LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những định chế quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Trong nền kinh tế ngân hàng thương mại có vai trò to lớn trong việc đáp ứng nguồn vốn, chu chuyển luồng tiền phục vụ cho mọi hoạt động kinh doanh của cá các nhân tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt hiện nay nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo hướng hội nhập, phát triển và toàn cầu hóa thì ngân hàng càng có vai trò to lớn hơn. Bằng các sản phẩm dịch vụ của mình ngân hàng đã giúp các luồng tiền t
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Thành Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được các ngân hàng quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng tới an toàn của ngân hàng và sự tồn tại của ngân hàng.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Thành Đô, em đã tìm hiểu được quá trình hình thành, phát triển và được tiếp xúc với các hoạt động của chi nhánh, đặc biệt là quy trình tín dụng, và em nhận thấy rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp. Chính bởi vậy, em chọn đề tài: “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Thành Đô” làm chuyên đề tốt nghiệp cuối khóa của mình. Chuyên đề của em bao gồm ba phần chính:
Chương 1: Lý thuyết chung về hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và phát triển chi nhánh Thành Đô.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của PGS.TS Phan Thu Hà đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Hoạt động của Ngân hàng Thương Mại:
1.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng:
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Mỗi giai đoạn Ngân hàng lại có những sự thay đổi trong nhận thức cũng như trong hoạt động. Ngân hàng đã đi từ bước hình thành cức kì thô sơ và chính nhu cầu phát triển, nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng các hoạt động, dịch vụ để trở thành mọt thành phần cực kì quan trọng trong nền kinh tế.
Giai đoạn sơ khai của ngành Ngân hàng ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu được hình thành. Hoạt động của các Ngân hàng sơ khai gồm có: đổi tiền, bảo quản và giữ hộ tiền của các thợ vàng và những người giàu có, cho vay nặng lãi. Hoạt động lúc bấy giờ gần giống như các tiệm cầm đồ ngày nay. Các hoạt động này xuất phát từ việc hầu như mối cuốc gia đều có đồng tiền riêng, quá trình giao lưu, buôn bán giữa các vùng, các lãnh thổ với nhau đã tạo ra thu nhập cho những người đổi tiền, đúc tiền. Thu nhập có được là từ chênh lệch mua và bán giữa các loại tiền. Hoạt động cất giứ hộ, ho vay nặng lãi và thanh toán hộ cũng được những người đổi tiền thực hiện. Việc có thể sử dụng tạm thời một phần tiền của khách để cho vay đã làm xuất hiện việc thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Trong vòng từ thế kỉ thứ V đến thế kỉ X nhiều hoạt động mới được áp dụng đã đem lại bước phát triển mới cho Ngân hàng so với giai đoạn sơ khai trước kia: chiết khấu thương phiếu, ghi chép và theo dõi khách hàng qua số liệu tài khoản.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, từ chỗ là Ngân hàng của các thợ vàng, người cho vay Ngân hàng sơ khai đã trở thành Ngân hàng thương mại với chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn rồi tiếp đó mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để cho vay đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu dung, kinh doanh chứng khoán, cho thuê… . Khi cả ba nghiệp vụ: nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán) được hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại, để có một định nghĩa về ngân hàng thương mại người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó. Theo Hiệp định Basel II, Ngân hàng được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
Theo luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dich vụ thanh toán”.
Ngân hàng đã giúp các luồng tiền di chuyển một cách có hiệu quả, đồng thời bằng danh mục các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân hàng cũng ngày một đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của cả người cần tiền lẫn người có tiền, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của các Ngân hàng. Các công ty bảo hiểm, hiệp hội tiết kiệm cho vay,các tổ chức tín dụng tiêu dung, các quỹ tin dụng, các hợp tác xã tín dụng cũng tham gia vào các loại hình dịch vụ như nhận gửi tiền, cho vay thu lãi. Tuy nhiên, trong bất cứ nền kinh tế nào trên thế giới thì Ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức lớn nhất và quan trọng nhất trog lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
1.1.2.Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại:
1.1.2.1.Hoạt động huy động vốn:
Nhận tiền gửi, cất trữ họ tiền là một trong những hoạt động có ngay ở thời kì sơ khai của Ngân hàng. Việc được nắm giữ tạm thời một lượng tiền nhất định đi kèm vơí khả năng cho vay thu lãi đã khiến hoạt động nhận tiền gửi trở nên hấp dẫn với Ngân hàng. Việc trả lãi cho các khoản tiền gửi đã trở nên phổ biến thậm chí con có các cuộc cạnh tranh gay gắt về lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng để có thể huy động được nhiều tiền. Một trong những nguồn quan trọng để huy động tiền là các khoản tiển gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Nếu như hoạt động tín dụng đem lại thu nhập cho Ngân hàng thông qua việc cho vay, bảo lãnh… thì hoạt động huy động vốn là cơ sở cho hoạt động tín dụng thông qua việc huy động các nguồn tiền cho Ngân hàng. Trong thị trường cạnh tranh hiện nay, ngân hàng nào chiếm ưu thế về các nguồn huy động thì sẽ có lợi thế rất lớn trong việc phát triển các sản phẩm, nâng cao khả năng phục vụ khách hàng. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là huy động bằng mọi giá, việc gia tăng chi phí trả cho các nguồn huy động có thể sẽ khiến ngân hàng gặp khó khăn.
1.1.2.2.Sử dụng vốn:
Các ngân hàng thương mại chủ yếu sử dụng đồng vốn mình huy động được thông qua hoạt động tín dụng. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Trong mõi một hành vi tín dụng hai bên cam kết với nhau: một bên thì giao ngay một số tài hóa hay tiền bạc, còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hóa đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Nói tóm lại, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trê cơ sở hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay(bằng tiền) và cho thuê (bất động sản). Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất cho vay danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hơp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên vay khi đến hạn thạnh toán.
Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn… đến bảo lãnh, cho thuê tài chính, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. Có thể phan loại tín dụng theo một số căn cứ sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Cho vay ngắn hạn: là việc cho vay với thời hạn dưới một năm nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà Nước, doanh nghiệp, cá nhận, hộ gia đình.
Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Bên cạnh đầu tư cho tà sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 5 năm và tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào đảm bảo tín dụng:
Cho vay có đảm bảo: cho vay có đảm bảo là biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thế nào đó, ví dụ như: nhà cửa, đất đai, xe cộ, hàng hóa… Vật thế chấp những khoản nợ rất đa dạng song một yếu cầu cơ bản là phải có thể bán được. Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản vay phải được bảo đảm là nhằm người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đến hạn. Sự đảm bảo là yêu cầu cần phải có đối với các khoan cho vay vì một số nguyên nhân: thông thường đó là do sự yếu kém về tài chính của người vay và khi đó thì ngân hàng cần có tài sản cầm cố, thế chấp để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Việc thời hạn cho vay kéo dài đồng nghĩa với rủi ro tăng thì việc đảm bảo gần như bắt buộc. Tỉ lệ cho vay tối đa được tính trên giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ đó cao hay thấp tùy vào từng quy định của các ngân hàng, pháp luật, tư cách pháp nhân của khách hàng…
Cho vay không có đảm bảo: khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo được dựa trên uy tín, khả năng tài chính lành mạnh của khách, lợi tức có thể có trong tương lai cùng tình trả nợ trước đây. Với những doanh nghiệp, cá nhân mà nguồn thu nhập ổn định, là khách hàng lớn của ngân hàng, hoạt động hiệu quả có thể ngân hàng sẽ cho vay những khoản lớn mà thiếu giá trị tài sản đảm bảo thạm chí không có tài sản đảm bảo.
