừa qua
I. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ Vịêt Nam
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam theo nhều nguồn khác nhau:
- Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp có từ lâu đời, tồn tại và phát triển từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
- Các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ ( các doanh nghiệp Nhà nước trung ương và địa phương).
- Mới thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế: do sắp xếp lại quốc doanh, thành lập theo các luật ban hành từ 1990.
Quá trình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ diễn ra theo nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau. Thời kỳ khôi phục kinh tế trước năm 1960, Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần nhưng số doanh nghiệp lúc bấy giờ còn rất ít, chủ yếu là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.
Từ đầu những năm 1960 đến 1986, hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các hợp doanh (miền bắc có 1279 xí nghiệp, miền nam có 634 xí nghiệp) với 520.000 cán bộ, công nhân, trong số đó, phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, có hàng chục vạn hộ tiểu thủ công nghiệp với trên một triệu lao động. Sau 10 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến năm 1985, số xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong công nghiệp lên tới 3.220 xí nghiệp, số hợp tác xã và tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp lên tới 29.971, khu vực tư nhân, cá thể chỉ còn 1.951 cơ sở.
Từ năm 1986 đến nay, với chính sách đổi mới kinh tế, các thành phần kinh tế chính thức được thừa nhận và được tồn tại lâu dài. Tiếp đó một loạt văn kiện ra đời nghị quyết 16 của Bộ chính trị (1988), nghị định 27,28,29/HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác xã và hộ gia đình nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh với vốn pháp định và các luật: luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, luật hợp tác xã, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật khuyến khích đầu tư trong nước... đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần phát triển sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự đựơc quan tâm và khuyến khích phát triển.
Thời gian qua, mặc dù số lương doanh nghiệp Nhà nước và số hợp tác xã giảm mạnh, nhưng tính chung trong toàn bộ nền kinh tế số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng. Tính riêng trong công nghiệp, doanh nghiệp nhà nước giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.072 doanh nghiệp (1994) và năm 1995 nếu tính cả xây dựng cũng chỉ có 3.291 doanh nghiệp số lượng hợp tác xã giảm rất mạnh, từ 37.649 cơ sở (1986) xuống 13.086 (1990) và 1,999 cơ sở (1995). Trong khi đó, khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả hình thức doanh nghiệp và công ty) tăng rất nhanh từ 567 doanh nghiệp (1986) lên 959 (1991) và 6.311 (1995).
Số liệu thống kê năm 1995 cho thấy, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân bình quân một doanh nghiệp có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá thể, lao động bình quân mỗi cơ sở là 1,7 người. Nếu xét theo nghề hình thức tổ chức, sở hữu thì tình hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện như sau:
- Doanh nghiệp nhà nươc: vốn bình quân một doanh nghiêp là 6,9 tỷ đồng (trong công nghiệp là 9,6 tỷ và thương mại là 5,3 tỷ), lao động bình quân một doanh nghiệp là 279 người (trong công nghiệp là 327 và trong thương mại là 149 người). Số liệu thống kê cho thấy hơn 84,8% doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, riêng quy mô nhỏ là 49,9%, trong công nghiệp, trong số 2.271 doanh nghiệp nhà nước thì có tới 83,6% doanh nghiệp vừa và nhỏ, riêng quy mô nhỏ là 46,9%, trong thương mại có 1.774 doanh nghiệp nhà nước thì có tới 80,4 % doanh nghiệp vừa và nhỏ riêng quy mô nhỏ là 47,6%.
- Khu vực kinh tế tư nhân: các chỉ số nói trên thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước.
Số liệu thống kê 12 tỷ của tổng cục thống kê cho thấy, quy mô trung bình của một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh (công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã) là 31,3 lao động, 1.165,5 triệu đồng vốn kinh doanh, 31.224 triệu đồng doanh thu. Trong đó, số lao động bình quân một doanh nghiệp cao nhất là hợp tác xã (102 người), thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (gần 11 người). Vốn kinh doanh thực tế bình quân một doanh nghiệp cao nhất là công ty cổ phần (32,2 tỷ đồng) và thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (211 triệu đồng). Doanh thu bình quân một cơ sở ngoài quốc doanh cao nhất là công ty cổ phần (20 tỷ đồng) và thấp nhất là Hợp tác xã (957 triệu đồng).
