Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái

Mở Đầu Sau hơn 15 năm đổi mới, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, thể hiện tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng lên , còn tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, nhưng về cơ bản chúng ta vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, với đa số dân cư sống tại khu vực nông thôn, thu nhập chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách ưu tiên cho phát triển nông nghiệp, thông qua các nghị quyết của các kỳ họp Quố

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hội, các chính sách nông nghiệp... Đặc biệt là các chính sách cho phát triển nông nghiệp miền núi. Yên Bái là một tỉnh miền núi còn nghèo, người dân thuần nông chiếm dân số phần lớn, kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, đời sống đại bộ phận người dân còn thu nhập thấp. Nền nông nghiệp Yên Bái còn đang trong tình trạng kém phát triển, do chưa đủ vốn cung ứng phục vụ cho nhu cầu sản xuất, từ khâu nuôi, trồng và đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch. Ngân hàng NNo&PTNT Yên Bái đang là một trong những NH thực hiện tốt chức năng rót vốn vào nông nghiệp nông thôn, thực hiện mục tiêu huy đông vốn nhàn rỗi để cho vay, bổ sung vào phần vốn thiếu hụt đáp ứng ngay nhu cầu thiếu vốn của bà con nông dân, đảm bảo điều kiện kinh doanh thuận lợi. Trong quá trình thực tập tại NHNNo & PTNT Yên Bái em đã quyết định chọn đề tài : "Một số giải pháp huy động và cho vay tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái" Phương pháp luận: Kết hợp tính toán lô gíc cũng như các con số thể hiện nội dung từng phần, làm nổi bật nội dung của bài viết . Nội dung của luận văn gồm có: Chương I: Lý luận đầu tư và vai trò của hoạt động ngân hàng trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Chương II: Thực trạng huy động và cho vay tín dụng tại ngân hàng NNo&PTNT nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái. Chương III: Giải pháp huy động và cho vay tíndụng ngân hàng nhằm dầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Yên Bái. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Mai Hoa, cùng tập thể cán bộ Ngân hàng NNo&PTNT Tỉnh Yên bái đã giúp em thực hiện tốt luận văn tốt nghiệp. Chương I Lý luận về đầu tư và vai trò của hoạt động ngân hàng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn I.1-lý luận chung về đầu tư. I.1.1-Khái niệm đầu tư: Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đâù tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để dạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó là tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường xá….), tài sản trí tuệ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đạt được trên đây, những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, và nguồn nhân lực tăng lên có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối đối với người bỏ vốn mà đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội, những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay phạm trù đầu tư phát triển. Định nghĩa về đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,thực hiện chi phí thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực cho mỗi nền kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. I.1.2 Phân loại hoạt động đầu tư theo bản chất: *> Đầu tư tài chính : ( đầu tư tài sản tài chính ) là loại đầu tư trong đó người đầu tư có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế ( nếu không xét đến quan hệ taì chính trong lĩnh vực này) mà chỉ làm gia tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân đầu tư ( đánh bạc nhằm mục đính thu lời cũng là một loại hình đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển. *>Đầu tư thương mại: là loại đàu tư trong đó người có tiền bỏ tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán hàng với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch giá khi mua và giá khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế( nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữa hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông cuả cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng tích lũ vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.( chúng ta lưu ý đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho công việc quản lý lưu thông hàng hóa, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi cho tiêu dùng). *> Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, năng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực tại các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển. I.1.3- Đặc điểm đầu tư phát triển: Hoạt động đầu tư phát triển có những có các đặc điểm khác biệt với các loại đầu tư khác thể hiện là: _ Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. _ Thời gian để tiến hành công cuộc đầu tư cho đến khi cá thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng voí nhiều biến động xảy ra. _ Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn bỏ ra, đối voí cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị…. _ Các thành quả của đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm. Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển . _ Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó tạo dựng lên. Tạo điều kiện cho lao động địa phương có công ăn việc làm tăng thu nhập. I.1.4- Vai trò của đầu tư phát triển: Lý thuyết của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết của nền kinh tế thị trường, đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nó thể hiện ở những mặt sau: Trên giác độ nền kinh tế: - Đầu tư vừa có tác động tổng cung và vừa có tác động tổng cầu, đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu nền kinh tế.Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tác động tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng lên. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên. - Đầu tư có tác động hai mặt đến là sự ổn định kinh tế: sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của tổng cung và tổng cầù, làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù tăng hay giảm cung một lúc là yếu tố duy trì sự ổn định và cũng là yếu tố phá vỡ sự ổn định nền kinh tế của một quốc gia.Chẳng hạn khi đầu tư tăng lên làm cho cầu tăng lên, khi cung chưa kip tăng thì giá cả tăng lên dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp khó khăn... Mặt khác tăng đầu tư, làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng lên, sản xuất làm cho các ngành khác phát triển,thu hút thêm lao động làm cho đời sống của người lao động được nâng lên. Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai chiều hướng trên. Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế thế giới cho thấy rằng,muốn giữ được tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ đầu tư đạt từ 15%-25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. ICOR = Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP. Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. - Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Con đường tất yếu có thể tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế thỉ đầu tư vào ngành công nghiệp và ngành dịch vụ, nhưng đó là với các nước phát triển còn những nước đang phát triển thì phải đầu tư ngay vào ngành mình đang có lợi thế so sánh, đó chính là ngành nông nghiệp trên cơ sở phát triển ngành nô ng nghiệp làm “đòn bẩy” cho ngành công nghiệp và dịch vụ cùng phát triển. Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối đang tồn tại về phát triển giữa các vùng các lãnh thổ, đưa các vùng kém thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tôí đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế.. - Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ. Hai con đường đưa công nghệ vào sản xuất là nghiên cứu phát minh và mua công nghệ từ nước ngoài về. Dù tự nghiện cứu hay mua công nghệ từ nước ngoài đều cần phải có vốn đầu tư. *> Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: - Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chât – kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào, đều phải tiến hành xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đạt các trang thiết bị ..... và thực hiện các chi phí khác trong sự hoạt động của các chu kỳ vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. I.2 - Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn. I.2.1 - Khái niệm nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia- cả những nước phát triển và những nước đang phát triển. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho cuộc sống con người; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu để thu ngoại tệ. Theo nghĩa hẹp thông thường thì nông nghiệp được hiểu chỉ có 2 ngành là trồng trọt và chăn nuôi. Theo nghĩa rộng nông nghiệp còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. Nông thôn trước hết người ta hiểu đó là một vùng, khu vực có phạm vi không gian cụ thể nhất định, mà bao trùm ở đó là cuộc sống cộng đồng nông dân với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Thường người ta hay so sánh nông thôn với đô thị trên một số tiêu chí về số lượng dân cư, mật độ dân số, trình độ dân trí thực trạng cơ sở hạ tầng và cả thu nhập bình quân một người trong một năm. Nhưng rõ ràng các tiêu chí trên thì chưa hoàn toàn chính xác, bởi có sự khác nhau ở từng quốc gia. Như vậy với một vài tiêu chí đơn lẻ chưa thể nói hết được một cách đầy đủ về nông thôn khi mà ở nó có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nhau và từ đó ta có thể khái niệm về nông thôn như sau: Nông thôn là một vùng, một khu vực trong đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân mà cuộc sống của họ gắn bó với nông nghiệp. Là nơi có mật độ dân số, trình độ dân số, cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất hàng hoá và tiếp cận thị trường thường thấp hơn so với đô thị. Quốc gia nào cũng có nông thôn và thành thị, vì thế trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước bao giờ cũng hình thành nên hai khu vực kinh tế là khu vực kinh tế nông thôn, và khu vực kinh tế thành thị, nó bổ xung và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Trước kia ta thường hiểu kinh tế nông thôn chỉ đơn thuần là hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý ngày một cao thì kinh tế nông thôn không phải chỉ có vậy mà nó còn được phát triển cả về công nghiệp và dịch vụ. Như vậy khái niệm kinh tế nông thôn là sự biểu đạt một cách tổng thể nhất các hoạt động kinh tế - xã hội được diễn ra ở cả nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. I.2.2 - Những đặc trưng cơ bản của nông nghiệp, nông thôn. *>Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống sinh vật (cây trồng, vật nuôi) chúng sinh trưởng và phát dục theo những quy luật riêng. Con người muốn có kết quả về sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và nhận thức được các quy luật sinh vật để vận dụng thích hợp vào sản xuất. Sản xuất nông nghiệp không giống