Căn cứ vào đối tượng sử dụng tín dụng:
Cho vay doanh nghiệp: đây là khoản tín dụng thương mại và công nghiệp với thời hạn biến động từ một vài tháng đến vài năm. Hình thức tín dụng có thể là vay món hoặc hạn mức. Doanh nghiệp có thể vay mọt lần toàn bộ khối lượng tín dụng hoặc có thể được cung cấp một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và sẽ được sử dụng trong phạm vi tín dụng đó.
Cho vay tiêu dung: đây là hình thức tín dng đa dạng rất phát triển với các sản phẩm, dịch vụ. Mức lãi suất của các loại vay tiêu dùng khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm cải khoản vay: chất lượng và hình thức thế chấp, mức độ rủi ro và các yếu tố phi lãi suất kèm theo như các khoản phí hoặc hoa hồng. Cho vay Chính phủ: Chính phủ cũng là một trong những khách hàng của các ngân hàng thương mại. Hình thức chủ yếu là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc Nhà nước phát hành. Nhà nước cũng vay Ngân hàng để đầu tư phát triển cơ sơ vật chất.
Cho vay các tổ chức tài chính khác: việc vay mượn tạm thời giữa các tổ chức tài chính, tín dụng rất phổ biến và cúng tạo điều kiện cho việc lưu chuyển vốn nhanh hơn. Ngoài các dich vụ căn bản trên, hoạt động tín dụng của ngân hàng còn có một số dịch vụ như:
Bảo lãnh:
Đây là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ với bên thứ ba. Bảo lãnh phát triển nhờ uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao. Bảo lãnh thườn được áp dụng trong lĩnh vực xây lắp. Có nhiều loai bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn:
Với các thiết bị, phương tiện có giá trị lớn, các doanh nghiệp không muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo mọt số điều kiện. Kết thúc hợp đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại với giá ưu đãi. Người ta cũng gọi hình thức này là thuê mua tài chính. Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều các công ty tài chính mà chủ yếu là thuộc các Ngân hàng thương mại quốc doanh.
1.1.2.3.Các hoạt động khác của ngân hàng thương mại:
Thanh toán: ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Bằng nhiều hình thức thanh toán đa dạng và thuận tiện như séc, ủy hiệm chi, thẻ, L/C… ngân hàng đã tiết iệm đáng kể cho khách hàng cả về thời gian cũng như chi phí và có độ chính xác cao.
Mua bán ngoại tệ: ngân hàng sẽ đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng dịch vụ. Trong thị trường tài chinh ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi nó có độ rủi ro rất cao, đồng thời phải yêu câu có trình độ chuyên môn.
Bảo quản tài san hộ: việc nắm giữ mọt lượng tiền lớn đã yêu cầu các ngân hàng phải có những địa điểm cất trữ có độ an toàn cao. Với đặc thù như vậy và dịch vụ cất giữ các tài sản giá trị cho khách hàng cũng đem lại nguồn thu nhập cho khách hàng.
Quản lý ngân quỹ: ngân hàng sẽ quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cân tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: hoạt động này của ngân hàng thể hiện phần nào vai trò to lớn của ngân hàng trong nền kính tế. Trong một số giai đoạn khó khăn, chính phủ sẽ phải dựa vào khả năng huy động cho vay với khối lượng lớn của các ngân hàng để khắc phục nhũng thiếu thốn trong chi tiêu và các nhu cầu cấp bách. Dù là cho chính phủ vay thì hoạt động nay của ngân hàng vẫn tiềm ẩn rủi ro. Thực tế đã cho thấy nhiều trường hợp ngân hàng tài trợ cho các dự án của chính phủ và không thu được nợ. Nhưng đây là điều gần như bắt buộc đối với các ngân hàng.
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn, bảo hiểm, môi giới đàu tư chứng khoán, dịch vụ đại lý: với lợi thế về mạng lưới chi nhánh rộng cũng như kinh nghiệm quản lý, hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đang phấn đấu cung cấp các dịch tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Sự canh tranh khốc liệt trong ngành ngân hàng khiến các ngân hàng phải tìm các thị trường mới hấp dẫn hơn. Đó chính là hoạt động bảo hiểm và chứng khoán. Nền kinh tế càng phát triển thì lĩnh vực bảo hiểm và thị trường chứng khoán càng phát triển.
1.2.Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại:
1.2.1 Rủi ro tín dụng:
1.2.1.1 Khái niệm và các loại rủi ro:
Đến nay vẫn không có một định nghĩa chính xác nào về rủi ro, tùy vào mục đích nghiên cứu, lĩnh vực, đối tượng mà rủi ro được hiểu ở những góc độ khác nhau. Có thể hiểu theo một cách chung nhất thì rủi ro là khả năng mà một sự kiện không có lợi và không dự báo trước xuất hiện.
Hoạt động của ngân hàng là loại hình hoạt động rất cần sự cận trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành công trong hoạt động của nó không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà cần phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt , có tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất, trong đó tập trung vào 5 loại rủi ro sau:
Rủi ro thuần túy:
Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: Thiên tai, hỏa hoạn, động đất, hoặc những rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng... Làm thiệt hại hoặc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
Rủi ro lãi suất:
Loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận của nhà ngân hàng. Ví dụ, khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho tiền gửi hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm giảm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập sử dụng vốn dẫn đến kinh doanh của ngân hàng bị lỗ.
Rủi ro tín dụng:
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng vay không trả, không trả đầy đủ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc lẫn lãi. Đây là các loại rủi ro tác động rất lớn đến hoạt động phát triển của ngân hàng thương mại, ngân hàng có thể không thu hồi được nợ, mất khoản trích dự phòng rủi ro…
Rủi ro hối đoái:
Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. hiện nay các ngân hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hiện cả nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái thì thường phải chịu ảnh hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngoài dự kiến của ngân hàng) Nhất là với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hiện nay mới đang trong thời kỳ sơ khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm còn hạn chế do đó vẫn đề rủi ro hối đoái đang được các ngân hàng quan tâm một cách thích đáng.
