MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của GP Bank chi nhánh Hoàn Kiế 19
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại GP Hoàn Kiếm( Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hoàn Kiếm) 20
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn cụ thể của GP Hoàn Kiếm (tỷ đồng) 21
Bảng 2.3: Bảng báo cáo kết quả hoạt động của GP 23
Biểu dồ 2.1: Dư nợ tín dụng của GP Bank Hoàn Kiếm 24
Bảng 2.4: Bảng phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế 24
(tỷ đồng) 24
Bảng 2.5: Bảng phân loại tín dụn
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí toàn cầu (GPBank) chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g theo kỳ hạn (tỷ đồng) 25
Bảng 2.6: Bảng phân loại tín dụng theo chất lượng (tỷ đồng) 26
Bảng 2.7: Bảng phân loại dư nợ cho vay theo mức độ rủi ro tại GP Hoàn Kiếm 27
Bảng 2.8: Bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn của GP Hoàn Kiếm (Tỷ đồng) (Nguồn: Phòng quản lý tín dụng) 28
Bảng 2.9: Bảng phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay (tỷ đồng) 29
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thu thập tài liệu và đi thực tế tại Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu GP Bank, chi nhánh Hoàn Kiếm, tôi đã quyết định chọn đề tài : " Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm ".
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là :
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản thân Ngân hàng thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm.
Để giải quyết từng vấn đề trên, tiểu luận được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1 : Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2 : Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm.
Chương 3 : Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với Chi nhánh Ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm
CHƯƠNG I: TÍN DỤNG VÀ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa một bên là: Ngân hàng (người cho vay) và một bên là đối tượng đi vay (người dân, các thành phần trong nền kinh tế…) trên nguyên tắc hoàn trả. Khi đáo hạn, khách hàng thanh toán cho ngân hàng cả gốc và lãi thì quan hệ tín dụng là thành công. Tuy nhiên, đối với một khoản vay, trong quá trình thực hiện, ngân hàng luôn phải trích lập một khoản dự phòng rủi ro khi có tín hiệu rủi ro từ phía đối tượng đi vay.
2.Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1. Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản đầu tiên của NHTM mà qua các nghiệp vụ này thì các nghiệp vụ khác của NHTM mới có khả năng thực hiện được. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân và các tổ chức kinh tế qua các hình thức như tiền gửi có kì hạn, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra khi cần thêm vốn, ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, các trái phiếu ngân hàng hay vay vốn của ngân hàng nhà nước hay các tổ chức tín dụng khác.
Tuy nhiên, ngân hàng phải thu hút vốn tự có. Vốn tự có được coi là nền tảng cơ bản để chống đỡ các rủi ro trong kinh doanh. Tỷ trọng giữa vốn huy động và vốn tự có được quy định cụ thể trong luật ngân hàng mỗi nước, ở Việt Nam các ngân hàng thương mại không được phép huy động vốn quá 20 lần vốn tự có.
2.2. Tín dụng và đầu tư
NHTM dùng vốn huy động để cho vay từ đó thu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa vốn huy động và vốn cho vay. Thực hiện nghiệp vụ này, các NHTM đã thực hiện chức năng kinh doanh của mình nhưng đồng thời cũng đóng góp lợi ích cho xã hội như mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống nhân dân……Tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế thông qua hoạt động cho các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp…, đồng thời đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do vậy hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề bức thiết luôn được các ngân hàng quan tâm.
2.3. Các hoạt động khác
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và tăng lợi nhuận cho ngân hàng như:
Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
Dịch vụ môi giới và đại lý, ủy thác mua bán chứng khoán
Dịch vụ bảo quản và quản lý tài sản, chứng từ có giá
Dịch vụ trung gian mua bán trên thị truơng ngoại hối
Thông qua các hoạt động này, ngân hàng nhận được các khoản thu nhập dưới hình thức và hoa hồng.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, ngay cả những hoạt động dịch vụ, phi sản xuất cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng
Với các ngành sản xuất chế biến, khai thác…để đảm bảo sản xuất ổn định cần thiết phải có vốn để dự trữ nguyên, nhiên vật liệu…..đồng thời để không ngừng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm…các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Tất cả các công việc đó sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ, kĩ thuật tiên tiến hiện đại, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân hàng với chức năng tiêu dùng vốn, tập trung nguồn vốn từ trong và ngoài nước đã phần nào đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu xã hội khác.
Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết việc làm thì không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò trong việc đầu tư cho các dự án có ý nghĩa kinh tế xã hội để giải quyết những vấn đề như vậy.
Thứ tư: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn sản xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế.Các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và uy tín được ngân hàng tập trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Thứ năm: Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng kinh tế của nhà nước.
II.RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NHTM
1. Khái niệm rủi ro
Nhiều nhà kinh tế học đã định nghĩa rủi ro theo nhiều cách khác nhau.
Frank Knight, một học giả người Mỹ đầu thế kỉ 20 định nghĩa:”rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Alain Willet cho rằng”rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến biến cố không mong đợi”. Một nhà kinh tế học người Anh là Marinic Hurt Carty lại quan niệm rằng”rủi ro là tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”. Như vậy định nghĩa có thể khác nhau nhưng đều thống nhất ở một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
Chính vì rủi ro gây ra mất mát thiệt hại nên không ai mong đợi. Song rủi ro là những bất trắc vì thế không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.Tuy nhiên rủi ro lại có thể đo lường được và đây chính là cánh cửa hé mở cho các nhà kinh doanh đi vào thế giới rủi ro để tìm kiếm vận may.
1.1. Tác hại của rủi ro trong kinh doanh của NHTM
1.1.1. Đối với bản thân ngân hàng
Rủi ro xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh của ngân hàng, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập, lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí ngân hàng phải lấy vốn tự có của mình để bù đắp các khoản thiếu hụt do rủi ro gây ra, lúc đó khả năng thanh toán của ngân hàng kém đi và lòng tin của khách khàng không còn nữa, khi người gửi tiền muốn rút tiền để tránh rủi ro cho chính bản thân họ và người vay không muốn vay ở đó nữa, chuyển sang vay ngân hàng khác. Vì vậy khi rủi ro ở mức nhỏ,ngân hàng có thể bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh hoặc bị lỗ, nhưng nếu rủi ro ở mức độ nghiêm trọng, nguồn vốn tự có của ngân hàng không đủ để bù đắp thiệt hại, tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản.Như vậy rủi ro có thể làm đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm,thậm chí trở thành vấn đề sống còn của ngân hàng.
1.1.2. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư cách là trung gian của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với các tổ chức kinh tế. Vì vậy kinh doanh ngân hàng gặp phải rủi ro tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội. Rủi ro làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm,từ đó ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho khách hàng và chi trả chậm đối với người cho vay.Vì vậy,xét trong nền kinh tế,rủi ro làm cho sản xuất bị đình trệ,các doanh nghiệp phải đóng cửa,hàng hoá không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường,tới một chừng mực nào đó làm giá cả hàng hóa tăng vọt,đó chính là một trong những nguyên nhân của lạm phát.Mặt khác,các ngân hàng thường lập một hệ thống chặt chẽ có mối liên hệ với nhau,khi một ngân hàng gặp phải rủi ro có nguy cơ dẫn đến phá sản dễ dàng kéo theo tình trạng khủng hoảng của cả hệ thống ngân hàng,gây mất ổn định trên thị trường tiền tệ.
1.1.3. Đối với khách hàng
Nếu rủi ro xảy ra từ phía ngân hàng,khách hàng có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh.Mặt khác nếu rủi ro xảy ra đối với chính khách hàng, các khoản nợ của họ sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quan hệ của họ với ngân hàng.Khi đó khách hàng cần vốn họ buộc phải quan hệ với các ngân hàng khác và phải chịu một khoảng thời gian tìm hiểu gây trì hoãn sản xuất.Đồng thời, nếu rủi ro lớn, chính họ sẽ bị phá sản.