công nghiệp. Nó luôn chứa đựng mâu thuẫn khách quan giữa tồn tại kinh tế hộ mang tính độc lập tương đối với việc nâng cao sản xuất nông nghiệp trên cơ sở của quá trình tích tụ, tập trung và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp. *>Hoạt động sản xuất nông nghiệp là sự đan kết của hai quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật và tái sản xuất kinh tế với sự tham gia trực tiếp của con người. Quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật là liên tục, hoàn chỉnh, không thể chia cắt về không gian, thời gian theo yêu cầu sinh học của từng cây con. Như vậy sản xuất nông nghiệp cần phải có một chủ thể cụ thể thường xuyên chăm sóc cây trồng vật nuôi, thực sự làm chủ đối với quá trình sản xuất. Quan hệ của họ với tư liệu sản xuất trong nông nghiệp phải là quan hệ gắn bó trực tiếp, họ phải là người chủ của chúng. *>Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản hàng đầu và đặc biệt, không thể thay thế được trong nông nghiệp, nếu thiếu ruộng đất thì hoạt động sản xuất nông nghiệp không diễn ra. *>Hoạt động sản xuất nông nghiệp có sự không trùng khớp hoàn toàn giữa thời gian sản xuất và thời gian lao động, vì vậy nó có tính thời vụ rõ rệt không thể xoá bỏ được. Tính thời vụ được biểu hiện: Trong thời vụ sản xuất thì sức lao động, tư liệu sản xuất được sử dụng không đồng đều (lúc cần nhiều, lúc cần ít) sự không ăn khớp giữa chi phí sản xuất ở mỗi khâu và thu nhập ở từng khâu ấy luôn phải gắn với sản phẩm cuối cùng. *> Hoạt động sản xuất nông nghiệp gắn liền với môi trường, có tác động tới môi trường trong sạch. Do đặc tính sinh học, do tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp thì muốn nâng có hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần phải thực hiện chuyên môn hoá đi đôi với phát triển tổng hợp, phải có sự thống nhất giữa đơn vị sản xuất và đơn vị phân phối. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại trở thành những hình thức tổ chức sản xuất thích hợp thoả mãn yêu cầu đó. I.2.3 - Vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân: Từ khi con người ra đời tồn tại và phát triển, loài người luôn gắn liền với những hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Con người trước khi hình thành các hoạt động đó đều phải có sự tiêu tốn một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Điều đó đòi hỏi người ta phải sản xuất, trong đó sản xuất nông nghiệp là hết sức cần thiết và quan trọng. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, với hơn 80% dân số là nông dân, giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị của ngành sản xuất vật chất ... càng làm nổi bật lên vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó là đặc biệt quan trọng, nó thể hiện: Một là: Nông nghiệp, nông thôn là nơi tập trung các ngành kinh tế lớn Nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến là các ngành sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, nông thôn, chiếm tỷ trọng trên 27 % trong cơ cấu kinh tế và giữ một vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kể từ năm 1997 về trước, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân và hiện nay tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu trong cả nước và là nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Từ nông nghiệp, nhà nước luôn có nguồn thu ổn định trực tiếp thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp, tuy không lớn nhưng nó mang lại ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trong bước đường đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Không những thế, nông thôn ngày nay đang được chú trọng đặt các cơ sở sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến nông lâm sản. Ngoài lợi ích kinh tế, nó còn góp phần làm trong sạch hơn môi trường trong các đô thị. Hai là: Nông nghiệp, nông thôn là cơ sở, điều kiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Với một lượng dân sinh sống ở vùng nông thôn đông như nước ta hiện nay, điều đó đã làm cho nông nghiệp, nông thôn trở thành một thị trường rộng lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có thể thấy được rằng: Sức mua của người nông dân, nhu cầu tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến quy mô và tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tốc độ đó chỉ nhanh và mạnh, quy mô chỉ lớn khi mà sức mua của xã hội tăng lên, trong đó sức mua của người nông dân chiếm giữ một tỷ trọng lớn do thu nhập và đời sống của họ tăng lên.Và ở nông thôn nước ta hiện nay cùng hoạt động với các làng nghề thủ công truyền thống, là các làng nghề chuyên sản xuất các các loại máy móc cơ khí loại nhỏ, để phục vụ cho nông nghiệp như: máy tuốt lúa, máy đập ... Ba là: Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế rộng lớn, ( do nước ta là nước có dân số trẻ), sẽ là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu của đất nước - Công cuộc tái thiết và phát triển kinh tế nước nhà đòi hỏi trước hết ở việc phát triển nông nghiệp, nông thôn sự chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế để từ đó giải phóng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào này. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn trong chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Bốn là: Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho cuộc sống con người và nguyên liệu cho công nghiệp. Cái tất yếu ngàn đời để bảo tồn và phát triển sự sống con người đó là lương thực, thực phẩm và rõ ràng nơi cội gốc sản sinh ra lương thực, thực phẩm chính là nông nghiệp.Nếu thiếu lương thực con người không tồn tại Công nghiệp phát triển và nhất là công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp ngày càng phát triển thì nông nghiệp, nông thôn là nơi chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho quá trình phát triển công nghiệp đó. Vì thế quy mô và tốc độ phát triển nông nghiệp, nông thôn có tính quyết định đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến. Năm là: Nông nghiệp, nông thôn góp phần bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp và vùng nông thôn chiếm hầu hết diện tích bề mặt của đất nước. Việc phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ có vị trí quan trọng trong duy trì, phát triển và bảo vệ môi trường thiên nhiên trong sạch, bảo đảm hệ cân bằng sinh thái. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa quanh năm, điều đó có ảnh hưởng thuận lợi đến sự phát triển toàn diện và đa dạng nền nông nghiệp. Vấn đề đặt ra trong việc phát triển đó là phải xây dựng một cơ cấu cây trồng hợp lý vừa có hiệu quả kinh tế vừa tránh được sự huỷ hoại môi trường, môi sinh. Sáu là: Phát triển nông nghiệp là góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ mạnh để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến nhằm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là một nước nông nghiệp lại có điểm xuất phát thấp, cho nên vấn đề phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó không những tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao để tăng thu nhập ngoại tệ mạnh tạo nguồn ngoại tệ đổi lấy những máy móc thiết bị và kỹ thuật công nghệ mới từ nước ngoài mà còn tạo ra những tiền đồ bên trong để phát triển công nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn, làm thay đổi phương thức canh tác của người nông dân, nâng cao dân trí và nâng cao tay nghề cho lao động nông nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua các năm 1995 đến 1998 là 5.449 triệu USD, 7256 triệu USD, 9.185 triệu USD và 9.360 triệu USD, trong đó giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản và tỷ trọng là năm 1995, 2.550 triệu USD, bằng 46,3%; Năm 1996 là 3.069 triệu USD bằng 42,3%; năm 1997 là 3.239 triệu USD bằng 35,3%; Năm 1998 là 3.324 triệu USD bằng 35,5%. I.2.4- Những nhân tố tác động đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn: Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp. Có thể phân chia thành các nhóm nhân tố cơ bản sau: - Nhân tố vốn: Cũng như mọi ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất nông nghiệp muốn hoạt động và phát triển được thì phải có vốn. Vốn tham gia vào tất cả các khâu trong quá trình sản xuất. Sản xuất muốn tiến triển đều và thuận lợi thì sự đáp ứng vốn đủ và kịp thời là có tính quyết định. Hiện nay nền sản xuất nông nghiệp nước ta đang còn ở trình độ thấp, lạc hậu, lao động thủ công còn phổ biến, cơ sở hạ tầng nông thôn còn thấp kém ... vì thế, vốn chính là nhân tố quan trọng hàng đầu rất cần thiết. Tín dụng ngân hàng đã đang và sẽ là nguồn cung ứng vốn cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Điều kiện tự nhiên: Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống, nó tồn tại và phát triển theo quy luật tự nhiên gắn liền với điều kiện tự nhiên. Chính vì thế mà điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết có ý nghĩa rất to lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Nếu điều kiện thuận lợi thì giảm được phí cho những yếu tố đầu vào mà vẫn tạo ra được sản phẩm có độ rủi ro thấp, nếu không thuận lợi thất bát như mất mùa, thiên tai dẫn đến sản lượng giảm và phí tăng làm cho chi phí tăng lên; Chi phí ít để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh. - Các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp: Nhóm nhân tố này có liên quan đến khả năng quản lý phát triển sản xuất, và phát huy được nguồn nội lực sẵn có. Thấy rõ được rằng hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có tác động rất lớn đến phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách phát triển kinh tế nông thôn, chính sách khuyến khích xuất khẩu và đầu tư, chính sách ruộng đất, chính sách trợ giá đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, chính sách bảo hộ cho sản phẩm nông nghiệp, chính sách phân vùng kinh tế, hình thành những vùng chuyên môn hoá có quy mô ngày càng lớn. - Khoa học- kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật luôn là những nhân tố có tác dụng lớn đến việc tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực lai tạo giống, sản xuất phân bón, thức ăn, công nghệ sản xuất chế biến, chất lượng hạ tầng cơ sở vào quá trình sản xuất đã làm cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn có những bước tiến dài đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Hợp tác và phân công lao động: Mỗi một nước khác nhau cũng như mỗi vùng, mỗi khu vực trong phạm vị một nước thì nhu cầu về điều kiện sản xuất là đa dạng và phong phú, nó đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả hoạt động ra bên ngoài ở mức độ, phạm vi khác nhau. Thực tế đã chứng minh sự hợp tác trong sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng được kịp thời yêu cầu của tính thời vụ. Hơn nữa trong lợi thế so sánh yêu cầu phải có quá trình tham gia vào phân công lao động dưới nhiều hình thức để nhằm tăng khả năng thích ứng và phù hợp với điều kiện, truyền thống, lợi thế riêng có của nông nghiệp ở mỗi vùng, mỗi khu vực trong phạm vi một nước cũng như khu vực và trên thế giới. I.2.5 - Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và