MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách nhằm tăng nhanh tiềm lực tài chính để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Vốn là một yếu tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định tốc độ phát triển của nền kinh tế, muốn có vốn phải tìm nguồn. Vậy phải huy động như thế nào - điều đó còn phụ thuộc vào chính sách, cơ chế huy động vốn của mỗi nước. Đối với nước ta, vốn cho phát triển kinh tế đã trở thành vấn đề thách thức trong nhiều năm
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở Kho bạc Nhà nước Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay.
Trong những năm qua, Chính phủ đã sử dụng đa dạng các hình thức, công cụ huy động vốn trong cơ chế thị trường có hiệu quả. Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế có khả năng lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp; góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian tới, cùng với các hình thức huy động vốn qua kênh Ngân hàng như: kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm để giải quyết nhu cầu vốn tín dụng. Việc mở rộng các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của Chính phủ như: phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống kho bạc Nhà nước (KBNN). Trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược vốn và tạo tiền đề cho việc phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở nước ta.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian qua đã góp phần đáng kể giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) đồng thời tạo nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển kinh tế, thu hút một lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cũng còn không ít khó khăn cả về cơ chế và chính sách huy động vốn. Do đó phải tìm ra các giải pháp thích hợp nhất trong công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong hệ thống KBNN, làm thế nào để huy động vốn tối đa, có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Từ đó tạo một lượng vốn lớn cho NSNN và cho đầu tư phát triển kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong quá trình học tập tại trường và làm việc tại KBNN Hà Tây, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Tây” để viết khoá luận tốt nghiệp.
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Tây trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Tây
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do trình độ năng lực còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô giáo và những người quan tâm.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
NHU CẦU – KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI:
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2005
Xuất phát từ nhu cầu bức xúc về vốn nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, ổn định và bền vững, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc huy động vốn cần khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của NSNN và các thành phần kinh tế.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1990 - 2000 là ra khỏi khủng hoảng – ổn định tình hình xã hội, vượt qua tình trạng của một nước nghèo và kém phát triển. Để đạt được mục tiêu quan trọng trên, nhiệm vụ của Việt Nam là đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8 – 9% (trong đó công nghiệp tăng 14%/năm). Đến năm 2002 GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi so với năm 1990 tức là khoảng 400 – 450$/người/năm. Tuy nhiên, do một số khó khăn khách quan và chủ quan nảy sinh mà chủ yếu nhất phải kể đến là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm nhịp độ phát triển của nước ta trong năm 1999 và 2000. Do đó, tính đến hết năm 2000, GDP bình quân đầu người của ta chỉ đạt 360$ và đến hết năm 2002 chỉ đạt 400$ tức là khoảng 1,8 lần GDP năm 1990. Theo viện nghiên cứu chiến lược phát triển thì mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2005 phải đạt GDP bình quân đầu người là 600$, gấp 1,5 lần so với con số hiện nay. Đây là một mục tiêu rất khó khăn. Muốn đạt được điều này Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng bình quân năm là 7,2% trong 5 năm tới (trong khi mức tăng trưởng trung bình của giai đoạn 1996 – 2000 là 6,8%). Để cho mục tiêu này thành hiện thực, Việt Nam cần phải thực hiện được một lượng vốn đầu tư là 58 tỉ $ trong 5 năm tới, tăng khoảng 45% so với giai đoạn 1996 – 2000. Trong lượng vốn này thì nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng 60%, còn lại 40% sẽ được huy động từ các nguồn vốn nước ngoài. Phấn đấu đạt mức huy động trái phiếu Chính phủ hàng năm (kể cả công trái xây dựng tổ quốc) tối thiểu 5%/GDP hàng năm (khoảng 15.000 – 20.000 tỉ đồng/năm)
Trong những năm tới (2001 – 2005), để đáp ứng được nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vốn cho các chương trình mục tiêu thì nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại kho bạc vẫn là một trọng trách.
Thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn nói trên cần quán triệt nguyên tắc: Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Cần xử lý linh hoạt mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước nhằm đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Vai trò quyết định của vốn trong nước thể hiện ở chỗ:
+ Tạo ra các điều kiện cần thiết để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
+ Hình thành và tạo lập sức mạnh nội sinh của nền kinh tế, hạn chế những tiêu cực phát sinh về kinh tế – xã hội do đầu tư nước ngoài gây nên.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân, khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân mới mong tạo ra sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Phải coi trọng sức mạnh của vốn đang tiềm ẩn trong dân cư và các doanh nghiệp, coi đó là kho tài nguyên quý hiếm phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả.
Khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội:
Huy động các nguồn vốn trong nước
Trong những năm tới, cần tăng nhanh tỉ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, coi tiết kiệm là quốc sách, có những biện pháp tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng ở tất cả các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình để dồn vốn cho phát triển sản xuất; Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, nhất là hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, mở rộng và phát triển các tổ chức Tài chính trung gian như: hệ thống các Công ty Tài chính, các doanh nghiệp bảo hiểm. Song song với việc huy động vốn ngắn hạn, cần tăng tỉ trọng huy động vốn trung – dài hạn.
Mục tiêu phấn đấu là phải huy động được trên 60% tổng nhu cầu vốn đầu tư từ các nguồn trong nước. Cụ thể là:
Nguồn vốn đầu tư Chính phủ: hàng năm ngân sách Nhà nước dành ra khoảng 10-15% vốn cho đầu tư phát triển. Dự kiến tổng thu NSNN giai đoạn 2001-2002 là 20-22% GDP, trong đó thu thuế, phí khoảng 17-18% GDP. Tổng chi NSNN khoảng 26-28% GDP trong đó chi cho đầu tư phát triển là 10% GDP và bằng 26% tổng chi NSNN. Bội chi Ngân sách không vượt quá 5% GDP giải quyết bằng cách khai thác triệt để các nguồn thu và đẩy mạnh chính sách vay nợ của Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ.
Nguồn vốn đầu tư từ nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại từ các doanh nghiệp: khoảng 15 – 16 tỷ $ trong những năm qua bình quân các doanh nghiệp đã đầu tư bổ sung từ 100 – 150 triệu $, dự kiến vốn doanh nghiệp chiếm 28% trong cơ cấu vốn đầu tư trong nước, đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tương lai.
Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức Tài chính: đây là nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, Công ty Tài chính, Ngân hàng và phi Ngân hàng. Nguồn này được tính khoảng 3- 4 tỉ $.
Nguồn vốn đầu tư các hộ gia đình: cả nước có trên 10 triệu hộ gia đình, trong đó có khoảng 2 triệu hộ đủ vốn kinh doanh và tích luỹ hàng năm để phát triển kinh tế gia đình. Dự kiến mỗi hộ tiết kiệm cho đầu tư phát triển trung bình từ 1.000 đến 1.500 $/năm, tổng số tích luỹ khoảng 2 – 3 tỉ $ chiếm 33% cơ cấu vốn đầu tư trong nước.