2.Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Nhưng với các đặc điểm, đặc thù của NHTM có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng của ngân hàng gặp nguy cơ rủi ro cao hơn cả. Ở đây ta chỉ xét đến rủi ro tín dụng là chủ yếu vì hoạt động này mang lại rủi ro nặng nhất cho các NHTM. Dưới đây là một vài loại rủi ro tín dụng mà Ngân hàng dễ gặp phải:
Rủi ro tín dụng
Không thu được lãi đúng hạn
Không thu được vốn đúng hạn
Không thu đủ lãi
Không thu đủ vốn(mất vốn)
Lãi treo phát sinh
Nợ quá hạn phát sinh
1.Lãi treo đóng băng
2.Miễn giảm lãi
1.Nợ không có khả năng thu hồi
2.Xóa nợ
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trường hợp đối với nợ lãi và nợ gốc.Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi,không thu được vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn.Tuỳ trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ qúa hạn.Khi không thu được lãi đúng hạn,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh.Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng,trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh ngiệp.Còn khi không thu được vốn đúng hạn,ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh.Tuy nhiên,khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng.Nếu như khoản này NH không thể thu hồi được(do doanh nghiệp bị phá sản chẳng hạn)thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi,trừ những trường hợp đặc biệt,doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì NH có thể xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp.Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức,các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau,mà mức độ cuói cùng là nợ không có khả năng thu hồi.Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh,còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
2.1: Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
2.1.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt với rủi ro từ nhiều phía kể các rủi ro thuần túy…Hơn nữa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không thể thoát ly khỏi mối quan hệ với ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro của NHTM là cộng hưởng rủi ro của các doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay(khách hàng) thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làm 2 trường hợp lớn: Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận
2.1.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về thủ tục trong ngân hàng. Đây được gọi là thủ tục cho vay không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây:
Do thông tin tín dụng không đầy đủ nên đánh giá sai lệch hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng.
Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế
Ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao.
Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng vay nhiều hơn
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên.
2.1.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
2.1.3.1: Môi trường kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường,chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ…chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các NHTM.
2.1.3.2: Môi trường pháp lý
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng của các NHTM. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn,bất lợi cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.
2.1.4. Nguyên nhân từ môi trường xã hội
Những biến động lớn về kinh tế, chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng. Ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế, những thay đổi về chính trị có thể dẫn đến sự biến động cán cân thương mại quốc tế,tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu,hàng hoá,dịch vụ...trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất,kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các NHTM.
2.1.5. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn đề, được biểu hiện bằng nhiều dấu hiệu.Sau đây là một vài dấu hiệu cơ bản:
Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính
Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng cũng có thể thấy được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có những dấu hiệu không bình thường.
Gia tăng bất bình thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ. Sự gia tăng hàng tồn kho dẫn đến doanh thu, thu nhập kém. Đồng thời, với sự gia tăng của hàng tồn kho, giảm sut doanh thu thì các khoản vay cũng gia tăng chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm sút làm cho khả năng trả nợ ngân hàng là khó khăn.
Giảm bất thường giá bán: Điều này không nằm trong chiến lược marketing của doanh nghiệp thì tức là doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
Hoàn trả nợ vay và lãi không đúng hạn: Nếu trường hợp này diễn ra thường xuyên và mức độ ngày càng lớn thì đây chính là dấu hiệu rõ ràng nhất của rủi ro tín dụng.
Ngoài các dấu hiệu trên thì còn rất nhiều yếu tố khác như doanh nghiệp thay đổi tổ chức, công nhân không có việc làm…
3: Lý thuyết về hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại:
3.1. Hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại:
Mục đích của việc hạn chế rủi ro tín dụng là nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải chịu những rủi ro quá lớn làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và khả năng cạnh tranh và phát triển của ngân hàng. Để có thể giảm thiểu rủi ro của mình các ngân hàng thực hiên theo các bước cơ bản sau
- Bước 1: theo dõi giám sát để nhận biết, xác định và nắm được nguyên nhân gây ra rủi ro.
- Bước 2: đo lường rủi ro, tính toán đưa ra mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải đối mặt, mức độ thiệt hại tài chính mà ngân hàng phải chịu nếu rủi ro xẩy ra.
- Bước 3: đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro cũng như tăng cường khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng.
Ngân hàng phải xây dựng hạn mức rủi ro tín dụng hợp lý cho từng loại sản phẩm, từng cán bộ và tổng mức rủi ro của toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Nhân tố con người: đây là nhân tố quan trọng tác động tới hoạt động hạn chế rủi ro của NHTM. Nhân tố con người bao gồm những cán bộ trong chính ngân hàng. Đối với các cán bộ ngân hàng hai yếu tố cần được chú ý đó chính là trình độ của cán bộ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ. Tuy vậy nhưng đạo đức nghề nghiệp mới là yếu tố gây ra rủi ro tín dụng nguy hiểm hơn. Về phía khách hàng, hai yếu tố là ý thức của khách hàng và năng lực của khách hàng sẽ tác động tới rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt.
Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh: bất kỳ sự thay đổi nào của Chính Phủ về chính sách phát triển kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ... đều có ảnh hưởng tới đến hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó yếu tố luật pháp cúng là một yếu tố tác động tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Hệ thống thông tin: yếu tố thông tin là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động tín dụng cũng như hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Các cán bộ tín dụng phải dựa vào các thông tin thu thập được về khách hàng mới có thể ra quyết định tín dụng cũng như có thể phát hiện ra rủi ro với các khoản vay của ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN TẠI NGÂN HÀNG TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU GP BANK CHI NHÁNH HOÀN KIẾM
I.Khái quát về ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm
1. Lịch sử hình thành
Ngày 10/01/2009, GP.Bank chính thức khai trương Chi nhánh GP.Bank Hoàn Kiếm.Chi nhánh đầu tiên tại Hà Nội, đồng thời là Chi nhánh thứ 8 của GP.Bank trên toàn quốc.Sự ra đời của chi nhánh đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
Ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm là một chi nhánh của ngân hàng TMCP GP Bank đóng vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần thực hiện các mục tiêu,chương trình, giải pháp của Thông đốc ngân hàng nhà nước đề ra,định hướng phát triển kinh doanh của ngân hàng TMCP GP Bank và công cuộc công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm có các chức năng chính sau đây:
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kì hạn,có kì hạn,tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác,ủy thác đầu tư từ chính phủ,Ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế,quốc gia,các cá nhân trong và ngoài nước
Cho vay ngắn hạn,trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế,các cá nhân,hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chiết khấu các loại giấy tờ có giá bằng tiền
Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính
Thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C cho khách hàng, bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh đấu thầu cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước hoạt động tại Việt Nam.
Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại. Thực hiện nghiệp vụ cầm cố bất động sản
2.Giới thiệu về chi nhánh Hoàn Kiếm
2.1. Cơ cấu tổ chức
GIÁM ĐỐC
Bộ phận hành chính TH
Bộ phận quản lý tín dụng
Phòng quan hệ khách hàng
. Bộ phận KHDN
. Bộ phận KHCN
. Bộ phận hỗ trợ
Phòng kế toán và DVKD
. Kế toán
. Teller
. Qũy
Phòng giao dịch
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của GP Bank chi nhánh Hoàn Kiế
2.2. Tình hình hoạt động của chi nhánh trong những năm gần đây:
Tình hình huy động vốn
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại GP Hoàn Kiếm( Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hoàn Kiếm)
Năm
Huy động vốn
Đơn vị
2009
305,158
Tỷ VNĐ
Chuẩn năm gôc
98%
Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ bùng nổ và lan rộng ra phạm vi toàn cầu khiến cho tình hình hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, trước tình hình thế giới đang rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng như vậy thì GP Bank Hoàn Kiếm vẫn ra đời. Tháng 01/2009, GP Bank Hoàn Kiếm chính thức đi vào hoạt động. GP Bank Hoàn Kiếm là chi nhánh đầu tiên của ngân hàng GP Bank tại Hà Nội. Mặc dù còn nhiều khó khăn, tuy nhiên với đội ngũ tín dụng hoạt động hiệu quả làm uy tín của chi nhánh tăng lên cao nên nguồn vốn huy động vẫn ở mức cao. Đặc biệt, thu nhập chủ yếu của Chi nhánh là từ các khoản tiền gửi của khách hàng, chiếm tới 98% thu nhập của chi nhánh. Có thể thấy, trong thời kì nền kinh tế đang suy thoái, người dân rất cẩn trọng khi đầu tư vào bất cứ cái gì, vậy mà Chi nhánh vẫn thu hút được khá đông lượng tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư chứng tỏ uy tín của Chi nhánh rất tốt. Đây là một dấu hiệu rất tốt cho sự phát triển của Chi nhánh. Cụ thể nguồn vốn huy động của Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn cụ thể của GP Hoàn Kiếm (tỷ đồng)
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh GP Hoàn Kiếm)
Năm
2009
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Tiền gửi không kì hạn
37,667
12,343
Tiền gửi không kì hạn cá nhân
12,452
33,058
Tiền gửi không kì hạn TCKT
25,215
66,942
Tiền gửi kí quỹ TCKT
12,325
4,04
Tiền gửi tiết kiệm
255,166
83,62
Kỳ hạn dưới 12 tháng
195,178
76,5
Kỳ hạn trên 12 tháng
59,988
23,5
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong năm 2009, tổng lượng vốn mà Ngân hàng huy động được là 305,158 tỷ đồng, một con số rất ấn tượng. Năm 2009, năm mà toàn thế giới đang phải đối mặt với tình hình suy thoái toàn cầu thì Ngân hàng vẫn thu được một lượng tiền gửi tương đối lớn. Cụ thể tiền gửi không kì hạn là 37,667 tỷ đồng, chiếm 12,343% trong tổng lượng tiền mà chi nhánh huy động được, trong đó lượng tiền gửi không kì hạn của các TCKT chiếm tới 66,942%. Có thể thấy, các TCKT rất tin tưởng vào uy tín của chi nhánh. Họ quyết định đầu tư bằng cách gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi hơn là đầu tư vào các loại hình đầu tư mạo hiểm khác.
