Lời mở đầu
Ngân hàng là một trong những định chế quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Trong nền kinh tế ngân hàng thương mại có vai trò to lớn trong việc đáp ứng nguồn vốn, chu chuyển luồng tiền phục vụ cho mọi hoạt động kinh doanh của các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt hiện nay nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo hướng hội nhập, phát triển và toàn cầu hoá thì ngân hàng càng có vai trò to lớn hơn. bằng các sản phẩm và dịch vụ của mình ngân hàng đã giúp các luồng
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, sự an toàn trong hoạt động vủa ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được các ngân hàng quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng tới an toàn của ngân hàng và sự tồn tại của ngân hàng.
Trong quá trình thực tập tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Hà Thành, em đã tìm hiểu được quá trình hình thành, phát triển và được tiếp xúc với các hoạt động của chi nhánh, đặc biệt là quy trình tín dụng, và em nhận thấy rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp. Chính bởi vậy, em chọn đề tài: “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Hà Thành” làm chuyên đề tốt nghiệp cuối khoá của mình. Chuyên đề của em bao gồm ba phần chính:
Chương 1: Lý thuyết chung về hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt đọng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Hà Thành.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương Mại.
CHƯƠNG 1: lý thuyết chung về hạn chế rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng thương mại
Hoạt động của ngân hàng thương mại:
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng:
Lịch sử hình thành và phát triển vủa ngân hàng gắn liền với lịch sử và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Mỗi giai đoạn Ngân Hàng lại có những sự thay đổi trong nhận thức cũng như trong hoạt động. Ngân Hàng đã đi từng bước hình thành cực kì thô sơ và chính nhu cầu phát triển, nâng cao cả về số lượng và chất lượng các hoạt động, dịch vụ để trở thành một thành phần cực kì quan trọng của nền kinh tế.
Giai đoạn sơ khai của ngành Ngân Hàng ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu được hình thành. Hoạt động của các Ngân Hàng sơ khai gồm có: đổi tiền, bảo quản và giữ hộ tiền của các thợ bàng và những người giàu có, cho vay nằng lãi. Hoạt động lúc bấy giờ gần giống như các tiệm cầm đồ ngày nay. Các hoạt động ngay xuất phát từ việc hầu như mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng, quá trình giao lưu, buôn bán giữa các vùng, các lãnh thổ với nhau đã tạo ra thu nhập cho những người đổi tiền, dduc tiền. Thu nhập có được là từ chênh lệch mua và bán giữa các loại tiền. Hoạt động cất giữ hộ , cho vay nặng lãi và thanh toán hộ cũng được những người đổi tiền thực hiện. Việc có thể sử dụng tạm thời một phần tiền của khách để cho vay đã làm xuất hiện việc thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Trong vòng từ thế kỉ thứ V đến thế kỉ X nhiều hoạt động mới được áp dụng đã đem lại bước phát triển mới cho ngân hàng so với giai đoạn sơ khai trước kia: chiết khấu thương phiếu, ghi chép và theo dõi khách hàng qua số liêu tài khoản.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, từ chỗ là Ngân Hàng của các thợ vàng, người cho vay Ngân Hàng sơ khai đã trở thành Ngân Hàng thương mại với chức năng hcur yếu là vho vay ngắn hạn rồi tiếp đó mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để cho bay đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê… khi cả ba nghiệp vụ: nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán) được hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại, để có một định nghĩa về ngân hàng thương mại người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó. Theo hiệp định Basel II, Ngân Hàng được định nghĩa như sau: “Ngân Hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thành toán và thực hiện chức năng tài chính nhất so với bấy kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì: “Hoạt động Ngân Hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng giúp các luồng tiền di chuyển một cách có hiệu quả, đồng thời bằng doanh mục các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân hàng cũng ngày một đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của cả người cần tiền lẫn người có tiền, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng. tuy nhiên, trong bất cứ nền kinh tế nào trên thế giới thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức lớn nhất và quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
1.1.2 Các hoạt động chính của ngân hàng thương mại:
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn:
Nhận tiền gửi, cất giữ họ tiền là một trong những hoạt động có ngay thời kì sơ khai của ngân hàng. Việc nắm giữ tạm thời một lượng tiền nhất định đi kèm với khả năng cho vay thu lãi đã khiến hoạt động nhận tiền gửi đã trở nên hấp dẫn với ngân hàng. Việc trả lãi cho các khoản tiền gửi đã trở nên phổ biến thậm chí con có các cuộc cạnh tranh gay gắt về lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng để có thể huy động được nhiều tiền. Một trong những nguồn quan trọng để huy động tiền là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Nếu như hoạt động tín dụng đem lại thu nhập cho ngân hàng thông qua việc cho vay, bảo lãnh… thì hoạt động vốn là cơ sở cho hoạt động tín dụng thông qua việc huy động vốn các nguồn tiền cho ngân hàng.