Trong công nghiệp: nếu xét về lao động thì có 18% số doanh nghiệp cực nhỏ (dưới 10 lao động), 69% doanh nghiệp nhỏ trên 12% doanh nghiệp vừa. như vậy số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 99,1%. Nếu xét về vốn có 20,5% số doanh nghiệp thuộc loại cực nhỏ dưới 100 triệu đồng. 55,5% số doanh nghiệp thuộc loại nhỏ trong tổng số 18,5% còn lại thì tỷ lệ doanh nghiệp vừa chiếm phần lớn.
- Trong thương mại: chủ yếu là quy mô cực nhỏ và nhỏ. Quy mô theo lao động cực nhỏ (dưới 10 lao động) chiếm trên 70%, loại nhỏ (từ 10 - 100 lao động) chiếm 27,3%, loại vừa (100-200 lao động) chỉ chiếm 1,8%. Quy mô về vốn: Quy mô cực nhỏ (dưới 100 triệu đồng) chiếm 27,7%, quy mô nhỏ (từ 100 triệu đến 1 tỷ đồng) chiếm 52,2%. Trong số 3,5% còn lại chủ yếu là quy mô vừa.
2. Tình hình sản xuất kinh - doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1. Về sản lượng
Theo đánh giá của các chuyên gia sản lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60 - 99% trong giá trị tổng sản lượng tuỳ thuộc lĩnh vực và thành phần kinh tế.
Trong công nghiệp, tỷ trọng tổng sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 60% tổng sản lượng công nghiệp thược khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Đối với khu vực ngoài quốc doanh (kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân) tỷ trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng sản lượng công việc doa khu vực này sản xuất chiếm khoảng 99%.
Bảng 8: Giá trị tổng sản lượng theo hình thức doanh nghiệp
(giá cố định năm 1989, tỷ đồng)
Hình thức doanh nghiệp
1990
1991
1992
1993
1994
Toàn ngành công nghiệp
14.011,1
15.471,1
18.166,9
20.412,0
26.463
Doanh nghiệp nhà nước
9.475,8
10.599,5
12.778,9
14.642,8
19.146
kinh tế tập thể
1.279,3
746,8
514,8
434,3
255
Doanh nghiệp và công ty tư nhân
136,5
228,5
513,3
826,0
1.192
Nguồn: Niên giám thống kê 1995. NXB Thống kê Hà Nội 1996. Tr 163-173
2.2. Tốc độ phát triển sản xuất.
Tốc độ phát triển sản xuất thể hiện bằng tốc độ phát triển giá trị tổng sản lượng. So với năm 1995 (trước đổi mới), Giá trị tổng sản lượng toàn ngành năm 1995 tăng lên 251%.
Bảng 9: Tốc độ phát triển giá trị tổng sản lượng theo hình thức doanh nghiệp (%).
1990
1991
1992
1993
1994
Toàn ngành công nghiệp
100
110,4
129,3
145,7
188,9
Doanh nghiệp nhà nước
100
118,6
134,9
154,5
202,1
kinh tế tập thể
100
58,4
40,2
33,9
20,0
Doanh nghiệp và công ty tư nhân
100
167,4
376,0
605,1
873,0
Nguồn: Niên giám thống kê 1995. NXB Thống kê Hà Nội 1996. Tr 166-173
Tuy số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, nhưng giá trị tổng sản lượng của chúng lại tăng 282,4%, công nghiệp tập thể giảm xuống còn 12,59% so với năm 1985, khu vực doanh nghiệp và công ty tư nhân tăng lên rất mạnh 449,5%.
Tuy nhiên sự phát triển của các khu vực kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều rộng (tăng giá trị sản lượng chủ yếu là do tăng số doanh nghiệp). Sự đầu tư phát triển theo chiều sâu còn hạn chế. Theo số liệu thống kê, mức độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế không cao: 59% số doanh nghiệp không tăng quy mô vốn sản xuất, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp tăng quy mô vốn gấp đôi. Mức độ phát triển chiều sâu của khu vực ngoài quốc doanh ( chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) lại càng thấp hơn: gần 70% doanh nghiệp tư nhân và 61% số hợp tác xã không tăng quy mô vốn.
