Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết
Tín dụng Ngân hàng được coi là “đòn bẩy” cho sự phát triển kinh tế, phát triển nguồn vốn trong nước. Giống như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất nhiều so với rủi ro trong các ngành kinh doanh khác. Hậu quả cuả nó là dễ lan truyền trong cả hệ thống, gây ra sự sụp đổ của hàng loạt Ngân hàng và những hậu quả nghiêm
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng về kinh tế xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam hiện nay.
3. Giới hạn của đề tài
Khi đã nói đến tín dụng là nói đến hai mặt cả huy động vốn và cho vay, nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn nên em chỉ đi sâu nghiên cứu về rủi ro cho vay trong vòng ba năm 2005, 2006, 2007 của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
4. Nội dung luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng NHTM
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam.
Chương 1:
Một số nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng .
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng Ngân hàng thương mại :
1.1.1.1- Khái niệm:
Trong lịch sử phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng ngân hàng đã trải qua một quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp về kỹ thuật và nghiệp vụ, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn về không gian, phù hợp với quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hoá ngày càng hoàn thiện. Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là Ngân hàng – một tổ chức hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ – với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, mà trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức: Nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, thẻ tiết kiệm. Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu vốn cần được bổ sung cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển đời sống và tiêu dùng. Quá trình tạo vốn và sử dụng vốn của tín dụng ngân hàng tức là quá trình đi vay để cho vay, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.1.1.2- Các đặc điểm của tín dụng Ngân hàng:
* Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay(khách hàng) và người cho vay(Ngân hàng). Đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn; người đi vay cũng tin vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về lòng tin là điều kiện hình thành quan hệ tín dụng. Cơ sở tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản thế chấp hoặc do sự bảo lãnh của một bên thứ ba...
* Tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị mà người cho vay cho một khách hàng(người đi vay) được sử dụng trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Đối tượng của sự chuyển nhượng là tiền tệ. Tính chất của loại tín dụng này là chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu với lượng giá trị đó.
* Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả về thời gian và giá trị (bao gồm cả gốc và lãi). Phần lãi phải đảm bảo cho lượng tiền hoàn trả lớn hơn lượng gía trị ban đầu. Sự chênh lệch này là giá phải trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Do vậy, giá trị đó phải đủ lớn để có sức hấp dẫn người sở hữu.
1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng.
Nguyên tắc có mục đích: xuất phát từ bản chất hoạt động của con người là họat động sản xuất có kế hoạch, có dự kiến trước, một đặc trưng văn minh của con người.
Nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi đúng hạn: đó là đặc trưng của tín dụng, khác hẳn với sự cấp phát của Ngân sách cấp phát của Nhà nước hoàn trả là nguyên tắc bảo tồn duy trì sự sống còn của tín dụng.
Có vật tư đảm bảo: là nguyên tắc xuất hiện theo sự đòi hỏi của quy luật lưu thông tiền tệ, sự cân đối giữa tiền và hàng.
1.1.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đẵc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
1.1.3.1.Tín dụng ngắn hạn(thời hạn từ 12 tháng trở xuống)
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các Ngân hàng Thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn vì đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp (do thời gian hoàn vốn nhanh), tránh được các rủi ro thường gặp trong quan hệ tín dụng( rủi ro lãi suất, rủi ro lạm phát, rủi ro tỷ giá...), cũng như sự bất ổn trong môi trường kinh tế vĩ mô. Chính vì tính đánh đổi rủi ro trong tín dụng nên mức lãi suất thấp hơn so với các loại tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.2. Tín dụng trung hạn(>12 tháng đến 60 tháng) và dài hạn(>60 tháng).
Tín dụng trung và dài hạn là loại tín dụng có thời hạn vay - trả dài dùng để cấp vốn cho các đối tượng đầu tư dài hạn,( xây dựng doanh nghiệp mới; các công trình thuộc cơ sở hạ tầng; đường giao thông; bến cảng sân bay; cải tiến kỹ thuật; mở rộng sản xuất với quy mô lớn). Nhìn chung, tín dụng trung và dài hạn đầu tư để hình thành tài sản cố định. Do thời gian dài, lượng vốn cho vay lớn nên tính rủi ro cao. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn:
- Hình thức tín dụng thuê mua: Là hình thức cho thuê tài sản dài hạn, mà trong thời hạn đó, Ngân hàng chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho doanh nghiệp thuê sử dụng. Doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán tiền trong suốt thời gian thuê và có thể được sở hữu tài sản thuê; được quyền mua lại tài sản; hoặc được thuê tiếp theo các điều kiện đã thoả thuận.