các nguồn vốn đầu tư. I.2.5.1 - Đặc điểm riêng biệt của nông nghiệp, nông thôn nước ta: *> Nông nghiệp Việt Nam là một nền nông nghiệp lạc hậu: - Cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, lực lượng sản xuất còn non yếu, đại bộ phận là lao động thủ công, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý còn thấp kém. - Sản xuất nông nghiệp còn chưa thoát khỏi tự cấp tự túc đặc biệt là những vùng nông thôn miền núi.Bà con đồng bào vẫn còn tình trạng du canh du cư *> Thu nhập của nông dân thấp, đời sống còn hết sức khó khăn, họ chỉ có thu nhập khi bán những cây hoa quả,lợn, gà, trâu dê.. *> Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đang được từng bước xúc tiến và đã mang lại một số thành tựu đáng kể, song vẫn còn gặp không ít khó khăn: - Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn còn ở tốc độ chậm (Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ mới chiếm 20% trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn). Tỷ trọng trồng trọt trong nông nghiệp vẫn cao: năm 1999 là 80,5% . - Đã thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng tác động thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn còn chưa mạnh, các doanh nghiệp nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác đều”ngại “ đầu tư vào nông nghiệp. - Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn những năm gần đây đã nhiều hơn nhưng chưa làm chuyển biến được một cách mạnh mẽ sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất: Các tài sản cố định trong nông nghiệp, nông thôn chưa tạo được sự cân đối giữa máy móc thiết bị và súc vật cày kéo, trình độ cơ giới hoá còn thấp. - Quỹ đất đai còn hạn hẹp, bình quân đất nông nghiệp chỉ có 0,7 ha/1 lao động vào loại thấp nhất thế giới. Ruộng đất giao khoán tạo sự manh mún, chia cắt không thuận lợi cho cơ giới hoá và công nghệ sinh học.Đặc biệt là hoang phí bờ ruộng do việc ngăn cách các thửa ruộng giữa các hộ đang diễn ra, gây một sự lãng phí rất dáng tiếc - Thị trường nông thôn kém phát triển, làm ra cây và con bán cho các thương nhân thường bị ép giá gây thiệt đơn-thiệt kép. Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là miền núi còn thấp kém, chưa đầy đủ và không đồng bộ về số lượng, kém về chất lượng theo yêu cầu sử dụng. *> Các hợp tác xã ở nông thôn hoạt động kém hiệu quả không vực dậy được kinh tế nông thôn. *> Tư tưởng trông chờ ỷ lại của một số ít cán bộ thôn bản làm tăng lên sức “ỳ” cho kinh tế nông thôn. I.2.5.2 - Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn Trong quá trình phát triển của tất cả các nước thì vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc, nổi cộm. Nước ta, với điểm xuất phát thấp thì nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhất là cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn luôn đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn. Nhưng thực tế ở nước ta hiện nay vẫn còn sự chênh lệchgiữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn. Thực trạng “đói vốn” trong trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển các ngành nghề trong nông nghiệp, đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, đến việc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn ... Theo dự tính của nhiều nhà kinh tế được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn tổng hợp lại cho thấy, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn từ nay tới năm 2010 thì lượng vốn cần đầu tư hàng năm vào khoảng 2,5 tỷ USD. Với một lượng vốn cần lớn, nhiều như vậy thì rõ ràng vấn đề đặt ra là phải có những chính sách phù hợp, vừa phát huy nội lực, vừa thu hút đầu tư nước ngoài ... để đáp ứng được cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn. I.2.5.3 - Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn: - Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thường có vai trò quan trọng nhất, nó được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp dưới hai dạng trực tiếp và gián tiếp. Vừa đầu tư thông qua các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho hộ nông dân, vừa đầu tư vào các hoạt động phục vụ lợi ích chung của nền nông nghiệp như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ sinh học ... Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội thường có thời gian thu hồi vốn chậm cho nên các nguồn vốn khác chưa thể có điều kiện tham gia đầu tư, vì thế nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là đặc biệt quan trọng. Ta có công thức: Sg =T- G Trong đó : Sg là tiết kiệm của nhà nước. T là tổng thu ngân sách nhà nước. G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước. - Nguồn vốn đầu tư của dân cư. Thu nhập và đời sống của người dân nói chung, của nông dân nói riêng ngày càng tăng nhanh. Trong điều kiện đó, đi cùng với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần thì việc đưa vốn vào để sản xuất nông nghiệp của nông dân, của những người ở thành thị và của người Việt Nam ở nước ngoài cũng ngày càng tăng. Vốn đầu tư của dân cư là nguồn vốn tại chỗ rất quan trọng nó làm cho nội lực kinh tế trong khu vực nông thôn được phát huy, nó góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế, đồng thời làm tăng tích luỹ của khu vực nông thôn, tạo điều kiện phát triển thêm lên các đơn vị kinh tế, các ngành nghề kinh tế tại khu vực này. Công thức: Sh = DI –C Trong đó Sh là tiết kiệm từ khu vực dân cư. DI là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư C là chi thường xuyên của khu vực dân cư. - Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản tự bổ xung vốn để đầu tư cho nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng lực hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp thực hiện ứng vốn cho nông dân thông qua hình thức ký kết các hợp đồng kinh tế, các giao kèo thoả thuận với nông dân trong việc nông dân bán sản phẩm nông nghiệp cho doanh nghiệp. Đây là một kênh chuyển vốn vào nông nghiệp, nông thôn, nó là cần thiết trong điều kiện các nguồn vốn khác chưa đáp ứng được đầy đủ.Công thức: Sc = Dp +Pr Trong đó: Sc là tiết kiệm của các doanh nghiệp. Dp là quĩ khấu hao của do._.anh nghiệp. Pr là lợi nhuận để lại doanh nghiệp. - Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài: Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn lớn rất cần đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nó trở thành một bộ phận đáng quan tâm của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Thực tế hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào nước ta ngày càng được mở rộng tới các vùng, các địa phương nhờ có sự hợp lý của luật đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn này góp phần tăng lượng vật chất đáng kể trong nền kinh tế nước ta, qua đó thực hiện hoạt động đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thì số lượng dự án có vốn đầu tư nước ngoài đưa vào còn ít, số vốn lại thấp. Vì vậy việc tăng cường gọi vốn nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là hết sức cần thiết. - Nguồn vốn tín dụng(hay đầu tư vốn tại các tổ chức tín dụng): Là nguồn vốn bổ xung cho nhu cầu vốn để phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Trong điều kiện các nguồn vốn khác chưa đảm bảo đáp ứng đủ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn thì nguồn vốn tín dụng càng chiếm giữ một vai trò quan trọng. Hiện nay, nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn là rất lớn, đòi hỏi các tổ chức tín dụng như các ngân hàng thương mại, các ngân hàng cổ phần, các quỹ tín dụng nhân dân ... rất cần dành ra một tỷ lệ vốn thích đáng để đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn nhằm ngày càng rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa nhu cầu vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn và khả năng đáp ứng vốn của các loại nguồn vốn. I.3- Hoạt động huy động và cho vay tín dụng tại ngân hàng thương mại I.3.1- Một số vấn đề cơ bản về NHTM I.3.1.1- Khái niệm ngân hàng thương mại. Để đưa ra một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta thường dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, đôi khi còn kết hợp tính chất và mục đích hoạt động. Luật ngân hàng của Đan mạch năm 1930 định nghĩa" những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệm vụ nhận tiền gửi ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các gía trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệm vụ chuyển ngân....." Hay như luật ngân hàng của ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 nêu “ ngân hàng là các cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.v.v.. Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng qua phân tích các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các ngân hàng đều có chung một bản chất đó là nhận tiền gửi ký thác – tiền gửi không kỳ hạn,và tiền gửi có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ chiết khấu, cho vay và các dịch vụ cho vay khác của chính ngân hàng. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động kinh doanh theo pháp luật.Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh trước pháp luật, trong đó có qui định riêng về tổ chức tín dụng. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu:” tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. I.3.1.2- Đặc trưng kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM). Hoạt động kinh doanh trên thị thường tài chính bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ,chúng là những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền nhàn rỗi tiết kiệm tích luỹ được trong dân cư, đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như đối tượng và phưong pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân lịch sử và chế độ kinh tế, ngày nay chúng đều là những sản phẩm của thể chế mỗi nước. Lịch sử của NHTM là kinh doanh tiền gửi, từ chỗ làm dịch vụ nhận tiền gửi, với tư cách là người thủ quĩ bảo quản tiền cho chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, trở thành chủ thể kinh doanh tiền gửi, nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền, để làm vốn cho vay với mục đích tối ưu hoá lợi nhuận thu được. Trong khi thực hiện vai trò chung gian chuyển tiền từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế tiền làm phương tiện thanh toán.Trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi thanh toán bằng séc, một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng. I.3.1.3. - Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế. *> Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Vốn được tạo ra từ quá trình tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp,và nhà nước trong nền kinh tế.Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm tiêu dùng.Muốn tăng thu nhập quốc dân phải mở rộng qui mô sản xuất, phát triển thị trường... theo qui luật tăng trưởng thì nguồn vốn thu được nhiều hơn. Ngân hàng là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn trong kinh doanh. Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, và thông qua nghiệp vụ tín dụng cấp vốn kịp thời cho mọi hoạt động kinh doanh- sản xuất.Các hoạt động kinh doanh- sản xuất có lãi trả được khoản vay của ngân hàng và quan trọng là tăng thu nhập cho toàn xã hội. *> Ngân hàng là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước: Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách có hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình, thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Bằng các hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NH trong hệ thống các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn cho thị trường tiền tệ, điều khiển chúng có hiệu quả thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:” Nhà nước điều tiết NH, NH dẫn dắt thị trường”. *> NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế: Nền kinh tế thị trường khi mà mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng, nhu cầu giao lưu kinh tế – xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, và là bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính của các nước phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. NHTM cùng hoạt động kinh doanh của mình phải đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập.Với các nghiệp vụ kinh doanh của mình NHTM tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển và mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối,quan hệ tín dụng với các NH nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện được vai trò điều tiết nền tài chính trong nước, phù hợp với sự vận động của nền tài chính thế giới. I.3.1.4- Những đặc điểm riêng biệt của NH Nno&PTNT Việt Nam. Ngân hàng NNo&PTNT việt Nam có những đặc điểm riêng biệt sau: *> Đó là NHTM quốc doanh kinh doanh tiền tệ bình thường như bao NHTM khác trên thị trường nông thôn.Việc tạo vốn và cho vay theo cơ chế thị trường : cũng bị cạnh tranh, bảo toàn vốn, và sinh lời sau qúa trình phục vụ nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở “ vay để cho vay”.Vì vậy trong quá trình hoạt động NH thực sự phải tôn trọng theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. *> Ngân hàng NNo&PTNT đang thực hiện nhiều nhiệm vụ của một NH chính sách, nó có trách nhiệm thực hiện mục tiêu của nhà nước(chương trình lương thực, chương trình phát triển nhà ở của đồng bằng sông Cửu Long, chương trình khắc phục hậu quả thiên tai, xoá đói giảm nghèo, tài trợ vùng sâu vùng xa...). Trong việc thực hiện mục tiêu các chương trình có tính chất xã hội, ngân hàng NNo&PTNT phải dành ưu tiên về lãi suất, điều kiện và thời hạn cho vay các đối tượng vay-khách hàng cốt yếu của mình là nông dân. Chính vì thế mà không ít trường hợp ưu đãi đó cần được xử lý cho bản thân NH nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển( chẳng hạn lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động vốn bình thường). *> Với một vị trí là NHTM quốc doanh, NHNo đang và sẽ phải là một NH đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tiền tệ nông thôn. Nó có trách nhiệm hướng dẫn và chi phối thị trường này, đáp ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Bên cạnh nỗ lực của bản thân NH, Nhà nước cần có chính sách phát triển NHNNo cả về mặt chính sách và vốn... để nó có thể vươn lên tạo thành chỗ dựa chủ yếu trong việc lo vốn và phát triển dịch vụ NH cho nông nghiệp nông thôn-mặt trận hàng đầu cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. *>Xuất thân là một NHTM hoạt động ngắn hạn là chủ yếu,NHNO đã và đang vươn lên thành một NH đa năng và ngày càng mang tính chất của một NH phát triển. Điều này xuất phát từ đòi hỏi hết sức mạnh mẽ,và cấp bách của sự nghiệp phát trểin nông nghiệp nông thôn,không như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu của vốn trung hạn và dài hạn cho quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, chuyển từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, với qui mô ngày càng lớn giải toả khâu tiêu thụ đang có nhiều ách tắc, hướng về chế biến, hướng về xuất khẩu, và hướng về phát triển ngành nghề phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. *> Điều kiện hoạt động của NHNo có những đặc thù khác với các NHTM quốc doanh khác: địa bàn hoạt động rộng và phân tán, đội ngũ cán bộ nhân viên đông; chi phí cao; dễ gặp thiên tai và rủi ro tín rụng. I.3.2- Huy động vốn tại NHTM. I.3.2.1- Khái niệm huy động vốn: Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động từ các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội, thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, NH chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn( tiền gửi có kỳ hạn )hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn ( tiền gửi không kỳ hạn). I.3.2.2- các loại hình huy động vốn: *> Tiền gửi : bao gồm 2 loại là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. + Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào, và NH phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, tiền gửi không kỳ hạn lãi suất thấp hoặc không đựoc trả lãi, bao gồm 2 loại tiển gửi sau: - Tiền gửi thanh toán: Đó là các loại tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chỉ trả cho các hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ và các khoản phát sinh khác trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn thuận lợi. - Tiển gửi không kỳ hạn thuần tuý: là khoản tiền gửi với mục đích an toàn, không mang mục đích thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút tiền ra chi tiêu. + Tiển gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm, đây là nguồn tương đối ổn định.khi đến hạn khách hàng mới đựơc rút ra *>-Tiền gửi tiết kiệm: xét về bản chất đây là một phần thu nhập của cá nhân chưa sử dụng cho tiêu đùng. Họ gửi vào NH với mục đích tích luỹ một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ khoản tiền đó.Gồm có: + Tiển gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là những khoản tiền gửi có thể rút ra thanh toán bất cứ lúc nào, hoặc được sử dụng làm công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền có sự thoả thuận về thời gian gửi tiền và rút ra, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn. *> Phát hành giấy tờ có giá: NH thực hiện phát hành giấy tờ có giá đó là chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá qui định, còn trái phiếu là loại phiếu nợ trung hạn và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được NH phát hành từng đợt, tuỳ theo mục và sự chấp thuận của NHTƯ và hội đồng chứng khoán quốc gia. *> Các hình thức huy động khác: + Nhận vốn từ Trung Ương để thực hiện các chương trình dự án của nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. + Nhận vốn tài trợ từ các tổ chức nước ngoài( tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ..). + Vay từ NHNN để làm vốn kinh doanh, thực hiện kinh doanh có hiệu quả lại trả lãi cho NHNN. NHNNo&PTNT Việt Nam là một NHTM nên hoạt động chủ yếu vẫn là “ đi vay để cho vay” với số vốn tự có của toàn hệ thống chiếm một tỷ trọng thấp, do vậy huy động vốn là cần thiết cho hoạt động NH. Theo pháp lệnh của NH, qui định một NH có thể huy động một lượng vốn tốt đa là 20 số vốn tự có của mình. I.3.2.4- Các nhân tố phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn tại NH. *> Chỉ tiêu 1: Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định: - Vốn huy động cho đầu tư có sự tăng trưởng và ổn định về mặt số lượng, nguồn vốn tăng đều qua các năm( vốn huy động năm sau cao hơn năm trước) thoả mãn nhu cầu tín dụng cho đầu tư. - Nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian( tránh rủi ro về mặt thời gian). Nếu NH huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư, nhưng không ổn định thường xuyên- kéo theo đó là vốn cho vay không lớn, NH thường xuyên lo vấn đề thanh toán. Do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NH. *> Chỉ tiêu 2: Chi phí huy động: - Chi phí huy động được đánh giá cao qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu ra-đầu vào, đồng thời cũng thông qua chi phí phát hành. Việu NH giảm chi phí huy động bằng việc giảm lãi suất huy động, thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Ngược lại khi lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay ra càng cao, gây khó khăn cho người vay tiền, gây ra hiện tượng ứ đọng vốn tại NH, khi đó NH phải trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản tiền này không sinh lãi. *> Chỉ tiêu 3: Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh. - Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu vay vốn. Từ đó có thể xác định được nguồn vốn có thể huy động là bao nhiêu và nhuồn vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó. Để đạt được mục tiêu này, NH phải đạt ra cơ cấu huy động vốn trụng dài hạn một cách hợp lý. *> Chỉ tiêu khác: - Thời gian, mệnh gía huy động vốn hợp lý. - Mức độ thuận tiện cho khách hàng: đánh gía qua các thủ tục nhận tiền, làm các dịc vụ kèm theo. - Thời gian hoàn thành vốn so với qui định. I.3.2.5- Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn. *> Nhân tố chủ quan: - Các hình thức huy động vốn: đây là một trong những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng đến tình hình vốn tại NH. Hình thức huy động vốn càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu tiền gửi của dân cư sẽ tăng lên và vốn huy động nhiều hơn. - Chính sách lãĩ suất: Lãi suất là nhân tố quan trọng khiến người gửi tiền vào NH hay không? - Chính sách khách hàng: NH có chính sách khách hàng tốt thì khách hàng sẽ gửi tiền vào NH ngày càng nhiều hơn. - Công tác cân đối giữa huy động và cho vay: Chiến lược huy động vốn tốt còn phụ thuộc vào vào khả năng có cho vay tốt được hay không, nếu sử dụng vốn không hiệu quả thì ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của NH. - Công nghệ NH: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ của mình, vì công nghệ Nh càng tiên tiến thì khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng càng tốt thì hiệu quả kinh doanh của NH càng cao. *> Nhân tố khách quan: - Tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của NH chủ yếu là nguồn vốn của dân cư, các tổ chức kinh tế... các đơn vị này tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động cao. - Tâm lý tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là 2 nhân tố đối lập nhau nên tiêu dùng tăng thì tiết kiệm giảm và ngược lại. -Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý ổn định, cụ thể là cơ sở pháp lý cho hoạt động NH được đảm bảo, thì người dân sẽ an tâm gửi tiền vào NH. I.3.3- Hoạt động cho vay tín dụng tại NH nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn I.3.3.1- Khái niệm cho vay tín dụng: Nhiều nhà kinh tế học hiện đại cho rằng cho vay là dựa vào lòng tin của người cho vay vào người đi vay, để thực hiện quan hệ vay mượn vốn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi. Nói một cách tổng quát thì hoạt động đầu tư vốn( tín dụng) là một phạm trù kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn cho vay. Nó phản ánh quan hệ kinh tế, giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng đối với nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, là sự chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị hiện vật theo những điều kiện cho hai bên cho vay- đi vay thoả thuận trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Trong nền kinh tế hàng hoá cho vay là tất yếu khách quan, nó ra đời và bắt nguồn từ đặc điểm chu chuyển vốn tạo ra giữa nơi cần vốn và nơi tạm thời có vốn nhàn rỗi. Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ cho vay cho thấy: lúc đầu là cho vay nặng lãi, gắn liền với sản xuất hàng hoá nhỏ lẻ và lạc hậu; kế tiếp là cho vay thương mại rồi đến cho vay tại NH. Cho vay tại NH: Là quan hệ cho vay giữa NH với các doanh nghiệp, hộ gia đình.... thực hiện trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi, thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình NH đáp ứng phần lớn vốn cho nền kinh tế. I.3.3.2 - Các hình thức cho vay và các phương thức cho vay I.3.3.2.1 - Các hình thứccho vay. Theo các tiêu thức phân chia khác nhau có các hình thức cho vay( tín dụng) ngân hàng khác nhau: *> Căn cứ vào thời gian hình thành trong quan hệ với khách hàng: - Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay mà thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không vượt quá 12 tháng. Cho vay ngân hàng thực hiện bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân. -Cho vay trung hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 1 năm đến 5 năm. - Cho vay dài hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm nhưng không quá 15 năm, dùng để đầu tư vào các chương trình, dự án có quy mô lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu. Việc phân chia mức cho vay ngân hàng theo tiêu thức thời gian như trên sẽ giúp cho các ngân hàng tính toán các luồng vốn đầu tư và mức vốn đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định. Thời hạn cho vay trung, dài hạn được xác định phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng nguồn vốn dùng để cho vay trung, dài hạn của tổ chức tín dụng. *> Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: - Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Là các khoản cho vay mà khách hàng vay được ngân hàng tín nhiệm nên không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba làm bảo đảm tiền vay. - Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Là các khoản ngân hàng cho vay ra đòi hỏi khách hàng vay phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Theo đó giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh phải lớn hơn số tiền ngân hàng cho vay ra. * Căn cứ vào thao tác thừa hành cho vay: - Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cho vay vốn trực tiếp tới người có nhu cầu vay và khách hàng vay phải trực tiếp hoàn trả nợ gốc, lãi vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: Là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước nợ hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn thời hạn thanh toán. * Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay: - Tín dụng cho phát triển sản xuất kinh doanh: Là các khoản cho vay mà tiền vay được sử dụng vào phát triển sản xuất kinh doanh. - Tín dụng cho tiêu dùng: Là các khoản cho vay mà tiền vay được sử dụng vào mục đích tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống con người. * Xét trên góc độ pháp luật thì có: +Cho vay chính thức: Là hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận gồm các chủ thể tham gia là các Ngân hàng thương maị quốc doanh, Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, các Quỹ tín dụng nhân dân, và các Tổ chức tài chính trung gian khác. +Cho vay không chính thức: Là các hình thức cho vay không được pháp luật thừa nhận. Hình thức cho vay này nó ra đời, tồn tại gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội loài người dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo mà nảy sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao. Cho vay chính thức luôn là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và ngày càng lấn át, chiếm lĩnh thị trường nông nghiệp, nông thôn. Trong các chủ thể tham gia thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với màng lưới rộng khắp đất nước đã, đang và sẽ giữ vai trò nòng cốt trong việc cấp vốn cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, thực sự mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế. I.3.3.2.2 - Các Phương thức cho vay: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vốn vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng mà ngân hàng nơi cho vay thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn phương thức cho vay theo các phương thức cho vay sau: - Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng nơi cho vay làm thủ tục vay vốn theo quy định của ngân hàng và ký hợp đồng tín dụng. Phương thức này áp dụng đối với những khách hàng vay vốn không thường xuyên, có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng vay xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thơì gian nhất định hoặc theo một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng tối đa không quá 12 tháng. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngân hàng sẽ thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay vốn đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, ngân hàng nơi cho vay và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chi ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn vay vốn. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng, ngân hàng nơi cho vay và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực của tín dụng dự phòng. Nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức tín dụng dự phòng thì khách hàng vẫn phải bỏ phí cam kết tính cho hạn mức tín dụng dự phòng đó. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng nơi cho vay chấp thuận cho khách hàng sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là các đại lý của tổ chức tín dụng đó. I.3.4- Vai trò của cho vay tín dụng NH nhằm đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là vấn đề chiến lược hàng đầu được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách quan nhằm phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản phải là nước công nghiệp. Quá trình này đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn đưa vào nông thôn thông qua các kênh dẫn vốn khác nhau. Trong đó, cho vay tín dụng của ngân hàng thực sự là một luồng dẫn vốn quan trọng. Vai trò cho vay tín dụng của ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn như là một đòn bẩy, là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng CNH-HĐH, nâng cao đời sống dân sinh, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế và đổi mới. Vai trò cho vay tín dụng của ngân hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn được thể hiện trên một số nội dung sau: Thứ nhất: cho vay tín dụng của ngân hàng góp phần hình thành và phát triển thị trường tài chính ở nông thôn. Thị trường tài chính ở nông thôn bao gồm thị trường vốn và hoạt động tín dụng. Cho vay tín dụng là cầu nối giữa tích luỹ, tiết kiệm và đầu tư, thực sự là trung gian giữa những người cần vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi nhằm phục vụ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngân hàng một mặt cấp vốn cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, những khoản tiền nhàn rỗi tạm thời của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân trong nông thôn còn có thể đầu tư tài chính thông qua các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu ... Sự hình thành thị trường tài chính và tín dụng nông thôn đã là bước khởi đầu cho sự tạo ra thị trường vốn ở nông thôn được hoàn chỉnh và sớm đi vào hoạt động. Nước ta là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở nông thôn, lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 70% lao động xã hội, với trên 12 triệu hộ sản xuất nông, lâm, nghư nghiệp và tạo ra gần 50% tổng sản phẩm xã hội... vì thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là tất yếu. Để thực hiện đưa nền sản xuất nông nghiệp lên trình độ cao thì vấn đề đặt ra là phải tiếp tục tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong đó có thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung và dài hạn ở nông thôn để tạo ra động lực cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong đó cho vay tín dụng của ngân hàng có phần đóng góp rất quan trọng. Thứ hai: cho vay tín dụng ngân hàng thúc đẩy nền nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá. Sản suất hàng hoá là tất yếu khách quan, là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở tất cả các nước, nhất là ở các nước có nền kinh tế lạc hậu, mang tính tự cấp, tự túc như nước ta, đồng thời nông nghiệp, nông thôn nước ta đang giữ vị trí là một khu vực sản xuất vật chất rất lớn. Nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn là rất lớn. Và điều đó, chỉ có khối lượng vốn ngân hàng mới có khả năng đáp ứng được. Cho vay tín dụng ngân hàng đáp ứng bổ xung phần vốn thiếu cho người sản xuất nông nghiệp để họ có điều kiện thâm canh tăng năng suất cây trồng, phát triển chăn nuôi và mở mang ngành nghề cũng như tăng cường mua sắm những trang thiết bị, máy móc, chi phí cho việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, được thị trường tiêu thụ. Vốn đầu tư của ngân hàng với mức lãi suất hợp lý được cung ứng thường xuyên cho nhu cầu của người sản xuất nông nghiệp, đã là điều kiện và động lực thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nền sản xuất hàng hoá như: Quy mô sản xuất ngày càng lớn, năng suất ngày càng tăng, tức là sản lượng tăng và tỷ trọng hàng hoá nhiều lên, sẽ làm nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn và để trở lại là điều kiện cho phát triển mở rộng quy mô sản xuất. Quá trình đó, đưa đến một kết quả tất yếu là sản lượng hàng hoá nông sản ngày càng tăng, đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và những mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Thứ ba: Cho vay tín dụng của ngân hàng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu công nghệ mới đưa vào sản xuất kinh doanh. Kết cấu hạ tầng bao gồm kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội, luôn được xác định là một nhân tố hàng đầu - nền tảng của sự phát triển. Hệ thống kết cầu hạ tầng là bức tranh quy chiếu trình độ văn minh của một xã hội, một cộng đồng. Kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn bao gồm: Giao thông và thông tin; thuỷ lợi và nước sạch; điện, trường học, y tế, nhà ở và các công trình văn hoá, phúc lợi công cộng khác, những cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản, những cơ sở sản xuất ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu vào năm 1996 của một nhóm chuyên gia các bộ ngành thì kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta hiện nay còn rất thấp kém xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã. Và hiện nay thực trạng kết cấu hạ tầng ở nông thôn là chưa đầy đủ, chưa đồng bộ về số lượng, lại kém