Huy động vốn đầu tư nước ngoài:
Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vì nó không chỉ tạo vốn để phát triển kinh tế mà còn tạo cơ hội để trực tiếp đưa kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào, giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong nước, tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Cần tập trung vào việc khai thác các khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA), nhưng cần hoàn tất sớm các công việc chuẩn bị để tiếp nhận nhanh nguồn vốn này. Việc phát hành trái phiếu quốc tế cần cân nhắc kỹ các điều kiện vay và khả năng trả nợ. Không vay thương mại để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và những công trình không mang lại lợi nhuận.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài:
Từ khi Quốc hội ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 29/12/1987 đến hết ngày 31/12/1999, trên địa bàn cả nước đã có 3.398 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số đăng ký đạt 42.341 triệu $ (kể cả vốn xin tăng thêm của dự án). Trong đó số dự án còn đang hoạt động là 2.895 dự án với số vốn là 36.566 triệu $ và có 503 dự án đã chấm dứt thời kỳ hoạt động hoặc bị rút giấy phép với tổng số vốn là 5.775 triệu $. Với việc tiếp tục chính sách kinh tế mở cửa, khuyến khích, hấp dẫn, tạo cơ sở pháp lý để hướng dẫn các nhà đầu tư Quốc tế có khả năng huy động vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, ước tính năm 2003, vốn thực hiện khoảng 19 – 21 tỉ $, tăng 12,5% - 13% so với năm 2002. Trong đó vốn nước ngoài 15 – 16 tỉ $ trong tổng số vốn thực hiện. Nguồn vốn FDI ước 6 tháng đầu năm 2002 theo số đăng ký đạt 346 triệu $, giảm 43% so với cùng kỳ, số thực hiện đạt khoảng 600 triệu $, giảm 7% so với cùng kỳ.
Nguồn vốn ODA, tài trợ đa phương của các tổ chức tài trợ Quốc tế (IMF, ADB, WB) cũng có vai trò rất quan trọng. Vốn ODA trong thời kỳ 1991 – 1995 có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $. Trong năm 1993 – 1994 hội nghị tài trợ phát triển cho Việt Nam tại Pari, cộng đồng tài chính Quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn tài trợ phát triển chính thức tới 3,8 tỉ $. Ta đã vay từ IMF khoảng 230 triệu $, với WB và ADB số tiền 740 triệu $, ký hiệp định vay ODA song phương với Nhật trị giá 52,3 tỉ Yên (tháng 1/1994) với Pháp trị giá 420 triệu Fr (7/1/1994).
Mục tiêu đặt ra: trong vòng 10 năm chúng ta phải đẩy mạnh huy động từ 6 – 8 tỉ $ từ nguồn ODA và nguồn tài trợ đa phương của các tổ chức Quốc tế. Nguồn vốn ODA 6 tháng đầu năm 2000 được chính thức hoá bằng các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1.068,8 triệu $ (gồm 906 triệu $ vốn vay và 104,8 triệu $ vốn viện trợ không hoàn lại). Số vốn giải ngân ước đạt 785 triệu $, đạt 46,3 % kế hoạch năm (trong đó vốn vay 655 triệu $, vốn viện trợ không hoàn lại 130 triệu $)
Nguồn viện trợ nước ngoài: từ năm 1990 viện trợ của các tổ chức Liên hiệp quốc cho Việt Nam khoảng 50 – 60 triệu $/năm.
Bên cạnh các nguồn vốn nói trên, cần phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường kinh tế để huy động vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Dự kiến trong 5 năm 1998 – 2002 bình quân mỗi năm huy động 300 – 500 triệu $ thì tổng số huy động vốn có thể đạt 2 – 2,5 tỉ $.
Trong thời gian qua chúng ta đã có chính sách, cơ chế huy động vốn thích hợp, góp phần tạo điều kiện khai thác những nguồn vốn trong nước và nước ngoài một cách có hiệu quả. Nhờ đó mà chúng ta đã huy động được một lượng vốn lớn để bù đắp thiếu hụt NSNN và để đầu tư phát triển kinh tế, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì trong thời gian qua, công tác huy động vốn của ta còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn, cần có những chính sách, giải pháp hữu hiệu, hợp lí hơn.
Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2003.
Để tăng cường công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế cần chú trọng một số giải pháp sau:
Huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân:
Hiện nay, tiềm năng vốn trong nước của ta còn rất lớn. Vấn đề đặt ra là cần tìm giải pháp để biến tiềm năng thành hiện thực, huy động triệt để vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Huy động vốn qua kênh NSNN
sẽ là điều kiện quan trọng để giải quyết nhu cầu thu chi của Nhà nước về tiêu dùng thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc huy động qua kênh NSNN phải dựa vào thuế, phí, lệ phí; phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia phải từ vay nợ... trong đó thu thuế và phí vẫn là nguồn thu quan trọng nhất.
Huy động vốn qua thuế, phí, lệ phí: để tăng cường hơn nữa hiệu quả huy động vốn qua thuế, phí, lệ phí cần phải mở rộng diện thu thuế, quy định mức thuế suất ở mức vừa phải, hợp lí, nhăm thúc đẩy doanh nghiệp, dân cư mở rộng đầu tư; mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân, đánh thuế thu nhập với khoản lợi tức thu từ vốn; chuyển hẳn sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai và trực tiếp nộp thuế vào KBNN.
Mở rộng phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư là hiện tượng bình thường của mọi Nhà nước. Vay nợ dân tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển có hai điểm lợi:
+ Tăng tiết kiệm xã hội, tạo thói quen tiết kiệm, tiêu dùng hợp lí cho người dân.
+ Nhà nước có được nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế mà không phải phát hành tiền, tránh được lạm phát.
Muốn tăng hiệu quả vay nợ dân, cần chú trọng vào những vấn đề sau:
+ Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như: Tín phiếu, trái phiếu, phát hành loại trái phiếu vô danh có thể chuyển đổi tự do, trái phiếu công trình có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, đảm bảo việc lấy lãi dễ dàng, nhanh gọn.
+ Đa dạng hoá các thời hạn vay vốn qua trái phiếu, chủ yếu tập trung huy động vốn bằng các loại trái phiếu trung và dài hạn, hạn chế và đi tới chấm dứt vay ngắn hạn với lãi suất cao để bù đắp bội chi Ngân sách.
Bộ Tài chính phát hành trái phiếu; Ngân hàng nhà nước đứng ra tổ chức đấu thầu mua trái phiếu (đấu thầu cả về lãi suất, khối lượng mua và thời hạn), xác định mức lãi suất vay vốn hợp lý, đảm bảo có lợi cho cả chủ sở hữu lẫn người vay vốn.
Xúc tiến nhanh việc phát triển thị trường chứng khoán.
Việc hoàn thiện thị trường vốn và đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch về chứng khoán và chuyển đổi từ chứng khoán sang tiền mặt được nhanh gọn và thuận tiện.
Huy động vốn qua các tổ chức Tài chính – Tín dụng.
Trong những năm trước mắt và cả về lâu dài, các tổ chức Tài chính – Tín dụng vẫn là trung gian vốn lớn nhất trong nền kinh tế, bởi vậy phải coi trọng và tăng cường hiệu quả huy động vốn qua các tổ chức này. Các giải pháp đó là:
Mở rộng hình thức tiết kiệm qua bưu điện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể gửi tiền tiết kiệm bất kỳ lúc nào, ở đâu với số tiền nhiều hay ít.
Mở rộng các hình thức huy động vốn tiết kiệm như: tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm tuổi già, tín dụng tiêu dùng.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các quỹ đầu tư, các Công ty bảo hiểm, Công ty Tài chính,... để thu hút có hiệu quả các nguồn vốn, phát triển mạnh mẽ hơn nữa hệ thống các Ngân hàng, các tổ chức Tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
Cho phép phát hành kỳ phiếu thu ngoại tệ; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ngắn hạn và trung hạn.
Có chính sách lãi suất hợp lý, khuyến khích và có biện pháp bắt buộc các tổ chức tín dụng phải có cơ cấu dư nợ hợp lý giữa dư nợ cho vay ngắn hạn và dư nợ cho vay dài hạn, trung hạn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn cho đầu tư chiều sâu, mở rộng quá trình kinh doanh.
Thúc đẩy các doanh nghiệp tự đầu tư,
khai thác triệt để các nguồn vốn trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất
Kích thích, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao khả năng tích tụ và tập trung vốn, mở rộng vốn từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
+ Khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng vốn hiện có trong doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt các nguồn vốn, các loại quỹ, phục vụ kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần xây dựng cơ chế bảo toàn vốn.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn từ dân cư, các tổ chức tín dụng, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
+ Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng, hợp tác kinh doanh với các đối tác trong nước và nước ngoài.