Tiền gửi kí quỹ của các TCKT tại Chi nhánh trong năm 2009 là 12,325 tỷ đồng, chiếm 4,04 %. Năm 2009, có một lượng tương đối lớn khách hàng gửi tiền kí quỹ vào ngân hàng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng. Việc tiếp nhận lượng tiền gửi này giúp Ngân hàng thu được một khoản lợi tương đối lớn do số lượng tiền kí quỹ này chỉ được hưởng với lãi suất của tiền gửi không kì hạn mà thôi.
Lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng trong năm vừa qua là rất lớn: 255,166 tỷ đồng, chiếm 83,62%. Trong thời kì nền kinh tế đang suy thoái, người dân luôn cẩn trọng với các loại hình đầu tư mạo hiểm mà hướng tới các loại hình đầu tư có mức độ an toàn cao hơn. Việc lượng tiền gửi tiết kiệm mà ngân hàng thu hút được từ dân cư càng một lần nữa chứng tỏ ngân hàng đã tạo dựng được một uy tín rất tốt trong dân cư. Trong đó ngân hàng chủ yếu là vay ngắn hạn( chiếm 76,5%), điều này giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro lãi suất có thể xảy ra.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Đây là hoạt động phụ của chi nhánh. Trong năm 2009, ngân hàng quyết định đa dạng hóa các loại hình đầu tư bằng cách tham gia hoạt động kinh doanh ngoại tệ. tuy nhiên, hoạt động này đã khiến cho ngân hàng bị lỗ 85 tỷ đồng (23,56%).
Hoạt động dịch vụ: Trong thời gian, hoạt động dịch vụ của chi nhánh cũng tương đối phát triển. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ chiếm tới 201.31% trong tổng thu nhập lãi thuần của ngân hàng. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ là 4.37%.
Dịch vụ phát hành thẻ và thanh toán thẻ: Hiện nay dịch vụ thẻ của chi nhánh cũng vẫn chỉ có một sản phẩm thẻ duy nhất đó là ATM.Có thể nói, hoạt động này của chi nhánh vẫn chưa thực sự phát triển.
Hoạt động ngân quỹ: hoạt động ngân quỹ của chi nhánh luôn tuân thủ mọi quy trình nghiệp vụ. Cho đến thời điểm hiện nay công tác ngân quỹ của chi nhánh vẫn chưa xẩy ra sai phạm nào. Với 4 cửa thu chi tại chi nhánh và 4 cửa khác tại phòng giao dịch của chi nhánh, đã đáp ứng được nhu cầu giao dịch của khách hàng tại chi nhánh.
Một số hoạt động khác:
Marketing ngân hàng: Hiện nay hoạt động của chi nhánh vẫn chưa thực sự phát triển. Tuy nhiên, với mục tiêu sắp tới của ngân hàng là đạt được tốc độ tăng trưởng đã đặt ra thì các hoạt động của chi nhánh sẽ tiếp tục được mở rộng. Chi nhánh đã bắt đầu quan tâm tới công tác khuêch chương, quảng bá các sản phẩm, dịch vụ của mình. Đồng thời, chi nhánh cũng thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các khách hàng của mình.
_ Công tác tuyển dụng: Đây là một công tác rất được chú trọng tại chi nhánh, vì vậy chi nhánh đang lên kế hoạch chuẩn bị tuyển dụng nhân sư trong thời gian tới để đáp ứng cho nhu cầu nhân sự của mình.