ã Xu thế phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua.
Sự phát triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua có những đặc điểm sau: Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà phần lớn số đó là doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng trong khi khu kinh tế tập thể doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp theo xu hướng giảm về số lượng. Thể doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp theo xu hướng giảm về số lượng. Về cơ cấu theo loại hình doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác, nếu không kể đến nhóm và hộ kinh doanh dưới vốn pháp định. Theo số liệu năm 1994 thì chỉ có 5,73% tổng ssố doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành lập trước năm 1990.
Thứ hai, bộ phận chủ yếu của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5 - 7%/năm thấp hơn mức trung bình của cả nước. Điều đó phần nào phản ánh tình trạng chưa huy động tốt tiềm năng của khu vực ngoài quốc doanh, trong đó phần lớn là danh nghiệp và và nhỏ.
Bảng 10: Tốc đ._. các nước tư bản, các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia luôn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ hơn theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Để tránh bị thôn tính trong các điều kiện như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có xu thế liên kết lại để đần đần hình thành các doanh nghiệp lớn nhằm chống lại sự thôn tính của các doanh nghiệp lớn và cũng để thôn tính các doanh nghiệp nhỏ hơn mình nhằm giành thêm thị trường. Kết quả là một nền kinh tế gồm chủ yếu là các chủ thể độc quyền và người tiêu dùng bị thiệt hại. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường yếu kém về nhiều mặt nếu không được hỗ trợ thì khó có thể tồn tại và phát triển được, gây gánh nặng và khó khăn cho phát triển kinh tế và xã hội. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là để đảm bảo bình đẳng trong hoạt động kinh tế, hạn chế và loại bỏ độc quyền trong kinh doanh của các công ty lớn. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh cụ thể ở nước ta là để duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế thi trường, tránh những méo mó do sự độc quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể kinh tế trong môi trường kinh doanh những yếu tố đó có vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm trong hoạt động của nền kinh tế.
Hỗ trợ và khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao khả năng cạnh tranh, xét về mặt nội dung, trước hết là tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước là người quyết định phân phối toàn bộ nguồn lực Quôc gia theo kế hoạch định sẵn tập trung nguồn lực cho sản xuất lớn. Phát triển các ngành công nghiệp với quy mô lớn về vốn và lao động để đạt hiệu quả cao là xu thế phổ biến của cơ chế kế hoạch tập trung. Nếu coi phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một cách tiếp cận mới về phát triển thì có thể nói cách tiếp cận này nhìn chung không tồn taị và không phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chỉ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc phân bố một phần nguồn lực của nền kinh tế tập trung vào một số mục tiêu then chốt, Việc phân bổ phần nguồn lực còn lại được thực hiện theo cơ chế thị trường bởi các chủ thể là các thành phần kinh tế khác nhau và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mới có đầy đủ điều kiện để được thực hiện.
Có ý kiến cho rằng Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần thì không cần phải có chủ trương riêng về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nữa. Xét về quy mô thì hầu như chỉ có khu vực kinh tế nhà nước là có doanh nghiệp có quy mô lớn, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chúng ta chủ yếu chỉ quan tâm phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Còn hiện nay chúng ta chủ trương phát triển mọi thành phần kinh tế, huy động sức mạnh của mọi người, mọi tầng lớp để phát triển, cũng có nghĩa là chúng ta khuyến khích phát triển các loại doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ mà chủ đầu tư không chỉ còn là nhà nước. Nhà nước đã ban hành khuôn khổ pháp luật thích ứng với từng loại hình doanh nghiệp, đoa là nền tảng pháp lý cơ bản để các doanh nghiệp phát triển. Ngoài ra Chính phủ đã ban hành một số chính sách riêng cho một số thành phần kinh tế, thí dụ chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, chính sách đối với các cụm, nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, chính sách ưu đãi với đầu tư trong nước, các chính sách đặc biệt đối với các cơ sở sử dụng nhiều lao động là các đối tượng chính sách của nhà nước... hầu hết các chính sách đó về thực chất là các chính sách dành cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên, nếu tiếp tục duy trì sự phân biệt trong chính sách đối với các thành phần kinh tế khác nhau thì sẽ không bảo đảm được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp này và kết cục là các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp không có lợi thế về vốn và công nghệ tiếp tục có được nhiều ưu ái hơn các doanh nghiệp dân doanh, các doanh nghiệp nhỏ. Do đó, thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ không những vẫn đảm bảo thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, mà còn góp phần duy trì sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đó trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói, “phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” chính là một phần nội dung của “Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu”.