+ Từng bước mở rộng cổ phần hoá, đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Cho phép các doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu, trái phiếu theo quy định của chính phủ để tìm kiếm và huy động vốn của cá nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân cư
kích thích người dân tự bỏ vốn đầu tư cho Nhà nước, các tổ chức kinh tế vay để tạo nguồn vốn đầu tư. Thực hành tiết kiệm trong toàn xã hội, khuyến khích và có chính sách hướng dẫn tiêu dùng hợp lý. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho người dân bỏ vốn đầu tư.
Huy động vốn ngoài nước
Việc huy động vốn nước ngoài trong những năm trước mắt vẫn được coi là biện pháp quan trọng và liên quan đến chính sách đối ngoại, quan hệ kinh tế, chính trị giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế để thu hút được khoảng 20 – 25 tỉ từ nước ngoài cho đến năm 2003. Chúng ta có thể áp dụng các hình thức sau:
Thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài.
Về nguyên tắc, để thu hút được đồng vốn đầu tư này, trước hết phải chứng minh được nền kinh tế nội địa là nơi an toàn cho sự vận động của đồng vốn và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác, đó là điều kiện cần và đủ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Tạo lập môi trường kinh tế – xã hội ổn định và thuận lợi cho sự thâm nhập và vận động của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo tạo lập và duy trì môi trường kinh tế ổn định, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề cả về thể chế chính trị, môi trường pháp luật cũng như cách vận hành quản lý nền kinh tế, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải:
+ Kiềm chế có hiệu quả nạn lạm phát, giữ tỉ lệ lạm phát ở mức hợp lý, vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Nhà nước đảm bảo tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.
+ Đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện triệt để công cuộc cải cách về thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cho sự vận động của các dòng vốn nước ngoài.
Duy trì và tăng cường khả năng sinh lợi lâu bền của nền kinh tế quốc dân.
Xem xét các hình thức ưu đãi đầu tư, có quy hoạch cụ thể, chi tiết các ngành, các lĩnh vực, các dự án ưu tiên đầu tư.
Khai thông, mở rộng và hấp thu triệt để các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài
Tìm kiếm, khai thác triệt để các nguồn viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, viện trợ phát triển chính thức và vay nợ.
+ Tranh thủ vốn vay ưu đãi theo thể thức ODA vì thời hạn vay tương đối dài, lãi suất thấp, chủ động lập, thẩm định chặt chẽ các dự án cần gọi vốn ODA, giải quyết tốt công tác giải ngân nguồn vốn vay đã ký.
+ Khai thác nguồn vay, tài trợ đa phương từ các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB), cố gắng thống nhất với các nước, tổ chức quốc tế trong thời gian sớm nhất các văn bản khung về vay vốn trong giai đoạn 2001 – 2010 để có dự kiến bố trí sử dụng vốn và rút vốn.
+ Bên cạnh việc xúc tiến sử dụng vay nợ, cần đẩy mạnh việc quản lý nợ quá hạn qua đàm phán giãn nợ, thí điểm và mở rộng diện chuyển đổi, mua bán nợ.
Phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài để thu hút vốn, phải được tính toán kỹ lưỡng, vì lãi suất cao và vì những khoản này đòi hỏi đầu tư phải thu lợi nhuận ngay, hoặc thu lãi cao mới có khả năng trả được nợ.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần phải coi trọng cả hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Trong đó nguồn vốn trong nước giữ vai trò quan trọng. Việc huy động vốn trong và ngoài nước phải được nhìn nhận theo một quy trình khép kín trên cả ba phương diện: huy động, sử dụng và quản lý. Đồng thời bảo đảm thông suốt trên cả ba giai đoạn: tích luỹ – huy động - đầu tư, nhằm đạt tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất. Có như vậy nước ta mới tránh được tình trạng khủng hoảng nợ và đảm bảo cho nền kinh tế – xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
Khái niệm và đặc điểm của tín dụng Nhà nước.
Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng do cơ quan Tài chính thực hiện Trong hình thức này, Nhà nước là người trực tiếp vay vốn ở trong nước, ngoài nước để giải quyết các nhu cầu chi của NSNN đồng thời Nhà nước cũng là người cho vay.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng Nhà nước là việc huy động vốn và sử dụng vốn đã huy động được thường có sự kết hợp giữa các nguyên tắc tín dụng và chính sách về tài chính. Do vậy tín dụng Nhà nước khác với tín dụng thương mại và tín dụng Ngân hàng. Cụ thể: Tín dụng Nhà nước là quan hệ vay mượn giữa một bên là Nhà nước, một bên là các tầng lớp dân cư, các tầng lớp kinh tế – xã hội trong và ngoài nước..., còn tín dụng Thương mại là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau và tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư.
Do Nhà nước là một chủ thể mạnh về chính trị, kinh tế... nên phạm vi huy động vốn của tín dụng Nhà nước rất rộng, vừa huy động vốn ngoài nước, vừa huy động vốn trong nước như: phát hành trái phiếu Chính phủ, huy động tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và vay nước ngoài hay các tổ chức quốc tế.
Đối tượng huy động vốn của tín dụng Nhà nước cũng phong phú đa dạng hơn các quan hệ tín dụng khác. Nếu như trong tín dụng Thương mại, đối tượng vay vốn chủ yếu là hàng hoá còn tín dụng Ngân hàng chủ yếu là tiền thì tín dụng Nhà nước đối tượng huy động vốn bao gồm cả hàng hoá và tiền tệ.
Nhà nước là chủ thể mạnh về mọi mặt nên khác với tín dụng Thương mại và tín dụng Ngân hàng, việc huy động vốn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, nhưng nhiều khi còn mang tính cưỡng chế, bắt buộc, nhằm đảm bảo cho Nhà nước tập trung nhanh, đầy đủ nguồn vốn để đảm bảo cho các nhu cầu chi trả của Nhà nước được kịp thời.
Thời hạn huy động vốn và sử dụng vốn trong tín dụng Nhà nước cũng đa dạng và phong phú hơn gồm: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Sự cần thiết của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ
Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, các nguồn thu của NSNN nhiều khi không đảm bảo thoả mãn nhu cầu chi tiêu để phát triển kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, quản lý Nhà nước, giữ vững an ninh, củng cố quốc phòng,... vì vậy, Nhà nước phải thực hiện vay vốn từ các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trong nước và vay nươc ngoài để bù đắp sự thiếu hụt đó. Đa số các nước trên thế giới, các nguồn thu mà Tài chính huy động được dưới hình thức thu NSNN như: thuế, lệ phí không đủ để đầu tư phát triển kinh tế nên đòi hỏi phải có nguồn Tài chính bổ sung. Một trong những nguồn đó là khoản Nhà nước vay dân, đây chính là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Nhà nước sử dụng nguồn vốn này để đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khả năng nguồn thu cho NSNN.
Ở Việt Nam, do tình hình Tài chính – Ngân sách luôn ở trong tình trạng mất cân đối và không ổn định, đây là nguyên nhân và hậu quả của nền kinh tế chưa phát triển. Trong khi Nhà nước không đủ vốn cung ứng cho nền kinh tế, thì trong xã hội vẫn còn đọng vốn và sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả. Vốn NSNN cấp ra với tính chất không hoàn lại đã bị trải rộng quá nhiều, nhu cầu của nền kinh tế luôn thiếu so với nhu cầu ngày càng tăng mang tính bao cấp, kém hiệu quả kinh tế. Sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đòi hỏi một lượng vốn lớn mà nguồn thu của NSNN ta chủ yếu là từ thuế, chiếm 23% GDP nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn. Do vậy, để khai thác được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nhất thiết phải tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống KBNN. Việc huy động vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất: huy động vốn trong nước góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN.
Đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhu cầu chi của NSNN ngày càng cao, trong khi đó nguồn thu của chúng ta còn hạn chế, chủ yếu là từ thuế, thiếu hụt ngân sách là tình trạng luôn xảy ra. Trong thời gian qua, nền Tài chính quốc gia đã có phần cải thiện và bắt đầu đi vào ổn định, tỷ lệ lạm phát hạ thấp, giá cả ổn định. Song trong điều kiện bội chi ngân sách vẫn còn, lạm phát luôn là căn bệnh có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào, vì vậy việc huy động vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa sống còn đối với nên Tài chính quốc gia. Khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong nước trước hết nhằm mục đích chi trả cho NSNN một cách kịp thời, đảm bảo sự ổn định trước mắt của nền Tài chính quốc gia, hơn nữa còn góp phần hạn chế việc phát hành tiền chi tiêu cho NSNN vì việc này là một trong những nguyên nhân gây ra sự rối loạn lưu thông tiền tệ, kích thích tốc độ lạm phát tăng nhanh. Vì vậy, huy động vốn nhàn rỗi trong nước vừa có tác dụng bù đắp sự thiếu hụt NSNN, vừa góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Huy động vốn nhàn rỗi trong nước giúp ngân sách giảm dần sự thiếu hụt bằng chính sách tăng trưởng kinh tế là một xu hướng đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Thứ hai: huy động vốn nhàn rỗi trong nước góp phần cho đầu tư phát triển kinh tế.
Trong điều kiện nước ta cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nhất là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn chưa đạt được hiệu quả cao. Vì vậy cần tăng cường huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nước để đầu tư cho các côngtrình trọng điểm – then chốt, các công trình cơ sở hạ tầng huyết mạch của nền kinh tế. Nhờ các khoản đầu tư này của Nhà nước mà bộ mặt nền kinh tế đất nước sẽ thay đổi nhanh chóng, tạo điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp, cá nhân có vốn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật.
Thứ ba: thông qua huy động vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Việc phát triển thị trường vốn có ý nghĩa rất quan trọng, trước hết nó là cơ chế giúp cho việc chuyển các nguồn vốn của các tác nhân kinh tế từ nơi thừa sang nơi thiếu một cách dễ dàng, thuận tiện, thúc đẩy thực hiện chính sách huy động vốn trong và ngoài nước. Ngược lại, huy động vốn cho phát triển kinh tế là điều kiện để thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu tạo vốn hàng hoá cho thị trường vốn, thị trường tài chính. Theo nguyên lý thì hàng hoá chủ yếu trên thị trường chứng khoán phải là cổ phiếu nhưng đối với chúng ta, trái phiếu Chính phủ đặc biệt là trái phiếu kho bạc lại có tầm quan trọng với vị trí ngày càng nổi bật. Từ chỗ chưa cho phép chuyển nhượng, đến nay, trái phiếu Kho bạc đã được đấu thầu ở Ngân hàng Nhà nước và không chỉ trở thành công cụ vay vốn của Nhà nước mà còn là công cụ của chính sách Tài chính – Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, đồng thời là công cụ đầu tiên của nghiệp vụ kinh doanh thị trường mở của Ngân hàng. Đây chính là “hàng hoá” chủ yếu khi thị trường vốn, thị trường chứng khoán hoạt động công khai và mở rộng ở Việt Nam.
Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu chuẩn bị điều kiện, các yếu tố cần thiết cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển, trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp chưa phong phú, vì vậy trước mắt trái phiếu Chính phủ phải đóng vai trò là “hàng hoá” chủ yếu trên thị trường, là những hàng hoá đầu tiên cho thị trường chứng khoán hoạt động ở Việt Nam. Việc đẩy mạnh côngtác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ là hết sức cần thiết. Chúng ta cần tăng cường đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, điều hoà vốn lưu thông tiền tệ và làm cơ sở cho việc phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở KBNN HÀ TÂY
KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TÂY
Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
Tỉnh Hà Tây thuộc vùng châu thổ sông Hồng, có diện tích là 2.148 km2. Phía Đông giáp với tỉnh Hưng Yên và thành phố Hà Nội. Phía Nam giáp với tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp với tỉnh Hoà Bình và phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Địa hình khá đa dạng, vùng đồi núi phía Tây có diện tích 704 km2 và vùng đồng bằng phía Đông có diện tích 1.444 km2, độ cao nghiêng dần theo hướng Đông Bắc - Đông Nam. Do đặc điểm địa hình khác nhau nên hình thành nên các vùng tiểu khí hậu khác nhau và cũng gây ảnh hưởng không ít đến việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Hà Tây là một tỉnh đông dân cư (đứng thứ 5 toàn quốc). Theo số liệu điều tra tháng 4/2001, số dân là 2.886.770 người. Mật độ dân số là 1.111 người/km2. Dân tộc Kinh chiếm khoảng 99% dân số, dân tộc Mường chiếm khoảng 0.8% dân số. Dân tộc Dao chiếm khoảng 0.2% dân số.
Hà Tây có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú được nhiều khách du lịch tìm đến như: Đồng Mô, suối Hai, Suối Tiên, Ao Vua,...đặc biệt là thắng cảnh sông suối, hang động ở chùa Hương Tích đã trở thành điểm du lịch thu hút khách thập phương đến trẩy hội. Nơi đây được coi là “Nam Thiên đệ nhất động”. Hệ thống đình chùa, miếu mạo như: Chùa Thầy ở Quốc Oai là nơi tu hành của cao tăng Từ Đạo Hạnh, Chùa Tây Phương ở Thạch Thất với kiến trúc độc đáo nổi tiếng với Thập bát Vi La Hán đẹp hiếm thấy; tiếp đến là chùa Đậu, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian, thành cổ Sơn Tây,...
Về lĩnh vực kinh tế:
Về tài nguyên đất: Vùng đồng bằng gồm đất phù sa được bồi trên 17.000 ha, đất phù sa không được bồi 5.000 ha, đất phù sa gley 51.500 ha. Vùng đồi núi._. có đất vàng trên phù sa cổ 20.600 ha. Nhìn chung đất Hà Tây có độ phì cao, có nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng, vật nuôi.
Do có vùng đồi gò nên Hà Tây có điều kiện xây dựng các khu công nghiệp tập trung và các cơ sở hạ tầng khác.
Về tài nguyên khoáng sản: Có đá vôi ở Chương Mỹ, Mỹ Đức; đá granit ốp lát ở Chương Mỹ; cao lanh ở Ba Vì, Quốc Oai; đồng, pirit, nước khoáng ở Ba Vì,...
Về tài nguyên rừng: Rừng ở Hà Tây tuy không lớn nhưng rừng tự nhiên, có rất nhiều chủng loại động thực vật phong phú, đa dạng và quý hiếm.
Về con người: Hà Tây có nguồn nhân lực dồi dào, có kỹ thuật, trình độ văn hoá,... Cụ thể: có lực lượng lao động trên 1,5 triệu người.
Về cơ sở hạ tầng: Có mạng lưới giao thông thuỷ bộ phát triển khá mạnh, thuận lợi cho giao lưu trong và ngoài tỉnh.