- Hình thức tín dụng bảo lãnh trả chậm: Là cam kết của Ngân hàng về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thay thế cho chủ đầu tư đứng ra nhập máy móc thiết bị với thời gian ít nhất là một năm (trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với người xuất khẩu). Hình thức tín dụng này được dùng khi chủ đầu tư muốn nhập máy móc, thiết bị của nước ngoài mà không có tiền trả hết ngay một lần.
- Hình thức đồng tài trợ: Hình thức này được thực hiện khi có một dự án khả thi với quy mô lớn, chủ đầu tư đến xin vay nhưng số vốn xin vay vượt quá khả năng của Ngân hàng. Lúc này Ngân hàng sẽ ký hợp đồng với một (hoặc một số) Ngân hàng khác để họ cùng góp vốn đầu tư vào dự án.
- Hình thức tín dụng theo dự án: Hình thức này được thực hiện rộng rãi và chủ yếu hiện nay, bao gồm :
+ Tín dụng trung và dài hạn nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng thay thế tài sản cố định. Nguồn vốn của Ngân hàng tham gia vào dự án tương đối lớn(vốn của Ngân hàng đầu tư lớn hơn vốn tự có của doanh nghiệp), thời gian tín dụng không dài. Hình thức tín dụng này được Ngân hàng tài trợ cho những doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả.
+ Tín dụng trung và dài hạn nhằm đầu tư cho các dự án xây dựng mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ để tiến hành sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào hình thức này, nguồn vốn của Ngân hàng thường nhỏ hơn vốn tự có của chủ đầu tư, thời gian sử dụng vốn dài. Những dự án này thường có quy mô lớn.
1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng.
1.2.1.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng phát sinh khi người vay hoặc một bên đối tác có nguy cơ không thể thực hiện trách nhiệm trong một giao dịch tín dụng, Ngân hàng có nguy cơ không nhận được lãi hoặc gốc, hoặc cả gốc lẫn lãi trên các khoản cho vay.
Do vậy, có thể rút ra nhận thức khái quát về rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là sự tổn thất tiền vay(gồm cả gốc và lãi) trực tiếp hoặc gián tiếp, xuất phát từ việc người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết, hoặc mất khả năng thanh toán với nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra.
Rủi ro tín dụng nếu xảy ra có thể ảnh hưởng đến người cho vay và nắm giữ các hợp đồng vay nợ khác; cũng như những người cho vay khác đối với bên cấp tín dụng. Do vậy, điều kiện tài chính của khách hàng đi vay cũng như giá trị hiện tại của khoản thế chấp sẽ là yếu tố cần thiết để xác định mức lãi suất tín dụng của Ngân hàng.
1.2.1.2 Nhận biết rủi ro tín dụng.
Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng khác nhau, tuy nhiên hiện nay phương pháp thường được áp dụng trên thế giới là phương pháp phân tích tín dụng thông qua 5 tiêu chí:
* Thông qua mức vốn để đánh giá thực trạng và tình hình hoạt động của các đối tác vay vốn. Vốn là yếu tố quan trọng thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng. Mặc dù sức mạnh tài chính chỉ là một trong số các yếu tố liên quan đến việc đánh giá rủi ro, nhưng những thông tin có được để đánh giá vốn nói chung sẽ hình thành cơ sở để dánh giá các yếu tố khác (như khả năng, năng lực tài chính). Khi đánh giá về sức mạnh tài chính của người vay, cần đánh giá về thực trạng tài chính và thu nhập dự kiến tương lai của họ.