về chất lượng theo yêu cầu sử dụng. Cơ sở hạ tầng trong nông thôn là yếu tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến và sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tiếp cận nhanh với thị trường bên ngoài... đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn trước hết là từ nguồn ngân sách nhà nước và vốn đóng góp của nông dân, từ các doanh nghiệp và từ người dân ở thành thị, từ kiều bào ở nước ngoài và từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, những nguồn vốn này không thể đáp ứng được đầy đủ và kịp thời. Chính vì thế, vốn tín dụng ngân hàng đã thực hiện tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, phát huy hiệu quả tích cực của cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Thứ tư: Cho vay tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện phát triển các ngành nghề truyền thống. Góp phần vào sự phân bố hợp lý hơn lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Vốn ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn đã thực sự tác động lớn đến việc hình thành và phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Việc hình thành và phát triển các sơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản đã thu hút được nhiều lao động trong nông nghiệp có việc làm ở các khâu sản xuất nguyên liệu, gia công, chế biến, tiêu thụ sản phẩm và các hoạt động dịch vụ khác. Dưới tác động của tín dụng ngân hàng vào hoạt động của mọi thành phần kinh tế thì nền sản xuất hàng hoá ngày một phát triển. Và khi đó nảy sinh sự phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Một bộ phận các hộ nông dân tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp để làm những ngành nghề mới, các ngành tiểu, thủ công nghiệp truyền thống. Từ đó các làng nghề cũng được phụ._.ực hiện vớí những hộ sản xuất chưa thoát khỏi tính chất sản xuất tự sản, tự tiêu, nhu cầu vốn ở mức thấp, nhỏ hơn 10 triệu đồng nên không phải thế chấp tài sản, có mức thu nhấp trung bình. Đây là hình thức cho vay rất cần được mở rộng ở Yên Bái vì nó phù hợp với đặc trưng nông nghiệp, nông thôn ở Yên Bái + Cho vay theo hình thức thanh toán tay ba thông qua việc các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, giống cây trồng, vật nuôi...cho hộ để ngân hàng thực hiện cho vay trực tiếp tới từng hộ và tiền vay được chuyển trả luôn cho doanh nghiệp. Hình thức này đảm bảo tiền vay phát ra đúng mục đính, có hiệu quả và mang lại lợi ích cho cả 3 bên. + Cho vay theo hình thức cấp vốn uỷ thác thông qua quỹ tín dụng nhân dân, các DNNN chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, thu mua hàng xuất khẩu, các HTX nông nghiệp thực hiện thu mua nông sản thực phẩm. Chỉ thực hiện hình thức này khi mà các hộ nông dân là nguồn cung cấp chính và ổn định sản phẩm cho các DNNN, các HTX đó. Thực hiện hình thức này, lãi suất cho vay vẫn phải đảm bảo mặt bằng lãi suất chung. Ngân hàng sẽ trả phí hoá hồng cho các đơn vị kinh tế nhận “uỷ thác”. + Thực hiện hình thức cho vay lưu vụ trong sản xuất nông nghiệp: Quy luật mùa vụ tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính chất, đặc điểm sử dụng vốn vay của nông dân. Có những đối tượng sản xuất mang tính mùa vụ rất rõ và liền kề nhau giữa hai vụ sản xuất. Thực tế này phản ánh vốn vay cho sản xuất vụ trước được sử dụng luôn cho vụ sau. Điển hình trong sản xuất nông nghiệp thấy rõ nhất là trồng lúa. Vì thế, để nông dân có vốn kịp thời phục vụ cho sản xuất mùa vụ liền kề thì nên áp dụng hình thức cho vay lưu vụ. Theo đó hộ nông dân sau vụ sản xuất chỉ cần trả hết lãi vay vụ đó mà không phải trả gốc rồi làm đơn xin lưu vụ. Cho vay lưu vụ sẽ giúp các hộ nông dân có điều kiện chủ động về vốn, giảm bớt được thủ tục phiền hà và tạo nên sự gắn bó với ngân hàng. + Thực hiện cho vay đón đầu ngân sách: Quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ có nhiều dự án đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước. Nhưng do nguồn ngân sách chưa kịp đáp ứng ngay được thì ngân hàng sẽ thực hiện cho vay. - áp dụng những phương thức cho vay phù hợp với sản xuất nông nghiệp, nông thôn . Hiện nay NHNo đang thực hiện phương thức cho vay từng lần là chủ yếu. Điều đó ảnh hưởng đến tính kịp thời cần vốn và phần nào gây ra những phiền phức, trong việc hoàn chỉnh thủ tục vay vốn đối với khách hàng có thu nhập thường xuyên và có nhu cầu vốn nhiều lần trong năm. Vì thế cần mở ra và đưa vào thực hiện những phương thức cho vay khác phù hợp hơn trong điều kiện cho phép: + Thực hiện phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Thực tế đa số các hộ nông dân thực hiện sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế tổng hợp. Các đối tượng sản xuất trong từng hộ có sự lệch nhau về thời gian một chu kỳ sản xuất và khi mỗi chu kỳ sản xuất của một đối tượng sản xuất được kết thúc tức là khi đó có thu nhập. Điều đó xuất hiện thực trạng có thu nhập nhiều lần trong năm và nhu cầu vốn để tăng quy mô sản xuất cũng xuất hiện nhiều lần. Đối với những loại hộ này, NHNo sẽ thực hiện phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng nhằm tạo thuận lợi cho cả ngân hàng và khách hàng trong quan hệ vay, trả, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng được nâng lên. + Thực hiện phương thức cho vay từng lần nhưng phát tiền vay nhiều lần theo nhu cầu vốn thực tế ở các thời gian khác nhau. Các hộ nông dân sản xuất kinh doanh tổng hợp và họ kế hoạch được nhu cầu vốn thông qua việc xây dựng các dự án kinh doanh tổng hợp, ở đó xác định được những thời điểm cần vốn để đáp ứng yêu cầu thực hiện có hiệu quả dự án. NHNo căn cứ vào dự án đó, sau khi thực hiện thẩm định, nếu được sẽ thực hiện cho vay theo phương thức từng lần và tiền vay sẽ được phát ra làm nhiều lần. Những lần rút tiền vay sau, hộ nông dân chỉ cần viết giấy nhận nợ đúng với số tiền cần rút của lần đó, thời hạn của giấy nhận nợ không được vượt quá thời hạn cuối cùng của hợp đồng tín dụng đã ký ban đầu, lãi suất tiền vay sẽ thực hiện theo lãi suất ở thời điểm rút tiền. Phương thức này cũng mang lại những thuận lợi và hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. d-Thứ tư: Thực hiện cho vay theo chương trình, dự án phát triển kinh tế từng vùng, từng tiểu vùng, cụm xã. Xuất phát từ đặc trưng của nông nghiệp, nông thôn Yên bái, với thế mạnh của các nguồn lực tự nhiên, việc phát triển nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có sự quy hoạch các vùng, tiểu vùng sản xuất tập trung với các chương trình dự án kinh tế có tính khả thi cao. NHNo Yên bái cần phải chuyển mạnh sang cho vay theo chương trình, theo dự án vùng, tiểu vùng và cụm xã. Ngân hàng phải bám sát các chương trình, mục tiêu kinh tế của địa phương, phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng phương án, dự án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Căn cứ vào các phương án, dự án phát triển kinh tế được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Cán bộ tín dụng phải tham gia, hướng dẫn xây dựng được dự án đầu tư tín dụng trên địa bàn xã, cụm xã do mình phụ trách. Trên cơ sở đó, xét duyệt và thẩm định để đi đến quyết định cấp tín dụng có hiệu quả đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện dự án theo những hình thức và những phương thức cho vay phù hợp. e- Thứ năm: Cần có chế độ ưu đãi về lãi suất cho vay đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hiện nay, các ngân hàng định ra mức lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản và biên độ ứng với từng loại cho vay do ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng. Việc điều hành cơ chế lãi suất theo lãi suất cơ bản là một bước tiến mới về hoạt động kinh doanh ngân hàng trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt. Một vấn đề đặt ra là: Làm thế nào có được mức lãi suất cho vay hợp lý vừa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, vừa tạo động lực cho phát triển sản xuất, sử dụng vốn vay có hiệu quả, khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Kinh doanh trong môi trường cạnh tranh, lãi suất cho vay của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng rất nhiều vào quan hệ cung cầu vốn, về lãi suất huy động nguồn cũng như khả năng rủi ro của đối tượng cho vay. Một ngân hàng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá thấp bởi như vậy bản thân ngân hàng sẽ không chịu đựng nổi một kết quả kinh doanh lỗ. Thực tế trên địa bàn nông thôn Yên Bái, do chỉ có NHNo hoạt động cho nên sự cạnh tranh trong cho vay là chưa có. Điều kiện đó đã cho phép các NHNo huyện trong cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh đã thực hiện mức lãi suất cho vay luôn bằng lãi suất cơ bản cộng với biên độ tối đa đã dẫn đến một thực trạng đang tồn tại là lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn đang cao hơn lãi suất cho vay ở khu vực thành thị. Để giải quyết tốt vấn đề này nhằm khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có chế độ ưu đãi về lãi suất cho vay. Ngân hàng thực hiện một số biện pháp sau: - Bản thân NHNo cần căn cứ vào đặc điểm kinh tế xã hội và khả năng phát triển kinh tế từng vùng, từng khu vực trên quan điểm chiến lược vì lợi ích lâu dài để chủ động thực hiện những mức lãi suất thích hợp, linh hoạt nhằm tăng trưởng dư nợ hiệu quả-Đố là tương lai không xa NH thực hiện cho vay thuận lãi suất thoả thuận. - Thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý trên cơ sở khoán chi phí là điều kiện để giảm lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn mà vẫn đảm bảo được kết quả kinh doanh. - Cần đa dạng hoá và vận dụng linh hoạt các mức lãi suất huy động ở nhiều thời hạn khác nhau, ở từng thời gian cụ thể khác nhau đảm bảo yêu cầu hạ thấp lãi suất đầu vào nhưng vẫn huy động được nhiều vốn. III.3 - một số kiến nghị III.3.1 - Kiến nghị với nhà nước. Thứ nhất: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách đất đai. Chính sách đất đai đã và đang tác động vào sự vận động của quan hệ đất đai gắn với quá trình sản xuất hàng hoá. Để vấn đề ruộng đất mang lại hiệu quả cao hơn thì nhà nước cần bổ xung nghiên cứu và hoàn thiện chính sách đất đai. - Xác lập cơ sở pháp lý cho tính tất yếu của quá trình tích tụ ruộng đất, tạo cho sự vận động của ruộng đất trong chuyển quyền sử dụng, chuyển mục đích sử dụng đất nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và phát triển của các doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn. - Tiếp tục nghiên cứu chính sách giảm thuế sử dụng đất cho nông dân vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn và nới rộng hạn điền cho những vùng này để khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện cho người lao động khai thác tốt hơn các vùng đất này. Giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất ở nông thôn có liên quan đến việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, ưu tiên thuế đất để phát triển công nghiệp nông thôn. - Xây dựng các văn bản thể chế hóa 5 quyền của người sử dụng đất theo luật làm cơ sở pháp lý cho họ yên tâm đầu tư lâu dài vào sản xuất. Thứ hai: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách đầu tư. Phát triển nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Cả lý luận và thực tiễn sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn ở các nước cho thấy vốn đầu tư chiếm một vị trí then chốt, có tính quyết định đến mọi vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chính vì thế tăng cường đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu khách quan. Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả, đúng mục đích phát triển nông nghiệp, nông thôn hay không, nó phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư đúng. Trong thời gian tới, chính sách đầu tư cần thực hiện: - Tỷ lệ đầu tư của nhà nước cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn ít nhất từ 25% trở lên trong tổng ngân sách nhà nước hàng năm bằng các chương trình, dự án có mục tiêu. Đồng thời có chính sách huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Có chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, kêu gọi các nhà tài trợ nước ngoài đặc biệt là các tổ chức như ADB, IMF triển khai các dự án cho vay, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung lớn. - Có chính sách khuyến khích phát triển các mô hình tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn. Khi hoàn thành thì được thu lệ phí để hoàn vốn. - Chính sách đầu tư của nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn cần ưu tiên vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn như đường giao thông, điện nước, thủy lợi, thông tin liên lạc, cải tạo ruộng đồng và đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng phổ cập các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ gắn với sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, tăng khối lượng nông, lâm sản hàng hoá. - Chính sách đầu tư phải thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng, phát triển kinh tế hàng hoá ở một số vùng trọng điểm và thúc đẩy sự vươn lên của các vùng còn khó khăn. Chính sách đầu tư cần tập trung cho những ngành, những lĩnh vực có điều kiện và khả năng thu nhận nhiều lao động nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư thừa trong nông nghiệp, nông thôn. Thứ ba: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách thị trường nông thôn. Thị trường giữ vai trò trọng yếu trong sản xuất hàng hoá, thị trường càng phát triển là động lực lớn cho sự phát triển sản xuất. Thị trường nông thôn phát triển không những tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được đáp ứng kịp thời, đầy đủ vật tư, nguyên liệu; Tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn tạo thêm nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh mới để làm thay đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp theo hướng tích cực và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để phát huy hơn nữa vai trò của thị trường nông thôn đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiến nghị: - Đối với thị trường đầu vào cho nông nghiêp, nông thôn, nhà nước cần có chính sách hợp lý về giá cả vật tư thông qua các chính sách tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh vật tư nông nghiệp như: Ưu đãi về thuế suất, về tín dụng, kể cả sự hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí vận chuyển vật tư, hàng hoá đối với vùng sâu, vùng xa. - Thực hiện chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp, nông thôn. + Tự do hóa thương mại nói chung và hàng nông, lâm sản nói riêng, xoá bỏ các khâu gây ách tắc lưu thông hàng hoá, tạo sự thông thoáng cho giao lưu hàng hoá giữa các vùng trong cả nước. + Đặt tổ chức thị trường nông thôn trong chiến lược phát triển thị trường nông sản hướng về xuất khẩu, trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó đòi hỏi: Cần có sự nghiên cứu, khảo sát thị trường thông qua đó dự báo một cách khoa học sự biến động của từng loại thị trường sản phẩm, thường xuyên cập nhật thông tin và thông báo đầy đủ cho người sản xuất. Đồng thời qua đó điều tra, đánh giá, xác định khả năng phát triển sản xuất, đánh giá đúng lợi thế so sánh để có những quy hoạch, kế hoạch, dự án cụ thể nhằm khai thác tiềm năng sinh học và phát triển các nhóm sản phẩm để đầu tư phát triển sản xuất tạo sự tiến bộ vượt bậc về năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới. + Khuyến khích phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu, đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở nông thôn, tham gia cấu trúc thành những không gian công nghiệp ở các vùng của đất nước, từng bước thị trường hoá sản xuất kinh doanh nông nghiệp. + Khuyến khích các đơn vị sản xuất thực hiện xuất khẩu trực tiếp khi có điều kiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. - Thực hiện chính sách bảo trợ giá nông sản và bảo hiểm sản xuất nông nghiệp. + Cần lập quỹ bảo trợ giá nông sản, đặc biệt là với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu để đề phòng tránh sự biến động giảm về giá cả, giúp người sản xuất kinh doanh nông sản yên tâm đầu tư, vay vốn để sản xuất. + Bảo hộ hàng hoá nông sản trong nước đứng được trên thị trường nội địa bằng chính sách thuế và khi những hàng nông sản mà trong nước sản xuất chưa đủ, để cân đối với nhu cầu tiêu dùng thì chỉ nên nhập khẩu vừa đủ phần thiếu đó, tránh nhập khẩu ồ ạt làm rối loạn thị trường gây khó khăn cho sản xuất trong nước. + Nhà nước cần khuyến khích và hướng dẫn việc lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp dưới nhiều hình thức phù hợp trong các tổ chức kinh tế cùng khu vực hoặc cùng sản xuất một loại sản phẩm . Thúc đẩy mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trong và ngoài nước. Thứ tư: Thực hiện chính sách khoa học công nghệ hướng mạnh vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Tác động của khoa học công nghệ vào sản xuất là hết sức cần thiết và có tính chiến lược trong sự phát triển nền kinh tế nói chung và đặc biệt là phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Vì thế, cần phải có những chính sách cụ thể về khoa học công nghệ nhằm hướng vào phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trước hết là công tác lai tạo, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng tốt. - Tạo môi trường thuận lợi cho việc nhập khẩu công nghệ, đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào Việt Nam như cung cấp thông tin, sử dụng môi giới, giảm thủ tục hành chính, giảm thuế... - Có chính sách khuyến khích thoả đáng đối với những tìm tòi, khám phá, sáng tạo về khoa học kỹ thuật - công nghệ, về khoa học quản lý sản xuất nông nghiệp và ứng dụng nó vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Thứ năm: Hoàn thiện chính sách kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là một bước phát triển đúng quy luật của nền kinh tế, nó khởi nguồn từ phát triển kinh tế hộ và đang trở thành động lực lớn thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn lên sản xuất hàng hoá. Hiện nay, Nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển kinh tế trang trại thông qua hệ thống đồng bộ các giải pháp vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần phải bổ xung, sửa đổi và tổ chức thực hiện nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho trang trại phát triển. - Trong thực tế có những hộ có đủ tiêu chí diện tích nhưng đang ở giai đoạn đầu sẽ không đáp ứng được tiêu chí về giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Hay là có những hộ không đủ tiêu chí diện tích nhưng lại có giá trị hàng hoá lớn. Những trường hợp này đều không được công nhận là trang trại, điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Vì thế, Nhà nước cần quy định lại tiêu chí xác định trang trại cho phù hợp với thực tế. - Nhà nước chỉ nên đưa ra những tiêu chí chính về trang trại, còn cụ thể sẽ giao cho từng tỉnh xác định căn cứ vào điều kiện cụ thể và yêu cầu phát triển của từng vùng, từng tỉnh. - Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất, các tổ chức kinh tế xã hội có khả năng, điều kiện đều được làm trang trại và phát triển kinh tế trang trại. Thứ sáu: Tạo môi trường cạnh tranh và bình đẳng trong kinh doanh. - Đảm bảo môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh và sự bình đẳng trong kinh doanh là thuận lợi lớn cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ nợ. Thực tế đã xảy ra những trường hợp khách hàng vay có tính lừa đảo, chiếm đoạt tài sản ngân hàng, hoặc người vay bị bên thứ ba chiếm đoạt tài sản có liên quan đến vốn vay ngân hàng thì ngân hàng lại chịu trách nhiệm hình sự. Thực tế đó đã tác động đến tâm lý cán bộ ngân hàng trong thực hiện mở rộng cho vay. Để xóa bỏ tâm lý lo ngại này, thì vấn đề đặt ra cấp thiết là: Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế dân sự gữa bên vay vốn với ngân hàng mà phải xác định rạch ròi về trách nhiệm của khách hàng và ngân hàng. - Thành lập ngân hàng chính sách để quy tụ các nguồn vốn chinh sách nhằm thực hiện tín dụng chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. III.3.2 - Một số kiến nghị với tỉnh. - Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung cho các loại cây trồng có thế mạnh phát triển, thích hợp với điều kiện tự nhiên, đất đai và kinh tế từng vùng để tạo vùng nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến phát triển và hướng mạnh ra xuất khẩu. - Thực hiện chọn tạo và nhập các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện địa phương. - Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư dưới nhiều phương thức hoạt động theo chương trình; Xây dựng điểm trình diễn, hội thảo; Khuyến nông có sự tham gia trực tiếp của nông dân; Khuyến nông liên kết các đơn vị kinh tế nhằm giúp nông dân có kiến thức, kỹ thuật sản xuất và làm đúng quy trình sản xuất tạo năng suất cao. - Tiếp tục thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tăng cường vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân: + Cần phân loại hộ theo tiêu thức về mức độ đa dạng hoá sản xuất và trình độ sản xuất kết hợp với tiêu thức thu nhập để thấy được xu hướng phát triển của hộ nông dân. Qua đó có những chính sách và biện pháp hỗ trợ thích hợp. + Khẩn trương hoàn thành công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân, khuyến khích nông dân chuyển đổi đất nhằm khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún, phân tán. + Tạo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... cho kinh tế hộ phát triển. + Khuyến khích và hỗ trợ kinh tế cho những hộ nông dân chuyển sang làm ngành nghề, dịch vụ, sang phát triển kinh tế trang trại - một hình thức sản xuất hàng hoá lớn, đặc biệt phải có quy hoạch, có chiến lược phát triển kinh tế trang trại, tránh tình trạng hình thành tự phát sẽ ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm. - Khẩn trương thực hiện việc cấp chứng nhận trang trại để có cơ sở thực hiện các chính sách hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển. - Phát triển và đổi mới mô hình kinh tế hợp tác. Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các HTX là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh, đời sống vì thế cần phải: + Tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ, nhóm, hợp tác đến HTX, tuân thủ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. + Đa dạng hoá mô hình HTX như: HTX nông nghiệp làm dịch vụ, HTX nông nghiệp vừa sản xuất vừa kết hợp với dịch vụ; HTX nông nghiệp thuần tuý trên cơ sở phù hợp với đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân và đặc thù của từng địa phương. Tuy nhiên mô hình về HTX về lâu dài cần khuyến khích phát triển là HTX dịch vụ. + Phát triển kinh tế hộ và các trang trại sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển các HTX, bởi lẽ hoạt động của HTX gắn với sản xuất của hộ nông dân và các trang trại, vừa có tác dụng hộ trợ tạo điều kiện cho kinh tế hộ, trang trại phát triển, là cầu nối giữa kinh tế hộ với kinh tế nhà nước và thị trường vừa góp phần phát huy hiệu quả đầu tư của nhà nước trên từng địa bàn nhất là về thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật ... - Đổi mới, củng cố và xắp xếp lại tổ chức hoạt động của các DNNN. Trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Khi các DNNN năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra sự tác động tích cực thúc đẩy kinh tế hộ nông dân quanh vùng phát triển và tạo điều kiện cho việc hình thành các HTX kiểu mới gắn kiền với doanh nghiệp, đem lại kết quả là cả kinh tế hộ nông dân, các HTX và DNNN đều có điều kiện thuận lợi để phát triển: Nông dân có việc làm, có điều kiện áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, tăng thu nhập; Hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX có hiệu quả, có điều kiện để đổi mới cơ cấu sản xuất; Doanh nghiệp có đủ nông sản để chế biến. Để phát huy hơn nữa vai trò của các DNNN trong phát triển nông nghiệp, nông thôn thì phương hướng đổi mới là: + Thực hiện hoàn chỉnh khoán lâu dài đất đai cho công nhân, hộ nông dân để họ yên tâm vào sản xuất nguyên liệu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có những chính sách giữ ổn định phát triển vùng nguyên liệu thông qua các hoạt động dịch vụ như điện, nước, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, vật tư, vốn...đồng thời có trách nhiệm thu mua nguyên liệu theo giá hợp lý để sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. + Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đổi mới công nghệ, từng bước mở rộng phạm vi hoạt động, chủ động tìm thị trường tiêu thụ ổn định và tiến tới xuất khẩu trực tiếp. + Đưa một phần hoạt động lâm trường sang sản xuất cây giống cung cấp cho nông dân và hướng dẫn họ bảo vệ, trồng rừng, trồng cây công nghiệp. Các lâm trường cần phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, để người công nhân lâm trường thực sự là chủ trên diện tích rừng nhận khoán, thực hiện có chất lượng về công tác quản lý và bảo vệ rừng. + Từng bước thực hiện cổ phần hoá những DNNN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn với sự tham gia vốn của nông dân để tạo sự gắn kết về lợi ích giữa cơ sở chế biến với nông dân. + Hình thành và phát triển mô hình tổ hợp kinh tế tạo sự liên kết giữa DNNN, HTX và nông dân. Đây là một hình thức tổ chức sản xuất theo dạng hiệp hội mang tính tự quản, dân chủ bàn bạc và thiết lập quan hệ trách nhiệm thông qua hợp đồng kinh tế, trong đó DNNN phải thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong cơ chế thị trường trên địa bàn nông thôn bằng việc giúp đỡ, hỗ trợ các HTX và nông dân có nhiều điều kiện để chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Sản phẩm nông dân sản xuất ra luôn được DNNN này thu mua hết. Qua đó, DNNN giữ vững, phát triển được vùng nguyên liệu, đáp ứng cho sản xuất chế biến kinh doanh của mình. - Tổ chức thị trường hàng hoá nông thôn. + Tổ chức tốt màng lưới dịch vụ cung ứng vật tư, hàng hoá và tiêu thụ nông sản tới từng thôn, xã với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó các DNNN, các HTX làm nòng cốt, thực hiện liên kết kinh tế theo hợp đồng kinh tế với nông dân. + Hình thành và phát triển các chợ nông thôn, đảm bảo mỗi xã hoặc một cụm xã hợp lý đều có chợ nông thôn hoạt động theo phiên, tạo điều kiện cho nông dân được thuận lợi trong việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ. - Đẩy mạnh phát triển và chuyển giao công nghệ thích hợp thuộc lĩnh vực bảo quản và chế biến nông sản. Khuyến khích hướng phát triển các loại hình công nghệ phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng sự phân công lao động trong nông thôn, hình thành các loại hình lao động dịch vụ thương mại ở nông thôn. - Thực hiện quy hoạch và công bố rộng rãi quy hoạch phát triển đất đai để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển cơ sở hạ tầng và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Cần giải quyết tốt tình trạng nông dân mất đất không có việc làm thông qua chính sách gắn phát triển khu công nghiệp với xắp xếp lại lao động ở nông thôn và chính sách đối với người nông dân khi đất canh tác được sử dụng phát triển vào mục đích phát triển kinh tế xã hội khác sản xuất nông nghiệp. III.3.3 - Một số kiến nghị với Ngân hàng nhà nước. - Cơ chế điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản cần được xét đến tính thị trường của nông nghiệp, nông thôn miền núi, nơi hầu như không có sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. - Nên quy định trích tỷ lệ trên tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng khác vào NHNo để cho vay nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho sự ưu đãi lãi suất đối với khu vực này. - Cho phép thành lập công ty bảo hiểm của ngân hàng để thực hiện bảo hiểm trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn. - Nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh ngân hàng của chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, đặc biệt chú trọng đến vai trò và hiệu lực thực tế của thanh tra. III.3.4 - Một số kiến nghị với NHNo Việt nam. - Nghiên cứu đề xuất ngân hàng nhà nước trình chính phủ để có sự hỗ trợ thêm vốn và được giảm thuế tạo điều kiện hạ mức lãi suất cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn miền núi. - Sớm ban hành những quy định cụ thể về cho vay phát triển kinh tế trang trại, cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, cho vay phát triển kinh tế HTX. - Cần có sự hỗ trợ và ưu tiên ngân hàng miền núi thể hiện trong đơn giá tiền lương, trong phí nguồn trung ương điều xuống, trong đào tạo cán bộ, trong việc tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị, công nghệ. 3 Kết luận Trong những năm qua cùng với cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam, kênh dẫn vốn qua NH thực hiện cho vay khu vực này đang phát huy hiệu quả của nó, với mục tiêu phát triển ngành nông nghiệp từ đó kích thích các ngành khác cùng phát triển đưa Việt Nam cơ bản đến năm 2020 thành nước công nghiệp. Yên Bái với vị trí đại lý cùng điều kiện tự nhiện ưu đãi, có chính sách phát triển của nhà nước, cùng ngân hàng NNo&PTNT Yên bái đang và sẽ là người bạn động hành với người dân địa phương voí quyết tâm xoá bỏ đói nghèo, đưa kinh tế chung của tỉnh đi lên, tiến kịp với nhịp độ chung của cả nước. Thực hiện chức năng của mình NH cho vay với đối tượng chủ yếu làm nông nghiệp cũng như liên quan đến dịch vụ nông nghiệp, nhưng đối tượng chủ yếu là hộ nông dân. Vơí điều kiện kinh tế của tỉnh Yên bái còn nhiều khó khăn, giao lưu hàng hoá còn chưa thực sự phát triển, hàng nông sản làm ra tiêu thụ chưa có đầu ra ổn định, cùng quá trình lao động tích luỹ vốn hiện nay trong dân còn cao do chưa biết sử dụng vào mục đích nào có hiệu quả cao nhất, đang là vấn đề bỏ ngỏ về huy động vốn tại NH. Trong quá trình thực tập tại NH NNo%PTNT Yên bái, em rút ra một số vấn đề sau: + Địa bàn của hoạt động tại NH NNo tại địa phương có những khó khăn nhất định, song vẫn đạt được những kết quả khả quan trong những năm qua + Luân văn mở ra những phương hướng cũng như mục tiêu trong những năm tới, trên cơ sở phân tích những khó khăn về huy động và đầu tư vốn. + Đánh giá thực lực tiềm năng, trình độ chung của NH, từ đó có những giải pháp hữu hiệu trong những năm tới. + Lắng nghe sự chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ chính quyền địa phương từ đó tạo điều kiện kênh rót vốn của NH đến được tận tay người nông dân Trong quá trình thực hiện thực tập, với sự giúp đỡ của cô giáo Mai Hoa, cùng toàn thể cán bộ NHNNO tỉnh Yên bái. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1- Giáo trình kinh tế đầu tư - Bộ môn kinh tế đầu tư- TrườngĐH kinh tế quốc dân. 2 - Trần Thị Vân Anh - Vũ Tuấn Anh. Kinh tế hộ - lịch sử và triển vọng phát triển - Trung tâm KH-XH và nhân văn quốc gia và trường đại học BRTISH COLUMBIA, CANADA - NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1997. 3- Ban chấp hành trung ương Đảng - Văn kiện hội nghị lần thứ IV(Khoá VIII), NXB Chính trị quốc gia. 4 - Cục thống kê tỉnh Yên Bái - Niên giám thống kê các năm từ 1996-2000. 5 - Chủ tịch hội động quản trị NHNo Việt Nam - QĐ 06/QĐ-HĐQT. Ban hành quy định về cho vay đối với khách hàng. 6 - Chính phủ, NHNN Việt Nam, NHNo Việt Nam - Các văn bản liên quan đến hoạt động NHNo. 7 - Chi nhánh NHNN tỉnh Yên Bái - Báo cáo thống kê các năm từ 1996-2000. 8 - Chi nhánh NHNo Yên Bái - Báo cáo thống kê các năm từ 1996 -2000. 9 - Chi nhánh NHNo Yên Bái - Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997, 1998, 1999, 2000. 10 - Lê Vinh Danh - Tiền và hoạt động ngân hàng - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1997. 11 - Đảng cộng sản Việt nam - Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII. 12 - Đảng cộng sản Việt nam - Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX. 13- Đại học Kinh tế quốc dân - Viện nghiên cứu và phát triển - Phát triển Kinh tế - Xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng CNH, HĐH - NXB Chính trị quốc gia. 14 - Vũ Hiền - Trịnh Hữu Đản (Chủ biên) - Nghị quyết trung ương IV (khoá VIII) và vấn đề tín dụng nông thôn - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1998. 15 - PTS Nguyễn Tiến Mạnh, PTS Dương Ngọc Thí. Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở vùng trung du miền núi phía bắc Việt nam - NXB Nông nghiệp. 16 - FREDERIC S.MISHKIN - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học & Kỹ thuật - Hà Nội 1995. 17 - NHNN Việt Nam - NHNN Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước - NXB Khoa học & Kỹ Thuật - Hà Nội 1997. 18 - NHNN Việt Nam - Tạp chí ngân hàng các số từ 1998-2000. 19 - Phan Thanh Phố - Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam - NXB Giáo dục - Hà Nội 1996. 20 - Chu Hữu Quí - Chính sách thị trường với phát triển nông nghiệp nông thôn. Tạp chí nghiên cứu - trao đổi số 8 - tháng 4/1998. 21 - GS. TS Lương Xuân Quỳ - GS.PTS Nguyễn Thế Nhã - Đổi mới tổ chức và quản lý các Hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn - NXB Nông nghiệp. 22 - Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê 1999. NXB Thống kê - Hà Nội 2000. 23 - Tỉnh uỷ, HĐND, UBND Tỉnh - Tỉnh Yên Bái một thế kỷ (1900 - 2000). Tháng 4/2000. Mục lục Trang Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29768.doc