LờI Mở ĐầU
Cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nước ta thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng thực tế đã cho thấy chúng ta đã không đạt được kết quả như mong muốn. Sau chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước vào năm 1986, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển đáng kể, đời sống của người dân đã được nâng cao cả v
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước tại Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề vật chất và tinh thần, tốc độ tăng trưởng tăng và ngày càng đi vào ổn định. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đã đạt được chúng ta còn có những khó khăn cần được giải quyết, trong đó vấn đề bức bách hàng đầu hiện nay là sự hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các DNNN đã bộc lộ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng. Để đẩy nhanh quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, cũng như để đổi mới hệ thống DNNN, Chính phủ đã đề ra nhiều phương hướng giải pháp cổ phần hoá một bộ phận DNNN. Đây là giải pháp có tính chiến lược quan trọng và cần thiết nhằm thu hút thêm vốn đầu tư cho sản xuất, giải quyết các vấn đề về sở hữu và việc làm trong các DNNN.
Cho đến thời điểm này, quá trình cổ phần hoá đã đi được một chặng đường dài, đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vướng mắc, khó khăn cản trở, do đó kết quả đạt được so với kế hoạch đặt ra còn rất thấp.
Là sinh viên thực tập tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam, nơi đã và đang xúc tiến chủ trương cổ phần hoá DNNN, em chọn đề tài ”Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài này sẽ đi vào nghiên cứu quá trình thực hiện cổ phần hoá tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam, nêu lên những vấn đề vướng mắc nảy sinh và qua đó đưa ra một số ý kiến về giải pháp góp phần tháo gỡ những vướng mắc đó.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Chương II: Thực trạng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam
ChươngIII: Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam
chương I
Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
I. Thực chất của cổ phần hoá (CPH) DNNN
1.Giới thiệu chung về công ty cổ phần - loại hình công ty phổ biến trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở những nước có nền kinh tế thị trường không phân biệt ý thức và chế độ chính trị. Có thể nói công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào, mà là quá trình kinh tế khách quan, bởi vì: Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ, tập trung tư bản ngày càng cao và diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.Từ đó công ty cổ phần trở thành mô hình sản xuất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới và có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường.
Tại điều 51 chương 4 của Luật doanh nghiệp được Quốc hội nước ta thông qua ngày 12/ 6/ 1999, ngày 1/7/1999 Chủ tịch nước đã ký lệnh số 05/ L-CTN công bố Luật doanh nghiệp và luật này có hiệu lực từ ngày1/1/2000. Trong đó công ty cổ phần được định nghĩa như sau:
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
b. Cổ đông là người nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
c. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 55 và khoản 1 điều 58 của luật này.
d. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế tối đa.
2. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về thị trường chứng khoán.
3. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, hình thành công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan, do đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần cho thấy chế độ tín dụng ngân hàng là đòn bẩy cho quá trình xã hội hoá sở hữu và tạo điều kiện ra đời công ty cổ phần. Công ty cổ phần đã đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường:
+ Công ty cổ phần là sản phẩm xã hội hoá sở hữu phản ánh quá trình tích tụ, tập trung tư bản. Công ty cổ phần ra đời đã góp phần đẩy nhanh quá trình này về tốc độ và quy mô và làm xuất hiện xí nghiệp mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được.
+ Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu, thể hiện ở mối quan hệ giữa sở hữu và quyền kinh doanh. Nó cho phép mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi tích luỹ của từng tư bản riêng lẻ. Đồng thời tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và để đáp ứng kịp thời các nhu cầu của nó, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán, Nhà nước trở thành bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện các chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt.
+ Công ty cổ phần ngoài ra còn có vai trò trong việc giảm bớt tổn thất khi bị phá sản, mở rộng sự tham gia của các cổ đông, đặc biệt là người lao động...
Với những đặc điểm trên cho phép chúng ta khẳng định xu hướng phát triển của loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Điều này là cơ sở cần thiết để xác lập việc tổ chức xây dựng các luận cứ khoa học nhằm phân tích và thực hiện việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
2. Thực chất của cổ phần hoá DNNN
Về vấn đề này, có hai ý kiến khác nhau:
- ý kiến thứ nhất cho rằng: Thực chất của CPH là tư nhân hoá
- ý kiến thứ hai cho rằng : đó là quá trình xã hội hoá DNNN
* Quan niệm thứ nhất: CPH là tư nhân hoá
CPH đã được nhiều nước trên thế giới tiến hành nhưng hầu hết quá trình CPH ở những nước này đều xuất phát từ đường lối kinh tế xã hội của mỗi nước và chủ yếu do các nguyên nhân sau:
- Do thay đổi chế độ chính trị xã hội (như các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ) dẫn đến sự thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất- Từ công hữu chuyển sang chế độ tư hữu - vì thế thực chất việc CPH DNNN là một bộ phận của chủ trương tư nhân hoá nền kinh tế.
- Do khủng hoảng, lạm phát, ngân sách thâm hụt lớn phải CPH các DNNN để thu hồi vốn cho Nhà nước nhằm thu hút thêm vốn đầu tư hoặc để giảm gánh nặng cho Nhà nước.
- Do doanh nghiệp công (DNNN) vì sở hữu công cộng nên khó quản lý và hiệu quả kinh tế thấp nên thực hiện chủ trương tư nhân hoá (như Anh, Pháp).
- Để thu hút thêm vốn đầu tư, công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến từ các nguồn trong nước và nước ngoài, để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường (các nước đang phát triển).
Vì vậy khi xem xét vấn đề CPH DNNN các học giả nước ngoài đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là tư nhân hoá.
Có hai cách hiểu về tư nhân hoá: Theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Liên hiệp quốc có đưa ra định nghĩa về tư nhân hoá theo nghĩa rộng: "Tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường ". Theo cách hiểu này toàn bộ các chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế quốc doanh, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các cơ sở, đơn vị kinh tế, giành cho thị trường vai trò điều tiết đáng kể... đều có thể coi là các biện pháp tư nhân hoá.
Còn tư nhân hoá hiểu theo nghĩa hẹp thường để chỉ quá trình giảm bớt quyền sở hữu Nhà nước hoặc tự kiểm soát của Chính phủ đối với xí nghiệp. Việc đó có thể thông qua nhiều biện pháp và phương thức khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là biện pháp CPH.
ở nước ta, chủ trương CPH một số DNNN lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với đường lối ấy. Đó là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế xã hội của Nhà nước, cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối quyết định mục đích, nội dung và phương thức CPH các DNNN. Vì vậy cần nhận thức rằng: thực chất CPH ở nước ta (khác hẳn với CPH mà các nước trên thế giới đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, và việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần cũng là một trong những mục đích quan trọng khi thực hiện CPH.
Điều quan trọng là, do chưa phân biệt rõ ràng giữa mục đích của CPH và phương tiện để đạt được mục đích ấy nên có nhiều người vẫn còn phân vân, vì cho rằng chuyển DNNN thành công ty cổ phần là thu hẹp chế độ công hữu, thu hẹp quốc doanh, làm suy yếu chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, khuyến khích tư nhân mua cổ phiếu, nhưng điều đó không có nghĩa coi kinh tế tư nhân là mục đích hàng đầu của CPH.
Theo điều 1 Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính quy định: "Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần (hay còn gọi là cổ phần hoá DNNN) là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước".
Từ quy định này và sự phân tích ở trên, ta có thể thấy sự khác nhau cơ bản giữa CPH ở nước ta và quá trình tư nhân hoá của các nước trên thế giới như sau:
+ Thực chất của tư nhân hoá DNNN là bán một phần hay toàn bộ tư liệu sản xuất (tài sản) thuộc sở hữu toàn dân cho tư nhân. Còn CPH ở nước ta là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất (tài sản) trong một số doanh nghiệp cho các tổ chức tư nhân (cổ đông gồm các thành phần: quốc doanh + tập thể; quốc doanh + tư nhân; tập thể + tư nhân; quốc doanh + tập thể + tư nhân). Tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nhiều chủ, thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, gọi là sở hữu hỗn hợp, chứ không thuần tuý là tư nhân hoá.
+ Ngoài sự khác biệt căn bản nêu trên chúng ta còn thấy rằng CPH có đặc điểm là việc bán những DNNN nào và bán ở mức độ nào cho tư nhân (tỷ trọng cổ phiếu phát ra) là do Nhà nước quyết định. Nên cũng không sợ rằng chủ trương CPH rốt cuộc chính là tư nhân hoá toàn bộ nền kinh tế Nhà nước, làm mất định hướng xã hội chủ nghĩa như một số người vẫn hiểu.
+ Hơn nữa mục đích của tư nhân hoá là tăng cường khu vực kinh tế tư nhân, còn CPH ở nước ta nhằm bố trí lại cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi cơ cấu quản lý cho phù hợp với đường lối xây dựng nền kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
* Quan điểm thứ hai:
Vấn đề đặt ra là: CPH các DNNN có phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân hay không?
Chúng ta vẫn hiểu, xã hội hoá tư liệu sản xuất thực chất là công hữu hoá tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Còn CPH DNNN (thực chất như đã phân tích ở trên) là việc chuyển tài sản từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ cùng sở hữu, nhưng không phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất, bởi vì:
+ Trong các DNNN (sở hữu toàn dân) và các hợp tác xã (sở hữu tập thể), kết qua thu được sau quá trình sản xuất kinh doanh (san khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất - kinh doanh, phần nộp thuế Nhà nước và phần để lại tích luỹ) được phân phối theo lao động. Còn các công ty cổ phần - đó là sở hữu hỗn hợp, mỗi người chủ dựa vào cổ phần nhiều ít của mình để ăn chia, hưởng lợi và chịu trách nhiệm về những rủi ro (do hoạt động của công ty đưa lại) trong phạm vi cổ phần mà họ đóng góp, ở đây tồn tại chế độ phân phối lợi nhuận theo lượng vốn đóng góp.
+ Trong công ty cổ phần sẽ hình thành sở hữu hỗn hợp, nghĩa là đồng sở hữu chứ không xuất hiện khái niệm "tập thể sở hữu".
+ Đối với DNNN, chỉ có Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, đây là hình thức xã hội hoá cao nhất. Nhưng khi thực hiện CPH, thì thực chất là Nhà nước nhường toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu của mình cho nhiều chủ bỏ vốn cùng sở hữu.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy: CPH DNNN và xã hội hoá DNNN là hai phạm trù không thể đồng nhất.
II. Sự cần thiết phải CPH DNNN
1.Vai trò và thực trạng hoạt động của DNNN hiện nay
1.1. Vị trí, vai trò của DNNN
DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội do Nhà nước giao. Nó được coi là tổ chức kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân, được tự chủ, song toàn bộ vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước quyết định và Chính phủ là chủ sở hữu.
Khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò là lực lượng chiến lược nắm giữ những khâu thiết yếu, an toàn cho ổn định xã hội. Luôn sẵn có lực lượng bổ sung vào những ngành, những chương trình dự án mà xã hội đang đòi hỏi nhưng số vốn lớn, vòng quay chậm, hệ số rủi ro cao, tỷ suất lợi nhuận thấp nên các thành phần kinh tế khác không đủ sức hoặc không muốn đầu tư.
Tính chủ đạo của DNNN xuất phát từ vị trí chiến lược có khả năng chi phối đến môi trường kinh tế xã hội, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác chứ không nhất thiết phải kinh doanh có lợi nhuận cao hơn. DNNN không chỉ đóng vai trò định hướng mà còn phải chi phối được các chính sách xã hội, tạo ra sự công bằng và tiến bộ, kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và tự phát của nền kinh tế thị trường.