Rủi ro nguồn vốn:
Thể hiện trên 2 phương diện: Rủi ro do bị động vốn và rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà không cho vay ra được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn. Rủi ro này xảy ra có thể do tác động của lãi suất, của công cụ hạn mức tín dụng hoặc do chất lượng kinh doanh của bản thân ngân hàng.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng. Nó xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém, ngân hàng lại càng khó lòng huy động được một nguồn vốn dồi dào, từ đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, Ngân hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ nợ. Vì thế loại rủi ro này rất nguy hiểm đối với nhà quản lý ngân hàng.
Với loại rủi ro này, Ngân hàng luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì một hệ thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây dựng trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính chất khả chi và khả dụng thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn thường ổn định hơn tiền gửi không kỳ hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng thường bấp bênh hơn tiền gửi của khách hàng....
Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng luôn thường trực và khi đã xảy ra thì sức công phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có thể biến Ngân hàng từ trạng thái phát đạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp cho nó luôn là một đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà phân tích, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Vấn đề ở chỗ số vốn cho vay đó có hoạt động hiệu quả hay không và có thực hiện đúng mục đích hay không. Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Lý do đó đòi hỏi không chỉ có giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu mà còn phải xem xét thực trạng các nguồn vốn vay đang hoạt động ra sao và có an toàn không.
1.2.1.2 Rủi ro tín dụng:
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán phục vụ cho phát triển, mở rộng hoạt đọng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường hết được.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản vay chủ yếu do tình trạng nợ khó đòi và nợ không có khả năng thu hồi. Chúng bao gồm tất cả các khoản cho vay của ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán, tín dụng tài trợ... đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành không thanh toán hoặc trả nợ được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Bởi vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các ngân hàng, hơn 2/3 số tài sản có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu tư chứng khoán, đem lại thu nhập chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thêm vào đó các hoạt động ngoại bảng tổng kết tài sản như: Các giao dịch trên thị trường hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín dụng, tín dụng tài trợ... đều rất dễ bị rủi ro, thua lỗ và mất mát.
Các ngân hàng sẽ không bị đe dọa bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhân được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản vay đúng hạn ngược lại nếu người vay gặp khó khăn về tài chính thì cả gốc và lãi của khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với lãi suất thấp nhưng mức vốn có thể mất không giới hạn.
Rủi ro tín dụng thường tạo ra những tổn thất về tài chính, nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là ngòi nổ tự mình nó sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, nhưng khi có những chất kích nổ thì sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rui ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội.
1.2.2 Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng:
1.2.2.1 Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng:
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với Ngân hàng:
Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kì hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bách, thuyết phục.
Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
Chậm gủi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích rõ rang. Không có báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ, đề nghị gia hạn, điều chỉnh kì hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về gia hạn hay điều chỉnh kì hạn.
Có sự sụt giảm bất thường về số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài sự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng. Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự kiến. Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá dự kiến. Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay…
Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác không phải từ hoatj động sản xuất kinh doanh chính hoặc hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn. Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. Có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tàu trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn, chấp nhậ sử dụng các nguồn vay với giá cao, chấp nhận mọi điều kiện.
Nhóm các dâu hiệu liên quan đến tình hình hoạt động của khách hàng:
Cũng như nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với khách hàng, nhóm các dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý của các cán bộ tín dụng. Cụ thể là:
Có chệnh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỉ lệ thanh khỏan hay mức độ hoạt động của khách hàng. Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lí, thay đổi thường xuyên ban tổ chức điều hành, xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị, điều hành…
Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đến việc đầu tư dự án không có hiệu quả, do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá sớm khi chưa hội đủ các điều kiện chin muồi.
Những thay đổi của chính sách Nhà Nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế, xuất nhập khẩu, thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô như tỉ giá, lãi suất, thay đổi công nghệ kĩ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dung.
1.2.2.2 Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của Ngân hàng:
Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ: đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng chỉ thông qua thông tin tĩnh do khách hàng cung cấp mà thiếu đi các thông tin động và các thông tin nhạy cảm từ kênh thông tin khác, bỏ qua các nghi ngờ phản ánh qua việc phân tích các số liệu tài chính, có dấu hiệu che giấu việc đảo nợ của khách hàng thông qua việc cấp thường xuyên, liên tục các khoản vay mới hay che giấu nợ quá hạn thông qua việc điều chỉnh kì hạn, gia hạn nợ tràn lan…
Cấp tín dụng giựa trên cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì khoản tiền gửi hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ các khoản tín dụng được cấp.
1.2.2.3 Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khi đến hạn trả nợ khách hàng chưa hoàn trả gốc, chưa hoàn trả lãi hoặc cả hai … Thời gian của nợ quá hạn rất quan trọng vì các chi phí và mức độ rủi ro đối với các khoản nợ càng tăng theo thời gian quá hạn. Thời gian qua hạn càng dài, ngân hàng càng tốn nhiều chi phí để thu hồi khoản tiền cho vay và khả năng thu được tiền ngày càng giảm. Thời gian quá hạn của khoản nợ càng lớn, ngân hàng càng chịu nhiều tổn thất. Tổn thất lớn nhất có thể là mất vốn, không thu hồi được đủ gốc và lãi, ngoài ra, trong suốt thời gian quá hạn, ngân hàng phải chịu những chi phí để có thể thu hồi được khoản cho vay. Thời gian quá hạn tỷ lệ thuận với mức độ tổn thất của khoản cho vay và tỷ lệ nghịch với khả năng thu hồi được vốn của ngân hàng. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ở nước ta sử dụng chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn / Tổng dư nợ.
Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác định.
Nước ta hiện đang sử dụng phổ biến chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng và được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và của nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán chứ chưa phản ánh được mức độ rủi ro của các khoản nợ chưa đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này có thể còn chứa đựng nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có thể chia ra thành nhiều loại tuỳ theo tiêu thức đã chọn. Việc phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng theo các khía cạnh khác nhau. Đồng thời, phân loại nợ quá hạn cũng giúp tìm ra các giải pháp trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành:
Nợ quá hạn thông thường: là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay chưa trả được nợ cho Ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao, sự chậm trễ trong việc trả nợ là ngắn.
Nợ quá hạn khó đòi (nợ khó đòi): là những khoản nợ đã quá hạn một thời gian dài mà con nợ không có khả năng thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và quá trình thu nợ thường gặp khó khăn, phức tạp.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (mất vốn): là những khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng không thể thu đựoc toàn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ không còn nguồn để trả nợ cho Ngân hàng cả hiện tại và trong tương lai, khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng là bằng không và Ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu hồi được.
Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất về mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi càng cao thì nguy cơ mất vốn của Ngân hàng càng lớn.
Theo thời gian quá hạn, có thể chia nợ quá hạn thành:
Nợ quá hạn dưới 6 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ quá hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình còn nợ quá hạn trên 12 tháng được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho Ngân hàng.
Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn là các chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi để đo lường rủi ro cho vay của các NHTM. Sử dụng các chỉ tiêu này một mặt đánh giá được rủi ro cho vay, tổn thất của rủi ro cho vay, mặt khác ngân hàng có những định hướng kịp thời nhằm hạn chế phát sinh rủi ro.
