Mục lục
Phần mở đầu……………………………………………………………….….4
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng tại NHTM……………………6
Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng……..……………………………6
Khái niệm tín dụng ngân hàng……. ………………………………….........6
Vai trò của tín dụng ngân hàng…………………………………………… .7
. Rủi ro tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM…....9
1.2.1 Khái niệm rủi do tín dụng và tác hại của nó…………………………...........9
1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM…………….……………1
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2
1.3. Đo lường rủi ro tín dụng của NHTM….………………………………. …….17
1.3.1 Đo lường rủi ro tín dụng của danh mục tín dụng……………………………17
1.3.2 Đo lường rủi ro tín dụng của một khách hàng………………………………21
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa…26
2.1. Tổng quan về chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………….26
2.1.1 Lịch sử hình thành và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………………………………………………………………26
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………………………………………………………………29
2.2 Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………….36
2.2.1. các hệ số phản ánh rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa……………………………………………………………………………….36
2.2.2. Thực trạng hệ thống phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách………………………………………………………………38
2.3 Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………………………………………………………………42
2.3.1 Một số kết quả đạt được trong công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng……………………………………………………………………………… 42
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân……………………………………………...43
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………………………………………...48
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa……………………………………………………………………………....48
3.1.1. Dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa………………………………………………………...48
3.1.2. Định hướng hoạt động của chi nhánh………………………………………50
3.1.3 Kế hoạch kinh doanh cụ thể…………………………………………………51
3.2. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa…………………………………………………………………………51
3.2.1. Giám sát chặt chẽ và tìm biện pháp để thu hồi các khoản nợ xấu………….52
3.2.2. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn nữa với tất cả những khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng…………………………………………………………………....53
3.2.3. Tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng……………………………………….54
3.2.4. Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng…………………………………….54
3.2.5 Xây dựng một chính sách kinh doanh hiệu quả …………………………….55
3.2.6. Cân đối khả năng huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn để tăng trưởng tín dụng một cách phù hợp, an toàn và đạt hiệu quả cao…………………..57
3.2.7 Thực hiện các biện pháp san sẻ rủi ro……………………………………….57
3.2.8 Mở rộng và phát triển nguồn nhân lực………………………………………58
3.2.9. Nâng cao hiệu quả của hệ thống kiểm tra kiểm toán nội bộ………………..59
3.3. Một số kiến nghị……………………………………………………………...59
3.3.1. Kiến nghị với chính phủ và các bộ ngành có liên quan…………………….60
3.3.2 Kiến nghị với NHNN………………………………………………………..61
3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam………………………………...….62
kết luận…………………………………………………………………...….64
danh mục tài liệu tham khảo……………………………………….65
Phụ lục chữ cái viết tắt
Tên đầy đủ
Tên viết tắt
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
3. Ngân hàng nhà nước
4. Doanh nghiệp nhà nước
5. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
7. Công ty cổ phần
8. Công ty trách nhiệm hữu hạn
9. Nợ quá hạn
10. Sản xuất kinh doanh
Nhtm
Nhno & ptnt
Nhnn
Dnnn
Dnnqd
Ctcp
Cytnhh
Nqh
sxkd
Phần mở đầu
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Do tính chất và đặc trưng của ngành, hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái... Điều này luôn là mối đe dọa thường xuyên tới kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM, buộc các NHTM phải đối mặt với nguy cơ giảm mức thu nhập dự kiến hoặc giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng được tiến hành một cách an toàn và hiệu quả thì các NHTM phải làm tốt công tác quản trị rủi ro, kiểm soát và hạn chế được rủi ro nhằm giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất.
Một trong những rủi ro đặc thù của NHTM là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM. Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh doanh, có thể phòng ngừa, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro xảy ra không những làm thiệt hại cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trở thành một yêu cầu bức thiết đối với hệ thống ngân hàng.
Sau một thời gian tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa, em nhận thấy tầm quan trọng của công tác giám sát và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại các kiến thức về rủi ro tín dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trên cơ sở tiến hành xem xét thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa. Từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt nhất trong khả năng của mình.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề được kết cấu thành:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng tại NHTM
Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về rủi do tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.1. Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ gốc Latinh “Creditum” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác là lòng tin.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Còn ở Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhìn chung, mối quan hệ tín dụng luôn bao gồm hai mặt cơ bản đó là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả, sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là điểm phân biệt với các phạm trù kinh tế khác. Ngoài ra tín dụng còn có đặc trưng cơ bản đó là lòng tin và tính thời gian.
Một quan hệ tín dụng phải mang các đặc trưng: là quan hệ chuyển nhượng giá trị mang tính hoàn trả có lãi. Là quan hệ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay.
Vai trò của tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện trên những quan điểm sau:
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả:
+ Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế: Do đặc điểm của tuần hoàn vốn, nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng, giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư, hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo với khối lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ hàng hoá của chu trình sản xuất kinh doanh trước đó. Do đó, luân chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp có lúc thừa, lúc thiếu. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách được NHTM huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho yêu cầu chi của ngân sách nhà nước trong lúc chưa có nguồn thu. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất lưu thông: Thông qua việc tập trung và ưu tiên vốn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm, những nơi có nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao sức mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện được các cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Thông thường các doanh nghiệp chỉ sử dụng đến vốn ngân hàng sau khi đã huy động mọi nguồn lực của bản thân, điều đó cũng có nghĩa là nếu không có tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp khó có khả năng thực hiện cơ hội đầu tư kinh doanh của mình. Nhất là trong cơ chế thị trường, mất cơ hội là mất hết. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh trong cạnh tranh, vươn lên tồn tại và phát triển trên thương trường.
+ Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng cường quản lý tài chính, tăng tích luỹ đối với doanh nghiệp. Về phía người vay vốn luôn cân nhắc giữa hiệu quả vốn mang lại với thời hạn, lãi suất của vốn vay và họ chỉ vay khi tính toán có lãi, đó chính là bản chất của hạch toán kinh tế. Về phía ngân hàng, trước khi cho vay cũng đòi hỏi khách hàng phải thoả mãn nhiều điều kiện về tình hình tài chính cũng như chất lượng của các báo cáo tài chính. Điều đó buộc doanh nghiệp phải tăng cường hơn nữa công tác hạch toán kinh doanh, quản lý tài chính và tích luỹ vốn.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ của nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, khi ngân hàng thương mại thực hiện hành vi cấp tín dụng cho nền kinh tế, cùng với khả năng “tạo tiền”, các “bút tệ” sẽ được nhân rộng, tức là đã tạo ra một khả năng cung ứng tiền tệ. Và hiệu ứng ngược lại sẽ xảy ra khi ngân hàng thương mại thu hẹp. Chính từ khả năng này tín dụng ngân hàng đã được nhà nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông quan hệ các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước như: dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở…
- Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế:
Tín dụng NHTM là công cụ giúp nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đồng thời cũng giúp chính NHTM có một môi trường kinh doanh tốt. Với sức mua đồng tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng, từ đó huy động được tối đa các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thoả mãn cao nhất nhu cầu vốn mở rộng đầu tư của nền kinh tế. Mặt khác, với hoạt động tín dụng NHTM trở thành trung gian tài chính đặc biệt có khả năng giảm thiểu các chi phí và rủi ro do đó đã thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho NHTM:
Trong kinh doanh tiền tệ của NHTM, tín dụng luôn là khoản mục lớn nhất, thường chiếm trên 70% tài sản có sinh lời của một ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng ngày càng được đa dạng hoá càng làm tăng vai trò của tín dụng trong tổng thể kinh doanh của NHTM và do đó, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm phần lớn lợi nhuận, quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tóm lại: Hoạt động tín dụng với chức năng và vai trò của mình không những trở thành hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của một NHTM mà còn có vai trò to lớn và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của cả nền kinh tế- xã hội.