Hiện nay, khu vực kinh tế Nhà nước đang nắm giữ và chỉ huy các khâu then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Các DNNN nắm giữ phần lớn các tài sản quốc gia, sử dụng tới 90% số lao động có trình độ cao và các nhà khoa học. Ngân sách Nhà nước và nền kinh tế quốc gia hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào nguồn thu từ kinh tế quốc doanh, chiếm tới 3/4 tổng ngân sách nhà nước. Các DNNN tạo ra trên 40% GDP của nền kinh tế.
1.2. Thực trạng hoạt động của các DNNN hiện nay
ở nước ta, khu vực kinh tế Nhà nước cũng được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế, bất kể hiệu quả mà nó mang lại. Sau chính sách đổi mới (năm 1986), nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNNN (khu vực xương sống của nền kinh tế) đã biểu hiện nhiều nhược điểm, kém hiệu quả, thậm chí nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, điều đó được thể hiện ở ba yếu tố chính sau:
- Về vốn hoạt động và phát triển:
Các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu vốn dẫn đến phải ngừng sản xuất. Trong khi đó hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp, nguy cơ thất thoát vốn gia tăng, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tăng nhanh trong vòng vài năm trở lại đây. Hiện nay, chúng ta có một hệ thống với khoảng 6000 DNNN đang tồn tại và hoạt động nhưng phần lớn có quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả. Trong tổng số 6000 DNNN thì có tới 90- 95% được tín dụng Nhà nước bao cấp, nhưng lại có tới 40% số doanh nghiệp đó rơi vào tình trạng phá sản. Số các doanh nghiệp còn lại, tuy hiệu quả sản xuất kinh doanh dần dần có được tăng lên, nhưng sự tăng trưởng của các doanh nghiệp này vẫn không đáp ứng được yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên là hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp còn thấp, khả năng tập trung hạn chế, phần lớn trông chờ vào ngân sách Nhà nước, do đó hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn. Các DNNN do quy mô nhỏ, vốn ít không có khả năng đầu tư thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh nên sức cạnh tranh trên thị trường yếu.
- Công nghệ lạc hậu, hệ thống máy móc thiết bị cũ nát chưa được thay thế. Trình độ công nghệ máy móc của các DNNN ở Việt Nam thấp xa so với các nước trên thế giới (từ 2 đến 3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu đến 5 - 6 thế hệ). Do được hình thành nhờ vào các nguồn viện trợ của nhiều nước khác nhau nên đại bộ phận các DNNN áp dụng những loại công nghệ khác nhau. Điều này dẫn đến tính đồng bộ thấp, hiệu suất sử dụng trang thiết bị không cao chỉ đạt khoảng 50 đến 60%.
- Trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn thấp không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đi cùng với nó là một đội ngũ lao động đông đảo về số lượng nhưng bất cập về chất lượng.
Cơ chế thực hiện sở hữu toàn dân trong các DNNN chưa rõ ràng, người đại diện chủ sở hữu của DNNN chưa được xác định cụ thể do đó dẫn đến tình trạng vô chủ hoặc quá nhiều chủ trong các DNNN. Do không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu trong các DNNN và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động nên tài sản của doanh nghiệp không đưọc sử dụng có hiệu quả. Người lao động chưa thực sự gắn bó làm việc hết mình vì doanh nghiệp. Một số nhà quản lý Nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp lợi dụng chức quyền bòn rút tài sản của Nhà nước làm giàu cho cá nhân.
Như vậy, việc cải tổ hệ thống DNNN tại thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và cũng là để tạo ra sự bình đẳng hơn nữa trong kinh doanh với các thành phần kinh tế khác. Song dù sao đi chăng nữa thì tính chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh cũng không giảm sút vì nó vẫn chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn, then chốt của nền kinh tế. Nó vẫn có khả năng chi phối môi trường kinh tế và môi trường xã hội để đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế.
2. Sự cần thiết phải CPH DNNN
Từ thực trạng hoạt động của DNNN đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp để cải cách, lựa chọn để giải quyết được ba yếu tố cấu thành một thực thể kinh tế đó là: vốn - công nghệ - quản lý. CPH DNNN là một trong những giải pháp, chủ trương hết sức cần thiết và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
* Trước hết CPH góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN. Hiện nay nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp là rất lớn để đảm bảo cho sự tồn tại của chính bản thân doanh nghiệp và cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng lấy ở đâu ra? Nhà nước (ngân sách và ngân hàng) không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho khu vực làm ăn kém hiệu quả. Trong khi đó tiềm lực vốn trong dân và trong các tổ chức kinh tế xã hội là rất lớn lại chưa được tận dụng khai thác và sử dụng có hiệu quả cho sản xuất. Theo kết quả điều tra mức sống gần đây của Bộ kế hoạch - đầu tư và Tổng cục thông kê thì 44% tiền để dành của dân chúng dùng để mua vàng và ngoại tệ, 20% mua nhà đất và cải thiện điều kiện sinh hoạt, chỉ có 17% gửi tiết kiệm, phần lớn là tiết kiệm ngắn hạn. Hơn nữa thị trường vốn của Việt Nam còn phát triển chậm nên nguồn vốn duy nhất DNNN có thể khai thác được hiện nay là nguồn tín dụng. Tuy nhiên nguồn vốn này còn hạn chế. Việc CPH các DNNN tạo điều kiện bán cổ phần, thu hút đầu tư của nhiều thành phần kinh tế, mở cửa cho việc đa dạng hoá sở hữu.
* Cổ phần hoá DNNN tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với doanh nghiệp. Trong công ty cổ phần quyền lợi và trách nhiệm của người lao động gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì mỗi người lao động trong xí nghiệp bằng vốn tự có của mình, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được phân bổ,... đều có thể tham gia mua cổ phiếu tại công ty. Họ cống hiến cho doanh nghiệp cũng chính vì lợi ích của họ. Điều này xoá bỏ được tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, kích thích mọi người phát huy hết khả năng, hăng say lao động.
Hơn nữa với việc góp vốn này thì người lao động từ công nhân trực tiếp sản xuất đến giám đốc doanh nghiệp đều trở thành người chủ thực sự đồng vốn của mình. Đều được tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái được hiệu quả cao nhất, tốt nhất.
* Cổ phần hoá còn có tác động tích cực đến việc cải tiến quản lý hiệu quả hơn. CPH các DNNN hình thành các công ty cổ phần cũng có nghĩa là xác định vai trò làm chủ thực sự của doanh nghiệp, cụ thể là Hội đồng quản trị thay mặt và chịu trách nhiệm về hiệu quả của đồng vốn, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh với tất cả các cổ đông góp vốn. Hội đồng quản trị là ông chủ thực sự thay mặt cho các cổ đông chứ không phải ai khác và hoạt động tích cực, không ngừng sáng tạo cải tiến kỹ thuật, phương pháp công nghệ và cả thủ thuật, biện pháp kinh doanh có hiệu quả nhất. Đây cũng là biện pháp hạn chế các chỉ đạo từ trên xuống vốn có ở một DNNN. Đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi cho việc tách rời chức năng quản lý sản xuất kinh doanh và chức năng quản lý Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế, tạo thế chủ động cho người bỏ vốn đầu tư, củng cố động lực cạnh tranh của nền kinh tế.
* Bên cạnh đó CPH các DNNN còn tạo điều kiện thuận lợi để cơ cấu lại nền kinh tế. Với việc cổ phần hoá các DNNN, mở rộng đa dạng hoá sở hữu, sẽ có thêm điều kiện mới cho việc cơ cấu lại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên hai vế hết sức quan trọng là: Động lực sở hữu của nhiều thành phần kinh tế và việc phân công lao động toàn xã hội theo các tác động của thị trường cạnh tranh. Đây cũng là cơ sở để điều chỉnh và đổi mới quan điểm lãnh đạo, quản lý của Nhà nước, xác định vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế quốc doanh trên. Xác định mũi nhọn chiến lược, ngành chủ lực để thực hiện vai trò điều tiết ngăn chặn khủng hoảng kinh tế hơn là bao sâu rộng rãi quá nhiều lĩnh vực ngành nghề, đầu tư vốn đưa đến nhiều bấp bênh lỗ lãi. Đây chính là quá trình cân bằng lại giữa sự can thiệp của Nhà nước và sự điều tiết của thị trường nhằm tận dụng những ưu điểm của cơ chế thị trường.
CPH sẽ cởi bỏ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo dựng và củng cố nguồn lực của Nhà nước do việc nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, cho phép nguồn thu của các doanh nghiệp được củng cố và gia tăng. Hơn nữa Nhà nước còn thu được lợi ích từ phần vốn đầu tư của mình và doanh nghiệp, từ đó cho phép Nhà nước đầu tư và phát triển, nâng cấp các lĩnh vực xã hội, cũng như nguồn lực để phát triển kinh tế. Thực hiện CPH DNNN giúp cho việc giảm nhanh số lượng DNNN vốn kém hiệu quả, tăng cường khu vực kinh tế tư bản Nhà nước, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước để đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đồng thời đó cũng là tiền đề và triển vọng cho việc hình thành các tập đoàn đa quốc gia trong nền kinh tế thế giới hiện nay.
Ngoài ra CPH DNNN còn tạo ra môi trường vừa cạnh tranh vừa tập hợp các tập đoàn kinh tế mạnh chuyên ngành hay đa ngành có thế mạnh về thị trường, vốn với mục đích ngày càng thu được lợi nhuận cao. Đồng thời nó tạo một thói quen đầu tư mới trong nhân dân đó là đầu tư tài chính hơn là giữ tiền hoặc gửi tiết kiệm.
Với việc phát triển của công ty cổ phần, tất cả mọi người đều có thể trở thành các nhà đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Và người đầu tư có thể tự do lựa chọn công ty đầu tư làm sao có lợi nhất, khi công ty làm ăn có lãi và ngày càng phát triển thì cổ tức mà họ nhận được có thể cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiết kiệm. Hơn nữa họ có quyền chuyển các cổ phiếu thành tiền mà không cần phải chờ đến thời hạn thanh toán.
III. Chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước
Chính phủ đã chủ trương CPH DNNN từ năm 1987, tại điều 22 của QĐ 217/HĐBT ngày 14/11/1987 đã ghi: “Bộ tài chính nghiên cứu cho làm thử việc mua bán cổ phần ở một vài xí nghiệp quốc doanh và báo cáo kết quả lên Hội đồng bộ trưởng vào cuối năm 1988”. Đó là một chủ trương đúng đắn nhưng có lẽ hơi sớm so với điều kiện cụ thể lúc đó. Do đó chủ trương này đã đi vào quên lãng. Và chủ trương CPH đã được nêu lại tại Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 11/1991): “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
Nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII (tháng 1/1994) đã khẳng định mục đích của CPH là: “Thu hút thêm vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện hình thức CPH ở mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối”.
Ngoài ra vấn đề CPH các DNNN cũng được đề cập đến trong Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đaọ của DNNN (Số 10/NQ-TƯ ngày 17/3/1995). Thông báo số 63 TB/TƯ của Bộ chính trị về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1996-2000) ngày 12/9/1997. Mới đây nhất Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã một lần nữa khẳng định “Triển khai tích cực và vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản của Nhà nước ngày càng tăng lên”.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để triển khai việc CPH của các DNNN như:
* Chương trình CPH thí điểm
+ Quyết định số 202/CT ngày 8/61992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm một số DNNN thành công ty cổ phần.
+ Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm. Quyết định này còn giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ một đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển sang công ty cổ phần.
+ Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu với các DNNN.
* Chương trình CPH mở rộng
+ Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
+ Thông tư số 50 TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính về “Hướng dẫn các vấn đề về tài chính, về việc bán và phát hành cổ phiếu khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần theo Nghị định 28/CP”.
+ Quyết định số 01/CPH ngày 9/6/1996 của Bộ trưởng, Trưởng ban CPH Trung ương về “Các thủ tục để chuyển DNNN thành công ty cổ phần”.
+ Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP.