1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều viẹc làm góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nước ta đang cần nhiều vốn để đầu tư phát triển trong những năm trước mắt, do nguồn vốn hạn chế, nhà nước chỉ có khả năng huy động từ ngân sách chủ yếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng thay vì đầu tư nhiều cho các ngành sản xuất như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Vì vậy các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là cách huy động thêm các nguồn đầu tư từ trong dân để phát triển kinh tế.
Nước ta đang dư thừa lao động. Doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có ưu thế trong tạo việc làm: suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn, tổng vốn đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao; có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động; yêu cầu về tay nghề và trình độ lao động không cao. Do đó, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, là phương hướng và cách đi thích hợp để thực hiện công nghiệp hoá nông thôn chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ được phát triển ở các vùng nông thôn tránh gây sức ép về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di dân vào các thành phố và trung tâm tạo nên.
1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế đặc biệt là tạo mối liên kết công nghiệp trong chức năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp quy mô lớn (phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ) trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế.
Về lâu dài, theo kinh nghiệm của nhiều nước, kể cả các nước công nghiệp, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là do lợi thế của loại hình doanh nghiệp này, đặc biệt là do khă năng tạo mối liên kết công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp quy mô lớn (phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ) đó là những yếu tố rát quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trước mắt, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (nhất là phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ) nhằm mục tiêu:
+ Tạo mối liên kết công nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, tạo sự phân công lao động mới trong nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp.
+ Tạo mối liên kết công nghiệp giữa công nghiệp lớn với công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển mạng lưới công nghiệp hỗ trợ có hiệu quả với công nghệ cao.
Hai mục tiêucơ bản trên có thể phát triển đan xen lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời là yếu tố quan trọng trong phát triển các ngành dịch vụ, tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Vì những căn cứ chủ yếu nêu trên cần thiết phải hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2. Những quan điểm chung và định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vì những lý do đã phân tích ở mục I/1 gồm:1.1, 1.2, 1.3, 1.4.
2.2. DNV&N cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thi trường trong một số ngành có lựa chon là:
+ Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh.
+ Các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm cho doanh nghiệp lớn (tức mạng lưới phân phối gia công bán thành phẩm, chế biến sâu...).
+ Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc các làng nghề.
2.3. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cả trong công nghiệp và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Hiện nay nươc ta có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn. quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng nguồn nhân lực rồi rào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên nghững biến động xã hội khó lường trước được. Kinh nghiệm của nhiều nước đông dân ở châu á cho thấy chiến lược phát triển đi từ nông nghiệp nông thôn là sự lựa chọn khôn ngoan và hiệu quả do một số lý do sau:
+ Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn góp phần giảm thiểu nhu cầu di cư vào thành phố và trung tâm công nghiệp, ổn định xã hội, tránh cho các thành phố lớn lâm vào tình trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt.
+ Thu nhập của cư dân nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết kinh tế giữa thành thị và nông thôn góp phần giảm chênh lệch vể trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn.
+ Sử dụng được nguồn lực lao động rồi rào - một trong hai yếu tố quan trong cho tăng trưởng (vốn và lao động) trong khi thiếu vốn.
+ Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá ở nông thôn góp phần thúc đẩy thị trường ở nông thôn phát triển, thu hút được số lượng lớn lao động nhàn dỗi. phát triển mạng lưới phân phối nhiều cấp rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá công nghiệp tốt hơn. Tuy nhiên, vì nhiều cấp nên hệ thống này có thể sẽ làm tăng chi phí dịch vụ.
+ Nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phong phú cho phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng nhất là cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
Công nghiệp nông thôn có thể tập chung phát triển ở một số ngành và sản phẩm sau:
+ Các ngành đáp ứng yêu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm kim loại.
+ Cơ khí, sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống.
+ May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ.
2.4. Doanh nghiêp vừa và nhỏ được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định nà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia.