1.2. Rủi ro tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng và tác hại của nó.
Khái niệm.
Trong kinh doanh lợi nhuận và rủi ro luôn song hành với nhau, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Ta thấy rằng đối với hầu hết các ngân hàng hoạt động tín dụng là hoạt động lớn nhất và quan trọng nhất, nó đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng song rủi ro trong hoạt động tín dụng xảy đến với các ngân hàng không phải là nhỏ. Vậy để có thể tìm hiểu , phân tích về rủi ro tín dụng trước tiên ta phải hiểu được rủi ro tín dụng là gì? Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (Điều 2, chương 1) ta đưa ra định nghĩa về rủi ro tín dụng như sau: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Bên cạnh rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng còn các loại rủi ro khác như:
- Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản là những thiệt hại xảy ra khi NHTM không có đủ hoặc mất khả năng chi trả cho người gửi tiền. Rủi ro thanh khoản xuất phát từ sự không khớp nhau về thời hạn giữa tài sản nợ và tài sản có. Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng lập kế hoạch dự trữ không chính xác, hoặc do ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản có khó chuyển đổi, các khoản cho vay không thu hồi được theo hợp đồng dẫn đến kế hoạch dự trữ bị phá vỡ. Do biến động của nền kinh tế, chính trị, xã hội tác động tới tâm lý người gửi làm khách hàng ồ ạt rút tiền gây mất khả năng chi trả của ngân hàng.
- Rủi ro về lãi suất: Rủi ro lãi suất là những thiệt hại về tài chính do sự biến động về lãi suất mà ngân hàng phải gánh chịu. Khi lãi suất biến động theo hướng bất lợi cho ngân hàng, tiền lãi thu được từ người vay không đủ bù đắp lãi huy động vốn. Rủi ro lãi suất có nguyên nhân từ sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Chẳng hạn, khi ngân hàng huy động các tài sản nợ có thời hạn ngắn mà đầu tư vào tài sản có thời hạn dài thì khi lãi suất thị trường biến động tăng lên NHTM bị thiệt hại và chịu rủi ro lãi suất.
- Rủi ro ngoại hối: Là thiệt hại gây ra cho NHTM do sự biến động tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro ngoại hối trong khi thực hiện các nghiệp vụ ngoại tệ khác nhau như: mua bán ngoại tệ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
- Rủi ro vốn: Là loại rủi ro phát sinh do ngân hàng không duy trì đủ số vốn cần thiết theo yêu cầu pháp lý và yêu cầu mở rộng, phát triển kinh doanh.
Tác hại của rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng gây ra những tác hại vô cùng nghiêm trọng không chỉ với hệ thống ngân hàng, với người vay mà còn cả nền kinh tế và xã hội.
* Đối với với ngân hàng.
Ngân hàng là đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng. Thiệt hại đầu tiên mà ngân hàng phải gánh chịu là sự tổn thất về tài chính, khách hàng không trả được nợ ngoài khoản tiền thu được từ việc phát mại các tài sản thế chấp của khách hàng, ngân hàng phải lấy từ quỹ dự phòng rủi ro của mình để bù đắp vào khoản tín dụng bị mất ở một chừng mực nhất định, rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, xói mòn niềm tin vào sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Vượt qua giới hạn đó, việc rút tiền ồ ạt của khách hàng dẫn đến rủi ro thanh khoản, có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng.
* Đối với người đi vay.
Khi người đi vay không thưc hiện được nghĩa vụ trả nợ theo đúng như hợp đồng tín dụng thì từ thời điểm đó họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ, khắt khe từ ngân hàng. Uy tín của người đi vay bị giảm sút sẽ rất khó khăn để vay một khoản vay mới ở chính ngân hàng đó cũng như các ngân hàng khác và như vậy càng khó khăn cho người đi vay. Và khi uy tín bị giảm sút thì họ lại càng khó khăn trong việc kinh doanh vì các đối tác làm ăn sẽ không tin tưởng vào khả năng thực hiện các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế của họ như vậy có thể đẩy họ đến bờ vực phá sản.
* Đối với nền kinh tế xã hội.
Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình tưởng chừng chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng nhưng thực chất nó gây thiệt hại cho cả nền kinh tế xã hội bởi vì khoản tín dụng mà ngân hàng cấp người đi vay đã không được sử dụng hiệu quả do đó lợi ích kinh tế, xã hội dự kiến nhận được sẽ không còn nữa. Quyền lợi của người gửi tiền sẽ không được đảm bảo, ảnh hưởng xấu tới tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế, người lao động mất việc làm, phá vỡ các kế hoạch kinh tế xã hội của nhà nước...
Một trong những nguyên nhân làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 2008-2009 ở Mỹ là hàng loạt các ngân hàng do không đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư tín dụng mà tập trung quá lớn vào lĩnh vực bất động sản, dẫn đến hiện tượng bong bóng nhà đất. Khi bong bóng đó bị vỡ thì hàng loạt các ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản.
Các tác động trong ngành ngân hàng thường mang tính dây truyền do đó nếu một ngân hàng có rủi ro tín dụng quá lớn có thể dẫn đến phá sản, kéo theo tình trạng khó khăn, khủng hoảng ở các ngân hàng khác, gây mất ổn định thị trường tài chính tiền tệ, làm cho giá trị đồng nội tệ không ổn định, gây biến động tỷ giá. Kết quả là gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như đời sống nhân dân. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến khủng hoảng trong đời sống chính trị xã hội.
Tóm lại, rủi ro tín dụng không những tác hại đối với ngân hàng mà còn tác hại đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội, không chỉ nguy hại trong phạm vi một quốc gia mà còn có thể ảnh hưởng đến nhiều nước. Do đó, quan tâm tới việc hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là việc riêng của các ngân hàng thương mại mà còn là việc cần phải quan tâm của NHTW, chính phủ và xã hội.
1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM
Nguyên nhân khách quan.
* Môi trường chính trị, luật pháp.
Sự ổn định hay bất ổn định của chính trị sẽ quyết định rủi ro tín dụng ít hay nhiều. Thật vậy, nếu một quốc gia có nền chính trị không ổn định, thường xuyên có các cuộc bạo động, khủng bố xảy ra thì việc kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ gặp phải khó khăn, họ thường xuyên làm ăn thua lỗ và do đó không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra với ngân hàng.
Hệ thống pháp luật không đồng bộ, không thống nhất cũng là nguyên nhân rủi ro tín dụng. Sự chồng chéo giữa luật dân sự và luật các tổ chức tín dụng dẫn đến việc khi có tranh chấp xảy ra giữa ngân hàng và các chủ thể vay vốn sẽ không biết giải quyết theo luật nào.
* Môi trường kinh tế.
Ta xem xét về chính sách tiền tệ, chu kỳ kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chính sách lãi suất... Đây là các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Chẳng hạn, khi NHTW muốn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì NHTW sẽ nới rộng các điều kiện cấp tín dụng cho khách hàng của các NHTM. Các khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hàng nhiều hơn, dễ dàng hơn vì vậy mà rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng nhiều hơn.