1.2.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng:
Nhóm các chỉ tiêu thanh khoản:
Hệ số lưu động = Tài sản nợ lưu động / Nợ ngắn hạn.
Hệ số này phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ đúng hạn.
Hệ số thanh khoản nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng tồn kho) / Nợ ngắn hạn.
Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải cao, trong trường hợp doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu này có thê nhỏ hơn 1.
Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ
Hệ số nợ = (Tổng tài sản – Vốn chủ sở hữu) / Tổng tài sản.
Hệ số này nhỏ hơn hoặc bằng 0.5 là lý tưởng vì có ít nhất một n._.ửa tài sản doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số khả năng trả lãi = Lợi tức trước thuế và lãi / Chi phí trả lãi.
Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ.
Nhóm chỉ tiêu họat động:
Hệ số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hầng bán / Hàng tồn kho.
Hệ số vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu / Các khoản phải thu.
Hệ số vong quay tài sản = Doanh thu thuần / Tổng tài sản.
Nhóm các chỉ tiêu hoạt động:
Hệ số mức sinh lời tren doanh thu = Tổng lợi tức sau thuế / Doanh thu thuần
Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = Tổng lợi tức sau thuế / Tổng tài sản.
Hế số thu nhập trên vốn thuần = Tổng lợi tức sau thuế / Vốn chủ sở hữu thuần.
Tùy theo loại hình tín dụng mà ngân hàng tập trung sự quan tâm đến các chỉ tiêu khác nhau: thời hạn vay ngắn thì quan tâm nhiều hơn đến các chỉ số lưu động, chỉ số nợ còn nếu thời hạn vay dài thì các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng trả nợ cần quan tâm.
1.2.3 Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại:
1.2.3.1 Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại:
Trong những rủi ro mà ngân hàng gặp phải như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất… thì rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng và còn tác động đáng kể đến toàn bộ nền kinh tế.
Đối với ngân hàng việc không thu hồi được vốn tín dụng và lãi vay cùng với việc vẫn phả duy trì việc trả gốc và lãi cho các khoản tiền huy động làm thu chi của ngân hàng mất cân đối. Hậu quả là vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng giảm, việc kinh doanh của ngân hàng không hiệu quả. Rủi ro tín dụng có thể kéo theo rủi ro về thanh khoản. Khi không đủ tiền để đáp ứng nhu câud của người gửi cũng như vay tiền của khách hàng tốt, ngân hàng sẽ mất khách hàng, sự sụt giảm về lợi nhuận sẽ xảy ra. Sức mạnh cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thị trường bị ảnh hưởng. Khách hàng mất đi niềm tin vào ngân hàng, số tiền mà khách hàng có ý định gửi hoặc đang gửi tại ngân hang sẽ thay đổi sang ngân hàng khác. Những người đi vay cũng không muốn vay tại ngân hàng để đi đầu tư các dự án tốt. Hoạt động của ngân hàng trở nên phức tạp, biến động rất mạnh.
Đối với nền kinh tế, hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân. Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với các tổ chức kinh tế, do đó khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Bởi vậy, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì dẫn đến tâm lí hoang mang lo sợ của những người gửi tiền có thể dẫn đến tình trạng người gửi tiền kéo đến rút tiền ồ ạt, làm cho hệ thống ngâ hàng gặp khó khăn. Nếu ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…khi một ngân hàng phá sản có thể ảnh hưởng tới cả hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Nó làm suy thoái nền kinh tế, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
1.2.3.2.Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại:
Phân tích các thông tin về khách hàng và thị trường:
Nhiều yếu tố được các nhân viên tín dụng xem khi phân tích khi cấp tín dụng. Những yếu tố về khả năng và sẵn lòng trả nợ vay phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng là những yếu tố quan trọng cần được nhân viên tín dụng xác định.
Ta sẽ phân tích năm nhân tố chủ yếu trong phân tích tín dụng.
Năng lực vay nợ.
Uy tín khách hàng để tạo lợi nhuận.
Quyền sở hữu tài sản.
Khả năng tạo lợi nhuận.
Các điều kiện kinh tế khác.
Năng lực vay nợ : Các ngân hàng quan tâm đến năng lực pháp lý của người vay nợ. Hợp đồng vay nợ phải được đảm bảo tức là có giá trị pháp lý. Nếu có điều gì bất trắc xảy ra thì ngân hàng được pháp luật đảm bảo, có quyền đòi nợ ưu tiên trên các tài sản người vay.
Uy tín: Khái niệm về uy tín có liên quan đến các giao dịch tín dụng không chỉ có ý nghĩa là sự sẵn sàng trả nợ mà còn có ý nghĩa là thực hiện tất cả các giao ước trong các điều khoản của hợp đồng. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là tính thật thà và liêm chính của một con người và cũng quan trọng khi thực hiện cho vay đối với các hãng kinh doanh hoặc cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng ( Đôi khi việc đánh giá một người chủ yếu là phán đoán chứ không thể thực hiện trên cơ sở các thông tin thực tế đầy đủ).
Khả năng tạo ra lợi tức của một cá nhân tùy thuộc vào các yếu tố như giáo dục, sức khỏe và năng lực, kỹ năng, tuổi tác nghề nghiệp ổn định và tài tháo vát. Đối với một hãng kinh doanh việc tạo ra lợi nhuận phụ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến lượng hàng bán, giá bán,giá thành và chi phí. Những yếu tố này bao gồm địa điểm của hãng, chất lượng hàng hóa và tính hữu hiệu của quảng cáo chất lượng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả năng khai thác, giá thành nguyên liệu, chất lượng quản lý.
Quyền sở hữu tài sản: Quyền sở hữu tài sản tương tự như vốn và vật thế chấp là một trong các tiêu chuẩn tín dụng, tín dụng sẽ không được cung cấp cho các hãng kinh doanh nếu người chủ không có đủ vốn, tài sản đảm bảo cho khoản nợ. Giá trị thực của một hãng ( vốn tự có ) là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của họ và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng thực hiện, chất lượng quản lý.
Các điều kiện kinh tế: Điều này yêu cầu cán bộ tín dụng phải có kiến thức sâu rộng để có thể dự đoán kinh tế nhằm thực hiện việc cấp tín dụng có hiệu quả. Các cán bộ tín dụng phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực mà khách hàng của anh ta kinh doanh đồng thời nắm bắt kịp thời xu hướng phát triển kinh tế đang trong tình trạng suy thoái hay hưng thịnh từ đó có được những quyết đoán đúng đắn.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay:
Kiểm tra trước và sau khi cho vay đặc biệt xem xét kỹ việc chấp hành quy trình trong cho vay vốn.
Kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong đó đặc biệt chú ý khâu kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng.
Tăng cường đối chiếu công nợ, cần xem xét kỹ tình hình thu nợ, xác định rõ các loại nợ và đưa ra các biện pháp quản lý, xử lý cho thích hợp.