Xét về mặt kinh tế. Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung, chứ không phải riêng của một doanh nghiệp hay công ty nào, thì không hoàn toàn như vậy. Thị trường có nhiều phân đoạn: phân đoạn dành cho các sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn; phân đoạn dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng như cầu hết sức thích hợp với loại thị trường thứ hai này. Thông thường, nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tìm cách chiếm mọi thị trường. Vì vậy, nên chăng cần có khung khổ luật pháp rõ ràng quy định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào, với tỷ trọng bao nhiêu được ưu tiên dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận.
2.5. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước xuất phát từ định hướng chung phát triển kinh tế xã hội đã đặt ra những chương trình phát triển quy mô lớn, theo đó những định hướng phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ tạo ra mối liên kết hỗ trợ lẫn nhau thông qua cơ chế chính sách của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ ký các hợp đồng tạo mối liên kết chặt chẽ cùng phát triển.
Mối liên kết chặt chẽ đó thể hiện qua các khía cạnh sau:
+ Phân công chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ vf doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả, doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa tạo đầu vào góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn.
+ doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuỷen giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
+ Giao thầu lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong hợp đồng lớn mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước.
+ Hỗ trợ tài chính lẫn nhau trong quá trình phát triển.
2.6. Nên ngiên cứu thành lập một số khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với chi phí thấp hơn các khu công nghiệp tập trung hiện có mà chỉ các doanh nghiệp lớn mới có khả năng.
+ Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp.
3. Đổi mới quan điểm và phương thức hỗ trợ.
3.3. Đổi mới quan điểm hỗ trợ.
+ Để có thể đổi mới quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trước hết cần phải nhận thức đúng vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, cần quán triệt xâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và chiến lược kết hợp quy mô lớn trong sự đan xen với quy mô vừa và nhỏ. Nghị quyết đai hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”. Đây là một quan điểm chiến lược rất quan trọng, vừa có ý nghĩa định hướng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển đúng đắn, vừa định hướng hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp này từ phía các ngành, các cấp. Như vậy, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là sự ban ơn, mà là trách nhiệm của các tổ chức của Đảng, của chính quyền và toàn xã hội trong đó có các doanh nghiệp lớn.
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, kinh doanh ngày càng văn minh hiện đại.
Để thực hiện mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế. Đồng thời cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất... để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật làm ăn công khai... cùng với việc hỗ trợ cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường.
3.2. Đổi mới phương thức hỗ trợ
Việc lựa chọn phương thức hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng quyết định tính thực thi hiệu quả của các hình thức hỗ trợ. Hiện nay phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thực tế ở Việt Nam thường theo hai hướng: đối với doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ trong thời kỳ đầu thì thiên về hỗ trợ trực tiếp (cấp vốn, cấp mặt bằng, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp) với nhiều chính sách ưu đãi hơn, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh phương thức hỗ trợ chủ yếu là gián tiếp dưới dạng giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi.. .Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ còn ít ỏi so với nhu cầu của các doanh nghiệp. Có nhiều phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ dẫn đường (đi tiên phong), hỗ trợ thông qua trung gian...
Hỗ trợ trực tiếp bao gồm:
+ Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, kiểm tra.
+ Cấp vốn.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Đào tạo chủ doanh nghiệp.
+ Cung cấp thông tin.
+ Cung cấp ưu đãi về mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Hỗ trợ gián tiếp chủ yếu là:
Tác đông thông qua môi trường kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Các giải pháp chủ yếu là:
+ Hình thành môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm môi trường, thể chế, môi trường luật pháp, môi trường thị trường, môi trường cơ sở hạ tầng).
+ Ưu đãi thuế (giảm hoặc miễn thuế).
+ Bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý, chống nhập lậu hàng ngoại.
+ Tạo điều kiện để doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Ngoài ra cần chú ý đến cách thức hỗ trợ bằng quy hoạch phát triển, tạo lập cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở kinh tế làm tiên phong trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn như công nghệ cao, hỗ trợ thông qua các tổ chức nhỏ cũng như có biện pháp cụ thể, thiết thực kuyến khích hình thành và phát triển các công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (thay vì nhà nước phải đứng ra thành lập các cơ sở hỗ trợ thì chỉ cần hỗ trợ một phần cho các trung tâm này hoạt động).