Chu kỳ kinh tế: Sự phát triển của kinh tế thường diễn ra theo chu kì: hưng thịnh – khủng hoảng – suy thoái – phát triển – hưng thịnh ... Trong thời kì phát triển và hưng thịnh, hoạt động kinh doanh thuận lợi, do đó hoạt động tín dụng khá an toàn. Còn trong thời kì khủng hoảng, suy thoái, sản xuất đình trệ nên các các khoản tín dụng gặp rủi ro gia tăng.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Chẳng hạn khi khách hàng vay ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, đến thời hạn trả nợ cho ngân hàng đồng ngoại tệ đó lên giá mạnh, tất cả số tiền mà khách hàng thu được từ việc bán số hàng nhập khẩu đó cũng không đủ để trả nợ cho ngân hàng nên khách hàng đã không trả nợ đúng hạn. Chính sự biến động của tỷ giá làm cho nhà kinh doanh gặp phải rủi ro và dẫn đến rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng.
* Môi trường công nghệ.
Khoa học công nghệ phát triển mạnh như vũ bão, sự ra đời của công nghệ mới đánh bại và thay thế hoàn toàn công nghệ cũ. Sự phát triển của khoa học công nghệ vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn cho các doanh nghiệp, bởi vì nếu doanh nghiệp có đủ tiềm lực tài chính để nhập máy móc hiện đại về thì việc sản xuất kinh doanh sẽ rất thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ nhanh, thu được lợi nhuận cao.
Nhưng ngược lại, nếu doanh nghiệp không có đủ tiềm lực tài chính để nhập máy móc hiện đại, thêm vào đó máy móc mà doanh nghiệp đang sử dụng trong sản xuất được mua bằng nguồn vốn vay của ngân hàng, máy móc vẫn chưa khấu hao hết thì việc sản xuất của doanh nghiệp vô cùng khó khăn vì hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được do trên thị trường đã xuất hiện nhiều mặt hàng mới mẫu mã đẹp, chất lượng tốt được sản xuất theo công nghệ hiện đại. Việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn, doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ khoản vay dùng để mua máy móc cho ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng.
* Nguyên nhân bất khả kháng
Như thiên tai, bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa... Những hiện tượng như vậy ngày nay đã trở nên phổ biến ở nhiều nước. Thực tế những hiện tượng này xảy ra trong ngắn hạn nhưng để lại hậu quả rất nặng nề. Nó làm cho các nhà đầu tư, các Doanh nghiệp, các hộ sản xuất mất một phần hoặc toàn bộ số vốn đầu tư. Và nếu như các dự án của họ bị thất bại thì họ cũng không thể trả được nợ vay của ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
a. Khách hàng là cá nhân
Tất cả những biến cố bất thường nào xảy đến với cá nhân đều có thể gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Chẳng hạn: họ bị mất việc làm nên sẽ không có khoản thu nhập ổn định để có thể trả nợ vay cho ngân hàng hoặc khách hàng bị ốm đau, tai nạn... tất cả những biến cố này có thể khiến khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng.
Ngoài những biến cố trên còn phải kể đến một nguyên nhân rất quan trọng mà khiến ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng đó là rủi ro đạo đức, khách hàng sử dụng tiền vay không đúng mục đích, cố ý không trả nợ cho ngân hàng.
b. Khách hàng là doanh nghiệp .
* Rủi ro trong kinh doanh .
- Thiệt hại của thị trường cung cấp như: Giá nguyên vật liệu tăng ngoài dự kiến làm tăng phí sản xuất ngoài dự kiến. Nếu doanh nghiệp tăng giá bán thì hàng hóa khó tiêu thụ dẫn đến ứ đọng vốn. Nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá thì lợi nhuận giảm hoặc bị thua lỗ, gây thiệt hại về tài chính, không trả được nợ cho ngân hàng. Hoặc nguyên vật liệu cung cấp không đảm bảo quy cách phẩm chất làm chất lượng sản phẩm giảm dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ, có thể làm tăng chi phí nếu gia công lại hoặc tăng phế liệu.
Bên cạnh đó không đủ số lượng nguyên vật liệu, không đảm bảo thời gian cung cấp khiến doanh nghiệp phải sản xuất dưới quy mô công suất nên số lượng sản phẩm sản xuất ra giảm, tăng chi phí cố định bình quân cho một đơn vị sản phẩm, tăng giá thành sản phẩm. Hoặc khi không có đủ nguyên liệu để sản suất sẽ không sản xuất đủ hàng để giao cho khách như đã thỏa thuận sẽ làm giảm uy tín của doanh nghiệp và còn bị phạt về kinh tế.
- Thiệt hại từ thị trường tiêu thụ: Do không nghiên cứu kỹ về thị trường tiêu thụ mà số lượng sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng lớn hơn nhu cầu của thị trường hoặc chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng nên sản phẩm không tiêu thụ được gây ứ đọng vốn.
- Sự suy giảm chất lượng quản lý: Sự thay đổi đội ngũ chủ chốt trong doanh nghiệp làm cho bộ máy hoạt động của doanh nghiệp không đồng bộ, hiệu quả sản xuất không cao, giảm số lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc chất lượng sản phẩm giảm xút và do đó doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận dự kiến hoặc tồi tệ hơn bị thua lỗ. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ không có tiền trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng.
* Rủi ro tài chính
Do cơ cấu vốn bất hợp lý thể hiện: Tỷ lệ nợ trên tổng nguồn vốn cao hoặc sử dụng nợ ngắn hạn vào các mục đích dài hạn như mua sắm tài sản cố định...
Doanh ngiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian kéo dài: Ví dụ như ngành xây dựng cơ bản...
Rủi ro tín dụng do ngân hàng .
- Chính sách tín dụng không hợp lý: Ta thấy mục tiêu tín dụng gồm an toàn, lợi nhuận, lành mạnh và phải phù hợp với quy định của pháp luật. Một chính sách tín dụng hợp lý phải kết hợp hài hòa các mục tiêu chứ không quá tập trung vào một mục tiêu nào. Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, chẳng hạn như ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, nới lỏng các điều kiện cho vay thì sự an toàn của tín dụng sẽ không được đảm bảo.
- Ngân hàng không phân tích, đánh giá được khách hàng một cách đầy đủ trước khi cho vay đồng thời không giám sát được việc sử dụng vốn vay một cách chặt chẽ sau khi đã giải ngân cho khách hàng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể do: Các NHTM chưa chú trọng, quan tâm đúng mức đến công tác thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay. Sự hợp tác giữa NHTM và trung tâm thông tin tín dụng (CIC) chưa đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Ngân hàng thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác kịp thời để đánh giá vai trò, vị trí của doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, do đó quyết định cho vay thiếu chính xác.
Hơn nữa, ngân hàng không giám sát được khách hàng về việc sử dụng khoản vay có đúng mục đích hay không. Việc ngân hàng không giám sát được khoản vay một phần là do ngân hàng chưa chú trọng phát triển tốt đội ngũ nhân viên tìm hiểu thị trường, phần còn lại là do tính minh bạch trong hoạt động của các công ty vẫn là một vấn đề nan giải ở Việt Nam.
