Một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng thêm thu nhập tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng

Lời mở đầu Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế hành chính tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển của đất nước. Kỷ nguyên đổi mới kinh tế mở ra, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Với sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về chất, càng làm cho nền kinh tế phát triển sôi động. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là động lực thúc đẩy các doan

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng thêm thu nhập tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp muốn tồn tại và vươn lên thì không có gì khác là phải luôn tự đổi mới. ở nước ta việc chuyển đổi hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp theo NQ53/HĐBT cùng với hai pháp lệnh Ngân hàng và Luật Ngân hàng đã tạo ra bước ngoặt lớn trong hoạt động Ngân hàng. Hàng loạt NHTM,Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân với trình độ kỹ thuật tiên tiến cùng bước vào thị trường kinh doanh tiền tệ làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta ngày càn trở lên sôi động. Trong cạnh tranh không có nhà kinh doanh nào, nhất là trong lĩnh vực Ngân hàng, giành được chiến thắng mà không đáp ứng hoặc chỉ đáp ứng một cách thụ động nhu cầu của thị trường. Chính vì vậy, hiện nay các Ngân hàng phát triển trên thế giới đều đã và đang tiến hành mở rộng hoạt động kinh doanh, xây dựng mô hình Ngân hàng với sự đa dạng các dịch vụ Ngân hàng thay thế mô hình cổ truyền chỉ với hai nghiệp vụ chủ yếu đi vay và cho vay. Để hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế tài chính thế giới, tránh bị đào thải và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh thì phải hiện đại hoá Ngân hàng xây dựng mô hình hoạt động Ngân hàng theo hướng đa năng. Mà đặc diểm nổi bật của các Ngân hàng hiện đại _đa năng là dịch vụ chiếm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Có thể nói nó là tiêu chí đánh giá sự phát triển của một Ngân hàng hiện đại. Qua quá trình nguyên cứu thực tế tại NHCT_HBT cũng như hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua em nhận thấy rằng đây là vấn đề sống còn quyết định uy tín của Ngân hàng và là cơ sở thắt chặt mối quan hệ khách hàng, quyết định khả năng sinh lời của Ngân hàng. Được sợ ủng hộ và giúp đỡ của ban lãnh đạo, tập thể cán bộ nhân viên NHCT_HBT cùng với sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo em xin đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề nêu trên và trình bầy một số ý kiến trong việc thực hiện vấn đề đó tại NHCT_HBT trong đề tài luận văn : “Một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng thêm thu nhập tạI NHCT_HBT” Kết cấu luận văn gồm 3 chương sau : @ CHƯƠNG I: NHTM trong nền kinh tế và xu hướng phát triển các hoạt động cung cấp dịch vụ của các NHTM Việt Nam. @ CHƯƠNG II: Tình hình hoạt động cung cấp dịch vụ và kết quả kinh doanh tại NHCT_HBT. @ CHƯƠNG III:Một số giải pháp phát triển hoạt động cung cầp dịch vụ nhằm tăng thu nhập tại NHCT_HBT. Chương I : Ngân hàng thương mạI trong nền kinh tế và xu hướng phát triển các hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng thương mạI việt nam I. ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mạI 1.Sơ lược về sự ra đời phát triển của Ngân hàng N gân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Tiền thân cuả ngân hàng là nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với các quan hệ thương mại. Khi xã hội phát triển cùng với sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng các quốc gia với các loại tiền khác nhau đã gây khó khăn trở ngại cho việc thanh toán, mua bán, chuyển đổi và bảo quản tiền tệ. Vì thế đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ. Nghiệp vụ đầu tiên của các tổ chức này là thực hiện việc đổi tiền đúc, kinh doanh chế tác vàng bạc. Sự phát triển của lưu thông hàng hoá cùng với nghiệp vụ đổi tiền đã kéo theo các nghiệp vụ khác.Trước hết là nhận tiền gửi, bảo quản vàng bạc rồi tiến tới phát hành những chứng