Cho vay có đảm bảo:
Các khoản cho vay có bảo đảm thường được ngân hàng thương mại coi như một biện pháp giảm thiểu rủi ro. Với các khoản vay lớn có khả năng gặp rủi ro từ khi cho vay ngân hàng có thể ký kết hợp đồng với công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm cho khoản vay đó. Khi làm việc này ngân hàng sẽ phải trả một khoản phí ( lợi nhuận bị chia sẻ ) nhưng đồng thời rủi ro cũng được hạn chế.
Ngoài ra ngân hàng có thể tự bảo hiểm cho mình bằng cách trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho những thiệt hại nếu rủi ro xảy ra. Quỹ này sẽ được trích lập hàng năm từ lợi nhuận theo một tỷ lệ nhất định cho đến khi bằng vốn điều lệ.
Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng:
Hoạt động cho vay xuất phát từ quyết định của cán bộ tín dụng cho nên việc làm thế nào để hạn chế rủi ro tín dụng thì vấn đề nhận lực của ngân hàng cũng được tính đến. Các ngân hàng thương mại phối hợp với các đơn vị liên quan thờng xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro tín dụng của cho các cán bộ. Cũng có thể đào tạo bằng cách cho những cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn những cán bộ mới trong công việc, cách nhận biết và hạn chế những rủi ro. Không có phương pháp phân tích phức tạp nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn trong quản trị rủi ro. Do đó, để hạn chế rủi ro một cách hiệu quả và đồng bộ, các ngân hàng thương mại cần trang bị cho mình thông qua quá trình tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, cơ cấu đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn hóa và có kinh nghiệm vế quản trị rủi ro tín dụng.
Đa dạng hóa danh mục tín dụng:
Không tập trung vốn cho một số khách hàng mà cho nhiều người vay, nhiều ngân hàng cùng tài trợ cho một khách hàng hoặc ngân hàng phân tán rủi ro theo từng ngành nghề hoạt động kinh doanh theo xu thế phát triển và mức độ tăng trưởng của từng ngành. Những hoạt động này sẽ giúp ngân hàng phân chia giới hạn rủi ro. Bằng việc phân bổ vốn đàu tư một cách đa dạng giữa những người khác nhau, giữa các các khu vực sản xuất và địa lý khác nhau, ngân hàng có thể giảm thiểu phần lớn những rủi ro các biệt. Tất nhiên mức độ đa dạng hóa và khả năng hạn chế rủi ro của một ngân hàng phụ thuộc một phần vào quy mô của danh mục đầu tư được quản lý.
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:
Trong hoạt động tín dụng các ngân hàng không những thực hiện đúng và đủ các quy định chung của ngân hàng Nhà Nước về quy chế cho vay, tài sản đảm bảo, trích lập dự phòng… mà còn phải chú ý đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Với chính sách này nhằm hạn chế phần nào tổn thất rủi ro tín dụng mang lại đồng thời ngày càng nâng cao khả năng phòng chống rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả và phù hợp. Chính sách này đưa ra các nội dung phù hợp với từng khoản mục tín dụng, trước, sau và trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng. Những vấn đề mà chính sách quản lý rủi ro tín dụng đề cập đến là: những khách hàng và nhóm khách hàng nào cần phải hạn chế cho vay, nằm trong tầm kiểm soát… ngành, lĩnh vực nào cần hạn chế. Bên cạnh đó, những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro cũng cần được nếu ra. Như vậy, với nhiều trương hợp rủi ro tín dụng thì chính sách rủi ro tín dụng cũng góp phần không nhỏ trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng. Do đó mỗi ngân hàng cần xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả, chi tiết, phù hợp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH THÀNH ĐÔ (Từ năm 2006 đến năm 2008)
2.1 Giới thiệu về Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Thành Đô:
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam BIDV:
2.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển:
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam được thành lập ngày26/04/1957 với tên gọi ban đầu là ngân hàng Kiến thiết Việt Nam. Giấy phép kinh doanh số: 0106000439, mã số thuế: 01001506191.
Giai đoạn 1957 – 1980 ngân hàng Kiến thiết Việt Nam tiền thân của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được thành lập trực thuộc bộ tài chính với qui mô ban đầu gồm 11 chi nhánh, 200 nhân viên với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát và quản lý vốn thiêt kế cơ bản nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội
Giai đoạn 1981 – 1989 ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng đầu tư và phát triển Xây dựng Việt Nam trực thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch nhà nước cho các lĩnh vực của nền kinh tế
Giai đọan 1990 – 1994 ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Bank for Investment and Development of Vietnam - BIDV ) với nhiệm vụ được thay đổi về cơ bản: ngoài việc tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước thì BIDV đã thực hiện huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Giai đoạn 1995 – 2000 BIDV được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển đất nước. Đây là thời kỳ BIDV đã khẳng định được vị trí, vai trò là ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Giai đoạn 2001 đến nay BIDV đã triển khai đồng bộ đề án cơ cấu lại và được chính phủ phê duyệt để phát triển thành một ngân hàng đa năng hàng đầu của Việt Nam , ngang tầm với các ngân hàng thuộc khu vực và trên thế giới.
2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức và các phòng ban chức năng:
Phát triển nguồn lực, kiện toàn nhân sự lãnh đạo chủ chốt. Trong năm 2007, toàn hệ thống đã tăng định biên thêm 1.200 người, nâng tổng số cán bộ công nhân viên đến thời điểm 31/12/2007 là 11.585 người, trong đó Hội sở chính 726 người, các công ty, đơn vị trực thuộc là 10.859 người, tuổi đời bình quân là 33 (năm 2006 là 34), có trên 56% cán bộ dưới 30 tuổi, cán bộ có trình độ Đại học và trên đại học đạt trên 78,5%, có bằng B tiếngAnh trở lên chiếm 71%; 246 cán bộ được đào tạo chính trị cao cấp và cử nhân.
Cơ cấu tổ chức hội sở chính cho thấy sự độc lập tương đối giữa các khối và chịu sự kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và hội đồng quản trị.
Khối quản lý rủi ro chịu trách nhiệm quản trị rủi ro, dự báo các thay đổi trong tương lai và đảm bảo các tỷ lệ an toàn cho ngân hàng.
Khối tín dụng có nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động tín dụng vơi các chi nhánh, trực tiếp cấp tín dụng và quản lý các khoản tín dụng lớn
Khối dịch vụ bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau như dịch vụ thanh toán, dịch vụ phát hành thẻ, dịch vụ bảo lãnh….