1.1.2.2 Sử dụng vốn:
Các ngân hàng thương mại chủ yếu sử dụng đồng vốn mình huy động được thông qua hoạt động tín dụng. tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
Nói tóm lại, bản chất của tín dụng là một giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản). Gía trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi xuất cho vay danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát. trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cở sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn… đến bảo lãnh, cho thuê tài chính, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. có thể phân loại tín dụng theo một số căn cứ sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Cho vay ngắn hạn: là việc cho vay với thời hạn dưới một năm nhằm tài trợ cho tài sản lưu dộng hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà Nước, doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình.
Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: thời hạn trên 5 năm và tối đa có thể lên đến 20 đến 30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm. tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào đảm bảo tín dụng:
Cho vay có đảm bảo: cho vay có đảm bảo là biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó, ví dụ như: nhà cửa đất đai, xe cộ, hàng hoá… vật thế chấp những khoản nợ tất đa dạng sông một yêu cầu cơ bản là phải có thể bán được. Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản vay phải được bảo đảm là nhằm người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đến hạn. Sự đảm bảo là yêu cầu cần phải có đối với các khoản cho vay vì một số nguyên nhân: thông thường đó là do sự yếu kém về tài chính của người vay và khi đó ngân hàng cần có tài sản cầm cố, thế chấp để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Việc thời hạn cho vay kéo dài đồng nghĩa với rủi ro tăng thì việc đảm bảo gần như bắt buộc. Tỉ lệ cho vay tối đa được tính trên giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ đó cao hay thấp tuỳ vào từng quy định của các ngân hàng, pháp luật, tư cách pháp nhân của khách hàng…
Cho vay không có đảm bảo: khác với cho vay đảm bảo, cho vay không có đảm bảo được dựa trên uy tín, khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng, lợi tức có thể có trong tương lai cùng tình trả nợ trước đây. với doanh nghiệp, cá nhân mà nguồn thu nhập ổn định, là khách hàng lớn của ngân hàng, hoạt động hiệu quả có thể ngân hàng sẽ cho vay những khoản lớn mà thiếu giá trị tài sản đảm bảo thậm chí không có tài sản đảm bảo.
Căn cứ vào đối tượng sử dụng tín dụng:
Cho vay doanh nghiệp: đây là khoản tín dụng thương mại và công nghiệp với thời hạn biến động từ một vài tháng đến vài năm. hình thức tín dụng có thể là vay nón hoặc hạn mức. Doanh nghiệp có thể vay một lân toàn bộ khối lượng tín dụng hoặc có thể được cung cấp một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và sẽ được sử dụng trong phạm vi tín dụng đó.
Cho vay tiêu dùng: đây là hình thức tín dụng đa dạng rất phát triển với các sản phẩm, dịch vụ. Mức lãi suất của các loại vay tiêu dùng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm các khoản vay: chất lượng và hình thức thế chấp, mức độ rủi ro và các yếu tố phi lãi suất kèm theo như các khoản phí hoặc hoa hồng. Cho vay chính phủ: chính phủ cũng là một trong những khách hàng của các ngân hàng thương mại. Hình thức chủ yếu là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc nhà nước phát hành. Nhà nước cũng vay ngân hàng để đầu tư phát triển cơ sở vật chất.