phiếu làm phương tiện thanh toán thay cho tiền vàng. Đặc biệt sự ra đời loại tín phiếu chứng nhận về tiền gửi và được dùng trong thanh toán chi trả gần giống như giấy bạc ngân hàng hiện nay. Các tổ chức kinh doanh tiền tệ đã phát triển thực hiện nhiều nghiệp vụ mới và dần dần được coi như những Ngân hàng đầu tiên trên thế giới. Các Ngân hàng mới này hoạt động độc lập và không ràng buộc lẫn nhau. Sang thế kỷ XVIII lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển.Việc các Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc Ngân hàng làm cho trong lưu thông có nhiều loại giấy bạc Ngân hàng khác nhau gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống Ngân hàng, thông qua sự can thiệp của Nhà nước bằng cách giành quyền phát hành tiền cho vài Ngân hàng lớn có uy tín gọi là Ngân hàng phát hành. Nhưng vẫn còn tình trạng một quốc gia cùng một lúc lưu thông vài loại tiền. Cuối cùng chỉ còn một Ngân hàng duy nhất được phép phát hành tiền trở thành Ngân hàng Nhà nước hay còn gọi là Ngân hàng Trung ương. Còn lại các Ngân hàng khác không được phép phát hành tiền trở thành Ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ và làm trung gian thanh toán, tín dụng giữa các chủ thể trong nền kinh tế. 2. Ngân hàng thương mại, chức năng và vai trò của nó trong nền kinh tế. 2.1 : Định nghĩa Ngân hàng Thương mại : Đ ể đưa ra một định nghĩa về Ngân hàng Thương mại người ta thường dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Luật Ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa Ngân hàng thương mại căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động là “được coi là Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu tín dụng hay dịch vụ tài chính “ Luật Ngân hàng ấn Độ 1950 bổ xung 1959 định nghĩa: ”Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ đầu tư “ Còn luật Ngân hàng Đan Mạch thì căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động năm 1930 đã định nghĩa :”những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm.v.v..” ở Việt Nam điều 20 Luật các Tổ chức Tín dụng có hiệu lực thi hành ngày 01/10/2000 quy định “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Mặc dù có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách thể hiện nhưng khi phân tích và khai thác nội dung ta dễ dàng nhận thấy các Ngân hàng thương mại đều có chung tính chất đó là nhận tiền gửi ký thác (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn ) để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng Trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Ngân hàng thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng trong thể chế tài chính của mỗi quốc gia. 2.2: Chức năng và vai trò của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. *Chức năng là trung gian tín dụng X uất phát từ điểm tuần hoàn của vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện tượng cùng một lúc có những doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Ngược lại có những doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và các chủ thể khác lại có nhu cầu về vốn để bổ xung vào sản xuất kinh doanh. Mâu thuẫn này cần được giải quyết để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế và được thoả mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể gặp nhiều hạn chế vì các chủ thể khó biết được nhu cầu và khả năng về vốn của nhau. Hơn nữa giữa họ khó có đủ sự tin tưởng để thực hiện quan hệ chuyển nhượng vốn cho nhau. Để khắc phục hạn chế này Ngân hàng thương mại đứng ra làm “ chiếc cầu nối “ giữa người có vốn và người cần vốn Cá nhân Doanh nghiệp Các tổ chức kinh tế Ngân Hàng Thương Mại Cá nhân doanh nghiệp Các tổ chức kinh tế (người thừa vốn) (người thiếu vốn) 1. Gửi tiền, uỷ thácđầu tư 3. Cho vay, đầu tư 2.Chứng chỉ tiền gửi 4. Trái phiếu, cổ phiếu Ngân hàng thương mại huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội.Những chứng chỉ tiền gửi do Ngân hàng phát hành hấp dẫn người đầu tư hơn nhiều so với các cổ phiếu, trái phiếu của các công ty (nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển như ở Việt Nam). Bởi vì nó ít chịu rủi ro giá cả, tính thanh khoản cao, lại không phải mất chi phí giám sát hoạt động của các công ty. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được các Ngân hàng sử dụng để cho vay hoặc đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ phiếu trái phiếu do các công ty phát hành từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế. Như vậy Ngân hàng là môi giới trung gian giữa người đi vay và người cho vay mà thực chất Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh bằng việc đi vay để cho vay. Ngân hàng thực hiện được chức năng này vì Ngân hàng là một cơ quan chuyên trách, chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Đó là nơi khách hàng có thể tin tưởng trong việc gửi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn Ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tiền tệ cả về khối lượng vốn và thời hạn. Với chức năng này Ngân hàng Thương mại tạo lợi ích cho các bên trong quan hệ là người gửi tiền, người đi vay, Ngân hàng và đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế Đây là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng đồng thời nó tạo tiền đề cho các chức năng khác của Ngân hàng. *Chức năng trung gian thanh toán T rên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay nhập vào tài khoản tiền gửi đó tiền thu bán hàng và các khoản thu khác. ở đây Ngân hàng đóng vai trò là "người thủ quỹ" cho khách hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì việc thanh toán qua ngân hàng ngày càng mở rộng. Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi ngân hàng mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu chi theo lệnh của chủ tài khoản. Đó chính là cơ sở cho khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán. Hơn nữa hàng ngày nền kinh tế xuất hiện hàng loạt các quan hệ giao dịch với khối lượng các khoản thanh toán lớn. Nếu việc thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt trực tiếp sẽ dẫn đến các khoản chi phí như in ấn vận chuyển bảo quản tiền mặt tăng lên. Đặc biệt khách hàng giao dịch ở cách xa nhau có khi gặp rủi ro mất tiền trong quá trình thực hiện thanh toán….Điều đó đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua Ngân hàng. Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng này có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Nó cung cấp cho khách hàng nhiều công cụ thanh toán như : uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc, thẻ thanh toán.v.v. giúp cho các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền hoặc mang theo tiền trong giao dịch thanh toán. Từ đó giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn tiết kiệm chi phí in ấn vận chuyển bảo quản tiền mặt Với bản thân Ngân hàng chức năng này góp phần tăng lợi nhuận thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Ngoài ra còn làm tăng nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Nhìn vào hệ thống thanh toán của Ngân hàng thương mại người ta có thể đánh giá ngay được hoạt động của ngân hàng đó có hiệu quả không. Nó còn là cơ sở thực hiện chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại. * Chức năng tạo tiền K hi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng hình thành nên ngân hàng phát hành và Ngân hàng thương mại thì các ngân hàng thương mại không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán Ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thực hiện trên tài khoản thanh toán của khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân hàng thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền gửi ban đầu. Khả năng mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này chịu tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán. Gỉa sử trong điều kiện không có khoản thanh toán nào bằng tiền mặt, không có khách hàng nào rút tiền hoặc vay bằng tiền mặt, và tất cả các ngân hàng đều cho vay bằng chuyển khoản hết quỹ cho vay của ngân hàng thì hệ số mở rộng tiền gửi được tính theo công thức: 1 H = (H:hệ số mở rộng tiền gửi) Tỷlệ dự trữ bắt buộc Khi dự trữ bắt buộc là 10% thì hệ số mở rộng tiền gửi là 10. Nghĩa là hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần tiền gửi ban đầu Trong thực tế thì không xảy ra trường hợp trên mà khả năng tạo tiền của ngân hàng luôn bị giới hạn bởi dự trữ dư thừa,và tỉ lệ rút tiền mặt của công chúng.Nghĩa là nếu một khách hàng nào đó rút tiền mặt hay vay tiền mặt để thanh toán thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt hoặc nếu khách hàng rút hay vay một phần bằng tiền mặt để thanh toán hoặc ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay thì khả năng mở rộng tiền gửi cũng giảm đi. Vậy hệ số mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại trong thực tế được tính theo công thức : 1 H = Tỷ lệ dự trữ Tỷ lệ rút tiền mặt Tỷ lệ dự bắt buộc + so với tiền gửi thanh toán + trữ dư thừa Như vậy khả năng mở rộng tiền gửi của các Ngân hàng thương mại phải được thực hiện trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó đòi hỏi ngân hàng ngày càng hiện đại hoá hệ thống thanh toán để tạo thành thói quen thanh toán qua ngân hàng. Đồng thời tận dụng quỹ cho vay để giảm đến mức thấp nhất các khoản dự trữ dư thừa. Mặt khác khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại có thể mang rủi ro đến cho ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút vốn ồ ạt mà ngân hàng lại thiếu phương tiện thanh toán tiền mặt. Để giảm rủi ro ngân hàng thương mại phải gửi tiền vào tài khoản của mình mở tại Ngân hàng Trung ương và tham gia thanh toán ra ngoài hệ thống của mình. Chức năng tạo tiền có ý nghĩa kinh tế to lớn. Thông qua hoạt động này làm cho nguồn vốn Ngân hàng Thương mại tăng lên tạo điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng cùng với các chức năng của nó thể hiện sự phát triển về mặt tài chính nói riêng và sự phát triển nền kinh tế nói chung của mỗi quốc gia. Qua các chức năng vị trí vai trò của ngân hàngthương mại được thể hiện: Thứ nhất Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế : Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân doanh nghiệp và nhà nuớc trong nền kinh tế. Muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Mà tăng thu nhập quốc dân tức là mở rộng qui mô cả chiều sâu lẫn chiều rộng của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Để đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn và ngược lại khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra nhiều vốn. Và Ngân hàng thương mại qua nghiệp vụ huy động vốn và cho vay sẽ là chủ đề chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh Ta thử hình dung trong một thế giới giản đơn không tồn tại ngân hàng thì các khoản tiết kiệm của dân chúng chỉ có thể sử dụng hoặc dưới dạng tiền mặt hoặc dưới dạng đầu tư chứng khoán vào các công ty. Nhưng quy mô luồng vốn vào các công ty nhìn chung là thấp do người thừa vốn phải mất chi phí rất lớn để có thể giám sát hoạt động của các công ty hay chi phí chuyển nhượng chứng khoán công ty và rủi ro biến động giá cả chứng khoán trên thị trường cao". Đó là nguyên nhân khiến dân chúng giảm động lực tiết kiệm tăng tiêu dùng hoặc tiết kiệm dưới dạng tiền mặt hoặc vật chất. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và đưọc coi là bộ xương sống của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng sẽ cung cấp kênh dẫn vốn từ người có nhu cầu đầu tư đến các công ty bằng cách Ngân hàng thương mại đứng ra huy động vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức cá nhân, các thành phần kinh tế. Vốn huy động được trong xã hội qua nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ hai Ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường Trong cơ chế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, sản xuất dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện. Hoạt động của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo quy luật chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh.Để đáp ứng được yêu cầu đó thì doanh nghiệp không những nâng cao chất lượng lao động, củng cố hoàn thiện cơ chế quản lý mà còn mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến máy móc công trình, áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Những đòi hỏi đó cần phải có một lựơng vốn đầu tư lớn nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp tìm đến Ngân hàng để xin vay vốn. Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng là “chiếc cầu nối" giữa doanh nghiệp và thị trường. Vốn của Ngân hàng gián tiếp giúp doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu thị trường từ đó tạo chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp thông qua việc thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế đã thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đồng thời Ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp, tạo sự ổn định cho nền kinh tế. Thứ ba Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước đIều tiết vĩ mô nền kinh tế Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường Ngân hàng thương mại hoạt động một cách có hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Và Ngân hàng thương mại như một kênh quan trọng để Ngân hàng trung ương có thể cung ứng tiền vào lưu thông hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu thông nhằm đảm bảo cân đối cung cầu về tiền tệ, thực hiện chính sách giá cả... Cụ thể bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Hay thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn trên thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế theo phương châm “Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường” Thứ tư Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Nền kinh tế càng phát triển thì các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ càng được mở rộng, nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới càng trở nên cần thiết và cấp bách.Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự triển kinh tế thế giới. Vì vậy nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự hoà nhập này. Cùng với các nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển. Từ đó Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính quốc gia phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế 3.Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương maị Q úa trình hoạt dộng của Ngân hàng dựa trên nguyên tắc “đi vayđể cho vay” tức là tự cân đối vốn và nguồn vốn có vậy mới bảo đảm phục vụ tốt cho công tác huy động vốn, sử dụng vốn cũng như các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Để khái quát toàn bộ hoạt động của Ngân hàng thương mại, ta đi vào tìm hiểu các nghiệp kinh doanh chủ yếu sau 3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ : N ghiệp vụ tài sản nợ là nghiệp vụ hình thành nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Các hoạt động của Ngân hàng dựa trên cơ sở nguồn vốn huy động được. Đây là nghiệp vụ quan trọng quyết định đến các nghiệp vụ còn lại của Ngân hàng thương mại. Về cơ bản nghiệp vụ này bao gồm : *Vốn tự có và coi như tự có Vốn tự có của Ngân hàng bao gồm vốn pháp định - vốn điều lệ, quỹ dự trữ của ngân hàng thuộc sở hữu riêng có của ngân hàng. Vốn pháp định của Ngân hàng thương mại là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập Ngân hàng do pháp lệnh Nhà nước quy định hình thành tuỳ theo tính chất sở hữu của các Ngân hàng thương mại. Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ của mỗi ngân hàng. Vốn điều lệ thường lớn hơn vốn pháp định. Quỹ dự trữ của Ngân hàng bao gồm quỹ dự trữ để bổ xung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc hình thành các quỹ này làm tăng vốn tự có của Ngân hàng đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Vốn tự có của Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng mang tính chất ổn định và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nó không phải là vốn dùng trực tiếp vào kinh doanh nhưng lại có vai trò quan trọng trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Vốn tự có của Ngân hàng không những là căn cứ pháp lý để thành lập Ngân hàng mà còn là cơ sở để xác định quy mô hoạt động của Ngân hàng khẳng định thế mạnh cũng như khả năng thanh toán của Ngân hàng thương mại đối với khách hàng. Vốn coi như tự có của Ngân hàng : Lợi nhuận chưa chia hoặc các quỹ chưa sử dụng như quỹ phát triển nghiệp vụ Ngân hàng, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khen thưởng phúc lợi. * Nghiệp vụ huy dộng vốn Đây là nghiệp vụ tạo nguồn vốn chính của Ngân hàng. Vốn được huy động từ nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Nguồn vốn này chủ yếu đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng. Vấn đề đặt ra các Ngân hàng thương mại làm sao tăng tỷ trọng nguồn vốn này càng cao càng tốt. Mặc dù Ngân hàng phải trả lãi cho các loại tiền gửi huy động nhưng việc thu hút vốn nhanh và biết sử dụng vốn có hiệu quả sẽ mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng. Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới dạng : Tiền gửi thanh toán : Đây là các khoản tiền mà khách hàng gửi vào Ngân hàng với mục đích thông qua Ngân hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán. Mục đích chủ yếu là tính thanh khoản chứ không phải mục đích hưởng lãi nên số dư trên tài khoản này thường xuyên biến dộng, họ có thể rút vốn bất kỳ lúc nào. Mặc dù Ngân hàng chỉ phải trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này nhưng Ngân hàng phải xây dựng quỹ đảm bảo khả năng thanh toán. Điều đó làm cho Ngân hàng có một khoản tiền không có khả năng sinh lời và việc kế hoạch nguồn vốn này tương đối khó và phức tạp. Tiền gửi tiết kiệm : Đây là nguồn tiền gửi mà khách hàng gửi vào Ngân hàng với mục đích chính là hưởng lãi. Thời hạn gửi tiền của hình thức này được Ngân hàng quy định cụ thể tương ứng với mức lãi suất, khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn chỉ được hưởng lãi suất thấp hoặc không được hưởng laĩ suất. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Nhưng tiền gửi tiết kiệm tạo cho Ngân hàng nguồn vốn tương đối ổn định.Cho nên các Ngân hàng thương mại có thể chủ động tạo kế hoạch sử dụng vốn cho vay hợp lý. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá : Khi thiếu vốn ngoài hình thức huy động tiền gửi Ngân hàng có thể huy động vốn bằng hình thức khác như phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu...,các loại giấy tờ có giá này phát hành theo từng đợt và có quy định rõ thời hạn, lãi suất và cách trả lãi. Lãi suất trả cho hình thức này cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm và thời hạn tương đối dài. Khoản vốn này Ngân hàng dùng đầu tư vào các dự án hay cho vay trung dài hạn. Với nghiệp vụ này giúp Ngân hàng thương mại tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình *Vốn đi vay Với nghiệp vụ này Ngân hàng tiến hành tạo vốn cho mình bằng cách đi vay các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên hàng. Hoặc vay Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu, vay nước ngoài và các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế. Nguồn vốn này phải chịu lãi suất cao hơn nhiều lãi suất nguồn vốn huy động nên các Ngân hàng rất hạn chế đi vay. Sử dụng nghiệp vụ này chỉ khi thật cần thiết khi họ không tự cân đối vốn tại chỗ. N 3.2 Nghiệp vụ tài sản có : ghiệp vụ tài sản có là nghiệp vụ sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại trên cơ sở nguồn vốn huy động. Nhằm mục đích đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận từ các nghiệp vụ : *Nghiệp vụ ngân quỹ : T rong nền kinh tế luôn diễn ra thường xuyên các giao dịch thanh toán nên khách hàng sẽ có nhu cầu gửi tiền hoặc rút tiền bất cứ lúc nào. Do vậy trong việc sử dụng vốn Ngân hàng luôn phải có vốn để đáp ứng đầy đủ mọi mọi yêu cầu rút tiền đồng thời có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng.Với mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và chi trả thường xuyên cho khách hàng Ngân hàng trung ương yêu cầu các Ngân hàng thương mại thường xuyên duy trì một phần tài sản của họ dưới hình thức dự trữ. Khoản mục dự trữ của Ngân hàng thương mại bao gồm : Tiền gửi dự trữ bắt buộc của Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng trung ương :khối lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc được xác định theo tỉ lệ đự trữ bắt buộc là tỉ lệ phần trăm (%) của số tiền gửi mà Ngân hàng thương mại huy động được. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng trung ương quy định dựa trên cơ sở mục tiêu yêu cầu của chính sách tiền tệ. Ngoài ra khoản mục dự trữ còn bao gồm tiền mặt tại quỹ của Ngân hàng thương mại, tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng khác, các giấy tờ có giá và các tài sản có khác. Nghiệp vụ về ngân quỹ tuy không mang lại một khoản thu nhập nào cho Ngân hàng thương mại, nhưng nó vô cùng cần thiết vì nó đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả nhanh và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, nó tạo uy tín cho Ngân hàng và là cơ sở thực hiện các chức năng của Ngân hàng. *Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương mại Đ ây là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu mang lại thu nhập chính cho Ngân hàng. Nó thường chiếm tỷ trọng lớn khoảng trên 70% tổng thu nhập của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại thường cấp tín dụng dưới hình thức chủ yếu sau: cho vay chiết khấu, cho vay ứng trước, cho vay thấu chi trên tài khoản vãng lai, tín dụng ngân quỹ, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng chữ kí, tín dụng tiêu dùng.v.v..Thông qua đó Ngân hàng tiến hành cho vay đối với các đơn vị tổ chức kinh tế, tư nhân có nhu cầu vay vốn. Tuỳ theo yêu cầu và mục đích sử dụng vốn của các đơn vị vay mà Ngân hàng quy định thời hạn cho vay ngắn hạn hay dài hạn. Hiện nay nguồn vốn huy động được của các Ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn nên loại hình cho vay chủ yếu là ngắn hạn.Cho vay ngắn hạn có tính ổn định, mức độ an toàn cao hơn so với cho vay dài hạn. Việc phân chia vốn vào từng loại hình cho vay rất quan trọng, nó quyết định mức độ an toàn và thu nhập của mỗi Ngân hàng Qua nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng không những thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động mà Ngân hàng còn cung cấp vốn cho nền kinh tế giúp người có tiền tìm được cơ hội đầu tư để thu lợi tức, người cần vốn có vốn để sản xuất kinh doanh. Trong các nghiệp vụ tài sản có thì nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yêú của Ngân hàng. Nhưng cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất của Ngân hàng. Cho nên các Ngân hàng thương mại phải có biện pháp giảm thiểu rủi ro khi thực hiện nghiệp vụ này. *Nghiệp vụ đầu tư kinh doanh khác: V ới mục đích đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, ngoài nghiệp vụ tín dụng thì các Ngân hàng thương mại còn thực hiện các nghiệp vụ khác như đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu để thu lợi hay liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế khác. Với nghiệp vụ này giúp Ngân hàng tăng thêm thu nhập, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngành tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, góp phần bảo toàn ngân quỹ và phân tán rủi ro. 3.3 Nghiệp vụ trung gian thanh toán và các dịch vụ trong Ngân hàng B ên cạnh các hoạt động tín dụng, đầu tư nói trên Ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng để hưởng hoa hồng, lệ phí nhằm tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng. Đối với các Ngân hàng thương mại hiện đại thì nghiệp vụ trung gian thanh toán và các dịch vụ Ngân hàng ngày càng chiếm vị trí quan trọng và đem lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng. Hơn nữa khi thực hiện tốt các nghiệp vụ thanh toán và các dịch vụ Ngân hàng cũng là một trong những công cụ để cạnh tranh giảm thiểu rủi ro, tạo vị thế cho Ngân hàng trên thị trường.Các dịch vụ ngân hàng thường là : *Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt khách hàng là một trong những chức năng quan trọng của Ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển của cácnghiệp vụ khác của Ngân hàng thương mại luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ thanh toán để thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng phát triển không chỉ trong các khách hàng vốn có xưa nay của Ngân hàng thương mại là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội mà còn cả khách hàng cá nhân _ một thị trường tiềm năng rộng lớn của Ngân hàng. Sự quan tâm này được thể hiện rõ nhất là