Trong thời gian qua, nền kinh tế của tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn, có những chuyển biến tiến bộ. Nhịp độ tăng trưởng GDP là 7,46% so với năm 2001, GDP bình quân đầu người là 3 triệu đồng, đạt 102,4% so với mục tiêu. Giá trị ngành nông, lâm nghiệp tăng 4,5% so với năm 2001. Sản lượng cây lương thực quy thóc đạt 1 triệu tấn. Diện tích gieo trồng vụ đông đạt tỉ lệ 60% (trên đất lúa + màu). Giá trị tổng sản lượng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt 104,35% so với kế hoạch, tăng 12% so với năm 2001. Giá trị thương mại tăng 12%; dịch vụ du lịch tăng 17% so với năm 2001. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 50 triệu $, tăng 11% so với năm 2001, trong đó của khu vực Nhà nước đạt 28 triệu $. Tỉ lệ hộ nghèo giảm 1,5% so với năm 2001 và tiếp tục thực hiện chương trình xoá nhà quá dột nát trong năm 2003. Giải quyết thêm 2,5 vạn người lao động có việc làm; 2,1 vạn người lao động được dậy nghề và đi xây dựng nền kinh tế mới. Tổng thu NSNN 487 tỉ đồng; tổng chi NSĐP 548 tỉ đồng trong đó tăng quỹ dự trữ tài chính 10 tỉ đồng.
Kết quả huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển đạt khá, riêng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn ước đạt 358 tỉ đồng. Nguồn vốn huy động trên địa bàn năm 2002 là 862 tỉ đồng, tăng 28% so với năm 2001, trong đó chủ yếu tiền gửi tiết kiệm chiếm 62,87% tổng số vốn huy động; phát hành trái phiếu 27%
Về lĩnh vực văn hoá - xã hội:
Cùng với những kết quả về phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hoá xã hội đã cơ bản ngăn chặn được sự xuống cấp và có những tiến bộ rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước.
Quy mô giáo dục - đào tạo được mở rộng phát triển, chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên, cơ sở vật chất dạy và học được bổ sung thêm. Cụ thể đến hết năm 2002 có 15% số trường tiểu học được công nhận là trường chuẩn quốc gia.
Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Tổ chức các hoạt động sưu tầm, nghiên cứu về văn hoá phi vật thể, về nếp sống văn hoá của đồng bào các dân tộc. Hoạt động thể dục thể thao tiếp tục được mở rộng và mang tính quần chúng rộng rãi. Các chương trình quốc gia về phòng chống các dịch bệnh xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được triển khai tích cực, công tác truyền thông dân số, kế hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh. Cụ thể: năm 2002 giảm tỉ lệ sinh 0,6%, giảm tỉ lệ sinh từ 3 con trở lên, giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, góp phần giảm tỉ lệ phát triển dân số xuống 1,5%. Năm 2002, 65% số hộ được công nhận là gia đình văn hoá; 15% số làng, khu phố đạt tiêu chuẩn làng văn hoá, khu phố văn minh.
Các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo được triển khai đồng bộ và tích cực hơn. Chương trình 120 giải quyết việc làm đã xét duyệt cho vay được 5.225 hộ, tạo việc làm cho gần 2.000 lao động. Ngân hàng phục vụ người nghèo đạt doanh số cho vay cả năm là 12 tỉ đồng với gần 11 nghìn lượt hộ, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 8,5%. Các dự án cơ sở hạ tầng thuộc chương trình 135 của các xã đặc biệt khó khăn được bàn bạc dân chủ, công khai. Phần lớn các dự án đã được khởi công xây dựng bằng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước kết hợp với sức dân. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được tiến hành thường xuyên, liên tục gắn với cuộc vận động toàn dân xây dựng cuộc sống mới, xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá.
Trong năm 2002, bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng bộc lộ một số yếu kém và khuyết điểm, nổi bật là:
Về kinh tế: Tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh còn thấp, còn nhiều yếu tố mất cân đối, chưa ổn định về phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, máy móc, công nghệ và trình độ quản lý còn nhiều tồn tại. Kinh tế ở Hà Tây nông nghiệp vẫn là chủ yếu, nguồn thu cho ngân sách còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, đầu tư cho sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở những vùng núi cao. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, ngân sách địa phương còn mất cân đối giữa thu và chi. Nguồn thu chưa ổn định, chưa tạo được nguồn thu lớn từ sản xuất.
Về xã hội: Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, số lao động chưa có việc làm ở thị xã, thị trấn và nông thôn còn nhiều. Chưa tạo được nhiều cơ sở sản xuất để thu hút lao động. Chất lượng giáo dục đào tạo chưa cao, cơ sở vật chất dạy và học còn thiếu, chất lượng dạy và học còn hạn chế. Đời sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là vùng cao vẫn còn nhiều khó khăn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây.
Năm 1990, cùng với cả nước, KBNN Hà Sơn Bình được thành lập theo quyết định số 07 – HĐBT ban hành ngày 4/01/1990 về việc thành lậphệ thống KBNN. KBNN Hà Tây được chính thức thành lập và đi sâu vào hoạt động từ tháng 08/1991 trên cơ sở tách từ KBNN Hà Sơn Bình với chức năng quản lý quỹ NSNN và cho đầu tư phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi trả của NSNN.
Trong những năm qua, KBNN Hà tây đã huy động được một lượng vốn lớn cho NSNN bằng biện pháp và hình thức khác nhau (huy động qua thuế và phát hành trái phiếu Chính phủ). Tuy nhiên, việc huy động vốn ở KBNN Hà Tây cũng gặp không ít khó khăn. Do vậy, để huy động tối đa, có hiệu quả nhất mọi nguồn vốn cho NSNN qua KBNN Hà Tây đòi hỏi phải xem xét đến những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây, đó là:
Một là: Nhân tố kinh tế: từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, kinh tế tỉnh Hà Tây đã tăng trưởng rõ rệt, nhất là lĩnh vực phát triển du lịch, dịch vụ. Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh vẫn mất cân đối, lạc hậu, nguồn thu từ nội bộ còn thấp, ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn qua KBNN Hà Tây.
Hai là: Nhân tố về thu nhập: thu nhập bình quân đầu người trong tỉnh thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,5%. Tích luỹ trong dân cư chưa lớn, chưa đồng đều mà chỉ tập trung vào một số hộ, một số doanh nghiệp tư nhân. Trình độ dân trí thấp nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ của kho bạc để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa đạt hiệu quả cao.
Ba là: Nhân tố lãi suất: đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc huy động vốn. Người dân mua trái phiếu Chính phủ trước tiên phải xem xét yếu tố lãi suất vì cho Nhà nước vay cũng là đầu tư gián tiếp, mà đầu tư phải sinh lợi, ít nhất là sinh lợi đó phải bằng lợi tức bình quân của các ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn đồng vốn. Song lãi suất Chính phủ chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân có thói quen gửi tiết kiệm vì lãi suất Ngân hàng cao hơn, linh hoạt, dễ rút vốn hơn.
Thực tế ở KBNN Hà Tây có nhiều đợt do lãi suất Ngân hàng cao hơn nên dân đã rút tiền ra chịu không hưởng lãi để quay sang gửi tiết kiệm Ngân hàng. Hiện nay, lãi suất trái phiếu Chính phủ đã phần nào hấp dẫn được dân chúng, do vậy việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Tây đã tăng lên đáng kể.
Bốn là: Nhân tố về lạm phát: do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền vẫn bị mất giá, do vậy rủi ro là không tránh khỏi. Dù lãi suất cao nhưng tiền mất giá thì lãi suất không bù được vốn gốc, người dân mua trái phiếu kho bạc phải chịu lãi suất âm. Đó là lý do khiến người dân không dám mạo hiểm bỏ tiền vào mua trái phiếu Chính phủ. Do đó, lạm phát cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn tại KBNN Hà Tây.
Năm là: Nhân tố thông tin, tuyên truyền: do thông tin tuyên truyền còn hạn chế, chưa tổ chức được mạng lưới tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn tỉnh, chưa có hoạt động Marketing chuyên sâu nên người dân chưa quen với trái phiếu Chính phủ, vì vậy họ chưa yên tâm mua trái phiếu Chính phủ. Tập quán cho Nhà nước vay dài hạn chưa hình thành vững chắc trong dân cư nên họ chưa tin vào tương lai của việc mua trái phiếu.