* Phân tích khả năng trả nợ của đối tượng vay vốn. Việc đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng là cực kì quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng. Muốn đánh giá khả năng hoàn trả cần phân tích đó là yếu tố dòng tiền, (bao gồm dòng tiền vào, dòng tiền ra), dự đoán được thu nhập và lợi nhuận trong tương lai của họ, để từ đó nắm chắn nguồn trả nợ của khách hàng (căn cứ vào việc phân tích bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp).
* Đánh giá đặc tính và khả năng độc lập trong kinh tế của đối tác vay vốn. Khả năng độc lập trong kinh tế của khách hàng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại trong kinh doanh của khách hàng đó. Khách hàng phải có tính độc lập cao trong kinh doanh, phải là người thực sự có đầu óc kinh doanh, là người dám quyết dám làm và dám chịu trách nhiệm song không mang tính mạo hiểm.
* Phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài có thể ảnh hưởng đến tình hình hoạt động trong tương lai của đối tác vay vốn. Các yếu tố bên trong và bên ngoài cũng là yếu tố quan trọng liên quan trực tiếp đến rủi ro của khoản vay.Các yếu tố này thường tạo ra những rủi ro không được báo trứơc, đôi khi là những rủi ro bất khả kháng. Người phân tích tín dụng (hay cán bộ tín dụng) phải đưa ra những trường hợp xấu nhất để lường trước những rủi ro có thể phát sinh trong thời gian khách hàng vay vốn, đặc biệt đối với những khoản vay có thời hạn dài.
* Đánh giá những bảo đảm để hỗ trợ và bảo đảm cho các khoản vay vốn. Mặc dù, mục tiêu của Ngân hàng không phải để thu hồi tài sản thế chấp, mà là thu hồi tiền vốn và lãi. Song, tài sản thế chấp được dùng làm vật đảm bảo cho khoản vay trước hết tăng cường trách nhiệm của người vay với tiền mình vay và sau đó là giá trị để bảo đảm cho số tiền vốn mà Ngân hàng đã cho vay.
Giá trị tài sản thế chấp phải lớn hơn số tiền vay, mức cho vay tối đa chỉ bằng 70% giá trị tài sản thế chấp.
Nhiều Ngân hàng phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhát còn nợ khách hàng nhóm D, E được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Để cách phân loại này phản ánh chính xác rủi ro tín dụng phải có tiêu chuẩn để xếp hạng tín nhiệm đúng.
Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên các Ngân hàng cố gắng “thấy” được càng rõ, càng rõ, càng kỹ càng tốt. Khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ không trả nợ là biểu hiện rõ nhất, bên cạnh các khoản nợ không trả được đến hạn ở các cấp độ khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau. Nhiều Ngân hàng cho rằng nếu một khoản nợ đến hạn không trả được, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là rủi ro. Những thước đo rủi ro tín dụng cho thấy rủi ro ở độ rộng với những tầng nấc khác nhau. Do đó vấn đề không phải là ở con số nợ xấu chiếm 2% hay 7% tổng dư nợ, mà nợ xấu của các kết quả phụ thuộc rất nhiều vào việc liệu cán bộ Ngân hàng các cấp có thực sự nghiêm túc nhìn nhận rủi ro tín dụng không và chính sách quản trị rủi ro có nhằm mục tiêu tạo nên tính minh bạch trong xác định rủi ro hay không.
Theo QĐ 493, nợ của các NHTM được chia thành 5 nhóm:
+ Nhóm 1(nợ đủ tiêu chuẩn):Trích bằng 0%/dư nợ.
+ Nhóm 2(nợ cần chú ý):Trích bằng 5%/dư nợ.
+ Nhóm 3(nợ dưới tiêu chuẩn):Trích bằng 20%/dư nợ.
+ Nhóm 4(nợ có khả năng tổn thất một phần):Trích bằng 50%/dư nợ.
+ Nhóm 5(nợ có khả năng mất vốn):Trích bằng 100%/dư nợ
1.2.2. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
12.2.1. Nguyên nhân do Ngân hàng.
- Cán bộ tín dụng Ngân hàng năng lực, phẩm chất còn yếu.