Cho vay các tổ chức tài chính khác: việc vay mượn tạm thời giữa các tổ chức tài chính, tín dụng rất phổ biến và cũng tạo điều kiện cho việc lưu chuyển vốn nhanh hơn. Ngoài các dịch vụ căn bản trên, hoạt dộng tín dụng của ngân hàng còn có một số dịch vụ như:
Bảo lãnh:
Đây là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ với bên thứ ba. Có nhiều hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn:
Với các thiết bị, phương tiện có giá trị lớn, các doanh nghiệp không muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo một số điều kiện. Kết thúc hợp đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại với giá ưu đãi.
1.1.2.3. Các hoạt động khác của ngân hàng thương mại:
Thanh toán: ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Bằng nhiều hình thức thanh toán đa dạng và thuận tiện như sec, uỷ nhiệm chi, L/C…
Mua bán ngoại tệ: ngân hàng sẽ đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng dịch vụ.
Bảo quản tài sản hộ: việc nắm giữ một lượng tiền lớn đã yêu cầu các ngân hàng phải có nhưng địa điểm cất trữ có độ an toàn cao.với đặc thù như vậy và dịch vụ cất giữ các tài sản giá trị cho khách hàng cũng đem lại nguồn thu nhập cho khách hàng.
Quản lý ngân quỹ: ngân hàng sẽ quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hang cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động chính phủ: hoạt động này của ngân hàng thể hiện phần nào vai trò to lớn của ngân hàng trong nền kinh tế.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ đại lý: với lợi thế về mạng lưới chi nhánh rộng cũng như kinh nghiệm quản lý, hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đang phấn đấu cung cấp các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu.
1.2. Một số khái niệm về rủi ro tín dụng.
1.2.1.1 Khái niệm và các loại rủi ro:
Đến nay vẫn không có một định nghĩa chính xác nào về rủi ro, tuỳ vào mục đích nghiên cứu, lĩnh vực, đối tượng mà rủi ro được hiểu ở những góc độ khác nhau. Có thể hiểu theo một cách chung nhất thì rủi ro là khả năng mà một sự kiện không có lợi và không dự báo trước xuất hiện.
Hoạt động của ngân hàng là loại hoạt động rất cần sự cẩn trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành công trong hoạt động cảu nó không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà cần phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất, trong đó tập chung vào 5 loại rủi ró sau:
Rủi ro thuần tuý:
Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: thiên tai, hoả hoạn, động đất, trộm cắp… làm thiệt hại hoặc gây thấy thoát tài sản của ngân hàng.
Rủi ro lãi suất:
Loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận của nhà ngân hàng. ví dụ: khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho tiền gửi hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng.
Rủi ro tín dụng:
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng vay không trả, không trả đầy đủ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc lẫn lãi. Đây là các loại rủi ro tác động rất lớn đến hoạt động phát triển ngân hàng thương mại, ngân hàng không thể thu hồi được nợ, mất khoản trích lập dự phòng rủi ro…
Rủi ro hối đoái:
Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. Hiện nay các ngân hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hiện cả nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái thì thường phải chịu ảnh hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngoài dự kiến của ngân hàng) nhất là với các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam.
Rủi ro nguồn vốn:
Thể hiện trên 2 phương diện: rủi ro do bị động vốn và rủi ro thiếu vốn khả dụng.
Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà không cho vay ra được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn. Rủi ro này xảy ra có thể do tác động của lãi suất, của công cụ hạn mức tín dụng hoặc do chất lượng kinh doanh của bản thân ngân hàng.
Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng. nó xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém, ngân hàng lại càng khó lòng huy động được một nguồn vốn dồi dào, từ đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, ngân hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ nợ. Vì thế loại rủi ro này rất nguy hiểm đối với nhà quản lý ngân hàng.