Sáu là: Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Hày Tây là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, dịch vụ nên việc tổ chức tốt công tác phát hành trái phiếu Chính phủ tại các địa bàn như thế nào cũng là yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn.
Trên đây là sáu nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây. KBNN Hà Tây đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế, khắc phục những nhân tố tiêu cực để huy động tối đa mọi nguồn vốn cho NSNN trong địa bàn tỉnh. Hoàn thành tốt kế hoạch huy động vốn mà KBNN TƯ giao cho, góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và để cho đầu tư phát triển kinh tế.
Vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ:
Để tìm hiểu vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn, trước hết xin sơ qua vài nét về KBNN Hà Tây.
Vài nét về KBNN Hà Tây.
Ra đời năm 1991, về nguyên tắc, KBNN Hà Tây là một tổ chức quản lý quỹ ngân sách của Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng. Về mặt tổ chức và nghiệp vụ tuân thủ theo sự thống nhất trong toàn hệ thống, theo sự chỉ đạo của KBNN TƯ. Hà Tây có 13 huyện trực thuộc chị trách nhiệm quản lý quỹ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh và các quỹ tài chính của Tỉnh.
Trong những năm qua, KBNN Hà Tây đã không ngừng củng cố, ổn định và phát triển về tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ và hoạt động. Trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều đổi mới về cơ chế quản lý, tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp đã trải qua giai đoạn thử nghiệm trong cơ chế thị trường, đã đi sâu vào cơ chế ổn định và phát triển, hiện đang tiến hành cổ phần hoá. KBNN Hà Tây đã góp phần không nhỏ trong quá trình quản lý, xây dựng và phát triển nền kinh tế của tỉnh.
SƠ ĐỒ CỤ THỂ VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA KBNN HÀ TÂY
Phũng Vi tính
Chi nhỏnh KBNN cỏc huyện
Ban Lónh đạo KBNN Hà Tây
Phũng Kế toỏn
Phũng Hành chớnh
Phũng Tổ chức
Phũng Thanh tra
Phũng Kế hoạch
Phũng Đầu tư XDCB
Phũng Kho quỹ
KBNN Hà Tây đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm đối với công việc của mỗi cá nhân, mỗi phòng. Đồng thời giúp cho công tác quản lý quỹ ngân sách được chặt chẽ hơn, chất lượng hơn, công tác kiểm tra giám sát của lãnh đạo cần cụ thể, sâu sát, khách quan hơn. Việc bố trí như vậy còn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ giao dịch.
Với bộ máy gồm 321 cán bộ, trong đó có 175 cán bộ đạt trình độ đại học (chiếm 56%). Qua 12 năm hoạt động đã có những đóng góp tích cực, góp phần ổn định tình hình kinh tế – xã hội, giữ nhịp độ tăng trưởng khá. Những thành tựu mà KBNN Hà Tây đã đạt được là: Các đơn vị trong toàn hệ thống kho bạc của tỉnh đã thực hiện tốt công tác thu NSNN, chi tiền mặt và ngân phiếu thanh toán trên địa bàn, đồng thời thực hiện tốt công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN; làm tốt công tác phát hành trái phiếu kho bạc và công trái xây dựng tổ quốc. Góp phần thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
Tổng số thu NSNN trên địa bàn năm 2002 là 487 tỉ đồng.
Tổng số chi ngân sách trên địa bàn năm 2002 là 548 tỉ đồng.
Công tác huy động vốn: thông qua phát hành trái phiếu, KBNN Hà Tây đã huy động trong năm 2002 là: 156 tỉ đồng.
KBNN Hà Tây trong những năm qua luôn đạt thành tích cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, liên tục được các cấp khen thưởng như: Chính phủ, Bộ Tài chính, KBNN TƯ, UBND tỉnh, Bộ Văn hoá Thông tin, Chủ tịch nước.
Vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ
Cũng như các kho bạc khác, KBNN Hà Tây có chức năng quản lý quỹ NSNN, tập trung các nguồn thu, cấp phát, chi trả các khoản chi NSNN. Bên cạnh đó, KBNN Hà Tây còn có vai trò quan trọng trong công tác huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN và để đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở những điểm sau:
KBNN Hà Tây nghiên cứu và áp dụng chính sách vay dân có hiệu quả thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu Chính phủ, các chứng chỉ vay nợ khác của Chính phủ mà KBNN TƯ giao cho.
KBNN Hà Tây tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, tập trung vốn cho NSNN, đồng thời thanh toán trả nợ gốc và lãi đến hạn.
Tổ chức quản lý và bảo quản trái phiếu Chính phủ mà KBNN Hà Tây phát hành trên địa bàn
Công tác huy động vốn ở KBNN Hà Tây gắn liền với việc thực hiện chính sách Tài chính – Tiền tệ, tổ chức điều hoà tiền mặt, kiểm soát các hoạt động mua bán tín phiếu và trái phiếu KBNN để góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ.
Tổ chức hạch toán kế toán các khoản vay nợ, trả nợ ở trong tỉnh theo từng kỳ hạn nợ, từng loại tín phiếu – trái phiếu của từng đối tượng huy động. Phân tích tác động ảnh hưởng của việc huy động vốn trong tỉnh đối với cân đối NSNN và điều hoà lưu thông tiền tệ
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với cả nước, nền kinh tế Hà Tây đã chuyển biến rõ rệt, nhất là trong lĩnh vực Tài chính. Do vậy, vai trò của KBNN Hà Tây trong công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ngày càng nổi bật. KBNN Hà Tây trong những năm qua đã huy động được một lượng vốn lớn để bù đắp thiếu hụt ngân sách và cho đầu tư phát triển kinh tế. KBNN Hà Tây đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong huy động vốn, hoàn thành nhiệm vụ mà KBNN TƯ giao cho.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ CỦA KBNN HÀ TÂY
Cơ chế phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ.
Ngày 26/7/1994, Chính phủ ban hành nghị định số 72/CP về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Trong nghị định này nêu rõ: trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài Chính phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi
Trái phiếu Chính phủ bao gồm: tín phiếu, trái phiếu, công trái xây dựng tổ quốc, các loại ký danh và vô danh được phát hành dưới các hình thức sau:
+ Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu ngắn hạn (dưới một năm)
+ Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên
+ Trái phiếu công trình là loại trái phiếu có thời từ một năm trở lên, vay vốn cho từng công trình cụ thể, theo kế hoạch đầu tư của Nhà nước,
Các hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ bao gồm:
Tín phiếu ngắn hạn: là loại tín phiếu có thời hạn ba tháng, sáu tháng, được phát hành thường xuyên từng đợt để tạo ra nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi phục vụ cho chi NSNN.
Tín phiếu kho bạc phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ: là loại tín phiếu kho bạc được ghi thu, ghi chi trực tiếp bằng ngoại tệ với thời hạn 1 năm, 2 năm và trả lãi hàng năm.
Trái phiếu KBNN trung hạn: là loại trái phiếu kho bạc có thời hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm, huy động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt NSNN và cho đầu tư phát triển kinh tế trong kế hoạch NSNN được duyệt.
Trong những năm qua, công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ của hệ thống KBNN đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần giải quyết thiếu hụt tạm thời NSNN, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ, bình ổn giá cả, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trái phiếu Chính phủ được phát hành dưới dạng chứng chỉ trái phiếu ghi sổ. Trái phiếu Chính phủ có nhiều mệnh giá khác nhau tuỳ theo từng đợt phát hành, được in sẵn trên chứng chỉ trái phiếu (hoặc giấy chứng nhận sở hữu trái phiếu) theo nhu cầu của người mua trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ được thu và thanh toán bằng VNĐ, trường hợp mua bằng vàng, ngoại tệ chuyển đổi sẽ được cơ quan phát hành trái phiếu thu vàng và ngoại tệ, đồng thời thực hiện chuyển đổi ra VNĐ để ghi thu và thanh toán.