Khối tài chính quản lý các hoạt động tài chính và trực tiếp thực hiện việc kinh doanh tiền tề (tresuary department)
Hội đồng quản trị
Ban tổng giám đốc
Hội đồng quản lý tài sản nợ có
Hội đồng tín dụng
Hội đồng khoa học
Khối quản lý rủi ro
Khối tín dụng
Khối kế toán
Khối hành chính
Khối dịch vụ
Khối tài chính
Ban quản lý rủi ro
Ban kiểm tra nội bộ
Ban tín dụng
Ban quản lý TD
Ban thẩm định
Ban quản lý chi nhánh
Ban dịch vụ
Trung tâm thẻ
Ban kinh doanh đối ngoại
Ban kế hoạch phát triển
Ban nguồn vốn và KDTT
Ban tài chính
Ban đầu tư
Ban kế toán
Trung tâm thanh toán
Ban tổ chức cán bộ
Ban quản lý tài sản
Văn phòng
Ban pháp chế
Ban công nghệ
Khối kế toán thực hiện lập sổ sách kế toán hàng ngày. Mỗi phòng ban đều có một bộ phận kế toán trực tiếp thực hiện kế toán cho các giao dịch hằng ngày và cuối ngày sẽ tổng hợp số liệu lại tại phòng kế toán chung cho cả hệ thông ngân hàng.
Khối hành chính gồm các phòng văn thư, nhân sự, phòng thương hiệu và quan hệ công chúng….
Riêng với ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ thuộc khối tài chính là một trong những ban quan trọng của ngân hàng bởi hoạt động của ban này luôn mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Hơn thế nữa hoạt động của ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngày càng được mở rộng đặc biệt là phòng kinh doanh tiền tệ.
Ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ gồm 3 phòng ban chính:
Phòng huy động vốn: phòng này giữ một vị trí hết sức quan trọng bởi nó thực hiện việc huy động vốn cho ngân hàng. Phòng huy động vốn thực hiện việc đưa ra các sản phẩm như các loại hình tiền gửi tiết kiêm, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng…để thực hiện việc thu hút vốn trên thị trường.
Phòng cân đối tổng hợp giống như một phòng kế toán thực hiện việc điều chuyển, quản lý vốn và thực hiện các nghiệp vụ kế toán.
Phòng kinh doanh tiền tề: đây là phòng ban vô cùng quan trọng bởi nó là phòng trực tiếp kinh doanh. Nguòn vốn được huy động từ phòng nguồn vốn thông qua phòng cân đối tổng hợp được đưa đến phòng kinh doanh tiền tệ và phòng tín dụng là chủ yếu. Phòng tín dụng sẽ thực hiện việc cho vay còn phòng kinh doanh tiền tệ sẽ thực hiện việc kinh doanh đối với nguồn vốn để mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
2.1.1.3 Một số kết quả kinh doanh chủ yếu:
Chỉ tiêu tổng thể của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam:
Tính đến 31/12/2007, tổng tài sản theo chuẩn mực kế toán quốc tế đạt 201.382 tỷ VND (12,5 tỷ USD), tăng 27% so với năm 2006. Chất lượng tài sản của ngân hàng được nâng cao một cách bền vững trong vòng 5 năm qua, thể hiện qua cơ cấu tài sản ngày càng chuyển biến hợp lý và hiệu quả hơn. Cụ thể:
Tài sản có tính thanh khoản cao bao gồm tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại 31/12/2007 là 12.716 tỷ VND, giảm 11.690 tỷ VND so với năm 2006. Tỷ trọng tài sản thanh khoản trong tổng tài sản cuối kỳ năm 2007 cũng đã giảm hơn so với năm trước là 9,1% (năm 2006 chiếm 15,4%, năm 2007 chiếm 6,3%). Tuy nhiên, tỷ trọng bình quân cả năm 2007 thì vẫn lớn hơn năm 2006 là do yêu cầu tăng dự trữ
Bảng 1: Các chỉ số tài chính cơ bản của BIDV
Các chỉ số
Năm 2006
Năm 2007
Chất lượng tài sản
Nợ xấu/Tổng dư nợ
9,6%
3,98%
Dự phòng rủi ro tín dụng/Nợ xấu
60%
134%
Cân đối vốn
Vốn CSH/Tổng tài sản
2,8%
4,17%
Tỷ số vốn cấp 1
5,8%
6,4%
CAR
5,5%
6,7%
Thanh khoản
Tổng dư nợ/Tiền gửi khách hàng
92,6%
97,5%
Khả năng sinh lời
ROA
0,4%
0,89%
ROE
14,23%
25,01%
Lãi cận biên ròng
2,73%
3,07%
Hiệu quả
Chi phí hoạt đông/Tổng tài sản
1,1%
1,3%
Chi phí hoạt động/Dư nợ trước DPRR
1,77%
2%
Chi phí hoạt động/Thu nhập hoạt động
42%
44%
(Nguồn: Báo cáo tài chính của BIDV năm 2007)
bắt buộc theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước.
Tiền gửi có kỳ hạn và cho vay các tổ chức tín dụng khác đạt 24.006 tỷ VND, chiếm 11,9% tổng tài sản, tăng 6.577 tỷ VND so với năm 2006.
Đầu tư chứng khoán đạt 30.312 tỷ VND chiếm 15,05%, tăng 14.298 tỷ VND so với năm trước và tập trung chủ yếu vào đầu tư trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái...là những khoản đầu tư vừa có rủi ro thấp lại vừa đảm bảo khả năng hỗ trợ tính thanh khoản của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu thời điểm 31/12/2007 theo báo cáo kiểm toán là 3,98%. So sánh tỷ lệ nợ xấu của năm 2007 với tỷ lệ nợ xấu năm 2005 (31,3%) và năm 2006 (9,6%) có thể thấy được nỗ lực cũng như hiệu quả trong việc kiểm soát chất lượng tín dụng, xử lý nợ xấu, làm sạch bảng cân đối của ngân hàng. Như vậy, ngân hàng bước đầu đã đạt được thành công trong công tác quản lý tín dụng theo thông lệ quốc tế.
Ngân hàng có một số hạn chế trong vấn đề thanh khoản, tuy nhiên khả năng thanh khoản của ngân hàng đã được cải thiện đáng kể từ năm 2003 tới 2007, với tỷ lệ dư nợ/ tiền gửi giảm dần từ 106,4% xuống 97,5%, nhờ mức độ tăng nhanh huy động tiền gửi khách hàng. Điều này phù hợp với chiến lược phát triển nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Chỉ số tài sản thanh khoản (tiền và các khoản tương đương tiền tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi thanh toán tại các TCTD khác)/Tổng nợ phải trả có xu hướng giảm nhẹ dần qua các năm, từ 8,2% xuống 6,6 %, tuy nhiên việc giảm này chủ yếu là do ngân hàng đã thu hút được nhiều tiền gửi nhàn rỗi từ tổ chức và cá nhân và chỉ một phần nhỏ là do tài sản thanh khoản của ngân hàng giảm trong năm 2007.
Chỉ tiêu nguồn vốn của Ngân hàng:
Trong năm 2007, BIDV tiếp tục được Chính phủ cấp bổ sung 3.400 tỷ VND vốn điều lệ (tăng vốn tự có từ mức 6.214 tỷ VND năm 2006 lên mức 10.643 tỷ VND), nâng tỷ lệ an toàn vốn từ 5,5% năm 2006 lên mức 6,7% năm 2007, hoàn thành cơ bản việc trích dự phòng rủi ro theo quyết định 493 (cả dự phòng chung và cụ thể). Chỉ số ROE đạt 25,01%, ROA đạt 0,89%.
