Một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam

Phần Mở Đầu Doanh nghiệp nhỏ và vừa có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Trong nhiều năm qua, Nhà nước Việt Nam đã liên tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách để hỗ trợ và tạo đà cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Nhằm tổ chức trao đổi về khuôn khổ pháp luật và chính sách hiện hành, phát hiện những điểm chưa hợp lý và kiến giải những biện pháp hoàn thiện. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nội dung chủ yếu trong đường lối xây dựng

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phát triển kinh tế, góp phần phát huy mọi khả năng của các tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc trong công cuộc chấn hưng đất nước. Qua thực tiễn của trên mười năm đổi mới vừa qua, có thể nêu lên một số vấn đề cơ bản trong việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, trước hết ta cần phải hiểu thế nào là các doanh nghiệp nhỏ và vừa? Phần I: Định nghĩa khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa : Việc đưa ra tiêu chí xác định DNN&V mới chỉ có tính ước lệ. Bản thân các tiêu chí đó chưa đủ để xác định khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay gồm những doanh nghiệp nào. Có nhiều quan điểm rất khác nhau về các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là DNN&V. Thí dụ, có ý kiến cho rằng các hộ sản xuất nông nghiệp cũng cần được coi là doanh nghiệp, và do thoả mãn các tiêu chí về DNN&V như qui định nên cũng được coi là DNN&V. Khuôn khổ pháp luật kinh doanh ở nước ta hiện nay được coi là vừa chưa đầy đủ lại vừa chưa rõ ràng.Đây là một thực tế khách quan, chưa thể khắc phục được ngay.Theo pháp luật hiện hành thì nhiều chủ thể tuy có tiến hành hoạt động sản xuất (có thể chỉ là để tự cung, tự cấp), hoặc thực hiện cả việc kinh doanh ( nghĩa là có mua và bán) nhưng vẫn chưa được coi là doanh nghiệp. Thông thường, trong các văn bản quy phạm pháp luật, thuật ngữ doanh nghiệp được dùng chỉ các chủ thể sản xuất kinh doanh có đăng ký. Như vậy, khi các văn bản quy phạm pháp luật dùng thuật ngữ doanh nghiệp là để chỉ doanh nghiệp có tư cách pháp lý tức là được thành lập hợp pháp và có đăng ký với cơ quan Nhà nước theo quy định. Vì vậy, khi bàn về định nghĩa DNN&V đề nghị lấy hành động có đăng ký kinh doanh làm tiêu chuẩn xác định. Theo tiêu chuẩn này, khu vực DNN&V ở Việt Nam được hiểu là gồm các chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập và đăng ký hoạt động theo các quy định của pháp luật, có quy mô về vốn và số lao động phù hợp với quy định của Chính phủ;theo đó, khu vực này được tạo thành bởi: - Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo quy định của Luật Doanh nghiệp Nhà nước. - Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân. - Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật hợp tác xã. - Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị đính số 66/HĐBT. Phần II: Đặc điểm khu vực DNN&V Như đã báo cáo ở phần trên, việc thống kê về số lượng và từ đó về cơ cấu theo ngành đối với khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay gặp nhiều khó khăn, khó có thể đảm bảo độ chính xác cao. Thêm nữa, các số liệu này còn phụ thuộc vào quan niệm phân loại DNN&V và do vậy độ chệnh lệch là rất lớn. Nếu hiểu DNN&V như đã trình bày trong phần định nghĩa thì bức tranh toàn cảnh về khu vực này ở Việt Nam sẽ khác nhiều so với nội dung sẽ trình bày dưới đây (theo báo cáo của Bộ Công nghiệp), nếu tính riêng các DNN&V được thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân và luật hợp tác xã thì số lượng các doanh nghiệp này khoảng 23000, nếu tính các hộ tư nhân và nhóm sản xuất kinh doanh dưới vốn pháp định thì trên 530000 đơn vị,...Tuy nhiên, nếu xuất phát từ những luận cứ sau: -Chỉ những chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập và có đăng ký hợp pháp theo quy định của pháp luật mới được coi là doanh nghiệp. -Các tổ chức tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp (hợp tác xã, tổ sản xuất,...) là những đối tượng đã và đang được hưởng những ưu đãi đặc biệt qua hệ thống chính sách về thuế, tín dụng, các chương trình nông nghiệp và phát triển nông thôn,...nên những nội dung đề xuất và cơ chế, giải pháp chung cho DNN&V trong báo cáo này không có ý nghĩa tác động đáng