Với loại rủi ro này, ngân hàng luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì một hệ thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây dựng trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính chất khả chi và khả dụng thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn thường ổn định hơn tiền gửi không kỳ hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng thường bấp bênh hơn tiền gửi của khách hàng…
Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng luôn thường trực và khi đã xảy ra thì sức công phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có thể biến ngân hàng từ trạng thái phát đạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp cho nó luôn là một đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà phân tích, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
1.2.1.2 Rủi ro tín dụng:
Ngân hàng ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhau cầu thanh toán phục vụ cho phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường hết được.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản vay chủ yếu do tình trạng nợ khó đòi và nợ không có khả năng thu hồi. Chúng bao gồm tất cả các khoản vay của ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán, tín dụng tài trợ… đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành không thanh toán hoặc trả nợ được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra.
Các ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản vay đúng hạn ngược lại nếu người vay gặp khó khăn về tài chính thì cả gốc và lãi của khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được.
Rủi ro tín dụng thường tạo ra những tổn thất về tài chính, nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là ngòi nổ tự mình nó sự phá hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, nhưng khi có những chất kích nổ thì sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẽ diễn ra. Rủi ro tín dung lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội.
Chương 2: thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh hà thành (từ năm 2006 đến năm 2008)
2.1. Giới thiệu về ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Hà Thành:
2.1.1. Qúa trình hình thành và phát triển chi nhánh Hà Thành:
2.1.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển:
Căn cứ theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHĐT&PTVN được chuẩn y theo quyết định số 936/2002/QĐ-NHNN ngày 03/09/2002 của thống đốc NHNN
Căn cứ theo quyết định số 3167/QĐ-HĐQT ngày 01/09/2003 của Hội đồng quản trị NHĐT&PTVN về việc mở chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành.
Chi nhánh NHĐT&PT HàThành, là thành viên thứ 76 của NHĐT&PTVN, chính thức thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 16/09/2003 trên cơ sở tách và nâng cấp phòng giao dịch trung tâm của sở giao dịch I NHĐT&PTVN.
Chi nhánh NHĐT&PTVN Hà Thành có trụ sở chính tại 81 Trần Hưng Đạo (từ năm 2003 đến năm 2008 trụ sở tại 35 Hàng Bài, Hoàn Kiếm, Hà Nội). Đối tượng phục vụ chủ yếu của Hà Thành là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lực lượng đầy tiềm năng của nền kinh tế. Chi nhánh hoạt động với định hướng là ngân hàng bán lẻ, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiên tiến theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế trên cơsở ứng dụng các công nghệ và quả lý hiện đại, tập trung chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực tín dụng cũng như các dịch vụ tiện ích, đáp ứng dịch vụ thanh toán hiện đại cho khách hàng.
2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức và các phòng ban:
a. Mô hình cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý hiện nay của chi nhánh: (sơ đồ bên)
b. chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban trong chi nhánh:
Ban gián đốc của chi nhánh Hà Thành bao gồm một giám đóc và hai phó giám đốc
Khối tín dụng, bao gồm 2 phong ban: phòng tín dụng cho cá nhân và phòng tín dụng cho doanh nghiệp.
Chức năng, nhiệm vụ:
Thết lập, duy trì và mở tộng các mối quan hệ với khách hàng như tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Đồng thời thu nhận thông tin phản hồi từ phía khách hàng, doanh nghiệp.
Thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng.
Tư vấn trong hoát động huy động vốn và tín dụng.
Cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng cho phòng thẩm định bà quản lý tín dụng.
Giám sát liên tục các khách hang vay về tình hình sử dụng vốn vay, thường xuyên trao đổi với khách hàng để nắm vững tình trạng của khách hàng, chăm sóc toàn diện khách hàng để nắm vững tình trạng của khách hàng, chăm sóc toàn diện khách hàng là doanh nghiệp, để tiếp nhận yêu cầu về tất cả các dịch vụ ngân hàng của khách hàng để chuyển đến các phòng liên quan giải quyết, nhằm thoả mãn một cách tối ưu yêu cầu của khách hàng.