Vốn cấp I năm 2007 đạt 10.276 tỷ VND, tăng 3.628 tỷ VND so với 2006. Ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận phát hành trái phiếu tăng vốn cấp II với khối lượng: 3.250 tỷ VND. Ngân hàng đã phát hành thành công 2 đợt trái phiếu vào tháng 5 và tháng 12 năm 2006, là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành trái phiếu dài hạn để tăng vốn cấp II theo đúng các điều kiện quy định của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Mức vốn cấp II vừa đảm bảo mức an toàn vốn vừa tuân theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước không vượt quá 50% vốn cấpI. Tổng vốn cấpI và cấpII đều tăng đảm bảo tăng hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng.
Bảng 2: Xu hướng an toàn vốn của BIDV
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Các chỉ số an toàn vốn
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Vốn/Tổng tài sản(%)
3,59
3,07
2,7
2,80
4,17
Vốn/Tài sản rủi ro(%)_CAR
4,58
4,29
3,36
5,5
6,67
Vốn điều lệ
3.746
3.866
3.971
4.077
7.699
Các quỹ dự trữ
1.328
1.351
1.583
1.345
1.106
Đấnh giá lại tài sản tài chính sẵn sang để bán
-
-
-
621
221
Tổng vốn chủ sở hữu
3.084
3.062
3.150
4.428
8.405
(Nguồn: Báo cáo tài chính qua các năm của BIDV)
Hệ số CAR – một thước đo chính khả năng của ngân hàng chống đỡ rủi ro không được dự tính mà không làm ảnh hưởng tới nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Mức tiêu chuẩn của Việt Nam đã thay đổi từ giữa năm 2005, yêu cầu về hệ số CAR ngày càng tiếp cận đến mức chuẩn quốc tế (theo QĐ 457/2005/QĐ-NHNN tháng 4/2005). Quyết định này bắt buộc duy trì hệ số CAR ở mức tối thiểu 8% và có thời gian ân hạn 3 năm (tới tháng 5/2008) cho các tổ chức tín dụng thực hiện để đáp ứng mức tối thiểu này. Theo báo cáo kiểm toán quốc tế, CAR năm 2007 của ngân hàng được cải thiện đáng kể do đã được Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ thêm 3.400 tỷ VND và ngân hàng thực hiện thành công đề án tăng vốn cấp II, đạt mức 6,7%, đang tiến tới chuẩn tối thiểu về an toàn vốn theo Quy định của Ngân hàng Nhà nước và tiêu chuẩn quốc tế là 8%. Từ năm 2003 tới năm 2007, hệ số an toàn vốn cơ bản (Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản) cũng đã tăng gần 2lần, từ 3, 59% tới 4,17%, góp phần đảm bảo an toàn vốn cho hệ thống.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh Thành Đô:
2.1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển:
Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Thành Đô được thành lập và chính thức đi vào hoạt động trên cơ sở tách, nâng cấp Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Long Biên (chi nhanh cấp II), trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Bắc Hà Nội.
Căn cứ vào Quyết định số 1555/QĐ – NHNN của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam về việc mở chi nhánh của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam.
Căn cứ Nghị quyết số 172/NQ – HĐQT của Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam về việc điều chỉnh các chi nhánh cấp II trực thuộc Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam.
Căn cứ Quyết địng số 222/QĐ – HĐQT ngày 14/08/2006 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam.
Chi nhánh Thành Đô chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/09/2006 với số vốn ban đầu 300 tỷ VNĐ. Có trụ sơ đặt tại: Số 463 đường Nguyễn Văn Linh, phường Phúc Đồng, quân Long Biên, thành phố Hà Nội.
Chi nhánh Thành Đô nhờ có sự quan tâm giúp đỡ của Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát Triển Việt Nam, các phòng ban tại hội sở chính, vơi sự cố gắng của Ban giám đốc và toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên, đã luôn hoàn thành xuât sắc các chỉ tiêu được giao. Trong hơn hai năm qua, chi nhanh Thành Đô đã không ngừng phat triển, mở rộng các sản phẩm dịch vụ, không chỉ dừng lại ở các sản phẩm dịch vụ truyền thống như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế… Ngân hàng đã ứng dụng nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, các hình thức thanh toán hiện đại được áp dụng như: hệ thống rút tiền tự động qua thẻ ATM, Home banking… kết hợp với các kênh thanh toán tạo cho khách hàng có sụ lựa chọn phù hợp, tiện lợi nhất cho mình.
2.1.2.2 Cơ cấu tổ chức và các phòng ban:
BAN GIÁM ĐỐC
CÁC PHÒNG GD, ĐIỂM GD
CÁC PHÒNG NGHIỆP VỤ
HỘI ĐỒNG TÍN DỤNG
PHÒNG THẨM ĐỊNH VÀ QL TD
PHÒNG TÍN DỤNG
PHÒNG DỊCH VỤ KH
PHÒNG ĐIỆN TOÁN
PHÒNG TỔ CHỨC HC
PHÒNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
PHÒNG KẾ HOẠCH NV
PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
Phòng tín dụng:
Thực hiện việc cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn bằng VND và ngoại tệ, bảo lãnh cho các khách hàng theo chế độ tín dụng hiện hành, đảm bảo an toàn, hiệu quả của đồng vốn. Thực hiện tư vấn trong hoạt động tín dụng và dịch vụ uỷ thác đầu tư theo quy định. Thực hiện việc hỗ trợ huy động vốn từ mọi nguồn vốn hợp pháp của khách hàng như: Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn... cả VND và ngoại tệ.
Tổ chức việc lập kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý năm của phòng và tham gia xây dựng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh. Tổ chức thực hiện công tác khách hàng thường xuyên: phục vụ và khai thác tiềm năng của khách hàng truyền thống, mở rộng phát triển khách hàng mới. Tham mưu cho Giám đốc về chiến lược kinh doanh, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng và chính sách lãi suất của chi nhánh.
Phòng kế hoạch nguồn vốn:
Tổ chức quản lý và điều hành tài sản nợ, tài sản có bằng tiền của chi nhánh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, an toàn đúng quy định của pháp luật và trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ kinh doanh tại chi nhánh theo phân công. Phối hợp cùng các phòng chức năng xây dựng thực hiện các chính sách lãi suất, chính sách khách hàng, chính sách các sản phẩm mới, đề xuất xây dựng phát triển các kênh, mạng lưới, công cụ huy động vốn nhằm thực hiện kế hoạch kinh doanh Xác định cơ cấu tài sản nợ, tài sản có, đảm bảo cân đối theo kỳ hạn, loại tiền, phù hợp với đặc thù Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, trên cơ sở đó xác định cơ cấu chính sách huy động vốn, sử dụng vốn hợp lý.