kể. -Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện cũng đang được hưởng những ưu đãi riêng, có tương đối nhiều lợi thế hơn so với doanh nghiệp trong nước thì số DNN&V được tính trong báo cáo này khoảng 20000 đơn vị và như vậy thì cũng tương đối phù hợp với số liệu của Bộ Công nghiệp.Từ đó,những vấn đề sẽ được trình bày trong báo cáo này cũng chủ yếu chỉ liên quan đến ba thành phần: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật hợp tác xã, tổ sản xuất phi nông nghiệp. -Theo tiêu chí về vốn nêu ở phần trên thì có 89,5% tổng số doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ. Theo quy mô lao động thì 96% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam có số lao động dưới 200 người. Như vậy, có thể nói tổng quát là khoảng 88-90% doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ theo cả hai tiêu chí. Tỷ lệ này trong các ngành và các thành phần kinh tế không giống nhau. Mặc dù số lượng DNN&V chiếm tỷ lệ lớn trong số doanh nghiệp, nhưng theo tính toán thì toàn bộ khu vực DDN&V của cả nước chỉ chiếm 20% tổng vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Các DNN&V ngoài quốc doanh chỉ chiếm khoảng 52% tổng vốn kinh doanh của cả khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra có thể thấy: -Khoảng 50% số doanh nghiệp Nhà nước trung ương và khoảng 75% doanh nghiệp Nhà nước địa phương thuộc loại vừa và nhỏ. -Phần lớn (trên 90%) doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ, trừ loại hình công ty cổ phần. Tuy nhiên, số lượng công ty cổ phần không phải là lớn trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không kể các hộ và nhóm kinh doanh thì số lượng công ty cổ phần chỉ chiếm chưa đến 0,7% tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngành thương mại, dịch vụ, sửa chữa chiếm một số lượng lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước (46,2%) . Gần 18% số DNN&V của cả nước hoạt động trong các ngành công nghiệp và xây dựng. Khoảng 10% DNN&V hoạt động trong các ngành vận tải, dịch vụ, kho bãi,... Số DNN&V còn lại hoạt động trong rất nhiều ngành khác nhau, nên mỗi ngành đó chỉ có rất ít DNN&V. Nói một cách tổng quát, phần lớn các DNN&V ở Việt Nam hoạt động trong 3 lĩnh vực chính: thương mại và dịch vụ đời sống; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ vận chuyển hàng hoá và hành khách. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, có 37,3% các DNN&V trong công nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% DNN&V trong công nghiệp hoạt động trong các ngành dệt, may, da . Ngành cơ khí, sản xuất thiết bị, máy móc, dụng cụ chính xác, lắp ráp xe máy và các phương tiện giao thông chiếm 12,3% tổng số lượng DNN&V của toàn ngành công nghiệp. - Trong những năm đổi mới, hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi nhiều doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại thông qua sáp nhập, giải thể hoặc đóng cửa, trong đó có các DNN&V. Các vùng đô thị tập trung đông dân cư, các vùng gần thị trường tiêu thụ và các trung tâm công nghiệp được hình thành từ trước thời kỳ đổi mới là những nơi thuận lợi cho việc ra đời của các doanh nghiệp mới, ở các vùng nông thôn, nơi các làng nghề bị mai một trong những năm bao cấp, nay được chính sách đổi mới tác động nên nhiều doanh nghiệp với các hình thức khác nhau đã ra đơì góp phần duy trì và phát triển các nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm cho các lao động sẵn có tại địa phương. Tất cả các yếu tố đó đã ảnh hưởng đến việc phân bố doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ trong đó có các DNN&V. Riêng Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long đã chiếm trên 55% tổng số DNN&V của cả nước. Hai vùng có số lượng DNN&V tiếp theo là đồng bằng Sông Hồng (18,1%) và duyên hải miền Trung (10,1&). - DNN&V hiện nay gặp phải nhiều khó khăn, thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp không giống nhau. Nhiều doanh nghiệp phản ánh là thiếu vốn nhưng thực tế nếu có vốn cũng không biết sử dụng vào mục đích gì. Việc cung ứng vốn cho DNN&V hiện nay được đánh giá là chủ yếu được thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của thân nhân, bạn bè và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNN&V, nhất là các DNN&V ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức, tức tín dụng của hệ thống ngân