Lưu trữ các hồ sơ tín dụng, chuẩn bị các số liệu thống kê, báo cáo về các khoản cho vay phục vụ cho mục đích quản lý nội bộ của chi nhánh Hà Thành và các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền.
Khối dịch vụ, bao gồm 4 phòng ban: phòng tiền tệ kho quỹ, phòng thanh toán quốc tế, phòng dịch vụ khách hàng cá nhân, phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng tiền tệ kho quỹ: Quản lý nghiệp vụ của chi nhánh; thu – chi tiền mặt để đảm bảo thanh toán khoản tiền mặt cho chi nhánh; thực hiện các dịch vụ tiền tệ kho quỹ cho khách hàng/
Chức năng, nhiệm vụ của phòng thanh toán quốc tế:
Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, là đầu mối quan trọng với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài.
Mở các L/C có ký quỹ 100% vốn của khách hàng.
Trực tiếp hạch toán kế toán tài khoản nội bộ và ngoài bảng liên quan đến thanh toán quốc tế.
Chuyển tiếp điện giao dịch đi và đến
Thực hiện công tác tiếp thị các sản phẩm dịch vụ tới khách hàng.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng dịch vụ hách hàng doanh nghiệp:
Thực hiện các giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội tệ và ngoại tệ của khách hàng.
Các giao dịch mua ngoại tệ giao ngay đối với khách hàng doanh nghiệp theo quy định của giám đốc.
Mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, xử lý các yêu cầu của khách hàng về tài khoản hiện tại và tài khoản mới.
Thực hiện giải ngân vốn vay cho khách hàng vay là các tổ chức trên cơ sở các hồ sơ giải ngân được duyệt.
Giới thiệu tới khách hàng những sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng.
Thu nhận những thông tin phản hồi từ phía khách hàng.
Khối hỗ trợ kinh doanh, bao gồm 3 phòng ban: phòng kế hoạnh nguồn vốn, phòng thẩm định, phòng quản lý tín dụng.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng kế hoạch, nguồn vốn:
Quản lý các hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh, các hệ số NIM, ROA trên cơ sở đó xây dựng chính sách giá cả cho sản phẩm, dịch vụ… nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới.
Thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, môi trường kinh doanh, xây dụng chiến lược kinh doanh, các chính sách kinh doanh, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách huy động vốn.
Tổ chức quản lý hoạt động huy động vốn, cân đối vốn và các quan hệ vốn của chi nhánh, nghiên cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng sản phẩm mới về huy động vốn.
Lập, theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, xây dựng chương trình hành động để thực hiện kế hoạch kinh doanh của chi nhánh.
Tổng hợp, phân tích, báo cáo, đề xuất các thông tin phản hồi của khách hàng, cung cấp thông tin kinh tế, phòng ngừa rủi ro.
Hướng dẫn, phổ biến, lưu trữ, các văn bản pháp quy, văn bản chế độ.
Tham mưu cho chi nhánh về các vấn đề liên quan đến an toàn trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh, giúp giám đốc chỉ đạo công tác huy động vốn, các vấn đề pháp lý.
Soạn thảo, đàm phán, ký kết các hợp đồng.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng thẩm định:
Trực tiếp thực hiện công tác thẩm định, tái thẩm định theo quy định của nhà nước và các quy trình nghiệp vụ liên quan đối với các dự án, khoản vay, bảo lãnh, đánh giá tài sản, đảm bảo nợ.
Thẩm định về hạn mức tín dụng và giới hạn cho vay đối với từng khách hàng, thẩm định đánh giá tài sản đảm bảo nợ vay.
Chịu trách nhiệm quản lý thông tin về kinh tế, kỹ thuật, thông tin phục vụ công tác thẩm định đầu tư và tín dụng.
Tham gia y kiến về chính sách tín dụng của chi nhánh.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng quản lý tín dụng:
Trực tiếp thực hiện yêu cầu nghiệp vụ về quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh theo quy trình và quy định của BIDV.