+ Chỉ thị số 658/CP ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc CPH DNNN.
* Chương trình CPH đẩy mạnh
+ Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
+ Nghị quyết 44/1998/NQ-CP ngày 29/6/1998 của Bộ tài chính về “Hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần”.
+ Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ tài chính về “Hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế và lệ phí trước bạ quy định tại điều 13 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần”.
+ Thông tư số 11/1998/BT-LĐTBXH ngày 21/8/1998 về chính sách đối với người lao động khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Một số nét nổi bật trong Nghị định 44/CP ngày 26/9/1998: Đây là văn bản pháp lý cao nhất cho đến nay, quy định một cách tương đối toàn diện mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp, các chính sách ưu đãi và tổ chức thực hiện CPH các DNNN.
- Đối tượng các DNNN được CPH: Là các doanh nghiệp ghi tại điều 1 cuả luật DNNN mà Nhà nước không cần phải nắm giữ 100% vốn đầu tư. Như vậy Nghị định 44/CP đã quy định các yêu cầu với DNNN tiến hành CPH theo Nghị định 28/CP là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, có phương án kinh doanh có hiệu quả.
- Về mục tiêu CPH Nghị định 44/CP quy định rõ ràng hơn:
Thứ nhất: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm cho người lao động phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
Thứ hai: Tạo điều kiện để cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự. Tạo điều kiện thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
- Về hình thức CPH:
Ngoài ba hình thức đã được quy định tại Nghị định 28/CP, Nghị định 44/CP còn bổ sung thêm hình thức: Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
- Về nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp:
Trong các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp, ngoài những điều quy định trong Nghị định 28/CP, Nghị định 44/CP còn bổ sung làm rõ căn cứ về lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, về vị trí địa lý, uy tín của mặt hàng (nếu có).
- Về ưu đãi với người lao động trong công ty cổ phần:
Thứ nhất: Được Nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc cho Nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (giá trị một cổ phần là 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không vượt quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tích luỹ từ 40% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không vượt quá 30% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Người lao động sở hữu cổ phần có quyền chuyển nhượng, để thừa kế các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần.
Thứ hai: Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì được hoãn trả trong 3 năm đầu để được hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm, không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi. Người sở hữu cổ phần phải trả dần không được chuyển nhượng khi chưa trả hết tiền cho Nhà nước.
IV. Các hình thức và quy trình tiến hành CPH DNNN
1. Các hình thức CPH
Việc tiến hành CPH ở nước ta được tiến hành theo 4 phương thức chính sau:
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn phát triển doanh nghiệp. Đây là phương án hay và đang được khuyến khích áp dụng, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh tương đối hiệu quả.
- Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại._. doanh nghiệp. Phương thức này áp dụng khá phổ biến ở các DNNN.
- Tách một phần công đoạn, bộ phận dây chuyền sản xuất trong doanh nghiệp để tiến hành CPH trước, rồi tiến hành CPH dần những bộ phận còn lại. Phương thức này có ưu điểm là các doanh nghiệp tập dượt, làm quen với yêu cầu quản lý của một doanh nghiệp CPH trước khi tiến hành CPH toàn bộ doanh nghiệp.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Đây là hình thức mới nhất được đưa ra trong Nghị định 44/CP.
2. Quy trình tiến hành CPH DNNN
Trong giai đoạn trước, do chưa có quy định cụ thể về quy trình CPH DNNN nên việc tiến hành CPH được thực hiện bởi rất nhiều cơ quan khác nhau với nhiều thủ tục phức tạp. Quá trình CPH trước đây mất rất nhiều thời gian, có trường hợp kéo dài từ năm này qua năm khác, gây lãng phí tiền của Nhà nước, mất ổn định trong sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời nó cũng gây tâm lý cho cán bộ công nhân viên e ngại không muốn CPH.
Để khắc phục những thiếu sót trên, ngày 13/8/1996 Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 548/TTg về việc thành lập các ban chỉ đạo CPH DNNN. Ban chỉ đạo CPH Trung ương có các nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau:
+ Tham gia chỉ đạo CPH ở các doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 1 tỷ đồng và ở các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty thành lập theo quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 91).
+ Ban chỉ đạo CPH Trung ương còn có nhiệm vụ hướng dẫn các Bộ và địa phương thực hiện CPH ở các doanh nghiệp đã được phân cấp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các phương án CPH đối với những doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng.
+ Hướng dẫn các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về CPH, ban hành quy trình CPH.
+ Ngoài ra ban chỉ đạo CPH Trung ương còn có quyền đình chỉ các Bộ, địa phương thực hiện CPH không đúng với chỉ đạo của Chính phủ, kiểm tra công tác CPH ở các Bộ, địa phương và doanh nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Chính phủ đã ban hành công văn số 3395/VPCP- ĐMDN ngày 29/8/1998 hướng dẫn quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.
Quy trình này được thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Các DNNN trong danh sách cổ phần thành lập ban đổi mới quản lý doanh nghiệp và chuẩn bị các điều kiện để tiến hành CPH.
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê và phân loại tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lý vốn, giải quyết những vấn đề vướng mắc về tài chính và dự kiến giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Bước 3: Phê duyệt và triển khai công tác thực hiện CPH
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,UBND tỉnh duyệt phương án và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần tuỳ theo giá trị của doanh nghiệp. Ban đổi mới tại doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ như: mở sổ đăng ký mua cổ phiếu của các cổ đông, đăng ký mua tờ cổ phiếu tại kho bạc Nhà nước.
Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh
Giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước bàn giao cho Hội đồng quản trị của công ty cổ phần. Danh sách lao động, tiền vốn tài sản và toàn bộ hồ sơ tài liệu, sổ sách của doanh nghiệp đăng ký với sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Hồ sơ đăng ký kinh doanh như quy định tại điều 19 Nghị định 44/NĐ-CP/1998 ngày 29/6/1998 của Chính phủ.
chương II
thực trạng của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam
I.Sự hình thành và phát triển của Tổng công ty Dệt May Việt Nam
1. Lịch sử hình thành
Từ năm 1989, nước ta bắt đầu bước vào thời kì mở cửa, đổi mới chính sách nhằm phát triển kinh tế để bắt kịp vào dòng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Hàng loạt các biện pháp, chính sách mới đã được Nhà nước ta áp dụng nhằm thúc đẩy các ngành, các mặt của nền kinh tế phát triển. Với môi trường kinh doanh ngày càng khắc nghiệt, sôi động, có tính đòi hỏi cao thì yêu cầu trong các ngành kinh tế phải có các tổng công ty vững mạnh trở thành tập đoàn kinh doanh có sức cạnh tranh lớn làm đầu tầu thúc đẩy cả ngành phát triển. Đặc biệt trong các ngành kinh tế mũi nhọn , chủ đạo của nền kinh tế quốc dân thì yêu cầu này càng mang tính cấp thiết. Ngành Dệt - May là một trong những ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế nước ta nên Tổng công ty Dệt May Việt Nam là tổng công ty Nhà nước được thành lập theo quyết định số 253/TTg ngày 29/4/1995. Tổng công ty có tên giao dịch quốc tế là Viet nam National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở chính của Tổng công ty (TCT) đặt tại 25 - Bà Triệu thành phố Hà Nội.
Vinatex hoạt động theo mô hình TCT 91 nhằm đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh trên thị trường. TCT là sự kế thừa nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ của tổng công ty Dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí nghiệp May Việt Nam với toàn bộ các công ty, xí nghiệp, nhà máy dệt, may quốc doanh Trung ương và một số địa phương. TCT Dệt - May là TCT Nhà nước hoạt động kinh doanh, có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong số vốn do TCT quản lý; có con dấu, có tài sản và các quỹ tập trung, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo quy định của Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ của TCT.
2. Quá trình phát triển của Tổng công ty
2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty
Được quy định trong điều lệ hoạt động và tổ chức của Tổng công ty như sau:
2.1.1. Chức năng : Tổng công ty thực hiện chức năng kinh doanh hàng dệt, may mặc từ đầu tư, sản xuất, cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm; xuất nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, thiết bị, phụ tùng, sản phẩm dệt may và các hàng hoá có liên quan đến ngành dệt may.
2.1.2. Nhiệm vụ của Tổng công ty
- Tổng công ty có nhiệm vụ nhận, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao (bao gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác); nhận, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác, để thực hiện mục tiêu kinh doanh và nhiệm vụ do Nhà nước giao.
- Có nhiệm vụ thực hiện: Các khoản nợ phải thu, phải trả ghi trong bảng cân đối tài sản của Tổng công ty tại thời điểm thành lập Tổng công ty; trả các khoản tín dụng quốc tế mà Tổng công ty sử dụng theo quyết định của Chính phủ; trả các khoản tín dụng do Tổng công ty trực tiếp vay hoặc các khoản tín dụng đã được Tổng công ty bảo lãnh cho các đơn vị thành viên vay theo hợp đồng bảo lãnh, nếu các đơn vị này không có khả năng trả.
- Tổng công ty có nhiệm vụ quản lý hoạt động kinh doanh theo đúng chức năng, ngành nghề kinh doanh theo quy định của Nhà nước.
- Tổng công ty có nhiệm vụ thực hiện đúng chế độ và các quy định về quản lý vốn, tài sản, các quỹ, kế toán, hạch toán, chế độ khác Nhà nước quy định; chịu trách nhiệm về tính xác thực các hoạt động tài chính của Tổng công ty; Tổng công ty công bố công khai báo cáo tài chính hàng năm, các thông tin để đánh giá đúng đắn và khách quan về hoạt động của Tổng công ty theo quy định của Chính phủ; thực hiện nhiệm vụ đóng thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
2.2. Đánh giá kết quả hoạt động của Tổng công ty dệt may Việt Nam
2.2.1. Về sản xuất kinh doanh
Kể từ ngày thành lập đến nay mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế nhưng với sự nỗ lực vượt bậc của toàn bộ cán bộ, công nhân viên, Tổng công ty Dệt - May Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Biểu hiện ở:
Tổng tài sản cố định của toàn Tổng công ty tính đến 31/12/2000 là 5.888 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Nhà nước là 1813 tỷ đồng, chỉ chiếm 30,8%. Theo báo cáo tổng kết của Tổng công ty thì hiệu quả sử dụng tài sản cố định năm 2000 là một đồng tài sản cố định đưa vào sản xuất kinh doanh làm ra 1,28 đồng doanh thu (năm 1999 là 1,2 đồng), số liệu tương ứng của các doanh nghiệp dệt là 1,14 đồng và các doanh nghiệp may là 2,03 đồng. Với hiệu quả sử dụng tài sản cố định được tính theo công thức:
Trong đó: HTSCĐ: Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
TR :Tổng doanh thu
TSCĐG: Tổng giá trị tài sản bình quân trong kỳ
Việc sử dụng vốn lưu động đã có hiệu quả hơn chủ yếu do các doanh nghiệp đẩy mạnh bán hàng tăng doanh thu. Vòng quay vốn trong năm dự kiến đạt 3,1 vòng, tăng 1,2 vòng so với năm 1999.
Trong đó:
SVVLĐ: Số vòng quay của vốn lưu động trong năm
VLĐ : vốn lưu động bình quân năm.
Biểu số 1: Một số chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh từ năm 1995 đến năm 2000
STT
Nội dung
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Giá trị TSL
Tỉ đồng
2.964
3.276
3.686
4.042
4.505
5.120
Doanh thu
Tỉ đồng
4.566
4.953
5.462
5.881
6.578
8.038
Xuất khẩu
Triệu USD
350
395
472
451
484
546
Nộp ngân sách
Tỉ đồng
62
163
134
140
209
241
Thu nhập bình quân
1000Đ
558
682
811
868
960
1.090
Như vậy giá trị tổng sản lượng năm 2000 của Tổng công ty tăng 13,6% so với năm 1999 và tăng gần gấp 2 lần so với năm 1995 dẫn đến doanh thu toàn Tổng công ty năm 2000 tăng so với năm 1999 là 1.460 tỉ đồng và cũng tăng gần gấp đôi so với năm 1995 - năm mới thành lập. Thu nhập bình quân của công nhân trong Tổng công ty cũng tăng lên qua các năm, điều đó đã phần nào cải thiện được đời sống người lao động làm cho họ yên tâm gắn bó với các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty.