Đội ngũ cán bộ Ngân hàng còn bất cập về trình độ, non kém về nghiệp vụ, thẩm định dự án đầu tư thiếu chính xác, khách quan, đánh giá khả năng thu hồi vốn vay không sát với thực tế tình hình; thiếu thông tin về khách hàng. Khi người đi vay không lường hết được rủi ro, mà cán bộ Ngân hàng cũng khồng biết để tư vấn cho khách hàng, thì doanh nghiệp dễ bị thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng.
Một số cán bộ do sự tác động của cơ chế thị trường đã thoái hóa phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm hoặc bị mua chuộc trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Có trường hợp do không chấp hành đúng quy trình đầu tư tín dụng: (định kì hạn nợ không đúng với chu kì kinh doanh, thiếu sự kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay), đã cho khách hàng vay tiền sử dụng sai mục đích, không phát hiện kịp thời để có biện pháp thu hồi vốn vay. Cá biệt có cán bộ tín dụng đã lợi dụng chức quyền, thông đồng với khách hàng làm hồ sơ giả để rút vốn, hoặc vay khách hàng.
- Quá tin tưởng vào vật thế chấp.
Vật thế chấp nhằm để bảo đảm khoản vay khi người vay mất khả năng thanh toán. Các Ngân hàng khi có vật thế chấp thì rất yên tâm và thiếu sự giám sát chặt chẽ với các khoản vay. Trong khi đó các khoản vay lại được thế chấp bởi những tài sản không đủ tiêu chuẩn, thiếu tính hợp pháp, hoặc khó tiêu thụ khi cần bán. Việc đánh giá và nhận định biến động thị trường chưa chuẩn, nên khi phát mại số tiền không đủ trang trải nợ và các khoản chi phí. Trong một số trường hợp, do việc thẩm định không tốt dẫn đến bị người vay lừa đảo, bán tài sản thế chấp mà Ngân hàng không biết (hoặc mang tài sản thế chấp ở Ngân hàng này đi thế chấp ở Ngân hàng khác).
- Quá chú trọng đến lợi nhuận.
Hoạt động của NHTM nhằm mục đích thu lợi nhuận, nhưng tỷ suất lợi nhuận lại tỷ lệ nghịch với rủi ro. Vì vậy, các Ngân hàng trong lúc hăng hái tìm kiếm lợi nhuận, đã bất chấp những khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn. Trong điều hành, có Ngân hàng đã thực hiện cơ chế khoản doanh thu. Vấn đề này tiềm ẩn nhiều nhân tố mất an toàn, đẩy cán bộ Ngân hàng vào tình thế "bằng mọi giá phải cho vay".
Hiện nay, ở nước ta có nhiều loại hình Ngân hàng cùng hoạt động đang tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển nghiệp vụ Ngân hàng. Nhưng, nhằm đạt được ưu thế cạnh tranh, thu nhiều lợi nhuận, một số Ngân hàng đã hạ thấp tiêu chuẩn cho vay nhằm lôi kéo khách hàng; thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, không căn cứ vào thực lực và khả năng kinh doanh của họ. Đây là kiểu cạnh tranh không lành mạnh, làm tăng thêm khả năng tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Cho vay vượt quá khả năng chi trả của người vay cũng dẫn đến rủi ro. Định kì hạn nợ của các khoản vay không chính xác cũng làm cho khách hàng khó hoàn trả vay theo đúng hợp đồng đã định. Ví dụ: việc cho vay mua máy móc, thiết bị phải 5 năm mới hoàn trả hết, nhưng thời hạn cho vay chỉ là 3 năm. Do đó, người vay không thể trả đúng thời hạn, ảnh hưởng xấu đến kế hoạch sử dụng vốn của Ngân hàng.
- Mở rộng nghiệp vụ hoạt động một cách quá tải.
Việc bùng nổ về số lượng các chi nhánh, các phòng giao dịch, do không có sự chuẩn bị trước nên một số Ngân hàng đã bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn làm công tác tín dụng. Công việc đào tạo chưa tốt; việc kiểm tra làm không kịp dẫn đến tình trạng" mạnh ai người đó làm". Cùng với sự gia tăng về mạng lưới là việc tăng khối kượng tín dụng. Mọi biện pháp (từ quản trị điều hành đến tác nghiệp) đều hưóng vào việc mở rộng tín dụng nhằm đạt khối lưọng dư nợ không giới hạn, với số lưọng khách hàng tối đa (kể cả những khách hàng mới). Kết quả làm vượt quá sức quản lý và điều kiện vật chất của Ngân hàng.
ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng đã ra đời và hoạt động được vài năm trở lại đây, nhưng nhìn chung vẫn chưa đóng góp được nhiều. Sự hợp tác giữa NHTM và trung tâm không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Một số Ngân hàng do sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay vốn tại nhiều nơi với cùng một vật thế chấp tín dụng rất khó khăn.
- Chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng.
Do không có sự thống nhất của một số văn bản quy định về chế độ tín dụng nên có khoản vay vượt quá 10% VTC và chính những khoản vay này không hoàn trả được đã gây rủi ro cho Ngân hàng.
Về cho vay đối với doanh nghiệp chưa định rõ như thế nào thì được phép cho vay tín chấp…Những quy định kiểm tra sau khi cho vay thiếu cụ thể, do vậy các cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó khi theo dõi việc sử dụng tiền vay của khách hàng. Nhiều trường hợp đã bị một số kẻ lừa đảo lợi dụng sơ hở về thể chế để chiếm dụng một số tiền lớn.
Sự cho phép được vay chồng chéo (hoặc cho vay các doanh nghiệp ở xa trụ sở hoạt động của Ngân hàng) đã làm cho việc theo dõi - quản lý tiền vay khó khăn và dẫn đến phát sinh nợ quá hạn ở những doanh nghiệp đó.
1.2.2.2. Nguyên nhân do khách hàng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Trên thị trường có những người vay tiền không sử dụng khoản tiền vay đúng với cam kết mà đầu tư vào những dự án có độ rủi ro cao (vì những dự án đó mang lại lợi nhuận lớn). Ngân hàng cho vay tiền bị đặt vào tình cảnh có nguy cơ bị rủi ro tín dụng nếu dự án đó không thực hiện được. Vì vậy, Ngân hàng phải thận trọng trong việc cho vay đầu tư.
- Do khách hàng chưa thích nghi với môi trường cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn luôn phải cạnh tranh với nhau. Thời gian qua, hàng nghìn doanh nghiệp là khách hàng của Ngân hàng đã bị giải thể, để lại hàng nghìn tỷ đồng không có khả năng thanh toán, buộc nhà nước phải có biện pháp khoanh nợ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm; yếu kém trong kinh doanh; không xây dựng được các phương án và không tính đến mọi yếu tố có liên quan (nguyên vật liệu sẽ được cung cấp từ đâu, cơ sở hạ tầng ra sao, khả năng cạnh tranh như thế nào); do vậy họ không thể đứng vững trong cạnh tranh bởi cơ chế thị trường.
- Khách hàng cung cấp thông tin không đầy dủ, chính xác.
Việc khách hàng cung cấp không đầy đủ thông tin về kết quả hoạt động kinh doanhcủa mình và sự thẩm tra không chặt chẽ của Ngân hàng sẽ tạo ra những thông tin không cân xứng của khách hàng nhằm vay được vốn của Ngân hàng.
- Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn hạn chế.
Một số doanh nghiệp khi vay lập phương án rất hiệu quả, nhưng không tính đến những biến động của thị trường nên đã bị thua lỗ. Bên cạnh đó, trình độ của người quản lý còn hạn chế về nhiều mặt (như kiến thức, khả năng thực tế) cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Do khách hàng cố tình lừa đảo.
Có nhiều khách hàng cố tình đưa ra các hồ sơ, giấy tờ giả mạo để vay vốn Ngân hàng; hoặc sử dụng cùng một tài sản thế chấp vay vốn ở nhiều Ngân hàng sau đó sử dụng cho các mục đích cá nhân (hoặc bỏ trốn). Nếu Ngân hàng không kịp thời phát hiện thì có thể khó thu hồi khoản vay đó. Ngoài ra, cũng có một số trường hợp khách hàng cố tình không trả nợ cho Ngân hàng, mặc dù họ có khả năng hoàn nợ.