Đối với lãi suất trái phiếu Chính phủ: lãi suất do Bộ Tài chính công bố theo từng đợt phát hành (sau khi đã thoả thuận với NHNN Việt Nam), đảm bảo cho người mua trái phiếu được hưởng lãi suất thực cộng (+) với chỉ số trượt giá. Căn cứ để xác định lãi suất trái phiếu là:
Tỉ lệ lạm phát và biến động giá cả theo từng thời kỳ.
Thời hạn của trái phiếu: lãi suất trái phiếu có thời hạn dài được quy định cao hơn lãi suất trái phiếu có thời hạn ngắn.
Nhu cầu huy động vốn và khả năng huy động trái phiếu.
Phương thức xác định lãi suất trái phiếu là:
Lãi suất cố định áp dụng cho cả thời kỳ phát hành, tuỳ theo biến động của thị trường và mức lạm phát dự tính bình quân, nhu cầu vốn cần huy động từng năm để xác định và công bố lãi suất.
Lãi suất chỉ đạo để tổ chức đấu giá và chọn lãi suất phát hành.
Đối tượng mua trái phiếu bao gồm:
Người Việt Nam ở trong nước, kiều bào ở nước ngoài, người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi lĩnh vực và thành phần kinh tế, kể cả các Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng, Công ty Tài chính, Công ty Bảo hiểm,...
Các hội, các đoàn thể quần chúng được dùng các loại quỹ hợp pháp của mình để mua trái phiếu Chính phủ...
Người mua trái phiếu Chính phủ được quyền lựa chọn các loại trái phiếu thích hợp với số lượng không hạn chế. Trái phiếu Chính phủ được tự do mua bán, chuyển nhượng, thừa kế, được dùng làm tài sản cầm cố, thế chấp trong các quan hệ tín dụng, nhưng không được dùng để thay thế tiền trong lưu thông và nộp thuế cho Nhà nước.
Cụ thể cơ chế phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ như sau:
Tín phiếu do KBNN phát hành:
Đối tượng mua tín phiếu kho bạc là tất cả các tầng lớp dân cư và là người Việt Nam theo nguyên tắc tự nguyện
Tín phiếu kho bạc phát hành và thanh toán bằng VNĐ
Thời hạn của tín phiếu là 3 tháng, 6 tháng.
Lãi suất của tín phiếu được quy định cho từng đợt, phù hợp với thị trường, với nhu cầu chi tiêu của NSNN và lãi suất tiết kiệm.
Tờ tín phiếu không ghi sẵn mệnh giá, mức mua tối thiểu là: 20.000 VNĐ, không hạn chế mức mua tối đa.
Tín phiếu kho bạc ghi tên và địa chỉ người mua, mua ở đâu thì thanh toán ở đó.
Tín phiếu kho bạc được thanh toán một lần cả gốc lẫn lãi khi đến hạn và theo lãi suất quy định, không tính lãi nhập gốc hàng tháng.
Đấu thầu tín phiếu kho bạc:
+ Đấu thầu tín phiếu kho bạc là hình thức phát hành tín phiếu kho bạc theo phương thức bán buôn thông qua đấu thầu giữa các thành viên trên thị trường sơ cấp phát hành tín phiếu kho bạc, nhằm huy động vốn trong các Ngân hàng, các tổ chức kinh tế cho NSNN và đầu tư phát triển kinh tế.
+ Tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN có đặc điểm thu tiền, thanh toán và hạch toán bằng VNĐ. Mệnh giá tối thiểu là 1 triệu đồng, thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng.
Việc đấu thầu ở đây là lãi suất, lãi suất được hình thành trên cơ sở kết quả đấu thầu, tại đó cân bằng giữa khả năng cung cầu về tín phiếu.
Đối tượng đấu thầu gồm: các NHTM, chi nhánh NHNN.
+ Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu là: bí mật tuyệt đối mọi hoạt động đặt thầu của các thành viên và sự chỉ đạo đấu thầu của liên Bộ Tài chính – NHNN. Các thông tin cần thiết về tổ chức phải được công khai, các thành viên thị trường có quyền bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ khi tham gia đấu thầu.
Theo quy định, các thành viên có trách nhiệm thanh toán khối lượng tín phiếu trúng thầu kể từ sau khi có thông báo kết quả đấu thầu cho đến ngày phát hành tín phiếu.
Đối với trái phiếu kho bạc.
Ngày 25/08/1994, bộ trưởng Bộ Tài chính ra quyết định số 433 TC – KBNN về việc phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 năm, trả lãi hàng năm với các đối tượng gồm người Việt Nam ở trong nước, kiều bào ở nước ngoài, người nước ngoài đang làm việc và sinh sống ở Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước ở Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Chính phủ Việt Nam cho phép kinh doanh mua bán trái phiếu. Các loại trái phiếu này có mệnh giá khác nhau, có danh hoặc không ghi danh. Lãi suất trái phiếu được công bố theo từng đợt phát hành, tiền lãi được thanh toán 6 tháng một lần theo mức lãi được thanh toán trong thời hạn thanh toán lãi. Đồng thời KBNN phát hành loại trái phiếu 12 tháng trả lãi trước, lãi suất 21%/năm.
Quyết định số 122/TC – QĐ - KBNN ngày 01/02/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, KBNN đã tổ chức phát hành loại trái phiếu này.
+ Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 14%/năm, có ghi tên và địa chỉ người mua.
+ Trái phiếu kho bạc chỉ được ghi thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam, mức tối thiểu của tờ trái phiếu là 100.000 đồng, không hạn chế mức tối đa.
+ Trái phiếu phát hành đợt này không tính lãi nhập gốc, tiền gốc và lãi trái phiếu được thanh toán 1 lần khi đến hạn (đủ 24 tháng) tại KBNN nơi phát hành.
Trong trường hợp người sở hữu trái phiếu có nhu cầu thanh toán trước hạn nếu thời gian mua trái phiếu đủ 12 tháng đến dưới 24 tháng thì được hưởng lãi của 1 năm với lãi suất 13% năm.
Đối tượng mua trái phiếu bao gồm: Các cơ quan, đoàn thể, hội quần chúng của Việt Nam, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam. Ngày 5/02/1999, Bộ Tài chính ra quyết định số 17/1999/QĐ - BTC về việc phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm lãi suất 13%/năm với các đối tượng mua trái phiếu như đợt phát hành năm 1997. Nhưng các tổ chức, các đơn vị, các Hội tuyệt đối không được sử dụng vốn, kinh phí được NSNN cấp, hoặc có nguồn gốc từ NSNN cấp để mua trái phiếu kho bạc. Các loại trái phiếu này có mệnh giá in sẵn thấp nhất là 100.000 đồng, mệnh giá cao nhất là 100 triệu đồng.
Ngày 25/02/2000, Bộ Tài chính ra quyết định số 28/2000/QĐ-BTC của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm lãi suất 7%/năm, đối tượng mua là người Việt Nam ở trong và ngoài nước, người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam.
Ngày 27/9/2002, Bộ Tài chính ra quyết định số 83/2002/QĐ-BTC của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm lãi suất 7,4%/năm.
Kết quả phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ qua Kho bạc Nhà nước Hà Tây năm 1996:
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm:
Từ tháng 9/1996, KBNN Hà Tây đã tổ chức phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12%/năm với kết quả:
Tổng số vốn huy động được từ đợt phát hành này là 44.358 triệu đồng, trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh huy động được 35.552 triệu đồng.
+ Kho bạc Nhà nước các huyện huy động được 5.806 triệu đồng.
Đồng thời KBNN Hà Tây thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12% như sau:
Tổng số tiền thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm lãi suất 12%/năm là 4.120 triệu đồng. Trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 4.014 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 106 triệu đồng.