Kể từ khi mới thành lập Tổng công ty đã xác định hướng đi chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đó là “Hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái mở rộng, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, từng bước đưa công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước”. Vì vậy các sản phẩm chủ yếu của công ty đều hướng về xuất khẩu, trong đó sản phẩm chính để xuất khẩu là sản phẩm may và sản phẩm dệt kim. Còn sản phẩm tiêu thụ trong nước chủ yếu là sản phẩm sợi (khoảng 99% số lượng sợi sản xuất ra).
Đối với sản phẩm chính để xuất khẩu thì thị trường xuất khẩu lớn nhất là Đông Âu, còn ở Tây Âu thì thị trường Đức chiếm tỷ trọng chủ yếu. Còn ở Châu á thì thị trường Nhật Bản là chính, còn thị trường Mỹ đang trong thời kỳ thâm nhập. Tuy nhiên đến năm 2000 thị trường Đức đã bị giảm sút do thiếu quota trầm trọng làm cho nhiều hợp đồng đã ký kết không thực hiện được, thị trường Mỹ do chưa nhận được quy chế thương mại bình thường (NTR) nên thuế rất cao, nhiều doanh nghiệp phải chấp nhận lỗ để thâm tạo chỗ đứng chân. Sản phẩm nhập vào Mỹ chủ yếu là dệt kim (nhập khẩu vải), còn sản phẩm áo sơ mi và Jacket nhập vào Mỹ ít. Đồng thời chỉ số giá cả hàng tiêu dùng trong nước năm 2000 giảm 0,6% so với tháng 12 năm 1999 làm cho giá xuất khẩu giảm đáng kể, ví dụ: Thị trường Nhật Bản giảm từ 10-15%, trong khi chi phí sản xuất tăng do giá nguyên, nhiên vật liệu, cước vận chuyển, phí Hải quan tăng (Ví dụ: so với năm 1999 giá bông xơ tăng 15-20%, giá điện xăng dầu tăng trên 10%, BHXH tăng 25% do lương tối thiểu tăng). Tuy nhiên, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu (giá hợp đồng) vẫn đạt 212 tr.USD tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 99, trong đó các sản phẩm dệt đạt 103,6 tr.USD tăng 20%, các doanh nghiệp may đạt 96,9 tr. USD tăng 26,6%. Kim ngạch xuất khẩu (giá tính đủ) toàn Tổng công ty đạt 546 tr.USD tăng 12,7%, trong đó các doanh nghiệp dệt đạt 141,8 tr.USD tăng 9,5%, các doanh nghiệp may đạt 376,9 tr.USD tăng 17%.
Có biểu đồ tình hình xuất khẩu các sản phẩm chính
Còn sản phẩm sợi tiêu thụ trong nước là chủ yếu cũng được Tổng công ty hết sức coi trọng, tuy gặp khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai xảy ra liên tiếp trong một số năm qua trên diện rộng làm sức mua giảm sút nhưng nhờ một số biện pháp kích cầu của Chính phủ, các biện pháp tháo gỡ vướng mắc cho các cơ sở của các Bộ, ngành. Các phong trào thi đua sản xuất, tăng năng suất, hiệu quả thúc đẩy sản xuất phát triển. Năm 2000 tuy có tăng chậm hơn so với các năm trước nhưng sức tăng vẫn khá cao.
Biểu số 2:
Sản phẩm sợi các loại
Năm
đơn vị
Số lượng
1996
1000 tấn
51.2
1997
1000 tấn
56.9
1998
1000 tấn
61.9
1999
1000 tấn
64.4
2000
1000 tấn
78.9
Nhờ những kết quả đạt được trên làm cho tổng nộp ngân sách của Tổng công ty có xu hướng ngày càng tăng: Năm 1995 khi mới thành lập nên nộp ngân sách của Tổng công ty chỉ khiêm tốn là 62,5 tỷ đồng nhưng đến năm 1996 tăng lên tới hơn 2,5 lần. Năm 97 và 98 do bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty giảm làm cho nộp ngân sách cũng giảm theo. Nhưng đến năm 2000, tổng nộp ngân sách (3 loại thuế chính) đạt 241 tỷ đồng tăng 15,8% so với cùng kỳ 1999, trong đó doanh nghiệp dệt do phải nộp thuế VAT nhập khẩu cho lượng nguyên vật liệu đầu vào rất lớn và quá trình thoái thu chậm nên mức tăng là 17,1%, các doanh nghiệp may do xuất khẩu là chính được hưởng thuế suất 0% nên mặc dù doanh thu tăng tới 31,6% nhưng nộp ngân sách chỉ tăng 11%.
2.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Tại thời điểm thành lập, TCT có 44 đơn vị hạch toán độc lập trong đó có 43 đơn vị thành viên chuyên sản xuất các sảp phẩm sợi, dệt và các sản phẩm may, một công ty tài chính đây là công ty tài chính được thành lập sớm nhất trong các TCT. Các đơn vị hạch toán phụ thuộc là công ty dịch vụ thương mại số 1 (phía Bắc), số 2 (phía Nam), chi nhánh TCT tại thành phố Hải Phòng, tại Đà Nẵng. Các đơn vị sự nghiệp là Viện kinh tế - kĩ thuật dệt may, Viện mẫu thời trang, các trường kinh tế kĩ thuật may tại Thủ Đức, Gia Lâm, Nam Định để cung cấp nhân sự cho các đơn vị trong cả TCT. Trong quá trình phát triển cho đến nay Tổng công ty đã thành lập Viện mẫu thời trang, công ty len, Trung tâm Y tế Dệt may, Trung tâm hợp tác lao động, Tạp chí Dệt may, Tạp chí mốt Việt Nam. Đồng thời tiếp nhận công ty Bông Việt Nam, công ty may Ninh Bình, công ty xuất khẩu Ninh Bình, xí nghiệp may Bình Minh Nha Trang, xí nghiệp dệt Phú Xuân(Huế), công ty Dệt Hoàng Thị Loan, công ty may Thanh Sơn, công ty may Điện Bàn, công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư Kontum. TCT đã mua lại xí nghiệp liên doanh nilon Thăng Long và Khăn Hải Vân. Năm 2000 Tổng công ty Dệt May đã có 61 đơn vị thành viên bao gồm: 42 doanh nghiệp sản xuất, 1 công ty tài chính, 4 công ty cơ khí, 1 Viện kinh tế kĩ thuật dệt may, 1 Viện nghiên cứu mẫu, 3 trường đào tạo dệt may, 2 công ty xuất nhập khẩu, 12 công ty liên doanh. Ngoài ra các doanh nghiệp thành viên có 29 liên doanh riêng của mình.
Cơ cấu tổ chức của tổng công ty Dệt- May Việt Nam
HĐQT
TGĐ
Ban kiểm soát
PHó TGĐ 1
Phó TGĐ 2
Phó TGĐ 3
Các P.TGĐ khu vực phía Nam
Ban
tổ chức hành chính
Ban
Kế hoạch- Thị
trường
Các phòng ban phía nam
Ban
Tài chính kế toán
Các đơn vị hạch toán độc lập
Các đơn vị hạch toán phụ thuộc
Các đơn vị liên doanh liên kết
Phó TGĐ 4
Ban
kỹ thuật đầu tư
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Chú thích:
II. một số đặc điểm kinh tế kĩ thuật chủ yếu ảnh hưởng tới quá trình cổ phần hoá tại tổng công ty dệt may Việt Nam
Tổng công ty Dệt May Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập, nó bao gồm các thành viên là những doanh nghiệp hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp, có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo,... và các hoạt động trong ngành may mặc. Chính vì vậy quy mô của Tổng công ty rất lớn và nó là tổ chức đầu ngành của ngành dệt may, những đặc điểm của Tổng công ty cũng là đặc điểm cơ bản của ngành dệt may.
1. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm dệt may là sản phẩm có quy mô hết sức đa dạng, nó gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người. Khi nền kinh tế phát triển thì yêu cầu về may mặc lại càng phong phú và yêu cầu về chất lượng cao hơn. Bên cạnh những mặt hàng may mặc truyền thống, mặt hàng sử dụng hàng ngày, thông qua gia công cho các nước mà các doanh nghiệp trong Tổng công ty Dệt May có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Hiện nay Tổng công ty có nhiều chủng loại mặt hàng mà các doanh nghiệp đang sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu như: nhóm mặt hàng sơ mi, quần âu, áo phông, áo váy, quần áo thể thao, nhóm thời trang hiện đại, trang phục đặc biệt cho quân đội, bảo hộ lao động cho các loại ngành nghề,...
Ngoài ra, trong những năm gần đây do chính sách đầu tư đúng hướng vào ngành dệt may đã phát huy tác dụng tích cực tới việc sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với chất lượng cao như: sợi bông chải kĩ chất lượng cao, các loại sợi 100% polyeste, hàng dệt kim xuất khẩu,... Cùng với đà phát triển và nhu cầu tiêu dùng cho nội địa và xuất khẩu ngày càng lớn song do trong nước sản xuất không đủ, chất lượng chưa cao, nên ngành dệt may vẫn phải nhập khẩu nhiều loại hàng như thảm trải sàn, vải dán tường,...Điều này đòi hỏi ngành dệt may nói chung và Tổng công ty Dệt May nói riêng phải tập trung đầu tư hơn nữa vào công tác nghiên cứu thị trường đồng thời phải có sự thay đổi trong cơ chế quản lí để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Với đặc trưng chủ yếu của sản phẩm may mặc là phong phú, mang tính linh hoạt dễ thay đổi, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc CPH của Tổng công ty. Các đơn vị thành viên tiến hành CPH cũng không nằm ngoài mục đích thay đổi cách quản lí có hiệu quả hơn và điều cốt yếu là huy động vốn để đa dạng hoá sản phẩm thích ứng với sự đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
2. Đặc điểm về thị trường
Mặt hàng may mặc ở nước ta là mặt hàng thiết yếu cho nên có rất nhiều công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ đang sản xuất và kinh doanh, mặt hàng này có tính yêu cầu rất cao về chất lượng, mẫu mã. Tuy nhiên trên thị trường này ngành may Việt Nam đang gặp không ít khó khăn khi gặp những đối thủ mạnh. Đối với thị trường trong nước: dân số nước ta khoảng 80 triệu người vào năm 2000, dự đoán 88 triệu người vào năm 2005, gần 100 triệu người vào năm 2010, đây là một thị trường đầy tiềm năng đối với Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Mặc dù mức sống của người dân nước ta chưa cao nhưng lấy mức tiêu dùng của mỗi ngưòi là 5 m vải các loại/năm thì khả năng tiêu dùng của cả nước cũng lên tới gần 400 triệu mét vải. Chính vì vậy, đây là một thị trường rất lớn lại đang phát triển với tốc độ cao và có nhu cầu ngày càng cao về hàng may mặc. Đối với thị trường quốc tế hứa hẹn cho lĩnh vực dệt may một chỗ đứng lâu dài về xuất khẩu cũng như nguồn ngoại tệ lớn thu về từ hoạt động xuất khẩu này. Dệt-may là một ngành có giá trị xuất khẩu lớn và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế quốc dân. Hiện nay lĩnh vực xuất khẩu của Tổng công ty Dệt May Việt Nam chủ yếu vào các thị trường như: các nước EU, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Nam á,...Trong đó các nước EU là thị trường với dân số tên 360 triệu người, là thị trường có mức tiêu dùng vải cao hàng đầu thế giới(17/người/năm), yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng dệt may đặc biệt cao. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ với số dân mặc dù ít hơn các nước khối EU (khoảng 350 triệu người) nhưng có mức tiêu dùng hàng dệt may gấp rưỡi EU (27/kg/nười/năm), nên tổng nhu cầu sử dụng rất lớn. Và nhu cầu lớn này lại được đáp ứng chủ yếu bằng nhập khẩu dệt may trên thế giới cũng như các doanh nghiệp dệt may nước ta.
Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA thị trường nội địa là sân chơi cho các nước trong khu vực như vậy để giữ thị trường trong nước, không để các hàng các nước trong khu vực tràn vào cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp, tăng cường xuất khẩu, đồng thời phải sản xuất hàng may mặc phục vụ thị trường nội địa, tránh trình trạng bỏ trống thị trường lớn này. Đối với thị trường quốc tế, cơ cấu sản xuất và cơ cấu mặt hàng phải phù hợp với thị hiếu hoặc truyền thống của người tiêu dùng. Cơ cấu mặt hàng theo hướng đa dạng hoá, phát triển tiềm năng lao động và tay nghề kỹ thuật, chất xám tạo ra nhựng mặt hàng có tính cạnh tranh cao nhờ tính độc đáo và giá thành thấp. Cơ cấu mặt hàng phải thường xuyên đổi mới để tranh thủ chiếm lĩnh thị trường. Như vậy có thể nói Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam cần có sự đổi mới về phương thức sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm. Cổ phần hoá các DNNN là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu mở rộng và chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Diệt May Việt Nam.
3. Đặc điểm về thiết bị công nghệ
* Thiết bị công nghệ dệt:
Tính đến cuối thập kỷ 80, toàn ngành dệt may có 860.000 cọc sợi và 2000 rơ-to kéo sợi không cọc của 13 công ty quốc doanh trung ương; sản phẩm sợi trong năm ở thời kì đó cao nhất là 60.000 tấn/năm. Trải qua nhiều biến đổi thăng trầm và thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường, dần dần một số thiết bị đã lạc hậu cũ kỹ sản xuất ra sợi có chất lượng kém không có khả năng tiêu thụ trên thị trường, buộc các công ty trong ngành phải thanh lý, thải, loại hoặc có nhiều phương pháp cải tạo nâng cấp...Bằng nguồn vốn ODA vay trả chậm (46 triệu USD), hiện nay Tổng công ty đã đầu tư thay thế hơn 12 vạn cọc sợi ở các doanh nghiệp trực thuộc, do đó tăng năng lực sản xuất từ 10.000 đến 12.000 tấn sợi/năm.
Bước vào nền kinh tế thị trường, những năm gần đây các doanh nghiệp của Tổng công ty Dệt May Việt Nam đã có một số dây chuyền công nghệ mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, sử dụng các máy gắp tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các tiến bộ rộng rãi về vi mạch điện tử, điều khiển tự động và khống chế chất lượng sợi. Nhờ vậy đã có sản phẩm sợi đạt chất lượng cao cấp ở mức 25% của thống kê uster. Mặc dù vậy thiết bị cũ vẫn còn nhiều, chiếm tỷ trọng đáng kể và Tổng công ty chưa có điều kiện để đổi mới.
Trong lĩnh vực nhuộm, những năm qua Tổng công ty đã bổ xung thêm một số máy nhuộm cao áp, xấy văng, định hình, làm mềm xốp vải, chống nhàu, chống co, in hoa lưới đồng bộ và đa dạnh hoá dây chuyền nhuộm hoàn tất, nâng cao năng lực lên thêm 32 triệu m/năm, có khả năng gia công được nhiều mặt hàng như áo jacket, vải áo sơ mi...
* Thiết bị công nghệ may
Từ năm 1991 ngành may liên tục tiến hành đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị công nghệ đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới và trong nước ngày càng nâng cao. Trong 5 năm gần đây toàn Tổng công ty đã trang bị thêm gần 20.000 máy may hiện đại các loại để các mặt hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại,...cải thiện một bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa.
Đối với công đoạn chuẩn bị sản xuất, chủ yếu vẫn dùng phương pháp thủ công. ở công đoạn trải vải vẫn phải trải vải thủ công, chưa có thiết bị trải vải. Công đoạn may các máy may được sử dụng hiện nay là công nghệ hiện đại chất lượng cao từ 4000 đến 5000 vòng/phút, có bơm dầu tự động đảm bảo vệ sinh công nghiệp, một số doanh nghiệp đã dùng máy, trang thiết bị điện tử, loại mũi cắt chỉ tự động (May 10, Việt Tiến...). Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp dùng hệ thống là hơi, tối thiểu là dùng loại bàn là treo phun nước để đảm bảo sản phẩm không bị nhăn, chân chim, hệ thống là hơi tự động vừa cho năng suất cao vừa cho chất lượng cao. Những năm gần đây thị trường trong và ngoài nước yêu cầu sản phẩm chất lượng công nghệ cao, thiết bị được đổi mới bằng các thiết bị hiện đại, điều này đòi hỏi công nghệ may cũng phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu mới.
Hiện nay toàn ngành có 5 nhà máy cơ khí công suất từ 100- 300 tấn/năm nhưng chỉ hoạt động xấp xỉ 40% công suất và chỉ sản xuất được những phụ tùng đơn giản, có trình độ chính xác cấp 4. Một số nhà máy dệt lớn như Dệt Nam Định, Dệt 8/3, Việt Thắng... có xưởng cơ khí lớn công suất 50 tấn/năm nhưng thực tế chỉ làm nhiệm vụ sửa chữa duy trì sản xuất. Công ty cơ khí may Gia Lâm sản xuất được một số thiết bị may, chân bàn máy may và cắt vòng, cắt đầu chân bàn... cung cấp cho ngành.
Như vậy chúng ta có thể thấy Tổng công ty Dệt May Việt Nam hiện nay có hệ thống trang thiết bị còn rất lạc hậu và nhu cầu về đổi mới là hết sức cấp thiết. Tuy nhiên để đổi mới được trang thiết bị thì vấn đề đặt ra đó là phải có một nguồn vốn lớn nhưng vốn kinh doanh của Tổng công ty chủ yếu được lấy từ ngân sách Nhà nước và hàng năm bổ sung thêm từ vốn tự bổ sung. Do vậy việc huy động vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ là hết sức cần thiết. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới việc CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty. Cũng như các ngành nghề khác Tổng công ty Dệt May Việt Nam coi CPH là biện pháp tốt nhất hiện nay nhằm huy động nguồn vốn của toàn xã hội, thay đổi cơ chế quản lý kinh doanh kích thích sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty được CPH thời gian qua đã phân loại được các thiết bị công nghệ theo khả năng sử dụng và thanh lý một loạt các thiết bị công nghệ cũ lạc hậu, đồng thời nhập dây chuyền công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như công ty May Bình Minh, May Hồ Gươm,... Điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình CPH của Tổng công ty Dệt May Việt Nam.
4. Đặc điểm về lao động
Thành phần lao động trong toàn Tổng công ty chiếm số lượng rất lớn và được sử dụng gián tiếp và trực tiếp trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như là lao động trong lĩnh vực nhuộm, may mặc thời trang, cơ khí, điện dân dụng. Đã có thời gian ngành dệt may đã thu hút được gần 50 vạn lao động chiếm 22,7% lao động công nghiệp trong toàn quốc và hầu hết là lao động nữ, chiếm 80%. Vấn đề lao động và việc làm là một vấn đề lớn nổi lên trong xã hội nước ta ngày nay, giải quyết tốt vấn đề này là góp một phần lớn vào sự ổn định chính trị -kinh tế -xã hội. Như vậy tạo ra nhiều chỗ làm việc là một trong những mặt cho thấy vị trí của ngành dệt - may trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay.
Trong thời gian qua Tổng công ty đã chỉ đạo các đơn vị thành viên chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, kịp thời nắm bắt khoa học kỹ thuật để sử dụng thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại của thế giới áp dụng vào doanh nghiệp. Bên cạnh đó Tổng công ty tổ chức hội thảo về công tác đào tạo nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất, mang lại hiệu quả cao trong đào tạo, sử dụng cán bộ. Trong điều kiện hiện nay bồi dưỡng nghiêp vụ, đào tạo và đào tạo lại cũng là vấn đề cần thiết bởi đội ngũ cán bộ lớn tuổi đang bị hạn chế về việc nắm bắt khoa học kỹ thuật phát triển. Tuy nhiên vấn đề này còn rất nhiều khó khăn, bởi vì ngành dệt may là ngành phổ biến từ nhiều năm cách đây và hầu hết công nhân có trình độ thấp chỉ quen với cách làm thủ công, chưa qua lớp đào tạo huấn luyện nào, và cán bộ lãnh đạo cũng được bổ nhiệm từ cơ chế cũ. Chính vì vậy bên cạnh đào tạo lại cán bộ công nhân viên tổng công ty phải có kế hoạch đổi mới cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Tức là thay đổi phương thức quản lý, hình thức kinh doanh giao trách nhiệm và quyền hạn cho mỗi ngưỡi để cho họ tích cực trong công việc. Đặc điểm trong lao động cũng có ảnh hưởng lớn tới quá trình cổ phần hoá các DNNN bởi vì số người lao động đông, trình độ thấp do đó khả năng nhận thức của người lao động trong công ty về cổ phần hoá còn hạn chế. Và hầu hết họ không muốn cổ phần hoá, chưa thấy được thực chất của cổ phần hoá, chưa thấy được tất yếu của cổ phần hoá để cho doanh nghiệp phát triển.
Nói tóm lại tất cả các nhân tố trên đều là nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Dệt May Việt Nam và trước những tình hình thực tế hết sức khó khăn như hiện nay các nhân tố đó ảnh hưởng quyết định tới việc cổ phần hoá các DNNN thuộc Tổng công ty.
iii. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam
1. Đánh giá chung về quá trình CPH DNNN tại TCT Dệt- May Việt Nam
Tổng công ty Dệt May Việt Nam từ khi thành lập cho đến nay đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện cho các đơn vị thành viên cùng phát triển. Tuy nhiên với mô hình Tổng công ty 91, làm cho không ít các cơ sở không trụ được lâm vào tình trạng cực kì khó khăn, bên bờ vực phá sản. Thêm vào đó là sự khủng hoảng ở một loạt các công ty dệt có quy mô hàng ngàn, hàng vạn người lao động như Dệt Nam Định đòi hỏi phải có giải pháp nhằm giải quyết đồng bộ của nhiều ngành nhiều cấp trong thời gian dài. Theo nghị định 44/CP ngày 29-6-1998 của Chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần, Tổng công ty Dệt May Việt Nam cũng tiến hành cổ phần hoá một số DNNN, tuy nhiên tiến trình cổ phần hoá ở đây diễn ra quá chậm. Trước năm 1999 không cổ phần hoá được một doanh nghiệp nào, tận tới năm 1999 thì có kế hoạch cổ phần hoá 11 doanh nghiệp, nhưng đến cuối năm 1999 Tổng công ty chỉ hoàn thành cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp đó là:
Danh sách các doanh nghiệp đã CPH trong năm 1999
Cơ cấu vốn
Vốn
điều lệ
Tỷ đồng
Nhà nước
CBCNV
Cổ đông ngoài
1. Công ty May Bình Minh
18
25%
45%
30%
2. Nhà máy may thuộc CT dệt Vĩnh Phú
2,3
70%
30%
3. Xưởng may số 8 Lê Trực thuộc CT May Chiến Thắng
4,2
25%
59%
16%
4. Công ty may Hồ Gươm
3,1
30%
70%
5. Nhà máy may và bao bì thuộc CT dệt Nha Trang
1,624
5%
64%
31%
Trong đó chỉ có duy nhất một đơn vị là có cổ đông là người nước ngoài đó là công ty may Bình Minh với 20% số vốn điều lệ. Năm doanh nghiệp đã cổ phần hoá ở Tổng công ty đều là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trước khi có cổ phần hoá, cho nên khi chuyển sang cơ chế hoạt động mới có phần dễ dàng hơn. Sở dĩ các doanh nghiệp này có thể cổ phần hoá thành công còn do những doanh nghiệp đã nhận thức rõ mục đích và ý nghĩa của cổ phần hoá, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo của công ty. Ban cổ phần hóa của doanh nghiệp đã phổ biến về lợi ích của việc cổ phần hoá, và điều đặc biệt là đưa được quyền sở hữu cho người lao động, khuyến khích họ hăng say trong công việc và tham gia tích cực vào công cuộc cổ phần của doanh nghiệp. Mặt khác thì tự thân các đơn vị này cũng muốn chuyển sang công ty cổ phần để thu hút thêm nguồn vốn, chủ động quyết định trong công việc kinh doanh.