- Việc thiết kế sản phẩm tín dụng của ngân hàng không phù hợp thể hiện: Xác định mức cho vay, hạn mức tín dụng, thời hạn cho vay không chính xác dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Mức độ tập trung tín dụng cao: Tức là ngân hàng tập trung vào một lĩnh vực vào doanh nghiệp vượt quá mức quy định nên khi có rủi ro xảy đến ở lĩnh vực kinh doanh hoặc doanh nghiệp đó thì ngân hàng cũng sẽ bị thiệt hại nặng nề.
- Ngân hàng không thực hiện tốt bảo đảm tín dụng: Không đăng kí giao dịch bảo đảm, việc quản lý tài sản bảo đảm lỏng lẽo để thất thoát tài sản, giảm giá trị tài sản bảo đảm, không đánh giá đúng về giá trị tài sản bảo đảm dẫn đến cho vay vượt quá giá trị tài sản bảo đảm...
- Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức: Một số cán bộ tín dụng không cưỡng lại được sự cám dỗ của đồng tiền nên đã nhận tiền hối lộ của khách hàng thẩm định hồ sơ vay vốn qua quýt, cấp tín dụng bừa bãi, thông đồng với khách hàng để lừa đảo tiền của nhà nước.
Nguyên nhân từ phía bảo đảm tín dụng:
- Bảo đảm bằng tài sản: Tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị do giá cả thị trường biến động theo chiều hướng giảm (bất động sản), do bản thân tài sản trong quá trình sử dụng bị hư hỏng, hao mòn lớn hơn dự kiến.Do mức cho vay áp dụng không chính xác (cao hơn nhiều so với khả năng thu hồi), do tính chuyển hóa tài sản thành tiền mặt thấp. Ngoài ra ngân hàng còn có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ và xử lý tài sản đảm bảo, đôi khi tại thời điểm xem xét không biết nó có tranh chấp pháp lý hay không.
- Bảo lãnh rủi ro có thể từ phía người bảo lãnh gặp sự cố bất ngờ như tai nạn, ốm đau... hoặc do người bảo lãnh cố tình không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Rủi ro tín dụng với nhiều nguyên nhân gây ra là đa đạng và đa chiều nên cán bộ tín dụng cần tìm hiểu rõ nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp để từ đó có hướng giải quyết phù hợp.
1.3. Đo lường rủi ro tín dụng của NHTM
Đo lường rủi ro tín dụng của danh mục tín dụng.
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
1. Tỷ lệ nợ quá hạn =
Để hiểu được ý nghĩa của tỷ lệ này thì ta phải hiểu được thế nào là nợ quá hạn. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ta có thể đưa ra định nghĩa về nợ quá hạn: Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hay toàn bộ nợ gốc hoặc lãi đã quá hạn. Cụ thể hơn ta có thể dựa vào điều 6 Chương 2 trong Quy định 493 để có thể xác định được nợ quá hạn. Nội dung của Điều 6 như sau:
Khoản 1: Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ
* Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, điều này.
* Nhóm 2: Nợ cần chú ý bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 3 điều này và khoản 4 điều này.
* Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều này.
* Nhóm 4: Nợ nghi ngờ bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 và 4 điều này.
* Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 và 4 điều này.
Khoản 2: Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi suất theo kì hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
Khoản 3: Trường hợp khách hàng có nhiều hơn 1 khoản nợ đối với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Từ nội dung của Điều 6 ta có thể xác định cụ thể được nợ quá hạn bao gồm: nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5.
Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao thì rủi ro lớn vì tỷ trọng khách hàng gặp trong việc trả nợ cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao cũng đồng nghĩa với việc chi phí của ngân hàng tăng lên: Chi phí thực tế và chi phí cơ hội đều tăng lên. Với một khoản nợ tốt, ngân hàng sẽ dễ dàng thu được nợ và tiếp tục thực hiện những khoản cho vay mới nhưng với một khoản tín dụng có nguy cơ rủi ro như khách hàng chậm trả nợ lãi, gốc hoặc tình hình kinh doanh của khách hàng không tốt... thì ngân hàng lại phải tốn thêm chi phí giám sát với khoản vay, chi phí xử lý tài sản bảo đảm, chi phí pháp lý... và do đó sẽ làm tăng chi phí thực tế của ngân hàng. Với một khoản vay không tốt thì các cán bộ ngân hàng dồn toàn bộ tâm trí vào việc đòi nợ mà ngại cho vay mới và ít có thời gian tìm các đối tác mới vì thế làm tăng chi phí._. cơ hội của ngân hàng.
Dư nợ xấu
Tổng dư nợ
2. Tỷ lệ nợ xấu =
Theo quyết định 493 ta có thể đưa ra định nghĩa về nợ xấu và cách xác định nợ xấu như sau:
Nợ xấu: là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại điều 6 hoặc điều 7 quy định này.
Tỷ lệ nợ xấu cũng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách hàng có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên khó trả nợ cho ngân hàng.
Dư nợ mất vốn
Tổng dư nợ
3. Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ mất vốn chính là các khoản nợ thuộc nhóm 5.
Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó phản ánh những khoản tín dụng mà ngân hàng bị mất và phải dùng quỹ dự phòng bù đắp.
Dự phòng rủi ro đã trích
Tổng dư nợ
4. Tỷ lệ dự phòng rủi ro đã trích lập =
Cũng theo Quyết định 493. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau:
Nhóm 1: 0%
Nhóm 2: 5%
Nhóm 3: 20%
Nhóm 4: 50%
Nhóm 5: 100%
Số tiền dự phòng cụ thể phải được tính theo công thức sau:
R = max{0,(A - C)} x r
Trong đó:
R – Số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A – Giá trị của khoản nợ
C – Giá trị của tài sản bảo đảm
r – Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Dự phòng chung: Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc điều 7 quy định này.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ rủi ro càng cao vì dự phòng trích lập nhiều sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận thậm chí gây thua lỗ cho ngân hàng.
Đo lường rủi ro tín dụng của một khách hàng.
20 năm trở về trước, hầu hết các ngân hàng chỉ dựa duy nhất vào phương pháp truyền thống (định tính) để đánh giá rủi ro tín dụng người vay. Phương pháp truyền thống này tỏ ra vừa mất thời gian, tốn kém lại mang tính chủ quan, chính vì vậy, ngân hàng không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng khi cấp tín dụng cho công ty vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp truyền thống để đánh giá rủi ro tín dụng.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hóa rủi ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng 1 số lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm của người vay để lượng hóa xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau.
Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải xác định được các tiêu chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp... Đối với tín dụng công ty, thì các chỉ tiêu tài chính thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi các tiêu chí đã được xác định, kỹ thuật thống kê xẽ được sử dụng để lượng hóa xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân hạng rủi ro tín dụng.
Sau đây, chúng ta sẽ tiếp cận với một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng cơ bản thường sử dụng nhất.
Mô hình phân biệt tuyến tính(mô hình điểm số Z).
Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj).
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 0,99X5
Trong đó:
X1: Tỷ số “vốn lưu động ròng/ tổng tài sản”.
X2: Tỷ số “lợi nhuận giữ lại/ tổng tài sản”.
X3: Tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng tài sản”
X4: Tỷ số “thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”.