Giám sát chất lượng khách hàng, xếp loại rủi ro tín dụng của khách hàng vay và đánh giá phân loại, xếp hạng kinh doanh doanh nghiệp.
Là đầu mối tham mưu, đề xuất với giám đốc chi nhánh xây dựng chính xách tín dụng, kế hoạch phát triển tín dụng của chi nhánh.
Chịu trách nhiệm về thiết lập, vận hành hệ thống quản lý rủi ro và an toàn pháp lý trong hoạt động tín dụng của chi nhánh.
Thu nhập, cung cấp thông tin, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, thực hiện và tổng hợp các loại báo cáo tín dụng.
Là thư ký hội đồng tín dụng của ngân hàng.
Khối nội bộ, bao gồm 3 phòng ban: phòng tài chính kế toán, phòng điện toán, phòng tổ chức hành chính.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng tài chính kế toán:
Tổ chức thực hiện và kiểm tra các công tác hạch toán kế toán chi tiết, kế toán tổng hợp và chế độ báo cáo kế toán.
Hậu kiểm các chứng từ thanh toán của các phòng ban.
Lập và phân tích các báo cáo tài chính kế toán của chi nhánh.
Báo cáo và cung cấp các thông tin tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng, đơn vị trực thuộc và của toàn bộ chi nhánh.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính năm.
Tham mưu cho giám đốc về thực hiện chế độ tài chính – kế toán.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng điện toán:
Trực tiếp quản lý mạng, quản trị hệ thống phần quyền truy cập, kiểm soát tại chi nhánh, tổ chức vận hành hệ thống thiết bị tin học và các chương trình phần mềm.
Chịu trách nhiệm đề xuất và thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo hệ thống tin học vận hành thông suốt trong mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu hoạt động của ngân hàng.
Thực hiện lưu trữ, bảo quản, phục hồi dữ liệu và hệ thống chương trình phần mềm theo quy định.
Hướng dẫn, giúp đỡ, đào tạo và hỗ trợ cho các đơn vị trực thuộc chi nhánh trong việc sử dụng, vận hành hệ thống tin học.
Chức năng, nhiệm vụ của phòng tổ chức hành chính:
Trực tiếp thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, chế độ lao động, theo dõi thực hiện nội quy lao động.
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo của chi nhánh.
Quản lý, theo dõi, bảo mật hồ sơ lý lịch, nhận xét cán bộ nhân viên.
Tổ chức quản lý lao động, thực hiện nội quy của cơ quan.
Tham gia ý kiến về kế hoạch phát triển mạng lưới.
Tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ chính sách, việc tổ chức, sắp xếp, bố trí nhân sự phù hợp với tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn của mỗi người và yêu cầu của chi nhánh. Đồng thời, bố trí cán bộ nhân viên tham dự các khoá học đào tạo theo quy định.