Theo đánh giá kết quả đầu năm 2000, các doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng công ty hiện nay đều hoạt động có hiệu quả. Tính đến năm 1999 mức lợi tức tối thiểu của các công ty này đều đạt 20 đến 25%/năm. Theo đánh giá của một chuyên gia tài chính trong ngành may thì hiện nay việc cổ phần hoá các doanh nghiệp may._.lãi suất các khoản vay dài hạn của ngân hàng, bởi thay vì dùng vốn đầu tư tài trợ cho các tài sản có dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khoản tiền đó có thể được đem cho vay dài han để được hưởng lãi. Có thể so sánh sự khác nhau giữa phương án mới so với quy định hiện tại như sau:
Theo quy định hiện tại
Đối với doanh nghiệp nhỏ (1-2 tỷ đồng) làm ăn có hiệu quả:
+ Trường hợp đã đánh giá được giá trị lợi thế thì lấy trên sổ sách kế toán.
+ Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Giá trị lợi thế doanh nghiệp = A x B x 30%
Trong đó:
A: Là vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề.
B: Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch.
+ Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ (1-2 tỷ đồng), làm ăn kém hiệu quả có thể bỏ giá trị này.
+ Đối với doanh nghiệp có quy mô lớn giá trị lợi thế tính theo công thức (1), (2), (3) như đã trình bày ở trên.
áp dụng công thức trên ta có thể tính lại giá trị thực của công ty may Bình Minh trong ví dụ ở chương II như sau:
+ Xác định tài sản hữu hình:
Giá trị tài sản hữu hình của công ty = 44.545.932.322 đ.
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước (A) = 17.635.707.290 đ.
+ Xác định giá trị các yếu tố vô hình (lợi thế thương mại -GW)
Căn cứ để xác định giá trị:
Dựa vào bảng số liệu kế toán về tình hình sử dụng tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu được trong 3 năm cuối (1995, 1996, 1997)
Nội dung
31/121995
31/12/1996
31/12/1997
Giá trị tài sản có dùng vào sản xuất kinh doanh –S
32.564.985.354
38.476.480.325
44.474.144.845
Lợi nhuận thực hiện -R
4.654.167.800
5.489.654.784
6.651.000.000
Lãi suất vay dài hạn tại thời điểm đánh giá 1/1/1998: i = 13%/năm.
Tỷ suất hiện tại hoá (lấy trung bình theo mức lạm phát của 2 năm 1996,1997): r = 9%.
Bảng tính toán:
Đơn vị: triệu đồng
Năm
S x i
R
d = R - (S x i)
(1 + r)t
d(1 + r)t
1995
4.233.488.069
4.654.167.800
420.719.704
1.1888
499.815.008
1996
5.001.942.442
5.489.654.454
487.712.341
11.09
513.606.453
1997
5.781.638.830
6.651.000.000
869.361.170
1
869.361.170
Giá trị các yếu tó vô hình của công ty - GW =
1.900.782.631
V = A + GW = 19.563.489.921
Vậy giá trị công ty sau khi đánh giá lại là: 19.536.489.921
Ta có bảng so sánh giữa hai cách tính như sau:
Chỉ tiêu
Phương án cũ
Phương án mới
1. Giá trị tài sản cố định hữu hình
44.545.932.322
44.545.932.322
2. Giá trị các yếu tố vô hình
0
1.900.782.631
3. Giá trị thực tế của doanh nghiệp (1+2)
44.545.932.322
45.446.714.953
4. Nợ thực tế phải trả
26.910.225.032
26.910.225.032
5. Giá trị doanh nghiệp sau khi đánh giá lại
17.635.707.290
19.530.489.921
Theo như cách này cũng có những ưu điểm và những nhược điểm như: bổ sung các yếu tố mà phương pháp cũ không đề cập đến trong tài sản hữu hình, còn về đánh giá giá trị lợi thế thì đã chỉ ra được các yếu tố liên quan đến lợi thế của doanh nghiệp, cách tính lại độc lập không phụ thuộc vào chỉ tiêu của ngành. Tuy nhiên theo cách này giá trị lợi thế của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào các hệ số như hệ số quy đổi về hiện tại, thời gian đánh giá, phải xác định được giá trị tài sản có dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu của vốn tài trợ cho tài sản... Hơn nữa không áp dụng được cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hay không có lãi vì sẽ làm giảm giá trị ròng của doanh nghiệp. Như vậy theo em cách giải quyết tốt nhất là nên cho các doanh nghiệp tính giá trị vô hình theo các phương pháp khác nhau như phương pháp tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp mới như đã trình bày... nhưng có sự thay đổi về số năm tính lợi nhuận (lớn hơn hoặc nhỏ hơn 3 năm) sao cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp mà người mua có thể chấp nhận được.
2. Hình thành một bộ máy tổ chức và điều hành đủ mạnh
Cổ phần hoá DNNN là yêu cầu cấp thiết hiện nay cho việc đổi mới khu vực DNNN và được điều hành bởi Ban đổi mới doanh nghiệp do Thủ tướng đứng đầu. Nhưng thực tiễn hiện nay tất cả các ban đổi mới doanh nghiệp tại các Bộ quản lý ngành, tỉnh, thành phố, Tổng công ty 91 và doanh nghiệp đều kiêm nhiệm. Mặc dù thời gian qua họ đã thực hiện tốt vai trò của mình và đã đảm bảo cho tiến trình CPH được diễn ra theo đúng tiến độ nhưng số cán bộ còn quá ít, lại phải thực hiện các công việc khác do đó phần nào ảnh hưởng đến công tác CPH. Bởi công việc tiến hành trên sự kiêm nhiệm thì người thực hiện rất khó có thể toàn tâm toàn lực mà lo cho công việc mặt khác lại khó quy kết trách nhiệm khi có vấn đề, vướng mắc xảy ra. Từ thực trạng đó thì cần phải có những thay đổi là: Trước hết đội ngũ cán bộ cho các ban, các tổ CPH phải đủ người, đồng thời cán bộ phân công đảm nhiệm công tác CPH tại DNNN dù ở cấp nào, chuyên trách hay kiêm nhiệm, lãnh đạo hay thừa hành đều phải mang tính chất chuyên nghiệp. Nghĩa là không được tuỳ tiện thay đổi cán bộ, phải có những cán bộ tâm huyết với công việc, có chuyên môn và được theo dõi công việc liên tục, ổn định, thành thạo quy trình CPH, không kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau. Với một đội ngũ cán bộ chỉ đạo CPH như vậy thì công tác CPH chắc chắn sẽ được thực hiện tốt hơn, tiến trình CPH sẽ được đẩy mạnh hơn.
3. Có những chính sách tài chính ưu đãi hơn đối với người lao động
Thực ra chuyển DNNN sang một hình thức hoạt động khác không phải là điều quan tâm lớn nhất đối với người lao động. Vậy họ quan tâm đến điều gì ? Có lẽ họ chỉ quan tâm đến hai điều: có việc làm ổn định và thu nhập sẽ tăng trong tương lai. Vậy giải quyết vấn đề này như thế nào để người lao động có thể yên tâm tham gia tích cực vào quá trình CPH.
* Về đảm bảo việc làm cho người lao động
Tại điều 6 Nghị định 44/1998/NĐ-CP quy định "Doanh nghiệp tiến hành CPH có trách nhiệm sử dụng hết số lao động hợp đồng hiện có tại doanh nghiệp. Đối với số lao động tự nguyện chấm dứt thì giải quyết theo pháp luật hiện hành". Khi CPH doanh nghiệp huy động được một nguồn vốn nhất định để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp với thực trạng hiện tại tất yếu phải từng bước đổi mới công nghệ. Khi trình độ công nghệ hiện đại hơn, trình độ hiện đại hóa cao thì lao động giảm mà doanh nghiệp không được phép giảm số lượng lao động, vậy chẳng lẽ doanh nghiệp "nuôi không" những người này đây chính là một gánh nặng đè lên vai doanh nghiệp. Tại điều 9 khoản 2 Nghị định 44/1998/NĐ-CP "doanh nghiệp sử dụng tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước trợ cấp cho lao động dư dôi" thật sự mâu thuẫn với quy định trên. Thực tế thì lao động trong doanh nghiệp CPH vẫn thừa mà chính sách giải quyết cụ thể lại không có. Vậy chúng ta phải phân loại lao động trong doanh nghiệp để từ đó có cách giải quyết cụ thể với từng loại. Lao động trong doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại sau:
- Loại thứ nhất là số người chưa được đào tạo hoặc đã được đào tạo nhưng trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc hiện tại, cần phải đào tạo và đào tạo lại.
- Loại thứ hai là những người tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động trước khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần.
- Loại thứ ba là những người không thuộc hai loại trên nhưng không bố trí sử dụng lại, cần phải có trợ cấp mất việc để họ có thể tự tìm kiếm việc làm mới.
Trước hết đối với số người lao động đã có quá trình cống hiến cho Nhà nước nhiều, tuổi cao, muốn nghỉ hưu nhưng theo quy định tuổi nghỉ hưu (55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam) và tỷ lệ phần trăm giảm lương lớn (1%) cho mỗi năm nghỉ trước tuổi đã làm doanh nghiệp khó khăn trong việc giải quyết. Do vậy cần nghiên cứu xem xét theo hướng thông thoáng hơn, có thể là không trừ phần trăm nào để người lao động có thể tự nguyện xin nghỉ hưu.
Về trợ cấp thôi việc, đây là loại trợ cấp mà doanh nghiệp trừ cho người lao động khi họ tự nguyện xin thôi việc nhằm hỗ trợ một phần để tạo điều kiện cho người lao động ổn định tìm việc làm mới. Bên cạnh các chế độ quy định, áp dụng thêm một số chính sách đặc cách như nâng cao mức khuyến khích thôi việc theo hướng tạo điều kiện về vốn để người lao động tự tìm việc làm mới cụ thể như tại công ty may Bình Minh:
Hưởng trợ cấp theo năm công tác: Một tháng lương cho thời gian làm việc từ 1-5 năm, một đến hai tháng cho thời gian làm việc từ 6-10 năm trở lên.
Hưởng trợ cấp theo tuổi đời: Dưới 35 tuổi không được trợ cấp, từ 35-45 tuổi mức trợ cấp là 1,5 triệu đồng, từ 45-55 tuổi mức trợ cấp là 3 triệu đồng/người.
Với sự thay đổi trên doanh nghiệp sẽ phần nào giải quyết được một số lao động dôi dư không cần thiết khi chuyển sang công ty cổ phần. Tạo điều kiện để người lao động đến tuổi nghỉ hưu luôn vui vẻ, tự nguyện xin nghỉ. Đồng thời với mức trợ cấp như thế sẽ khuyến khích những người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu cũng muốn xin thôi việc.