X5: Tỷ số “doanh thu/ tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Giả sử, một khách hàng tiềm năng có các chỉ số tài chính là: X1 = 0; X2 = 0; X3 = -0,02, X4 = 0,10; X5 = 2,0. Chỉ số X2 bằng 0 và chỉ số X3 là một số âm nói lên rằng khách hàng bị thua lỗ trong kỳ báo cáo, còn chỉ số X4 bằng 10% nói lên rằng khách hàng có tỷ số “ nợ/ vốn chủ sở hữu” cao. Tuy nhiên, tỷ số “ vốn ròng/ trên tổng tài sản” (X1) và tỷ số “ doanh thu/ tổng tài sản ” (X5) lại cao, nên phải phản ánh khả năng thanh khoản và duy trì doanh số bán hàng là tốt. Từ số liệu đã cho ta tính được điểm số Z của khách hàng là 1,64.
Theo mô hình của điểm Z của Altman, bất cứ các công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,8 được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ vào kết luận này, ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,8.
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình điểm số tín dụng có những hạn chế sau:
- Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm là “ vỡ nợ” và “ không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả nợ gôc và lãi tiền vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với các mức vỡ nợ khác nhau.
- Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vậy, các biến số (Xj) cũng không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và kinh doanh thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số Xj là hoàn toàn độc lập không phụ thuộc lẫn nhau.
- Đã không tính tới nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hóa,nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố “danh tiếng” của khách hàng, yếu tố “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung, các nhân tố này thường không được đề cập trong mô hình ghi điểm tín dụng Z. Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính...
Mô hình xác suất tuyến tính
Mô hình này sử dụng các số liệu thông kê trong quá khứ để giải thích quá khứ trả nợ của khách hàng vay. Mức độ quan trọng của từng yếu tố trong mô hình sẽ được sử dụng để dự đoán xác suất rủi ro tín dụng của từng khoản vay.
Cách thực hiện:
Tiến hành lựa chọn các tiêu thức phản ánh đặc điểm của khách hàng vay, liên quan đến khả năng trả nợ như: tỉ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu (ROE), hệ số thanh toán, hệ số nợ...
Phân chia các khoản nợ cũ thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm có rủi ro mất vốn zi = 1.
Nhóm 2: Nhóm không có rủi ro mất vốn zi = 0.
Thiết lập mối quan hệ của các khoản vay đó với các tiêu thức đó đã lựa
chọn theo mô hình hồi quy sau:
n, m
Zi = ồ BjXij
Trong đó:
Xi,j : là các giá trị ROE, hệ số nợ...
Bj : phản ánh mức độ quan trọng của tưng tiêu thức đến mức rủi ro của khoản vay ( bằng việc sử dụng mô hình ta tính được hệ số Bj).
- Nhân hệ số Bj với tiêu thức của khách hàng mới (khoản vay mới) ta tính được zj là xác suất rủi ro của khoản vay đó.
Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng, những ngân hàng cũng sử dụng mô hình này để đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và kinh doanh nhỏ. Nhiều khách hàng yêu thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được sử lý bằng hệ thống cho điệm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện thoại đến ngân hàng để liên hệ việc vay thông qua hệ thông máy tính nối mạng, trên cơ sở dữ liệu của khách hàng, trong vòng vài phút ngân hàng có thể thông báo kết quả tín dụng cho khách hàng.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, số tài khoản cá nhân...
Mô hình điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục thường được sử dụng ở các ngân hàng Mỹ.
Rõ ràng, mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh được một cách nhanh chóng để thích ứng được với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình. Một mô hình điểm số không linh hoạt có thể đe dọa đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, bỏ sót những khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng.
Chương 2
Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh
nhno & ptnt Bách khoa
2.1 Tổng quan về Chi nhánh NHNo &PTNT Bách khoa
2.1.1. Lịch sử hình thành và hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam được thành lập ngày 26/03/1988 trên cơ sở tách từ NHNN, hoạt động theo luật các TCTD; là một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo và chủ lực chiếm trên 70% thị phần thị trường tài chính nông thôn ở Việt Nam, đầu tư vốn phát triển kinh tế Nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH (Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá), hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực chủ yếu:
- Kinh doanh tiền tệ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng trong nước và ngoài nước.
- Đầu tư các dự án phát triển kinh tế - xã hội, uỷ thác tín dụng, đầu tư cho chính phủ, các ngành kinh tế. Trước hết trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam với phương trâm hoạt động: Vì sự thình vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân hàng. Định hướng hoạt động: Giữ vững vị trí NHTM hàng đầu Việt nam, nhanh chóng trở thành NHTM hiện đại, tiên tiến nhất trong khu vực và có uy tín cao trên Thế giới.
Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa được chuyển đổi mô hình từ Chi nhánh cấp 2 trực thuộc Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ sang mô hình Chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam theo quyết định số 147/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 29 tháng 2 năm 2008 của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam.
Tên gọi: Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bách Khoa
Địa chỉ: Số 92 đường Võ thị Sáu, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa là đơn vị phụ thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, có con dấu, bảng cân đối tài khoản; được tổ chức và hoạt động theo quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam.
Là một ngân hàng cấp thành phố, có địa bàn hoạt động rộng. Thủ đô Hà nội là trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước, tập trung nhiều quan hệ kinh tế buôn bán lớn, nhiều doanh nghiệp hoạt động. Do vậy, hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa chịu ảnh hưởng trực tiếp tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội đồng thời có đóng góp to lớn vào vào quá trình phát triển của nền kinh tế Thủ đô.
Bộ máy tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng giao dịch
Các phòng
(tổ nghiệp vụ)
P. Nguồn vốn & kế hoạch
P. Tín dụng
P. Kế toán & Ngân quỹ
P.Kinh doanh ngoại tệ
P. Điện toán
P. hành chính & Nhân sự
P.Tổ chức cán bộ
đào tạo
P. Dịch vụ & Marketting
Phũng dịch vụ & Marketting
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Năm 2008 kinh tế Việt Nam đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn do bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và suy thoái kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 6,23% so với năm 2007, chỉ số lạm phát 19,9%, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, nhập siêu khoảng 17 tỷ USD.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa nói riêng cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Cụ thể là trong những tháng đầu năm NHNN Việt Nam liên tục tăng lãi suất cơ bản, chính vì vậy các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất huy động nhằm cạnh tranh thu hút vốn. Chính vì vậy các ngân hàng đều phải huy động nguồn với chi phí đầu vào rất cao, bên cạnh đó việc sử dụng nguồn là cho vay lại gặp rất nhiều khó khăn như việc thắt chặt tín dụng theo chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước, các Doanh nghiệp vay vốn kinh doanh cũng không thể chịu được mức lãi suất cao.
Song vào những tháng cuối năm lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước lại giảm mạnh xuống còn 8,5%/năm, đi đôi với việc lãi suất cơ bản giảm thì lãi suất tiền vay cũng giảm. Việc giảm lãi suất tiền vay nhằm kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất kinh doanh nhưng tại thời điểm hiện tại các Ngân hàng thương mại lại đứng trước khó khăn do đầu vào huy động với lãi suất cao nay cho vay ra với lãi suất thấp như vậy không có hiệu quả, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.
Tuy phải chịu những ảnh hưởng chung của nền kinh tế nhưng Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa là một chi nhánh mới được nâng cấp, dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo cùng với sự nỗ lực đoàn kết của cán bộ công nhân viên đã hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh được giao.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hình thức kinh doanh tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn cho ngân hàng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thì tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất.