Lập kế hoạch và tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu hoạt động của chi nhánh, thay mặt giám đốc trong phạm vi được uỷ quyền
Sơ đồ mô hình tổ chức của chi nhánh Hà Thành - NHĐT&PT Việt Nam
Phòng tín dụng khách hhàng TD
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân
Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp
Phòng kế hạch nguồn vốn
Phòng thẩm định
Phòng quản lý tín dụng
Phòng tài chính kế toán
Phòng điện toán
Phòng tổ chức hành chính
Gồm 10 ĐV là các phòng giao dịch và điểm giao dịch
Khối tín dụng
Phó giám đốc
Chi nhánh
Giám đốc
Chi nhánh
Khối hỗ trợ
Khối dịch vụ
Khối hỗ trợ
Khối đơn vị
Trực thuộc
Phòng tín dụng khách hàng cá nhân
2.1.2 Thực trạng hoạt động của chi nhánh Hà Thành:
2.1.1.1 Tổng quan thực trạng kinh doanh của chi nhánh Hà Thành:
Ngân hàng Đâu Tư và Phát Triển Việt Nam với phương châm hoạt động: “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV. chia sẻ cơ hội hợp tác thành công”, từ định hướng đó trong tất cả các hoạt động của chi nhánh Hà Thành luôn gắn sự phát triển của mình với sự thành công của khách hàng. Chi nhánh bám sát các văn bản chỉ đạo của Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, của ngành ngân hàng, nắm bắt kịp thời các biến động của thị trường như: diễn biến giá cả, lạm phát, lãi suất, các chính sách về tỉ giá, dự trữ bắt buộc… để có những quyết định tối ưu nhất. Cùng với sự phấn đấu nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong toàn chi nhánh là sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo Ngân Hàng Đâu Tư và Phát Triển Việt Nam đã tạo nên bước đột phá mạnh mẽ trong tăng trưởng của chi nhánh thời gian qua. Cụ thể hơn về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong hai năm 2007, 2008 như sau:
Bảng 1: Tổng quan thực trạng kinh doanh của chi nhánh
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
So sánh
CLnăm06 - 07
Tỉ trọng (%)
CLnăm07 - 08
Tỉ trọng (%)
1
2
3
4
5=3-2
6=(5:2)*100
7=4-3
8=(7:3)*100
Tổng tài sản
3771936
5216381
5879196
1444445
38.29
662815
12.71
Tổng NV huy động
3486544
4888106
5505315
1401562
40.2
617209
12.63
Mức chênh lệch thu chi
(Nguồn: theo báo cáo tổng kết kế hoạch kinh doanh qua các năm của chi nhánh Hà Thành)
Tổng tài sản của năm 2007 so với năm 2006 đã tăng 1444445 triệu đồng, tương đương 38.29%. tổng tài sản của năm 2008 so với năm 2007 tăng lên 662815 triệu đồng tương đương tăng 13.71%.
Tổng nguồn vốn huy động của năm 2007 so vơi năm 2006 tăng 1401562 triệu đồng, tương ứng tăng 40.2%. Và năm 2008 so với năm 2007 tăng 617209 triệu đồng, tương ứng tăng 12.63%.
Mức tăng tổng tài sản của chi nhánh trong năm 2008 giảm mạnh so với mức tăng tổng tài sản của chi nhánh là do trong năm 2008 có cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra trên toàn cầu, nó kéo theo nền kinh tế của Việt Nam cũng bị khủng hoảng theo, do đó nó gây tác động rất mạnh mẽ tới hệ thống ngân hàng.
2.1.1.2. Thực trạng huy động vốn của ngân hàng:
Tình hinh huy động vốn của chi nhá qua các năm 2006, 2007, 2008 được phản ánh ở bảng 2.
Qua bảng ta có thể thấy:
Tổng nguồn vốn năm sau cao hơn năm trước, cụ thể là trong năm 2008, tổng nguồn vốn huy động đạt 5505315 triệu đồng, tăng 617209 triệu đồng so với năm 2007, và tăng 2018771 so với năm 2006.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động, huy động từ Tổ chức Kinh tế năm 2006 là 2188659 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 62.77% trong tổng nguồn vốn huy động, đến năm 2007 là 3376086 triệu đồng, chiếm 69,08% trong tổng nguồn vốn. Con số thực hiện trong năm 2008 là 3403395 triệu đồng, chiếm 61.82% trong tổng nguồn vốn. Mặc dù trong năm 08 sảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế, song vẫn có sự tăng lên của nguồn huy động từ nên kinh tế như vậy là do Ngân hàng đã có sự chủ động trong công tác huy động điều hành lãi suất, đảm bảo lãi suất tiền gửi hợp lý, có khả năng thu hút và cạnh tranh cao. Chi nhánh trong thời gian qua đã áp dụng các biện pháp có xu hướng tích cực vừa giữ được khách hàng quen thuộc, vừa khai thác được lượng khách hàng tiềm năng có thể tăng lợi nhuận hoạt động trong điều kiện cạnh tranh bằng lãi suất rất căng thẳng hiện nay.
Bảng 2: Tổng hợp tình hình h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7608.doc