Tuy nhiên ngân sách để thực hiện việc này rất lớn, chúng ta có thể chấp nhận qua một quỹ trung gian nhận nợ với người lao động và kiểm soát tiến trình chi trả như một khoản tiền tiết kiệm có thời hạn. Nguồn kinh phí chi trả của quỹ này được cấp một phần từ quỹ bảo hiểm xã hội, phần khác từ quỹ hỗ trợ CPH DNNN. Người lao động ở xa có thể được hỗ trợ tiền tàu xe về quê sinh sống và yêu cầu chính quyền địa phương tạo điều kiện cấp đất cho họ sản xuất.
Bên cạnh đó doanh nghiệp cần tiến hành các hoạt động đào tạo, đào tạo lại cho người lao động theo hai hướng sau:
- Hướng thứ nhất: Đào tạo lại tay nghề cho đối tượng lao động còn tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp thực hiện CPH. Nội dung chương trình cũng như mục đích đào tạo phải thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp nhằm đáp ứng được công việc sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Doang nghiệp phải lên kế hoạch đào tạo cụ thể và dự trù kinh phí, từ đó Nhà nước sẽ quyết định dành bao nhiêu phần trăm tiền bán cổ phần từ vốn của Nhà nướctại doanh nghiệp để lại cho doanh nghiệp làm kinh phí đào tạo.
-Hướng thứ hai: đào tạo và đào tạo lại nghề cho số lao động dư dôi, thôi không làm việc tại doanh nghiệp thực hiện CPH nữa. Nội dung chương trình dạy nghề cần phù hợp theo khả năng, sở thích của người lao động cũng như phải đáp ứng kịp thời xu thế phát triển những ngành nghề kinh tế then chốt trong tương lai. Kinh phí đào tạo cần được cung cấp đầy đủ ở quỹ hỗ trợ CPH. Doanh nghiệp cũng có thể chuyển người lao động sang doanh nghiệp khác hay gửi người lao động đó đến các trung tâm đào tạo việc làm. Như thế người lao động sẽ yên tâm hơn và tham gia tích cực khi doanh nghiệp tiến hành CPH.
* Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN thực hiện CPH
Để tiến hành CPH thuận lợi chúng ta cần cho người lao động thấy được những quyền lợi hấp dẫn mà có thể có được nếu doanh nghiệp của họ chuyển sang công ty cổ phần từ đó họ sẽ yên tâm hơn và thực hiện tốt công việc, bằng các hình thức sau:
+ Chia cho người lao động một phần tài sản thuộc vốn ngân sách và bổ sung của doanh nghiệp
Để tính toán được điều này trước hết ta đi phân loại doanh nghiệp
Với doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả: Tiêu chí là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (vốn Nhà nước và vốn tự bổ sung). Tỷ suất này chí ít cũng phải trên 15%, có nghĩa là phải cao hơn mức lãi suất tiết kiệm thì đồng vốn mới thực sự sinh lời. Đối với doanh nghiệp thuộc loại này, ta có thể áp dụng các quy định trong Nghị định 44/CP nhưng với mức bán cổ phần ưu đãi cho người lao động cao hơn, có thể tới 50% giá trị số cổ phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách mà người lao động được hưởng tuỳ theo số năm công tác. Riêng phần vốn tự bổ sung của doanh nghiệp có thể chia toàn bộ cho cán bộ công nhân viên để mọi người có tiền mua cổ phần.
Với DNNN hoạt động kém hiệu quả: Tỷ suất lợi nhuận không đạt tiêu chí trên, Nhà nước có thể cho cán bộ công nhân viên 100% giá trị cổ phần tài sản cố định thuộc vốn vay và vốn lưu động, sau khi đánh giá lại Nhà nước sẽ bán cổ phiếu để thu hồi lại vốn và trả nợ.
Lý do là các DNNN hầu hết có tài sản đã cũ, khấu hao hết, có tài sản còn khấu hao đến lần thứ hai. Do đó có cho không công nhân thì Nhà nước cũng không thiệt, dù cho hay không cho tài sản đó vẫn nằm tại doanh nghiệp, thuộc Nhà nước chỉ trên danh nghĩa, chỉ có điều khác là hàng năm Nhà nước thu được một khoản thu trên vốn là 3,6% cho ngân sách. Nếu Nhà nước cho bán cổ phiếu phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách, thì mặc nhiên người mua phải suy nghĩ nên mua cái gì, không nên mua cái gì và đắt rẻ như thế nào. Trong trường hợp đó có thể Nhà nước sẽ không thu gom được một phần giá trị nào và cũng không biết phải sử dụng vào đâu, cuối cùng là để lại doanh nghiệp cho hư hỏng. Trong khi đó đối với công nhân việc chia cổ phần như vậy tạo ra những chủ sở hữu đích thực cho doanh nghiệp.
+ Nâng mức phần trăm giá bán cổ phần ưu đãi tại doanh nghiệp
Theo quy định người lao động tại doanh nghiệp được mua cổ phần giảm gía 30% so với cổ phần bán cho đối tượng tuỳ theo số năm công tác. Trong thực tế tiền lương và thu nhập của người lao động còn hạn hẹp. Do vậy có thể có một số tiền đủ lớn để mua cổ phiếu ưu đãi là một chuyên không dễ và dù tiến hành mua cổ phần thành nhiều đợt thì không ít người lao động cũng không đủ tiền để mua. Mức khống chế giá trị cổ phiếu ưu đãi là 20-30% giá trị phần vốn góp của Nhà nước cũng chưa được hợp lý. Lý do là số năm công tác trong khu vực Nhà nước của người lao động là khá lớn, trong khi giá trị phần vốn Nhà nước tại đây lại ít nên có doanh nghiệp thì đủ 10 cổ phiếu cho mỗi năm công tác, có đơn vị lại chỉ đủ 6-8 cổ phần thay vì 10 cổ phần cho 1 năm công tác. Do đó cần phải căn cứ vào điều kiện cũng như tình hình cụ thể về số lao động và số năm công tác cuả mỗi người trong doanh nghiệp để có mức phần trăm cổ phần ưu đãi hợp lý trong mỗi doanh nghiệp chẳng hạn như sau:
STT
Theo quy định hiện tại
Phương án thay đổi
(1) Số cổ phần tối đa cho một năm công tác
10
10 (Đối với doanh nghiệp có số lao động và số năm công tác ít)
6-8 (Đối với doanh nghiệp có số lao động và số năm công tác nhiều)
(2) Mức giảm trên một cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp
30%
35%
(3) Tổng giá trị cổ phiếu ưu đãi trong doanh nghiệp
20 – 30% giá trị phần vốn góp của Nhà nước
22- 32% giá trị phần vốn góp của Nhà nước
Đây chỉ là một cách để tính sao cho mức giá trị cổ phần ưu đãi được hợp lý và giúp cho doanh nghiệp dễ dàng giải quyết về cổ phần cho người lao động và đặc biệt là khuyến khích người lao động trong việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Bởi vì mức giảm giá mua cổ phần và số cổ phần không nhiều lắm sẽ phù hợp với túi tiền của họ. Khi đó người lao động sẽ thấy rằng việc mua được cổ phần của doanh nghiệp là không mấy khó khăn và với lượng vốn của mỗi người tuy không nhiều lắm nhưng họ sẽ hăng say làm việc và hy vọng thu được khoản tiền lớn trong tương lai. Bên cạnh đó việc ưu đãi này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động đã suy giảm sức lao động do bệnh nghề nghiệp, do quá trình lao động nhiều năm, những người có tay nghề yếu, nghề nghiệp không ổn định có nguy cơ phải thôi việc có được một số vốn (họ có thể bán cổ phần của mình cho người khác), để tìm nghề sinh sống cho phù hợp với năng lực của họ. Đây là điểm mấu chốt sẽ hấp dẫn người lao động ủng hộ chủ trương CPH của Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Trên đây chỉ là một ý kiến nhằm thúc đẩy người lao động tích cực cùng doanh nghiệp thực hiện tốt công tác CPH. Theo như cách này cũng không tránh khỏi những nhược điểm do vậy Nhà nước nên kết hợp nhiều phương pháp khác nhau dựa trên cơ sở của từng doanh nghiệp để đưa ra mức ưu đãi hợp lý nhất.
Ngoài ra cần xem xét lại quy định tiêu chuẩn đáng giá lao động nghèo tại doanh nghiệp. Theo quy định tại điều 3 mục A thông tư số 03/1999/TT-LĐTBXH ngày 9-1-1999 cho tất cả các địa phương là không hợp lý (lao động nghèo là lao động có thu nhập bình quân đầu người trong gia đình cao nhất là 300 nghìn đồng/tháng). Tổng công ty có 61 đơn vị thành viên đóng trên hầu hết các địa phương và thành phố, theo như quy định này thì người lao động làm việc tại doanh nghiệp thuộc thành phố hầu hết là không có lao động nghèo. Còn ở các địa phương khác giá cả sinh hoạt không đồng nhất, ở các doanh nghiệp trên các địa phương có mức sống thấp thì hầu hết là lao động nghèo. Do vậy quy định bán cổ phần ưu đãi của Nghị định 44/CP chỉ có ý nghĩa về mặt giấy tờ, không có tác dụng trên thực tế. Vậy đề nghị Bộ LĐTBXH nghiên cứu đưa ra tiêu chuẩn người nghèo ngay từ đầu năm và ở mỗi địa phương, mỗi khu vực. Chẳng hạn các doanh nghiệp đóng tại các thành phố, thì tiêu chí cho người lao động nghèo là lao động có thu nhập bình quân trong gia đình cao nhất là 400 ngàn đồng/tháng, đối với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của các tỉnh lẻ thì người lao đông nghèo là lao động có mức thu nhập bình quân đầu người trong gia đình nhỏ hơn 300 ngàn đồng/tháng.
4. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách CPH
Để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc triển khải CPH DNNN, ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành nghị định 44/1998/NĐ - CP về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Đồng thời, các Bộ, ngành ở Trung ương như Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ lao động thương binh xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và ban đổi mới quản lý doanh nghiệp đã kịp thời ban hành các thông tư hướng dẫ cụ thể nội dung, quy định trong nghị định 44/ CP kể cả biểu mẫu, phương án mẫu, các bước tiến hành... Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ CPH, cần sớm ban hành một số quy chế sau:
* Trước hết là điều kiện pháp lý cho tiến trình CPH:
Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhưng vai trò chức năng của Đảng và Chính phủ, của bí thư và chủ tịch là khác nhau. Vì vậy, về mặt pháp lý cũng phải có các văn bản của Đảng và Chính phủ. Bộ chính trị cần có một số nghị quyết riêng về vấn đề CPH ( hoặc là nghị quyết về đổi mới khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà trong đó có một mục riêng về CPH DNNN). Bởi vì cho đến nay, do nhiều nguyên nhân, nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố vẫn còn sợ CPH sẽ bị quy tội làm chệch hướng XHCN. Chính điều này đã làm cản trở quá trình CPH. Chính phủ cần nghiên cứu và đệ trình Quốc hội ban hành pháp lệnh về CPH DNNN.