Với việc vận dụng đa dạng các loại hình huy động vốn và đưa ra các mức lãi suất phù hợp với các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thủ đô, NHNo&PTNT Bách Khoa huy động được nguồn vốn tương đối lớn trong dân cư và các tổ chức kinh tế khác.
Nguồn vốn đến ngày 31/12/2008 của chi nhánh đạt 1.610 tỷ đồng so kế hoạch (553 tỷ đồng) đạt 291%, tăng so với số liệu theo cân đối 31/12/2007 là 1.057 tỷ đồng.
* Phân theo thời gian huy động
- Tiền gửi không kỳ hạn và dưới 12 tháng là 105 tỷ đồng giảm 17 tỷ và bằng 86% so với năm 2007 (122 tỷ đồng)
- Tiền gửi > 12 tháng đến < 24 tháng là 410 tỷ đồng tăng 239 tỷ và bằng 239% so với năm 2007 (171 tỷ đồng)
- Tiền gửi > 24 tháng là 655 tỷ đồng tăng 492 tỷ đồng và bằng 402% so với năm 2007 (163 tỷ đồng)
* Phân theo tính chất nguồn vốn
- Tiền gửi dân cư: 282 tỷ đồng chiếm 17% tổng nguồn vốn, trong đó ngoại tệ quy đổi là 94 tỷ đồng.
- Tiền gửi tổ chức tín dụng: 410 tỷ đồng chiếm 25% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: 918 tỷ đồng chiếm 57% tổng nguồn vốn.
- Tổng nguồn vốn nội tệ là 1.516 tỷ đồng chiếm 94%, nguồn ngoại tệ là 94 tỷ đồng chiếm 6%. So với kế hoạch giao (553 tỷ đồng) đạt 291%.
* Hoạt động cho vay
Dư nợ đến ngày 31/12/2008 thực hiện 695 tỷ đồng so kế hoạch (362 tỷ đồng) đạt 192% kế hoạch năm. So với năm 2007 (223 tỷ đồng) tăng 472 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng là 211%.
- Doanh số cho vay trong năm đạt: 1.028 tỷ đồng
- Doanh số thu nợ trong năm đạt: 598 tỷ đồng
- Dư nợ nội tệ là 601 tỷ đồng chiếm 86%/ tổng dư nợ. Tăng so năm 2007(191 tỷ đồng) là 410 tỷ đồng.
- Dư nợ ngoại tệ quy đổi: ( 5,204,399.89USD) 89 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 14%/ tổng dư nợ. Tăng so với năm 2007 là 2.819 nghìn USD (47 tỷ đồng).
Việc cho vay ngoại tệ chi nhánh chỉ tập trung cho doanh nghiệp có hàng xuất khẩu và bán ngoại tệ cho chi nhánh.
* Dư nợ phân theo thời gian
- Ngắn hạn: 541 tỷ đồng chiếm 78% tổng dư nợ, so năm 2007 (224 tỷ đồng) tăng 141%.
- Trung hạn: 77 tỷ đồng chiếm 11% tổng dư nợ, so năm 2007 ( 33 tỷ đồng) tăng 133%.
- Dài hạn: 70 tỷ đồng chiếm 11% tổng dư nợ.
Việc đầu tư cho vay trung hạn, dài hạn chủ yếu cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để trang bị máy móc thiết bị thi công phục vụ hoạt động kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản, các hộ gia đình mua sắm phương tiện vận tải.
* Dư nợ phân theo thành phần kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước ( 6 doanh nghiệp): 219 tỷ đồng chiếm 31% tổng dư nợ
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Công ty cổ phần: 179,3 tỷ đồng (24 doanh nghiệp) chiếm 27% tổng dư nợ
- Công tyTNHH: 192 tỷ đồng (26 doanh nghiệp) chiếm 27% tổng dư nợ
- Hộ sản xuất (15KH), cá nhân (153 KH)
Trong đó:
- Hộ sản xuất: 65 tỷ đồng
- Cho vay cá nhân: 3,8 tỷ đồng
Về cơ chế đảm bảo tiền vay
Tổng dư nợ có TSĐB là 457 tỷ đồng tương đương 65%/ tổng dư nợ, dư nợ không đảm bảo bằng tài sản 238 tỷ đồng
Dư nợ không có tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp nhà nước: 159 tỷ đồng của 6 doanh nghiệp nhà nước trong đó có 5 doanh nghiệp cho vay không tài sản đảm bảo là tổng công ty Chè: 75,5 tỷ đồng, công ty SONA: 48,2 tỷ đồng, tổng công ty Hàng không: 14 tỷ đồng, công ty Hồng trà: 21,2 tỷ đồng và 1 doanh nghiệp có tài sản đảm bảo là công ty cổ phần LILAMA Hà Nội: 55 tỷ đồng.
* Công tác bảo lãnh
Đến ngày 31/12/2008 doanh số thực hiện bảo lãnh trong và ngoài nước của chi nhánh như sau:
Tổng số món: 120 món, số tiền 187.302 triệu đồng
Trong đó:
- Bảo lãnh thanh toán, 16 món, số tiền: 8.275 triệu đồng
- Bảo lãnh thực hiện HĐ, 30 món, số tiền: 85.928 triệu đồng
- Bảo lãnh dự thầu, 34 món, số tiền: 11.089 triệu đồng
- Bảo lãnh khác, 28 món, số tiền: 69.647 triệu đồng
- Bảo lãnh mở L/C, 4 món, số tiền: 1,182,728 USD (20.363 triệu đồng)
* Công tác thanh toán quốc tế
- Kinh doanh ngoại tệ
- Doanh số mua vào: 10,824,619.32 USD. Trong đó tự khai thác của các tổ chức 4,721,722.32 USD đảm bảo cân đối thanh toán ngoại tệ của chi nhánh
- Doanh số bán ra: 11,143,768.61 USD
Trong đó bán cho ngân hàng Bách Khoa, Ngân hàng Láng Hạ & trụ sở chính: 2,900,418,96 USD
- Thanh toán chuyển tiền
- Doanh số chuyển tiền: 5,488,844.06 USD số món: 142 món tăng so năm trước.
- Phí chuyển tiền thu được: 7,025.85 USD
- Chuyển tiền biên giới: 14 món, doanh số: 1,724,113 CNY ( tương đương: 263,668.17 USD ). Phí thu được: 416,54 USD
- Doanh số mở L/C: 26 món, Doanh số: 4,880,551.04 USD. Phí thu được: 8,932.65 USD
- L/C xuất: 03 món, doanh số: 483,141.48 USD, thu phí: 304.3 USD
- Thanh toán nhờ thu xuất: 02 món, doanh số: 10,220 USD, phí thu được: 250 USD
- Nhờ thu nhập: 44 món, doanh số: 6,164,954.63 USD, phí thu được: 7,481.03 USD
- Thanh toán WU: 106 món, doanh số: 4,946,502.39 USD, phí WU: 3,351.28 USD
- Tổng phí thanh toán quốc tế cả năm: 27,716.65 USD
* Công tác kế toán
- Tổng doanh số thanh toán năm 2008: 6.948 tỷ đồng
Trong đó:
- Tiền mặt chiếm tỷ trọng: 43,46%/ tổng doanh số thanh toán
- Doanh số chuyển tiền điện tử: 92,93%
- Doanh số thanh toán bù trừ: 7,07%
- Dịch vụ thẻ ATM:
- Tiền mặt: 3.020 tỷ đồng
- Bù trừ: 492 tỷ đồng
- Chuyển tiền điện tử: 6.457 tỷ đồng
- Dịch vụ thẻ ATM phát triển mạnh, chi nhánh đã và đang thực hiện trả lương qua tài khoản cho 48 đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Tổng số thẻ phát hành:3330/2447 thẻ tăng 850 thẻ
- Tổng số giao dịch của 4 máy ATM trực thuộc chi nhánh là: 69,100 giao dịch với số tiền 100,4 tỷ đồng, tổng phí phát hành thẻ: 33.000.000 VNĐ
- Tổng số dư tiền gửi phát hành thẻ ATM: 13,4 tỷ VNĐ
- Về công tác kho quỹ
- Doanh số thu tiền mặt: 3.030 tỷ đồng
- Doanh số chi tiền mặt: 3.013 tỷ đồng
- Lượng thu – chi tiền mặt bình quân 1 ngày: 10 tỷ/ ngày
* Về kết quả tài chính
- Về tổng thu là 134 tỷ trong đó thu lãi cho vay là 52 tỷ, thu lãi từ điều vốn là 69 tỷ tăng 25 tỷ. Thu lãi cho vay chiếm 38,83% và thu lãi điều vốn chiếm 51% tổng thu chiếm 5,50% tổng thu nhập ròng.