Chủ trì xây dựng các qui trình nghiệp vụ trong công tác điều hành nguồn vốn, tham gia xây dựng qui trình các hoạt động nghiệp vụ khác. Tổ chức thực hiện công tác thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn theo yêu cầu. Tổng hợp thông tin, báo cáo thống kê - phòng ngừa rủi ro phục vụ công tác điều hành của ngành và chi nhánh.
Phòng Tài chính Kế toán:
Thực hiện hạch toán kế toán để phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ phát sinh tại chi nhánh. Phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trực thuộc thực hiện các chính sách và chế độ kế toán của Nhà nước và của Ngành. Tổng hợp, lưu trữ chứng từ kế toán; cân đối kế toán ngày tháng, năm; các báo cáo quyết toán, kiểm toán nội bộ của Hội sở và toàn Ngân hàng.
Thực hiện báo cáo kế toán đối với các cơ quan quản lý Nhà nược theo chế độ hiện hành và cung cấp số liêụ báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ban Giám đốc chi nhánh. Trực tiếp thực hiện kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ trả lương...
Phòng quản lý và dịch vụ khách hàng:
Nghiên cứu thị trường, xác định thị phần của chi nhánh để tham mưu cho Giám đốc xây dựng chiến lược khách hàng, định hướng phát triển nền khách hàng bền vững phục vụ kinh doanh của chi nhánh. Xây dựng chính sách chung đối với khách hàng, nhóm khách hàng và từng khách hàng cụ thể. Tham mưu cho Giám đốc sử dụng chính sách khách hàng linh hoạt trong các thời kỳ, giao đoạn cụ thể về lãi suất, phí, dịch vụ và các chính sách khác để đạt được hiệu quả trong kinh doanh.
Phòng Thanh toán quốc tế:
Phòng thanh toán quốc tế của chi nhánh trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng. Thực hiện các nghiệp vụ mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ Ngân hàng đối ngoại khác …
Phòng Tổ chức hành chính:
Nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, quản lý cán bộ, tuyển chọn nhân viên, quản lý việc thu chi các quỹ lương, thưởng.
Phòng Điện toán:
Chịu trách nhiệm quản lý về mặt kỹ thuật các tài sản máy móc, thiết bị... của Sở Giao Dịch, thực thi các kế hoạch đầu tư sửa chữa, cải tạo cơ sở vật chất của Sở Giao Dịch.
Phòng thẩm định và quản lý rủi ro:
Thẩm định tư cách khách hàng, thẩm định tình hình hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính đối với pháp nhân hoặc nguồn thu nhập đối vơi khách hàng cá nhân. Thực hiện xếp hạng tín dụng khách hàng. Thẩm định nhu cầu vay vốn và đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Thẩm định tài sản đảm bảo, lập báo cáo thẩm định.
2.1.3 Thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thành Đô:
2.2.1.1 Tổng quan thực trạng kinh doanh của chi nhánh Thành Đô:
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam với phương châm hoạt động:”Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV. Chia sẻ cơ hội hợp tác thành công”, từ định hướng đó trong tất cả các hoạt động của chi nhánh Thành Đô luôn gắn sự phát triển của mình với ự thành công của khách hàng. Chi nhánh bám sát các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, của ngành Ngân Hàng, nắm bắt kịp thời các biến động của thị trường như: diễn biến của giá cả, lạm phát, lãi suất, các chính sách về tỉ giá, dựu trữ băt buộc ….để có những quyết định tôi ưu nhất. Cùng với sự phấn đấu nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong toàn chi nhánh là sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đã tạo nên bước đột phá mạnh mẽ trong tăng trưởng của chinh nhánh thời gian qua. Cụ thể hơn về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong hai năm 2006, 2007 và 5 tháng đầu năm 2008 như sau:
Bảng 3: Tổng quan thực trạng kinh doanh của chi nhánh
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
Năm
2006
Năm
2007
5tháng
2008
So sánh
CL năm
07 - 06
Tỉ trọng
(%)
CL năm
08 - 07
Tỉ trọng
(%)
1
2
3
4
5=3-2
6=(5:2)*100
7=4-3
8=(7:3)*100
Tổng tài sản
768
1012
1212
244
31.77
200
19.76
Tổng NV huy động
320
930
980
610
190.63
50
5.38
Mức chênh lệch thu chi
10
30
20
20
200
-10
-33.33
(Nguồn: Theo báo cáo tổng kết kế hoạch kinh doanh qua các năm của chi nhánh Thành Đô)
Tổng tài sản của năm 2007 so với năm 2006 đã tăng 244tỉ đồng, tương đương tăng 31.77%, sở dĩ trong năm 2007 tổng tài sản có mức tăng mạnh như vậy là do cuối năm 2006 chi nhánh Thành Đô mới được thành lập. Đến 31/05/2008 đạt 1212 tỉ đồng, tăng 200 tỉ đồng so với năm 2007 tương đương tăng 19.76%. Do đây là con số thống kê tình hình thực hiện 5 tháng đầu năm 2008 nên đến thời điểm 31/12/2008 mức tăng của tổng tài sản chắc chắn sẽ có sự biến đổi tăng trưởng hơn nữa. Tài sản sinh lời đạt 98.8% trên tổng tài sản. Sự tăng trưởng của giá trị tổng tài sản chủ yếu là do sự tăng dư nợ tín dụng.
Nguồn vốn huy động đến ngày 31/05/2008 đạt 980 tỉ đồng, tăng 50tỉ đồng so với năm 2007, tương đương tăng 103.1%. Nguồn vốn huy động ước tính đến tháng 12/2008 là 1800tỉ.
Năm 2007, mức chênh lệch thu chi đạt 30 tỉ đồng, tăng 20 tỉ đồng so với năm 2006, tương đương mức tăng 200%. Theo báo cáo kết quả kinh doanh 5 tháng đầu năm 2008, mức chênh lệch thu chi của chi nhánh thực hiện đạt 20tỉ, mức tăng trưởng đều và ổn định khẳng định hướng đi đúng đắn của chi nhánh trong những năm qua.
2.2.1.2 Thực trạng huy động vốn:
Tình hình huy động vốn của chi nhánh qua các năm 2006, 2007 và 5 tháng đầu năm 2008 được phản ánh ở bảng 4.
Qua bảng ta có thể thấy:
Tổng nguồn vốn năm sau cao hơn năm trước, cụ thể là trong 5tháng đầu năm 2008, tồng nguồn vốn huy động đạt 980 tỉ đồng, tăng 50 tỉ đồng so với năm 2007, và tăng 660 tỉ đồng so với năm 2006. Kết quả của 5 tháng đầu năm 2008 đã vượt qua mức huy động vốn cả năm 2007.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động, huy động từ Tổ chức kinh tế năm 2006 là 90 tỉ, chiếm tỉ trọng là 28.1% trong tổng nguồn vôn huy động, đến năm 2007 là 485 tỉ, chiếm tỉ trọng là 52.2% trong tổng nguồn vốn huy động. Con số._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7582.doc