hàng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể nêu một số như sau: +Hệ thống ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian còn yếu kém chưa tiếp cận được với cầu về tín dụng. Trong những năm qua, số dư tín dụng của hệ thống ngân hàng chủ yếu là dành cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), và chủ yếu là các DNNN quy mô lớn; +Bản thân doanh nghiệp, trong đó có DNN&V, chưa có khả năng đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án,thủ tục thế chấp,...; +Các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng thường e ngại khi vay ngân hàng, vì như vậy buộc phải xuất trình các báo cáo chính xác về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, điều mà nhiều doanh nghiệp không muốn làm vì nhiều lý do khác nhau: -Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc của khu vực DNN&V không nằm ngoài tình trạng chung về công nghệ, trang thiết bị máy móc của các doanh nghiệp cả nước, nếu không nói là lạc hậu hơn. Mặt khác, tỷ lệ mới trang thiết bị cũng rất thấp kể cả những năm tăng trưởng cao vừa qua. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đổi mới thiết bị trong doanh nghiệp ở TP.HCM, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, cũng chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu tư. Như vậy phải mất 10 năm đổi mới máy móc thiết bị. Trong khi đó, nhiều sản phẩm, nhiều công nghệ trong công nghiệp hiện nay như điện tử, viễn thông, hoá thực phẩm thường trở nên lạc hậu rất nhanh. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu là quá cao, nên với tốc độ đổi mới thiết bị như trên thì khó có thể tránh khỏi tụt hậu. -Việt Nam là một thị trường lớn gần 80 triệu dân nhưng có một nhu cầu về chất lượng hàng hoá và dịch vụ chưa cao nhất là ở nông thôn, nơi cư trú của khoảng 80% dân số của cả nước. Vì vậy thị trường trong nước là một tiềm năng rất lớn cho khu vực DNN&V. Tuy nhiên, hiện tại thị trường Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hoá nhập lậu. Nạn nhập lậu hàng hoá, nhất là hàng hoá tiêu dùng tác động trực tiếp đến các DNN&V vì đó là thị trường của các DNN&V. Khác với các doanh nghiệp lớn, DNN&V nhìn chung không có đủ lực để hạ giá hàng nhằm cạnh tranh với giá hàng nhập lậu trong thời gian ngắn để dành lại thị trường. Mặt khác khả năng cạnh tranh của các DNN&V của ta còn rất yếu do nhiều nguyên nhân, do công nghệ,thiết bị lạc hậu, do bị hạn chế về trình độ quản lý kinh doanh trên thương trường. -Lao động trong các DNN&V chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao đông trong cơ sở kinh doanh nhỏ.Số liệu điều tra cho thấy: chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh là có trình độ cao, trong đó chủ yếu tập trung trong các doanh nghiệp TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). -Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp mới được thành lập chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh. Trong số các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì 42.7% là những người từng là cán bộ, công nhân viên chức nhà nước. Trên 60% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có độ tuổi trên 40. Khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có trình độ chuyên môn và chỉ có 31,2% sốchủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ từ cao đẳng trở lên. - Vị trí và vai trò của DNN&V trong phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Quan điểm chung hiện nay đều cho rằng DNN&V đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, đóng góp phần quan trong GDP, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, thu hút một phần lao động mới gia tăng hàng năm trong nền kinh tế. -Tỷ trọng của khu vực ngoài quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế chiếm khoảng 65% GDP năm 1995, trong đó khu vực cá thể không đăng ký kinh doanh ( chủ yếu là cá thể và hộ gia đình trong các ngành nông,lâm, ngư,nghiệp) chiếm khoảng 28,4%. Như vậy, tỷ trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó có DNN&V,trong GDP là khoảng 36,6%. Theo tính toán, DNN&V ngoài quốc doanh chỉ chiếm khoảng 52% tổng vốn kinh doanh của toàn bộ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nên có thể ước tính là DNN&V ngoài quốc doanh chiếm 52% sản lượng của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tức là 19% GDP -Trong 35% GDP thuộc về khu vực nhà nước, theo tính