- Về tổng chi là 120,6 tỷ trong đó chi trả lãi là 76,6 tỷ, trả lãi điều vốn 21,8 tỷ. chi trả lãi tiền gửi chiếm 45,19% và chi trả lãi điều vốn chiếm 18,11% trên tổng chi. Chi khác là 2,49 tỷ chiếm 3,18% trên tổng chi.
Chênh lệch Thu nhập – Chi phí là 17 tỷ. So với kế hoạch giao đạt 147,8%
- Hệ số tiền lương đạt được là 1,47 lần. Lãi suất bình quân đầu vào đầu ra chênh lệch là: 3,87%
Bảng 1: báo cáo
tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh
Đv: tỷ đồng, ngàn USD
Nội dung
31/12/2007
KH năm 2008
31/12/2008
So 31/12/2007
So KH năm 2008
(+-)
%
(+-)
%
Nội tệ
Tổng nguồn vốn
431
553
1.520
1.089
253
967
175
Trong đó:
Tiền gửi dân cư
140
83
193
53
38
110
133
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế
223
362
601
378
170
239
66
Trong đó:
Dư nợ ngắn hạn
191
300
454
263
138
154
51
Dư nợ trung hạn
32
62
77
45
141
15
24
Dư nợ dài hạn
0
0
70
70
70
Ngoại tệ
Tổng nguồn vốn
4.737
4.806
5.485
748
16
679
14
Trong đó:
Tiền gửi dân cư
3.919
4.277
4.763
844
22
486
11
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế
2.385
9.000
5.204
2.819
118
-3.796
-42
Trong đó:
Dư nợ ngắn hạn
2.385
9.000
5.204
2.819
118
-3.796
-42
Dư nợ trung hạn
Dư nợ dài hạn
2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
2.2.1 Các hệ số phản ánh rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Năm 2006 thì chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa vẫn là chi nhánh cấp 2 trực thuộc chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. Tổng nguồn vốn đến 31/12/2006 của cả chi nhánh Láng Hạ đạt 5,905 tỷ đồng trong đó nguồn vốn của chi nhánh Bách Khoa chỉ chiếm 350 tỷ đồng (dư nợ 128 tỷ). Như vậy, tổng nguồn vốn năm 2006 của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ tăng 1,882 tỷ đồng so với 31/12/2005 tương đương 147%, đạt 121% kế hoạch năm 2006 (KH: 4,900 tỷ đồng). Trong đó:
* Cơ cấu nguồn vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
- Nguồn vốn nội tệ đạt 4,854 tỷ đồng trong đó huy động tráI phiếu Agribank 2006 là 584 tỷ đồng, tăng 1,718 tỷ đồng so với năm 2005, đạt 121% so với kế hoạch năm 2006 (KH:4,000 tỷ đồng)
- Nguồn vốn ngoại tệ đạt 1,052 tỷ đồng, tăng 164 tỷ đồng so với năm 2005, đạt 117% so với kế hoạch năm 2006 (KH: 900 tỷ đồng). Chi nhánh lấy tỷ giá quy đổi là 16,091 VND/USD.
* Công tác tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Tổng dư nợ đến 31/12/2006 đạt 2,057 tỷ đồng, tăng 181 tỷ đồng (tức 10%) so với năm 2005, đạt 89% kế hoạch năm 2006 (KH: 2,300 tỷ đồng)
- Dư nợ về nội tệ đạt 978 tỷ đồng, giảm 123 tỷ đồng so với năm 2005, chiếm 48% tổng dư nợ . Dư nợ ngoại tệ đạt 1,079 tỷ đồng, tăng 304 tỷ đồng so với năm 2005, chiếm 52% tổng dư nợ.
- Dư nợ ngắn hạn: 1,269 tỷ đồng, tăng 281 tỷ đồng so với năm 2005, chiếm 62% tổng dư nợ. Dư nợ trung và dàI hạn: 788 tỷ đồng, giảm 100 tỷ đồng so với năm 2005, chiếm 38% tổng dư nợ.
Tổng nợ xấu năm 2006 là 9,785 triệu đồng chiếm 0.48% tổng dư nợ tăng 3 tỷ đồng so với năm 2005 trong đó nợ nhóm 4 là 3,610 triệu đồng và nợ nhóm 5 là 2,865 triệu đồng.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tiếp tục ở mức cao (8,5%). Hoạt động ngân hàng trong năm có nhiều khởi sắc, góp phần không nhỏ vào tỷ lệ tăng trưởng GDP. Trong năm 2007 hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa như sau:
* Cơ cấu nguồn vốn
Nguồn vốn đến 31/12/2007 của chi nhánh đạt 508 tỷ so kế hoạch đạt 101,6% tăng so với số liệu theo cân đối 31/12/2006 là 169 tỷ, tốc độ tăng trưởng 149,8%.
- Tiền gửi dân cư: 214 tỷ chiếm 42 % tổng nguồn tương đối đủ để đảm bảo nguồn vốn ổn định trong thanh toán. Trong đó ngoại tệ quy đổi là 72 tỷ
- Tiền gửi tổ chức kinh tế xã hội: 294 tỷ chiếm 58% tổng nguồn. Trong đó nguồn ngoại tệ quy đổi là 6 tỷ
- Tổng nguồn vốn nội tệ là 430 tỷ chiếm 84,6%, nguồn ngoại tệ là 78 tỷ chiếm 15,4%. So với kế hoạch giao (500 tỷ) đạt 101,6% KH
* Công tác tín dụng
Dư nợ đến 31/12/2007: thực hiện 261,2 tỷ/223 tỷ đạt 117% KH năm. so với năm 2006 tăng 133,5 tỷ, tốc độ tăng trưởng là 105%.
- Dư nợ ngắn hạn: 228,390 triệu đồng chiếm 87,4% tổng dư nợ, so năm 2006 tăng 116%
- Dư nợ trung hạn: 32,854 chiếm 12,6% tổng dư nợ, so năm 2006 tăng 48,6%
nợ xấu của chi nhánh đến ngày 31/12/2007 là 6683 triệu đồng chiếm 2,5%/ tổng dư nợ.