1.2.2.3. Nguyên nhân khách quan.
- Môi trường pháp lý kinh tế: Cơ chế chính sách thay đổi, có tác động tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng.Việc sáp nhập, giải thể không ăn khớp với giải quyết các khoản nợ nên việc xác nhận nợ sẽ gây khó khăn cho thu hồi nợ của đơn vị mới.
- Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa cao, chưa nhất quán trong việc thực thi những vấn đề có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng. Quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, (Nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhiều chức năng - nhiệm vụ vượt quá năng lực quản lý; quy mô hoạt động quá lớn so với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp), tạo kẽ hở dẫn đến rủi ro.
- Lãi suất thị trường biến động: Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất luôn biến động và sẽ ảnh hưởng lớn đến công tác tín dụng. Những năm gần đây, Việt Nam đã khống chế được tình hình lạm phát nhưng lãi suất lại giảm liên tục. Lãi suất cho vay giảm, lãi suất tiền gửi vẫn giữ nguyên đã gây ra chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra. Chênh lệch đó không đủ bù đắp chi phí cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đó là rủi ro hữu hình do sự biến động của lãi suất thị trường.
- Tỷ giá hối đoái biến động cũng gây ra tổn thất khá lớn cho Ngân hàng. Tỷ giá chịu sự can thiệp của Chính phủ (thông qua chính sách tiền tệ quốc gia) nhằm phục vụ mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự biến động tỷ giá làm giá trị của đồng tiền này giảm so với đồng tiền khác, khiến các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu dễ bị thua lỗ.
Những nguyên nhân do thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn…cũng làm cho khoản vay bị rủi ro, mà cả người đi vay và người cho vay đều không lường trước được. Những nguyên nhân này thường gây ra những tổn thất lớn cho doanh nghiệp và ảnh hưởng nhiều đến Ngân hàng.
1.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng .
1.2.3.1. Đối với bản thân Ngân hàng.
Tác hại của rủi ro tín dụng là rất rõ, nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ, Ngân hàng có thể sử dụng qũy dự phòng, vốn tự có để bù đắp. Nhưng, nếu rủi ro ở mức độ cao hơn, vốn tự có cũng không đủ bù đắp thì Ngân hàng có nguy cơ phá sản. Rủi ro tín dụng còn gây khó trong việc thanh toán tiền gửi đến hạn cho khách hàng. Vốn vay tuy chưa thu hồi đủ, song đáo hạn Ngân hàng vẫn phải trả đủ vốn cả gốc và lãi cho người gửi.Trong trường hợp đến hạn trả tiền mà Ngân hàng chưa có đủ tiền trả cho người gửi thì Ngân hàng còn phải mất các chi phí cho việc bán chứng khoán, vay Ngân hàng Trung ương hay vay các Ngân hàng thương mại khác… Ngoài ra, rủi ro còn làm giảm uy tín của Ngân hàng trên thị trường, ảnh hưởng đến việc huy động vốn, cũng như tác động xấu đến quan hệ với các Ngân hàng khác.
1.2.3.2.Rủi ro tín dụng còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng được coi là trung tâm thần kinh của nền kinh tế và hoạt động của nó thể hiện một bức tranh kinh tế thu nhỏ của địa bàn (nơi Ngân hàng đặt trụ sở).Rủi ro tín dụng xảy ra, Ngân hàng không thu hồi được vốn cho vay đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả.Tình trạng này kéo dài đến một mức độ nào đó sẽ làm người gửi tiền mất lòng tin và ồ ạt đến rút tiền. Nếu không kịp thời chuẩn bị cho tình huống này (hoặc không đủ khả năng ứng được nhu cầu rút tiền lớn như vậy), thì Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn tới phá sản, gây mất ổn định trên thị trường, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh toàn nền kinh tế và tình hình thu nhập của dân cư.
Chương 2:
Thực trạng rủi ro tín dụng tại sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam
2.1. Tổng quan về Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Sở kinh doanh hối đoái NHNo&PTNT Việt Nam theo quyết định số 235/QĐ/HĐQT–02 ngày 16/05/1999 của Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam
-Tên gọi đầy đủ bằng Tiếng Việt: Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
-Tên Tiếng Anh: Banking Operations Center Of Vietnam Bank For Agriculture and rural development
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam:
2.1.2. Khái quát tình hình kinh doanh tại Sở giao dịch NHNo&PTNT
2.1.2.1.Công tác huy động vốn.