toán, khu vực DNN&V Nhà nước chiếm khoảng 20%, tức khoảng 7% GDP. Như vậy, toàn bộ khu vực DNN&V của cả nước (gồm tất cả các thành phần kinh tế ) chiếm khoảng 24-25% GDP. Tuy nhiên, đây chỉ là ước tính ban đầu. - Trên thế giới, khu vực DNN&V được coi là khu vực thu hút nhiều lao động, góp phần quan trọng giải quyết việc làm, nhất là ở những nước đông dân,lại chủ yếu sống bằng nghề nông,dư thừa lao động và có thu nhập thấp như ở nước ta. Hàng năm, nước ta có thêm khoảng 1 triệu người gia nhập lực lượng lao động.Những năm gần đây khả năng thu hút lao động mới này vào khu vực Nhà nước rất hạn chế. Ngoài ra, do những thay đổi trong những năm đầu tiến hành cải cách kinh tế, đặc biệt là do việc cắt giảm biên chế trong khu vực hành chính sự nghiệp và trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước, dẫn đến sự dư thừa lao động ngày càng tăng. Chính khu vực ngoài quốc doanh, trong đó có các DNN&V, đã đóng góp một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thu hút số lao động mới này, cũng như thu hút trở lại số lao động dư thừa của khu vực Nhà nước trong một vài năm trở lại đây. Việc khu vực ngoài quốc doanh thu hút trở lại số lao động dư thừa của khu vực Nhà nước trong những năm qua đã góp phần tạo thêm thu nhập cho số lao động đó, ổn định cuộc sống của họ và góp phần ổn định xã hội. Đó là đóng góp lớn của khu vực ngoài quốc doanh, trong đó có DNN&V trong việc tạo việc làm và thu nhập. Trong tổng số lao động của khu vực ngoài quốc doanh có khoảng 24,5 triệu lao động thuần tuý làm nông,lâm nghiệp dưới hình thức cá thể và hộ sản xuất không đăng ký kinh doanh. Số còn lại khoảng 6,6 triệu lao động làm việc trong các ngành khác, chủ yếu là trong các DNN&V có đăng ký, kể cả trong các hộ và nhóm kinh doanh. Trong tổng số hơn 3 triệu lao động làm việc trong khu vực Nhà nước thì có khoảng 1,8 triệu lao động trược tiếp làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh, trong đos có DNN&V. Ước tính, 70% số lao động này làm việc trong các DNNN có quy mô vừa và nhỏ thì tổng số các lao động làm việc trong các DNN&V ở Việt Nam là khoảng 7, triệu người, chiếm khoảng 25%-26% lực lượng lao động của cả nước.Tỷ lệ này sẽ lớn hơn nhiều nếu tính các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp trong các làng nghề như trình bày ở phần đầu báo cáo này. Một yếu tố khác giúp cho khu vực DNN&V có vai trò ngày càng tăng trong lĩnh vực tạo việc làm và xuất đầu tư cho một chỗ làm việc thấp hơn nhiều so với đầu tư cho một chỗ làm trong các doanh nghiệp lớn. Theo một nghiên cứu thì chỉ cần 0,8 - 1,5 triệu lao động để tạo thêm một chỗ làm trong DNN&V, tức là thấp hơn nhiều so với chi phí tạo ra một chỗ làm trong doanh nghiệp lớn. Phần III: DOANH NGHIÊP VừA Và NHỏ VớI LUậT KHUYếN KHíCH ĐầU Tư TRONG NƯớC. I-Những mục tiêu của luật KKĐTTN Ngày 22/6/1994 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ năm thông qua Luật KKĐTTN; Ngày 20/5/1998 Quốc Hội khoá X thông qua luật KKHDDTTN (sửa đổi). Luật Khuyến khích đầu tư trong nước là một luật ban hành các chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích, hỗ trợ và ưu đãi đối với các hoạt động đầu tư do các nhà đầu tư trong nước thực hiện; với mục tiêu phát huy nội lực, huy động mọi nguồn lực trong nước,sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng chất xám của đất nước tham gia đầu tư trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước là một công cụ hỗ trợ cho các DNN&V vươn lên cạnh tranh trên thị trường không kể doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào. Về ý nghĩa pháp lý, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã không phân biệt doanh nghiệp theo sở hữu, bước đầu tạo nên một cách nhìn nhận mới về cách phân loại doanh nghiệp , chuyển dần từ việc phân loại doanh nghiệp theo sở hữu sang phân loại doanh nghiệp theo quy mô. Luật khuyến khích đầu tư trong nước là một đối trọng với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo ra một vị thế mới cho doanh nghiệp trong nước lấp dần sự ngăn cách về chính sách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. II-Những Nội Dung Cơ Bản Của Luật Khuyến Khích Đầu Tư Trong Nước 1-Những chính sách Khuyến khích đầu tư trong nước Mở rộng chủ thể đầu tư Nhà nước bảo hộ và khuyến khích tổ chức,Công dân Việt Nam, Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Theo quy định của Luật Khuyến khich đầu tư trong nước thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam có thể lựa chọn các loại hình doanh nghiệp thích hợp để đầu tư như một công dân Việt Nam. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho người nước ngoài, tổ chức kinh tế nước ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam không quá 30% vốn điều lệ vào những lĩnh vực ngành nghề thuộc danh mục do Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt từng thời kỳ. 2-Đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân,công ty Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua 20/6/1999 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi sự kiểm tra kiểm soát trước khi thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị trường, việc giám sát kiểm tra của Nhà nước chuyển sang giai đoạn sau khi đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp xoá bỏ quy định vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề đã tạo ra điều kiện cho các DNN&V ra đời thuận lợi giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp. 3-Nhà nước bảo đảm hỗ trợ đầu tư a-Hỗ trợ về đất đai: ban hành các chính sách về đất đai -Luật sửa đổi, bổ xung một số điều của Luật đất đai (2/12/1998) đã quy định thêm quyền sử dụng đất bao gồm: quyền góp vốn bắng giá trị sử dụng đất để liên doanh. Với quy định này đã tạo thêm khả năng cho các chủ đầu tư dùng quyền sử dụng đất để thành lập các DNN&V để kinh doanh -Công bố công khai quy hoạch sử dụng đất. -Miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. -Nhà nước đầu tư phát triển hạ tầng tạo điều kiện cho các DNN&V có mặt bằng tổ chức sản xuất kinh doanh. b-Các chính sách hỗ trợ về vốn: -Lập Quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay với lãi xuất ưu đãi. Quỹ này đã hoạt động trên 2 năm. -Lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu -Lập quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia. -Các dịch vụ hỗ trợ đầu tư về các lĩnh vực: +Tư vấn quản lý, chuyển giao công nghệ, dạy nghề. +Cung cấp thông tin về thị trường, thông tin khoa học. +Tiếp thị xúc tiến thương mại. -Thành lập các trung tâm thiết kế, thử nghiệm để hỗ trợ phát triển các DNN&V. -Thành lập các hiệp hội ngành nghề sản xuất kinh doanh, các hiệp hội xuất khẩu. 4-Nhà nước ưu đãi đầu tư: -Đầu tư ngành nghề Nhà nước cần ưu tiên phát triển -Sử dụng nhiều lao động -Đầu tư ở các địa bàn khó khăn sẽ được Nhà nước ưu đãi miễn giảm các loại chi phí và thuế: +Miễn giảm tiền sử dụng đất +Miễn giảm tiền thuê đất +Miễn giảm thuế sử dụng đất +Giảm mức thuế suất, thuế thu nhập +Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc tạo thành tài sản cố định +Sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng thêm ưu đãi bổ xung về thuế thu nhập +Miễn thuế tài nguyên khoáng sản. III-Tình Hình Thực Tiễn Khuyến Khích Đầu Tư Trong Nước Thực tế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất thiếu vốn nhưng không được vay hoặc được vay nhưng không thể vay được vì chi phí thực tế lại cao hơn lãi suất vay thương mại ở ngân hàng. Những vấn đề tồn tại: -Chưa có tiêu chí phân biệt rõ đầu tư mới và đầu tư mở rộng -Thiếu một cơ chế pháp lý để thực hiện khuyến khích đầu tư trong nước đối với kinh tế trang trại là những DNN&V ở nông thôn và miền núi. -Các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa tạo ra cơ hội cho những người nghèo,yếu thế tham gia đầu tư mà mới chỉ quan tâm tới các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà Nhà nước cần khuyến khích và ở các địa bàn cần khuyến khích. -Còn thiếu chiến lược khuyến khích đầu tư đối với DNN&V. Ngay cả các dự án nghiên cứu về DNN&V cũng bị phân tán việc nghiên cứu để tìm giải pháp đồng bộ chưa có sự chỉ huy thống nhất, nên cho đến nay chưa có được một chính sách cụ thể đối vơi DNN&V. -Mối quan hệ giữa chính sách đối với DNN&V và các chính sách xoá đói giảm nghèo, các chính sách đối với hợp tác xã cần có một sự lồng ghép. -Các dự án liên quan đến hỗ trợ DNN&V ngoài quốc doanh cần phối hợp hành động vì mục tiêu chung xây dựng được luật hỗ trợ DNN&V ngoài quốc doanh để thay thế Luật Khuyến khích đầu tư trong nước hiên hành. Phần IV: LUÂT DOANH NGHIệP- Cở Sở PHáP Lý MớI ĐốI VớI CáC DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA NGOàI QUốC DOANH. Người kinh doanh cần những hình thức pháp lý phù hợp để đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh, chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Pháp luật Việt Nam hiện hành tạo điều kiện cho người kinh doanh có thể lựa chọn nhiều mô hình tổ chức kinh doanh khác nhau tuỳ theo số lượng vốn, ngành nghề và mục đích kinh doanh. Việc tìm hiểu quy định pháp luật về các mô hình này là rất cần thiết, vì nếu không hiểu biết pháp luật mà đầu tư sai quy định, có thể sẽ bị Toà án Việt Nam coi là hành vi phạm pháp. I-Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Ngoài Quốc Doanh Dưới giác độ của một nhà đầu tư, theo pháp luật hiện hành, người kinh doanh có thể đầu tư vốn theo các hình thức dưới đây: -Kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT- Cá nhân kinh doanh -Góp vốn cùng người khác kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT- Nhóm kinh doanh -Kinh doanh theo mô hình Tổ hợp tác- Điều 120 - 129 BLDS -Thành lập Hợp tác xã theo luật hợp tác xã 1996 -Thành lập Doanh nghiệp tư nhân -Thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn -Thành lập công ty cổ phần Các hình thức nêu trên có thể được gọi là đầu tư thành lập các doanh nghiệp. Ngoài ra, tuỳ theo ngành nghề và sự linh hoạt của người kinh doanh, có thể chọn rất nhiều hình thức đầu tư khác mà không thành lập doanh nghiệp mới. Phù hợp với các mô hình kinh doanh kể trên, theo số lượng thống kê, các mô hình doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam như sau: +6300 Doanh nghiệp nhà nước +350 Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội +8903 Công ty trách nhiệm hữu hạn +2882 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài +200 Công ty cổ phần +21358 Doanh nghiệp tư nhân +1.800.000 cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT Bảng thống kê này cho thấy,DNN&V ngoài quốc doanh tập trung ở mô hình “Cá nhân và nhóm kinh doanh” theo NDD số 66/HĐBT, “Doanh nghiệp tư nhân” và một số ít hơn ở dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần là mô hình chưa được ưa chuộng rộng rãi ở Việt Nam. II-Một Số Điểm Mới Cơ Bản Của Luật Doanh Nghiệp 1999 Luật doanh nghiệp gồm 10 chương với 124 điều đã được Quốc hội thông qua ngày12-6-1999, có hiệu lực từ ngày 01-01-1999, thay thế Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, Luật này là một bước tiến mới, tạo nhiều điều kiện pháp lý thuận lợi cho người đầu tư trong việc thành lập và tổ chức kinh doanh. Nhìn tổng thể, những thành công cơ bản của Luật doanh nghiệp thể hiện ở những điểm sau: -Là một bước tiến mới thực hiện đương lối cải cách kinh tế của Nhà nước Việt Nam: +Phát huy nội lực +Tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế +Đa dạng hoá các hình thức pháp lý cho các hoạt động kinh doanh +Cải cách hành chính +Pháp điển hoá -Là một thành công lớn trong việc khuyến khích làm giàu hợp pháp: +Cải cách cơ bản thủ tục thành lập doanh nghiệp +Bảo hộ quyền tự do kinh doanh +Khuyến khích sự năng động +Khuyến khích sự tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh +Bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số +Bảo vệ quyền lợi của chủ nợ +Quy định trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp trong các giao dịch tư lợi. -Là một đạo luật có tầm nhìn chiến lược trong tương quan với: +Cải cách doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đoàn thể +Nhất thể hoá luật đầu tư trong nước và nước ngoài +Hỗ trợ thị trường chứng khoán phát triển +Chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, cơ sở pháp lý cho các liên kết tập đoàn +Nâng pháp luật Việt Nam hài hoà hoá với pháp luật quốc tế (WTO). Phần V: NHữNG KHía CạNH PHáP Lý Của VIệC THUế ĐấT KINH DOANH THế CHấP QUYềN Sử DụNG ĐấT Để VAY VốN Hiến pháp 1992 nước CHXHCN việc xác định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.Với mục đích giúp cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là các DNN&V ngoài quốc doanh có thể cạnh tranh, làm ăn có hiệu quả; tồn tại, đứng vững và cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường, thì việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề sử dụng đất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh là một việc làm cần thiết không thể thiếu được của chủ doanh nghiệp. I-Thuê Đất Kinh Doanh 1-Các trường hợp thuê đất: Luật đất đai 1993 quy định Nhà nước cho thuê đất trong các trường hợp sau: -Tổ chức kinh tế sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo dự án được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. -Hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nước còn cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất để tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. 