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm
Trong năm 1996, KBNN Hà Tây không phát hành trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn 1 năm mà thanh toán gốc, lãi trái phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm , lãi suất 21%/năm đến hạn, kết quả như sau:
Tổng số tiền thanh toán gốc trái phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm lãi suất 21%/năm đến hạn là 35.962 triệu đồng. Trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 30.044 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 5.918 triệu đồng.
Cụ thể: đối với trái phiếu kho bạc vô danh, với mệnh giá là: 500.000đ đến 10.000.000đ, KBNN Hà Tây đã tiến hành thanh toán gốc với số tiền là 41.566 triệu đồng. Đối với trái phiếu kho bạc loại ghi danh KBNN tỉnh Hà Tây đã tiến hành thanh toán gốc với số tiền là 526 triệu đồng.
Tổng số tiền thanh toán lãi trái phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm , lãi suất 21%/năm là 7.551 triệu đồng, trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 6.309 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 1.242 triệu đồng.
Đối với trái phiếu kho bạc loại vô danh, KBNN Hà Tây đã thanh toán lãi với số tiền 11.724 triệu đồng.
Đối với trái phiếu kho bạc ghi danh, văn phòng KBNN tỉnh đã thanh toán với số tiền là 83 triệu đồng.
Tổng hợp kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây năm 1996 như sau:
Đơn vị tính: triệu đồng
Loại
kỳ
hạn
Phát hành
Thanh toán
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
tỉnh
KBNN
các
huyện
Gốc
Lãi
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
1 năm
41.358
35.962
30.044
5.918
7.551
6.309
1.242
2 năm
35.552
5.806
4.120
4.014
106
Tổng
41.358
35.552
5.806
40.082
34.058
6.024
7.551
6.309
1.242
Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước tỉnh Hà Tây
Qua bảng tổng hợp kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây nă 1996, ta thấy: Trong năm 1996, KBNN Hà Tây đã huy động được 41.358 triệu đồng. Đây là con số đáng mừng bởi vì KBNN Hà Tây chỉ phát hành riêng loại trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm , lãi suất 12%/năm.
Chỉ trong vòng 4 tháng (từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1996), văn phòng KBNN Hà Tây đã huy động đựơc 35.552 triệu đồng, là con số rất đáng phấn khởi, trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12%/năm đã hấp dẫn dân chúng, người dân đã quen dần với trái phiếu chính phủ, đã bắt đầu tin tưởng vào trái phiếu Chính phủ.
Tuy nhiên, KBNN các huyện mới chỉ huy động được 5.806 triệu đồng, đây là con số hạn chế do nhân dân ở các huyện, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, ít hiểu biết về trái phiếu Chính phủ, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, do vậy, KBNN các huyện cần cố gắng hơn nữa trong công tác huy động vốn cho NSNN.
Kết quả phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ qua KBNN Hà Tây năm 1997:
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm:
Từ tháng 2/1997, KBNN Hà Tây đã tổ chức phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm với kết quả:
Tổng số vốn huy động được từ đợt phát hành này là 60.708 triệu đồng, trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh huy động được 50.558 triệu đồng
+ KBNN các huyện huy động được 10.150 triệu đồng.
Đồng thời, KBNN Hà Tây thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm như sau:
Tổng số tiền thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm lãi suất 12%/năm là 4.012 triệu đồng. Trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 2.964 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 1.048 triệu đồng.
Toàn bộ số tiền thanh toán trái phiếu trước hạn này đề được hưởng lãi (đã mua trên 12 tháng). Trong năm 1997, tình trạng thanh toán trước hạn chịu không hưởng lãi để chuyển sang gửi tiết kiệm Ngân hàng không còn. Nguyên nhân là lãi suất trái phiều kho bạc cao hơn lãi suất tiết kiệm ngân hàng, mặc dù tỉ lệ chênh lệch này là không đáng kể (từ 0,3 – 0,5%/năm).
Tổng hợp kết quả phát hành và thanhtoán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây năm 1997 như sau:
Đơn vị tính: triệu đồng
Loại
kỳ
hạn
Phát hành
Thanh toán
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
tỉnh
KBNN
các
huyện
Gốc
Lãi
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
2 năm
60.708
50.558
10.150
4.012
2.964
1.048
690
589
101
Tổng
60.708
50.558
10.150
4.012
2.964
1.048
690
589
101
Qua bảng tổng hợp kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây năm 1997, ta thấy:
Tổng số huy động vốn được trong năm 1997 tăng so với năm 1996 là 19.350 triệu đồng, bằng 1,46 lần năm 1996.
Trong năm 1997, văn phòng KBNN Hà Tây đã huy động được 60.708 triệu đồng, là con số rất đáng phấn khởi, trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm trong thời kỳ giá cả thị trường đã tương đối ổn định đã thực sự hấp dẫn người dân bởi vì cao hơn lãi suất ngân hàng.
Tuy nhiên, phát hành trái phiếu Chính phủ vẫn chủ yếu ở văn phòng KBNN tỉnh. Ở KBNN các huyện tuy đã cố gắng hơn năm 1996 nhưng vì còn rất nhiều hộ đói nghèo. KBNN các huyện đã cố gắng hơn trong công tác huy động vốn cho NSNN, nhưng để đạt được một kết quả khả quan cũng không phải một sớm một chiều mà là một chiến lược lâu dài.
Kết quả phát hành, thanh toán trái phiếu chính phủ qua KBNN Hà Tây năm 1998:
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm:
Từ tháng 3/1998 đến tháng 12/1998, KBNN Hà Tây đã tổ chức phát hành trái phiếu kỳ kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 14%/năm, với kết quả là:
Tổng số vốn huy động được từ đợt phát hành này là 70.100 triệu đồng, trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh huy động được 61.900 triệu đồng
+ KBNN các huyện huy động được 8.200 triệu đồng.
Tổng số thanh toán trong năm 1998 là 42.300 triệu đồng
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 29.000 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 13.300 triệu đồng.
Đồng thời, KBNN Hà Tây thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 14%/năm như sau:
Tổng số tiền thanh toán trước hạn đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 14%/năm là 14.254 triệu đồng. Toàn bộ số thanh toán trước hạn đó là số được hưởng lãi (rút trước hạn 12 tháng). Trong đó:
+ Văn phòng KBNN tỉnh thanh toán 11.675 triệu đồng
+ KBNN các huyện thanh toán 2.579 triệu đồng.
Tổng hợp kết quả phát hành và thanhtoán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây năm 1998 như sau:
Đơn vị tính: triệu đồng
T.phiếu
loại kỳ
hạn 2
năm ghi
danh
Phát hành
Thanh toán
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
tỉnh
KBNN
các
huyện
Gốc
Lãi
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
Tổng
số
Văn
phòng
KBNN
KBNN
các
huyện
Không có mệnh giá
29.000
25.056
3.944
8.291
7.430
788
Có m.giá
70.100
61.900
8.200
13.300
11200
2.100
1.523
1.236
360
Tổng
70.100
61.900
8.200
42.300
36.256
6.044
9.814
8.666
1.148
Qua bảng tổng hợp kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu kho bạc ở KBNN Hà Tây năm 1998, ta thấy: Năm 1998, tổng số huy động vốn đượclà cao nhất từ trước tới nay (năm 1992 huy động được 5.640 triệu đồng, năm 1995 huy động được 55.641 triệu đồng, năm 1997 huy động được 60.708 triệu đồng, năm 1998 huy động được 70.100 triệu đồng) tăng so với năm 1997 là 9.392 triệu đồng và bằng 115% so với năm 1997; tăng so với năm 1996 là 28.742 triệu đồng, bằng 164% năm 1996. Do KBNN Hà Tây tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân mua trái phiếu kho bạc, mặt khác, lãi suất 14%/năm đã hấp dẫn người mua, vì vậy lượng vốn mà KBNN Hà Tây huy động được trong năm 1998 là._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3702.doc