Là một doanh nghiệp được sinh ra trong một thời kỳ chuyển biến mạnh của nền kinh tế, do đó Sở giao dịch đã gặp không ít những khó khăn cũng như thuận lợi. Với sự tận tâm, tận lực của tập thể cán bộ nhân viên, Sở giao dịch đã vượt qua những thử thách và đạt nhiều thành tích đáng khích lệ. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch được thể hiện :
Bảng 1: Bảng tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh
( Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
SS 2006/2005
SS 2007/2006
CL
%
CL
%
1
2
3
4= 2-1
5=4/1*100%
6= 3-2
7=6/2*100%
1. Nguồn vốn
4250
4024
6127
-226
-5.32%
2103
52.26%
- Nội tệ
3198
3136
4854
-62
-1.94%
1718
54.8%
- Ngoại tệ
1052
888
1273
-164
-15.6%
385
43.35%
2. Sử dụng vốn
2930
3038
4627
108
3.69%
1589
52.3%
- Ngắn hạn
754
820
859
66
8.75%
39
4.76%
- Trung & dài hạn
2176
2218
3768
42
1.93%
1550
69.88%
3.Lợi nhuận
498
535
618
37
7.43%
83
15.51%
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2005-2007)
Qua bảng 1 nêu trên cho thấy:
Về nguồn vốn huy động: Năm 2005 là 4469 tỷ đồng, năm 2006 là 4023 tỷ đồng, năm 2007 là 6127 tỷ đồng. Như vậy năm 2006 so với năm 2005 giảm 226 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 5.32%( nội tệ giảm 1.94% và ngoại tệ giảm 15.6%). Năm 2007 so với năm 2006 tăng 2103 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 52.26%( nội tệ tăng 54.8% và ngoại tệ tăng 43.35%).
Về sử dụng vốn: Năm 2005: 2930 tỷ đồng, năm 2006: 3038 tỷ đồng, năm 2007: 4627 tỷ đồng. Như vậy, năm 2006 so với năm 2005 tăng 108 tỷ tương úng với tỷ lệ tăng 3.69%; năm 2007 so với năm 2006 tăng 1589 tỷ tương ứng với 52.3%.
Lợi nhuận của SGD cũng tăng lên không ngừng, năm 2006 so với 2005 tăng 7.43% và năm 2007 so với năm 2006 tăng 15.51%
Như vậy, với những bước đi đúng hướng Ngân hàng đã đẩy nhanh tố độ tăng trưởng tín dụng, góp phần khuyến khích sản xuất kinh doanh, tăng đầu tư, thúc đảy kinh tế phát triển.
2.1.2.2. Hoạt động cho vay.
Bảng 2: Hoạt động cho vay của Sở giao dịch từ năm 2005-2007:
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Dư Nợ
2005
2006
2007
SS 2006/2005
SS 2007/2006
CL
%
CL
%
1
2
3
4= 2-1
5=4/1*100%
6= 3-2
7=6/2*100%
1. Loại tiền
2212
1876
2057
-336
-15.2%
181
9.7%
- Nội tệ
1067
1101
978
34
3.2%
-123
-11.17%
- Ngoại tệ
1145
775
1079
-370
-32.3%
304
39.22%
2.Thành phần KT
2212
1876
2057
-336
-15.2%
181
9.7%
- DNNN
1753
1161
1245
-592
-33.77%
84
7.24%
-DN ngoài QD
410
660
756
250
61%
96
14.5%
- Cho vay TD
49
55
56
6
12.24%
1
1.8%
3.Theo TG
2212
1876
2057
-336
-15.2%
181
9.7%
- Ngắn hạn
1300
988
1269
-312
-24%
281
28.4%
-Trungdài hạn
912
888
788
-24
-2.63%
100
-11.26%
4. Nợ xấu
0.2789
0.6750
0.9785
0.3961
142%
0.3035
45%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005-2007)
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy: chất lượng cho vay năm 2007 thấp hơn so với năm 2006, tỷ lệ nợ xấu chiếm khoảng 0.32% tổng dư nợ.