_ Công tác đào tạo cán bộ: hiện tại chi nhánh đang lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng chăm sóc cho khách hàng. Nhiều lớp học sẽ được mở trong thời gian tới nhằm mục tiêu này. Và đặc biệt là việc nâng cao trình độ cho lớp cán bộ mà chi nhánh sẽ tuyển dụng trong thời gian tới.
Kết quả và hiệu quả kinh doanh của chi nhánh:
Bảng 2.3: Bảng báo cáo kết quả hoạt động của GP
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh GP Hoàn Kiếm)
Năm
2009
Đơn vị
Lợi nhuận sau thuế
1518
Triệu đồng
Có thể thấy, trong giai đoạn này, tình hình hoạt động kinh doanh của GP Bank Hoàn Kiếm là khá tốt. Năm 2009, khi nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng suy thoái, và hơn thế nữa, trước đó năm 2008 là thời kì khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động của các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng GP Bank Hoàn Kiếm nói riêng. Tuy nhiên, với đội ngũ nhân viên hoạt động có hiệu quả cùng với sự chỉ đạo tài năng của giám đốc chi nhánh, nên ngân hàng đã đạt được mức lợi nhuận rất ấn tượng: 1,518 tỷ đồng. Một tốc độ tăng ấn tượng trong thời kì nền kinh tế đang suy giảm.
II. Thực trạng về tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm:
1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHTMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm
1.1. Tình hình dư nợ tín dụng
Biểu dồ 2.1: Dư nợ tín dụng của GP Bank Hoàn Kiếm
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hoàn Kiếm)
1.2. Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế( tỷ đồng)
Bảng 2.4: Bảng phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế
(tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng Quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay doanh nghiệp
257,356
%
78%
Cho vay cá nhân
72,592
%
22%
Tổng
329,948
Qua bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, GP Bank Hoàn Kiếm vẫn tập trung nhiều vào cho vay khách hàng là doanh nghiệp( chiếm 78% tổng doanh số cho vay của Chi nhánh). Đây vẫn là khoản thu nhập chính của chi nhánh. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy, tỷ trọng của cho vay khách hàng là cá nhân cũng khá cao( 22%). Điều đó cho thấy chi nhánh đang bắt đầu quan tâm hơn đến các khoản cho vay nhỏ của các cá nhân. Đối với một chi nhánh mới thành lập như GP Hoàn Kiếm, các khoản vay nhỏ này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình mở rộng tín dụng của chi nhánh. Đánh giá được vai trò của các khoản vay cá nhân này, chi nhánh GP Hoàn Kiếm đã có những chính khuyến khích phát triển thị trường bán lẻ này, như lãi suất hấp dẫn, hay như đối với các khoản vay tiêu dùng với những tài sản lớn như mua nhà, ô tô khách hàng có thể dùng chính tài sản đó làm tài sản thế chấp...Chính vì vậy, Chi nhánh đã cho vay được một số lượng tương đối lớn cho những khách hàng cá nhân.
1.3. Phân loại tín dụng theo kì hạn
Bảng 2.5: Bảng phân loại tín dụng theo kỳ hạn (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay ngắn hạn
122,629
%
36,82%
Cho vay trung hạn
41,712
%
12,53%
Cho vay dài hạn
168,672
%
50,65%
Tổng
333,013
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, Chi nhánh cho vay dài hạn với tỷ trọng khá lớn( 50,65%). Có được điều này là do, đầu năm 2009, Chính phủ thực hiện gói kích cầu: hỗ trợ 4% lãi vay một năm, và cạnh đó là việc nhận định nền kinh tế đã bắt đầu có dấu hiệu sẽ phục hồi trong thời gian tới nên lãnh đạo Chi nhánh Hoàn Kiếm đã mạnh dạn đầu tư vào các khoản vay dài hạn. Bên cạnh đó, tỷ trọng của cho vay ngắn hạn cũng ở mức tương đối( 36,82%), điều này cho thấy Chi nhánh đã cân đối thời hạn cũng như trọng lượng của các khoản cho vay ngắn hạn và dài hạn để hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
1.4. Phân loại tín dụng theo chất lượng
Bảng 2.6: Bảng phân loại tín dụng theo chất lượ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26081.doc