2-Thời hạn cho thuê đất: Luật đất đai quy định:Thời hạn cho thuê đất được xác định theo dự án đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhưng không quá 50 năm, đối với dự án cần thời hạn thuê đất dài hơn thì căn cứ vào quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hôị, Chính phủ quyết định thời hạn cho thuê đất đối với từng dự án, nhưng không quá 70 năm. 3-Vấn đề cho thuê lại đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất của tổ chức trong nước Thực hiện công cuộc “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước do Đảng khởi xướng, Nhà nước ta ban hành quy chế thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài đầu tư sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước, xây dựng và kinh doanh cá công trình cơ sở hạ tầng, tiến hành các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. II- Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất Để Vay Vốn Kinh Doanh 1-Khái Niệm: Thế chấp quyền sử dụng đất là trường hợp người sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật đất đai. Sở dĩ điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất được pháp luật quy định không khắt khe như đối với các hình thức khác của chuyển quyền sử dụng đất là vì: sau khi hợp đồng thế chấp được lập thì người sử dụng đất vẫn tiệp tục được chiếm hữu và sử dụng đất. Trên thực tế chưa có sự chuyển giao quyền sử dụng đất cho người khác.Nói cách khác, pháp luật không cần thiết phải can thiệp sâu vào vấn đề này vì thế chấp quyền sử dụng đất cũng chỉ là một biện pháp bảo đảm cho hợp đồng vay vốn, là hình thức chuyển quyền sử dụng đất có điều kiện tức là chỉ xảy ra khi người sử dụng đất không trả được tiền vay. 2-Cơ Sở Pháp Lý Của Việc Quy Định Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất *Điều 18-Hiến pháp 1992: Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. *Điều 78c - Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 1993:Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất có quyền: “Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đai tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật” *Điều 78d - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 quy định: -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm có quyền thế chấp tài sản thuộc quyền sử hữu của mình gắn liền với đất thuê tại tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê tại tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật -Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có quyền của tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất cho cả thời gian thuê. *Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. *Quyết định số 217/QĐNH1 ngày 17-8-96 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng. *Nghị định 17/CP ngày 29-3-99 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, cho thuê lại thừa kế quyền sử dụng đất, thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Vậy cho thuê quyền sử dụng đất và thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn sản xuất kinh doanh là những quy định mới của pháp luật đất đai nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng đất khai thác tối đa mọi tiềm năng đất đai, đồng thời giúp họ sử dụng có hiệu quả đất đai. Tuy nhiên các văn bản pháp luật cụ thể hoá các quy định này đang và sẽ được ban hành, trong đó thiếu các quy định cho các DNN&V ngoài quốc doanh. Điều đó gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc làm thủ tục vay vốn sản xuất kinh doanh tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước. Những khía cạnh pháp lý về cho thuê đất và thế chấp quyền sử dụng đất được đề cập trên đây mới dừng lại ở việc giới thiệu các quy định mang tính khái quát chắc chắn chưa thể thoả mãn được đòi hỏi của các doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp thực thi các quy định này. Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có những bổ sung, sửa đổi và pháp điển hoá trong các quy định của Bộ luật đất đai trong tương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0247.doc