Dư nợ theo loại tiền năm 2006 có sự chuyển dịch về cơ cấu: dư nợ ngoại tệ năm 2006 có sự sụt giảm lớn. Nhưng đến năm 2007 lại tăng trở lại lên đến 1079 tỷ đồng.
Dư nợ trung dài hạn năm 2006 vượt 2% so với giới hạn cho phép của TW là do SGD giảm dư nợ ngắn hạn nên dẫn đến tăng tỷ trọng dư nợ trung dài hạn song về cơ bản số tuyệt đối là không đổi. Và tổng dư nợ tại SGD tăng 10% so với năm 2006 đó là do:
Dư nợ có sự tăng trưởng về thị phần trong tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn Hà Nội. SGD đã tập trung đầu tư vào các dự án, phương án thực sự có hiệu quả không phân biệt thành phần kinh tế, chú trọng vào công tác thẩm định đảm bảo chất lượng khoản vay. Ngoài ra, SGD còn thực hiện tốt công tác cơ cấu và phân loại nợ theo QĐ 493, rà soát dư nợ theo từng thời điểm để xác định đúng chất lượng tín dụng
2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
2.2.1 Thực trạng rủi ro tín dụng.
Các ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở các đảm bảo tín dụng (như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…), phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp; tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh (hay dự án đầu tư) và với cam kết là khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Song, trên thực tế các hợp đồng tín dụng, các nguyên tắc tín dụng vẫn luôn bị vi phạm bởi nhiều lý do, mà hậu quả xấu nhất là khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn (hoặc không trả được nợ). Rủi ro mang tính tất yếu trong kinh doanh (nói chung) và trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng (nói riêng), nhất là rủi ro tín dụng. Dù là Ngân hàng mạnh hay yếu thì cũng phải đương đầu với rủi ro tín dụng ở một mức độ nào đó. Sở giao dịch NHNo & PTNT mặc dù kinh doanh có hiệu quả, nhưng vẫn không tránh khỏi rủi ro tín dụng.
Bảng 3: Tình hình nợ quá hạn tại Sở giao dịch NHNo&PTNT 2005-2007
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
SS 2006/2005
SS 2007/2006
CL
%
CL
%
1
2
3
4= 2-1
5=4/1*100%
6= 3-2
7=6/2*100%
Tổng dư nợ
2212
1876
2057
-336
-15.2
181
9.7
Dư nợ quá hạn
902
675
987
-227
-25.1
312
46.2
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
0.41
0.36
0.48
-0.05
-12.2
0.12
33.3
(Nguồn: Báo cáo phân tích hoạt động kinh doanh 2005-2007)
Qua bảng 3 cho thấy năm 2006 nợ quá hạn là:675 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 0,36% tổng dư nợ, năm 2007 nợ quá hạn:987 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 0.48% . Tuy nhiên nợ quá hạn này đều có khả năng thu hồi. Mặc dù tỉ lệ nợ tăng nhưng vẫn dưới 1% mà NHTW cho phép.
Những con số trên phần nào đã nói lên hiệu quả tín dụng của Ngân hàng trong thời gian qua là khá tốt. Để đạt được như vậy là nhờ vào việc thực hiện tốt phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó còn nhờ vào sự nỗ lực rất lớn của các cán bộ tín dụng.
Bảng 4: Cơ cấu dư nợ theo thời gian
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
SS 06/05
SS 07/06
ST
%
ST
%
ST
%
CL
%
CL
%
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Theo TG
2212
100
1876
100
2057
100
-336
-15.2
181
9.7
- Ngắn hạn
1300
58.8
988
52.7
1269
61.7
-312
-24
281
28.4
- Trung&dài hạn
912
41.2
888
47.3
788
38.3
-24
-2.63
-100
-11.2
(Nguồn: Báo cáo phân tích hoạt động kinh doanh 2005- 2007)
- Dư nợ ngắn hạn cuối năm 2005 đạt 1300 tỷ đồng chiếm 58.8%tổng dư nợ, tỷ lệ này cho thấy SGD đã dàn đều các loại nợ ngắn, trung và dài hạn để ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3736.doc