Năm 2008 kinh tế Việt Nam đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn do bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tàI chính, tiển tệ. trong bối cảnh chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa nói riêng cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Cụ thể là:
- Nguồn vốn đến ngày 31/12/2008 của chi nhánh đạt 1.610 tỷ đồng so kế hoạch (553 tỷ đồng) đạt 291%, tăng so với số liệu theo cân đối 31/12/2007 là 1.057 tỷ đồng.
- Dư nợ đến ngày 31/12/2008 thực hiện 695 tỷ đồng so kế hoạch (362 tỷ đồng) đạt 192% kế hoạch năm. So với năm 2007 (223 tỷ đồng) tăng 472 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng là 211%.
- Nợ xấu của chi nhánh đến ngày 31/12/2008 là 15,5 tỷ đồng chiếm 2,22%/ tổng dư nợ.
Trong đó:
- Nợ nhóm 3: 9.575 triệu đồng
- Nợ nhóm 4: 3.393 triệu đồng
- Nợ nhóm 5: 2.500 triệu đồng
Nhìn vào kết quả hoạt động kinh doanh trong hai năm 2007 và 2008 thì nguồn vốn chi nhánh huy động được trong hai năm tăng nhanh và luôn vượt chỉ tiêu ban lãnh đạo chi nhánh đưa ra. Nhưng nhìn vào tình hình nợ xấu trong hai năm thì nợ xấu có xu hướng gia tăng, trong năm 2008 nợ các nhóm 3,4 và 5 là các khoản nợ khó đòi, có khả năng mất vốn. Tuy tổng số tiền nợ của 3 nhóm trên không phải là lớn đối với một chi nhánh ngân hàng cấp 1 nhưng nợ xấu là 15,5 tỷ đồng chiếm 2,22%/ tổng dư nợ, vẫn là một tỷ nợ xấu khá cao mà một chi nhánh ngân hàng mới đi vào hoạt động không lâu mắc phải. Vì vậy trong thời gian tới ban lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng trong chi nhánh cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thu hồi nợ xấu.
2.2.2. Thực trạng hệ thống phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Tuy mức nợ xấu của chi nhánh ở mức chấp nhận được nhưng không tập trung vào xử lý thì trong thời gian tới số nợ này càng ngày càng ra tăng, chính vì vậy mà thời gian gần đây Chi nhánh đã đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa các họat động tín dụng để giảm bớt nợ xấu.
* Tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng:
Để hạn chế nợ xấu, NQH cán bộ tín dụng của chi nhánh luôn tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng, xem xét, thẩm định các phương án, dự án vay vốn một cách cẩn thận rồi mới quyết định cho vay. Sau khi đã giải ngân cho khách hàng lại giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của khách hàng để tránh tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích gây rủi ro cho ngân hàng. Gần đến kỳ thu lãi, thu nợ các cán bộ tín dụng thông báo cho khách hàng biết trước để chuẩn bị tiền trả nợ cho ngân hàng. Nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn thì xuống tận nơi đôn đốc khách hàng.
* Tìm hiểu kỹ khách hàng trước khi cho vay:
Khách hàng là đối tượng chính gây ra rủi ro cho ngân hàng vì thế để tránh rủi ro tín dụng thì trước tiên quyết định cho vay Chi nhánh phải xem xét đánh giá khách hàng một cách đúng đắn, cân nhắc kỹ càng trên nhiều phương diện cụ thể: Khách hàng là ai? Khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào? Khách hàng là mới hay là khách hàng truyền thống của ngân hàng? Tình hình tài chính của khách hàng, khả năng quản lý, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của khách hàng như thế nào?... Để từ đó xác định được mức độ rủi ro thực tế và tiềm ẩn của khách hàng.
Khi thiết lập quan hệ với khách hàng để tránh rủi ro có thể xảy ra Chi nhánh đã xem xét khách hàng có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý hay không để tránh tình trạng bị lừa đảo để chiếm dụng vốn của ngân hàng mà ngân hàng lại không thể khiếu kiện được. Chẳng hạn, đối với công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh thì Chi nhánh luôn xem xét người đại diện vay vốn có đủ tư cách đại diện trước pháp luật hay không? Đối với các cá nhân vay vốn ngân hàng luôn xem xét cá nhân đó có đủ năng lực hành vi hay không rồi mới quyết định cho vay.
* Thực hiện bảo đảm tín dụng:
Để đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh thì Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đã sử dụng công cụ là hình thức thế chấp tài sản. Việc yêu cầu khách hàng vay vốn phải gửi đến ngân hàng các giấy tờ về tài sản thế chấp khi vay vốn làm giảm bớt phần nào rủi ro cho chi nhánh. Chi nhánh ngân hàng đã nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc và điều kiện đảm bảo tín dụng đã ban hành. Ngoài ra khai thác và mở rộng thêm các điều kiện đảm bảo tín dụng khác như: bảo lãnh bằng bên thứ ba, bảo đảm bằng chính tài sản mà khách hàng vay tiền của ngân hàng để mua...
Khi khách hàng thế chấp tài sản tại ngân hàng thì tài sản thế chấp được chi nhánh đăng ký giao dịch bảo đảm. Thường xuyên có những thông tin giữa các tổ chức tín dụng về tài sản của khách hang, có cán bộ thường xuyên theo dõi, kiểm tra tài sản để tránh tình trạng bị mất mát tài sản. Tuy nhiên Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa cũng không quá coi trọng về tài sản thế chấp, vì trong những năn qua tài sản thế chấp đã chứng tỏ nó không phải là vật đảm bảo cho khoản tín dụng chắc chắn nhất mà sự đảm bảo chắc chắn nhất cho khoản tín dụng của ngân hành chính là sự tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tín dụng.
Hiện nay ở Việt Nam, các tài sản thế chấp cho ngân hàng chủ yếu là đất, nhà... Nhưng bản thân doanh nghiệp đem tài sản đi thế chấp lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp, hợp lệ. Tình hình này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của Chi nhánh, đặc biệt khi tài sản thế chấp bị phát mại. Vì không nắm trong tay quyền sở hữu hợp pháp nên ngân hàng rất bị động trong việc quyết định xử lý tài sản thế chấp để hoàn lại vốn vay.
Việc định giá tài sản thế chấp cũng là một vấn đề còn nhiều khúc mắc cần giải quyết. Việc định giá chính xác chỉ có thể thực hiên được khi có sự hỗ trợ bởi một hệ thống thông tin về thị trường và giá cả bất động sản đầy đủ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề kinh doanh bất động sản hiện nay chưa hình thành một cách hợp pháp, vấn đề định giá tài sản thế chấp còn mang tính áp đặt dưới sự chỉ đạo của ban vật giá chính phủ, UBND tỉnh, thành phố và kinh nghiệm đánh giá của từng NHTM. Trong khi đó việc mua bán tài sản thế chấp bằng phát mại, đấu giá lại là hình thức mua bán theo giá thị trường. Do vậy, việc định giá tài sản thế chấp mang nặng tính hình thức. Để định giá giá trị tài sản trong những điều kiện không thuận lợi như trên, Chi nhánh phải cẩn trọng trong việc đưa ra quyết định về giá trị của tài sản thế chấp của khách hàng để từ đó xác định được mức cho vay phù hợp.
* Lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro:
Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp cho các khoản nợ khó đòi. Việc đánh giá tài sản có để trích lập rủi ro luôn được thực hiện kịp thời, nghiêm túc tại Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Bảng 2: Trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7602.doc