* Làm rõ hơn nữa chính sách cho doanh nghiệp CPH:
Việc hoạt động có hiệu quả của các DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ kích thích mạnh mẽ tiến trình CPH. Và như vậy cũng thực hiện được mục đích quan trọng cuối cùng là công ty không ngừng phát triển (điều mà cán bộ công nhân viên mong đợi sau khi CPH doanh nghiệp ). Theo như chính sách của Nhà nước là đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thời gian qua thực tế vẫn còn tồn tại sự tách biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác trong đó có công ty cổ phần. DNNN được ưu đãi hơn cụ thể như sau:
+ Công ty cổ phần khó khăn trong việc tiếp cận với ngân hàng, được Nhà nước bảo lãnh vốn trong khi đó DNNN thường được ưu đãi hơn về nhiều mặt. Như quyền sử dụng đất, tài sản cố định, vay vốn tín dụng tại các ngân hàng mà không cần thế chấp với lãi suất thấp, được khoanh nợ, xoá nợ, được xét miễn giảm thuế dễ dàng, được cấp giấy phép xuất khẩu dễ dàng hơn, được tiếp cận độc quyền với các dự án của Chính phủ tài trợ bởi vốn ngân sách Nhà nước với mức lãi suất tài sản cố định thấp ( 0,8%/tháng so với 1,25%/tháng). Mặc dù trong nghị định 44/CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ đưa ra 6 ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH, tuy nhiên các ưu đãi đó vẫn chưa thực sự xoá bỏ gianh giới bất bình đẳng giữa DNNN và công ty cổ phần. Chẳng hạn như ưu đãi được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất đã áp dụng đối với các DNNN nhưng lại chỉ những công ty cổ phần mà Nhà nước nắm giữ cổ phiếu chi phối, cổ phần đặc biệt được áp dụng tính kế thừa, còn các công ty cổ phần khác giới hạn trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chính thức chuyển sang hoạt động theo luật công ty.
Những DNNN thực hiện CPH vừa qua đều là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, do đó khi chuyển sang công ty cổ phần họ đều có thề đứng vững và phát triển. Khi thực hiện chương trình CPH mở rộng có nhiều DNNN không có hoặc có rất ít lợi thế so với các doanh nghiệp nói trên thậm chí trong tình trạng nợ nần. Vậy làm sao họ có thể tự nguyện, tự giác chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, và ngay cả khi Nhà nước chỉ định thực hiện thì liệu những doanh nghiệp đó có thực hiện thành công CPH hay không bởi vì có quá nhiều khó khăn. Ngay cả về hiệu quả sau khi CPH, vì ai sẽ mua cổ phiếu của các doanh nghiệp này để giúp cho doanh nghiệp thực hiện CPH. Như vậy để đẩy nhanh quá trình CPH DNNN, đặc biệt đối với doanh nghiệp không có nhiều lợi thế, trước hết Nhà nước phải hình thành một chính sách hỗ trợ trước, trong và sau khi CPH. Hỗ trợ này phải mang tính riêng biệt, có nghĩa là phải thực sự áp dụng riêng cho doanh nghiệp thực hiện CPH.
Trước hết ta thấy rằng vốn là yếu tố sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp để thực hiện hoạt động kinh doanh và mục đích của công ty cổ phần cũng là để huy động vốn nhưng phải làm gì khi doanh nghiệp chưa có cơ sở vững chắc cho việc bắt đầu một hình thức quản lý mới. Trong khi đó thực tế cho thấy một số DNNN dưới danh nghĩa là công ty cổ phần thì niềm tin của Ngân hàng đối với họ bị giảm sút đáng kể. Thậm chí có Ngân hàng từ chối cho các công ty cổ phần vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Mặc dù các công ty cổ phần có thế chấp cũng chỉ vay từ 60 - 70% giá trị thế chấp. Trong khi còn là DNNN họ có thể vay gấp 3 đến 4 lần giá trị thế chấp. Vậy nên chăng Nhà nước mở rộng chế độ ưu đãi vay vốn ngân hàng cho các doanh nghiệp này, trước hết là giúp họ vay vốn với mức thế chấp ít nhất là bằng với giá trị thế chấp, có thể giảm lãi suất tiền vay ngân sách xuống mức 8%/năm hay hỗ trợ các doanh nghiệp các khoản nợ lương, nợ bảo hiểm, mua lại những khoản nợ lớn mà doanh nghiệp không có khả năng trả được, cho vay vốn lao động để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động bình thường, hay có thể hỗ trợ 30% giá trị trang thiết bị công nghệ mới trong trường hợp doanh nghiệp đang thực hiện đổi mới công nghệ.
Theo nghị định 44/CP thì về thực chất doanh nghiệp chỉ được hưởng 2 ưu đãi: miễn lệ phí trước bạ và giảm thuế 50%. Còn lại các ưu đãi khác là đương nhiên, dù doanh nghiệp là DNNN hay doanh nghiệp CPH. Hơn nữa giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm đầu (bất kể có lãi hay không) còn thấp hơn so với đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước. Vì vậy Nhà nước nên bổ sung những văn bản sửa đổi cho phép doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế cao hơn quy định của nghị định 44/CP (tức là giảm khoảng 60% thuế lợi tức cho doanh nghiệp CPH), thời hạn giảm thuế lợi tức có thể là lớn hơn 2 năm. Hay có thể cho doanh nghiệp miễn thuế lợi tức phải nộp nhỏ hơn năm trước khi chuyển sang công ty cổ phần và mức thuế thu nhập công ty chỉ nên ở mức 20 - 25% thay vì mức quy định như hiện nay (32%). Hơn nữa trong quá trình tiến hành CPH, các doanh nghiệp đều phải có chi phí phát sinh, chi phí này tính trên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, nếu thiếu thì Nhà nước nên xem xét để tăng thêm, đặc biệt đối với doanh nghiệp có số vốn quá nhỏ để thực hiện CPH. Ngoài ra khi chuyển sang công ty cổ phần các DNNN nhất thiết phải đổi mới về công nghệ, kỹ thuật và phải đào tạo lại công nhân viên. Vậy Nhà nước nên có một chính sách nào đó để hỗ trợ tích cực cho phương án đào tạo lại cuả doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có được một đội ngũ công nhân viên có tay nghề cao phù hợp với điều kiện kinh doanh mới.
Tóm lại, việc đưa hoạt động của các DNNN vào nề nếp quản lý chặt chẽ không được còn được bao cấp, kích thích một bộ phận chuyển sang công ty cổ phần, chấp nhận CPH. Việc đối xử bình đẳng giữa DNNN và các công ty cổ phần cũng chính là Nhà nước đã tạo điều kiện cho các DNNN CPH hoạt động sau khi chuyển đổi hình thức. Tất cả những ưu đãi mà Nhà nước dành cho công ty cổ phần sẽ chỉ là trước mắt giúp cho DNNN có cơ sở khởi đầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh mới và chỉ trong thời gian không lâu. Bởi vì bản thân doanh nghiệp sau khi CPH mà hoạt động có hiệu qủa, nâng cao năng lực cạnh tranh chắc chắn sẽ không phải dựa vào sự ưu đãi của Nhà nước.
5. Một số kiến nghị khác
5.1. Mở rộng việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài
Có thể nói việc bán cổ phần cho người nước ngoài đặt ra trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn đẩy mạnh CPH) là hết sức cần thiết. Thực tế cho thấy những doanh nghiệp có bán cổ phần cho người nước ngoài tiến trình CPH sẽ dễn ra nhanh hơn. Bởi vì trước đây chúng ta chỉ CPH những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ với những nhà đầu tư trong nước cũng có thể mua được cổ phần nhưng với thời gian lâu, hiện nay chúng ta không hạn chế quy mô doanh nghiệp CPH, với những doanh nghiệp có quy mô lớn các nhà đầu tư trong nước không có đủ khả năng và cũng không chắc chắn mua hết cổ phần của công ty. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, nước ta là một thành viên của ASEAN nếu chúng ta mở rộng đầu tư cho người nước ngoài thì đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nước ta. Đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may sẽ tạo được một thế đứng vững chắc trên thị trường nội địa, từ đó tăng uy tín chất lượng chiếm lĩnh thị trường quốc tế.
Tuy nhiên trong quyết định 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 về quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cho thấy: Nhà nước vẫn khống chế mức cổ phần (không vượt quá 30%) cho các nhà đầu tư nước ngoài khi mua cổ phần của các DNNN. Đứng trước tình hình như hiện nay Nhà nước tốt nhất là không nên khống chế tỷ lệ cổ phần cũng như ngành nghề kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần của các DNNN, miễn là đủ số lượng cổ đông theo như pháp luật quy định.
5.2. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán
Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động của các công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho các công ty và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện cho ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. Do đó để đẩy nhanh hơn nữa tiến trình CPH các DNNN, Nhà nước cần phải gấp rút tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán và các cơ sở giao dịch chứng khoán hoạt động tốt, tích cực chuẩn bị một số điều kiện như: Xây dựng bộ luật về thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán có tổ chức phải có luật để tác động, điều chỉnh và quản lý. Trong điều kiện nước ta hiện nay cần ban hành một nghị định của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Từ nghị định này cần ban hành các quy chế cần thiết như quy chế về phát hành và mua chứng khoán, quy chế về tổ chức hoạt động của sở giao dịch chứng khoán,... Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập và có những văn bản luật quy định vai trò, chức năng quyền hạn và trách nhiệm hoạt động của tổ chức này. Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các công ty bảo hiểm như là một tổ chức quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán.
Ngoài ra Nhà nước cần tiến hành hạ lãi suất tiền gửi ngân hàng để người gửi có cơ hội đầu tư vào việc mua cổ phiếu của công ty cổ phần, thiết lập các công ty tư vấn cho các doanh nghiệp sau khi CPH. Các công ty tư vấn này trực thuộc ban đổi mới quản lý doanh nghiệp, có thể tư vấn miễn phí hoặc thu một mức phí ưu đãi, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ cho quá trình CPH.
Kết luận
Trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta và đặc biệt là thực trạng phát triển của DNNN hiện nay, vấn đề vốn và chủ sở hữu doanh nghiệp là vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xác lập và đan xen quyền sở hữu của Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức; các cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện dân chủ hoá và xã hội hoá trong hoạt động kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đây là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới mà việc thực hiện nó đã tạo nên khởi sắc cho đất nước ta trong thời gian qua. Cổ phần hoá sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển của trị trường vốn, nhất là thị trường chứng khoán và sẽ là một khâu then chốt, mũi nhọn của công cuộc đổi mới trong những năm tới.
Tuy nhiên song song với những thành tựu đạt được việc CPH các DNNN còn nảy sinh nhiều vướng mắc không tránh khỏi trong quá trình thực hiện. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của CPH là phải tìm ra được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong quá trình CPH để từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế thích hợp với đất nước. Cùng với mục đích đó đề tài này thực hiện một số nội dung cơ bản đó là:
+ Nêu khái quát về CPH DNNN, sự cần thiết của CPH.
+ Đưa ra thực trạng của quá trình CPH các DNNN tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam.
+ Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung cũng như đối với các DNNN thuộc Tổng công ty Dệt May Việt Nam.
Do phạm vi nghiên cứu đề tài rộng, trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn nên bài viết còn nhiều khuyết điểm, em rất mong thầy cô thông cảm và dóng góp ý kiến cho bài viết.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
T-S Nguyễn Ngọc Huyền. Đồng thời xin cảm ơn các cô, các chú trong Ban Kế hoạch - Thị trường Tổng công ty Dệt May Việt Nam trong việc cung cấp tài liệu và những kinh nghiệm thực tế giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Hà Nội tháng 5 năm 2001
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Tiến Đức
Tài liệu tham khảo
Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần – PTS Đoàn Văn Hạnh – Nhà xuất bản thống kê 1999.
Cổ phần hoá DNNN- Cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn – PTS Nguyễn Ngọc Quang.
Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam – PGS PTS Hoàng Công Thi- PTS Phùng Thị Đoan – Viện khoa học tài chính 1992.
Hỏi đáp về CPH DNNN ở Việt Nam- Nhà xuất bản Thống kê 1993.
Tìm hiểu công ty cổ phần và cổ phần hoá một số DNNN – các tác giả Nhà xuất bản Thống kê.
Cổ phần hoá DNNN- Hệ thống văn bản pháp quy- Nhà xuất bản Thống kê 1998.
Luật Doanh nghiệp
Nghị định 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Thông tư 104 của Bộ tài chính ra ngày 18/7/1998 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Tạp chí TCDN
Tạp chí ngân hàng
Tạp chí Tài chính
Tạp chí Dệt may
Báo Công nghiệp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24923.doc