II. Một số giải pháp khắc phục
1. Chức năng quản lý của nhà nước.
Chức năng quản lý của nhà nước trước hết được thể hiện bằng việc:
+ Tạo lập môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
+ Định hướng và hướng dẫn.
+ Điều tiết và hỗ trợ.
+ Hỗ trợ là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước đối với nền kinh tế, dặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần phát hjuy vai trò trên các lĩnh vực:
1.1. Hình thành khung khổ pháp lý
Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ bao gồm:
ã Ban hành, bổ xung và sửa đổi các chính sách, quy định hiện hành liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ: đây là giải pháp loại bỏ mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật gây cản trở cho các thủ tục hành chính, bổ xunh thêm những điểm không phù hợp với môi trường kinh doanh hiện tại. Các văn bản phải bảo đảm tính ổn định, tính thống nhất, tính lâu dài, tính đồng bộ để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tức là khi soạn thảo phải tính đến cả những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai.
ã Ban hành pháp luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Xác định rõ đối tượng điều chỉnh.
+ Các giải pháp chung để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các tổ chức liên quan trong việc hỗ trợ này.
1.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các cơ quan này có chức năng chủ yếu như:
+ Giúp nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Nắm bắt tình hình, nguyện vọng và cung cấp thông tin cần thiết về chính sách thị trường, công nghệ, lao động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ. Xúc tiến hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm các đối tác trong kinh doanh, thực hiện việc kiểm tra chất lượng và quản lý môi trường.
+ Đào tạo chủ doanh nghiệp. Kiểm tra việc chấp hành luật pháp của các doanh nghiệp.
1.3. Khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
+ Nhà nước cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các tổ chức làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực nhà nước nhưng vẫn đạt được mục đích.
+ Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các chương trình, dự án về tài chính.
+ Cho phép thực hiện hỗ trợ theo phương thức ứng xử thị trường thay cho phương thức cung cấp không mất tiền thường dẫn đến trì trệ, ỉ lại và rễ thất thoát.
1.4. Khuyến khích thành lập các hiệp hội và các tổ chức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhu cầu bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần có những tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp này đồng thời có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin, hỗ trợ nhau về vốn công nghệ...Các tổ chức này có thể được thành lập dưới dạng các hội nghề nghiệp, hiệp hội, các câu lạc bộ...Hoạt động thường xuyên hoặc định kỳ dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
1.5. Hoàn thiện chính sách.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề cấp bách hiện nay vì: số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn.
Mặc dù chính sách đó có vai trò lớn nhưng trong chính sách của nhà nước hiện nay có nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách.
ã Chính sách đầu tư: chính sách đầu tư đổi mới theo hướng khuyến khích mọi nỗ lực đầu tư phát triển kể cả các nguồn lực trong và ngoài nước, khuyến khích những công dân Việt Nam có vốn, có kiến thức đứng ra kinh doanh.
ã Chính sách vốn; đổi mới chính sách tài chính tiền tệ: có chính sách chống độc quyền kinh doanh ngân hàng, giảm dự trữ bắt buộc, nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, sát với cung - cầu vốn trên thị trường.
+ Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập lãi suất thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn.
+ Giảm bớt thủ tục vay vốn: mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp.
+ Quỹ phát triển tín dụng nhân dân.
+ Phát triển các định chế tài chính, cung cấp vốn trung và dài hạn, như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung - dài hạn.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu...
+ Ưu đãi lãi suất: trong chính sách ưu đãi vốn cần chọn đứng đối tượng với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiêu quả các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghẹe mới, sản xuất thử nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nghề, các hoạt động tư vấn. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho các đối tượng được hỗ trợ tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay.
+ Thành lập các quỹ hỗ trợ: các nguồn có thể làm từ ngân sách trung ương và địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, các tổ chức trong và ngoài nước.Quỹ này có thể do nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng này do nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian chuyên trách (thường là ngân hàng).
+ Thành lập trung tâm bảo lãnh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn lớn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó, rất cần một tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong những hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay (doanh nghiệp) và người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) và nhà nước. Nhờ đó mà giảm bớt rủi do khi vay vốn.
ã Chính sách đất đai: mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất.
+ Cho thuê, đấu thầu những cơ sở bị giải thể.
+ Tăng thời hạn sử dụng, miễn và giảm thuế đối với phần bỏ vốn vào việc mở mang đất đai, tận dụmg đât thừa, ao, hồ, đầm...để đưa vào sản xuất.
+ Hình thức các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng, nhà xưởng với giá ưu đãi đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà thành phố Hà Nội đang làm.
ã Chính sách thuế: đổi mới theo hai nội dung hệ thống thuế chung, đổi mới theo xu hướng.
+ Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất, tránh đánh thuế chồng chéo, cải cách cơ chế định - thu kiểm tra thuế theo hướng độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau, thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế.
+ Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp ngoài nước.
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần mở rộng theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi.
+ Mở rộng đối tượng ưu đãi: đến nay trong các chính sách thuế của nhà nước, đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều chỉ có một số doanh nghiệp ở vùng núi cao, hải đảo và một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho ác doanh nghiệp tích luỹ để phát triển sản xuất và mở rộng quy mô.
+ Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn dè dặt chỉ giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1 - 2 năm, hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 - 5năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và đào tạo chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới.
+ Có hình thức ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng tăng. Như vậy sẽ không khuyến khích được các doanh nghiệp mở rộng quy mô mà quy mô nhỏ quá sẽ kinh doanh không có hiệu quả.
Kết luận
Sau một thời gian dài thực tập, nghiên cứu các tài liệu tham khảo của vụ doanh nghiệp cùng với các tư liệu của tổng cục thống kê, một số sách lí luận về đề tài doanh nghiệp vừa và nhỏ. trên cơ sở đó, rút ra một số khó khăn và phương hướng giải quyết từ tầm vĩ mô, vi mô nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của cả hệ thống doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ cho phép của chuyên đề, em đã cố gắng trình bày một số khó khăn lớn thường gặp. Tất nhiên, sẽ không tránh khỏi sơ suất trong lí luận và sắp xếp, rất mong sự thông cảm của các thầy cô, cũng như tập thể cơ quan nơi em thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn !
Tài liệu tham khảo
Kinh tế ngoài quốc doanh thời kỳ mở cửa 1991-1995. NXB thống kê Hà nội, 1996
Tập san phát triển kinh tế 1992-1997
Niên giám thống kê 1990-1996. NXB Thống kê, hà nội. 1996
Đổi mới doanh nghiệp vừa & nhỏ. Nguyễn Hữu Hinh. Các vấn đề xã hội. NXB Chính trị quốc gia 1996
Một số tham luận & báo cáo đệ trình chính phủ, đề tài khoa học của Vụ doanh nghiệp
Tập san nghiên cứu kinh tế số 212-234
Mục lục
Trang
lời mở đầu 1
chương I: tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2
I. Tiêu chí, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2
1. Một số vấn đề về tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ 2
2. Định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ 10
II. vai trò, vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ 12
1. Đóng góp vào kết quả của hoạt động kinh tế của nền kinh
tế quốc dân 13
2. Tạo việc làm cho người lao động 13
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn
lực của xã hội 15
4. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 16
5. Khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân 17
6. Đa dạng hoá và tăng thu nhập của dân cư 17
7. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế 17
8. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng đối với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là cơ sở kinh tế ban
đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn 18
9. Đóng góp một phần đáng kể ngân sách 18
10. Những lợi thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 19
III. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 21
1. Khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ 21
2. Chiến lược phát triển & chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa
và nhỏ 22
3. Thành lập cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ 22
4. Thành lập các tổ chức hỗ trợ & các hiệp hội của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ 23
Chương II : Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam trong thời gian qua 25
I. tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 25
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 25
2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ 27
3. Đặc điểm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ 30
4. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển
kinh tế, xã hội ở Việt Nam 37
II. một số khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ 40
1. Môi trường kinh doanh và các chính sách của Nhà nước
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 40
2. Về doanh nghiệp 46
Chương III : một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta 48
I. những quan điểm chung và định hướng doanh nghiệp
vừa và nhỏ 48
1. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 48
2. Những quan điểm chung và định hướng phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ 51
3. Đổi mới quan điểm và phương thức hỗ trợ 53
II. một số giải pháp khắc phục 55
1. Chức năng quản lý Nhà nước 55
Kết luận 60
Tài liệu tham khảo 61
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28447.doc