việc Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành chỉ thị số 01/CT _NH20 ngày 03/01/1998 về việc mở rộng dịch vụ thanh toán của Ngân hàng trong khu vực dân cư. ở đây em không đi sâu vào phân tích nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt mà em chỉ phân tích khía cạnh mở rộng dịch vụ Ngân hàng trong khu vực dân cư nhằm cải thiện tình hình thanh toán trong dân cư tạo lập thói quen sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền măt. Từng bước đổi mới tập quán sùng bái tiền mặt, thực hiện thanh toá._.n qua Ngân hàng. Thông qua việc mở tài khoản cá nhân Ngân hàng sẽ cung cấp nhiều công cụ thanh toán chuyển khoản và các dịch vụ Ngân hàng liên quan, từ đó tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng. Làm tốt việc mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư không những thu hút được một lượng tiền nhàn rỗi rất lớn trong dân cư, thúc đ ẩy quá trình thanh toán qua Ngân hàng mà còn mang lại nguồn lợi cho Ngân hàng từ các dịch vụ đó *Dịch vụ chuyển tiền cá nhân Việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào công tác kế toán, thanh toán của ngân hàng là một thành công lớn nhất của ngành. Nó giúp cho ngành Ngân hàng ngày một thực hiện tốt hơn công tác thanh toán trong đó có chuyển tiền qua hệ thống Ngân hàng bằng cách thanh toán liên hàng điện tử hoặc thanh toán bù trừ với các Ngân hàng thành viên giúp Ngân hàng có thể cạnh tranh với việc chuyển tiền qua bưu điện đặc biệt là chuyển tiền cá nhân. ở đây Ngân hàng đứng ra làm trung gian chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng đến một điạ chỉ nhất định. Ngoài chuyển tiền mặt Ngân hàng còn thực hiện chuyển tiền qua tài khoản. Chuyển tiền qua hệ thống Ngân hàng có thể nói có ưu điểm hơn hẳn so với chuyển tiền qua bưu điện cả về mặt kinh tế thời gian thực hiện và mức độ an toàn cho khách hàng. Như vậy phát triển nghiệp vụ này là một lợi thế của ngân hàng góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng thương mại *Dịch vụ thu hộ, chi hộ Do việc quản lý số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng nên các Ngân hàng thương mại có điều kiện làm trung gian thanh toán giữa các khách hàng với nhau. Khi nhận được lệnh của khách hàng nhờ thu hộ hoặc chi hộ Ngân hàng chỉ cần thực hiện ghi nợ đối với tài khoản tiền gửi của người này dồng thời ghi có tài khoản của khách hàng kia. Thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng được hưởng phí thanh toán hộ. *Dịch vụ uỷ thác Việc sở hữu dẫn đến nhu cầu về các dịch vụ quản lý tài sản và việc quản lý tài sản cho người khác được thực hiện dưới mọi hình thức với cách bố trí khác nhau là công việc của phòng uỷ thác trong từng Ngân hàng. Các nước phát triển dịch vụ uỷ thác ra đời rất sớm và ngày càng mở rộng với chức năng chủ yếu quản lý tài sản theo chúc thư, điều hành các uỷ thác cá nhân, giám hộ và bảo quản tài sản. Thường Ngân hàng thực hiện chức năng của người thụ thác. Dịch vụ này đem lại cho Ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể nhưng rất khó thực hiện vì các dịch vụ uỷ thác có tính riêng tư rất cao. Trách nhiệm không những bảo toàn tài sản, vốn uỷ thác mà còn phải điều hành tài sản, vốn đó sinh lời. Nhưng ngoài thu nhập dịch vụ này còn mang lại một số lợi thế cho Ngân hàng như Ngân hàng không phải bỏ vốn mà vẫn thực hiện kiểm soát ở những mức khác nhau hoạt động của khách hàng. Thông qua hợp đồng uỷ thác Ngân hàng sẽ tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng từ đó tăng uy tín của Ngân hàng. * Dịch vụ chi trả kiều hối : Thực chất đây cũng là hình thức chuyển tiền cá nhân nhưng mang tính quốc tế. Do người Việt nam sinh sống và làm việc ở nước người gửi về cho thân nhân ở Việt Nam. Ngân hàng với vai trò trung gian nhận tiền và chi trả theo yêu cầu của khách hàng và hưởng lệ phí. * Dịch vụ mua bán ngoại tệ: Sự phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại tất yếu đòi hỏi một công cụ đặc biệt mà nhờ nó các chủ thể hoạt động trên thị trường quốc tế có thể duy trì được sự phối hợp chặt chẽ về tài chính. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ ra đời đáp ứng nhu cầu đó của khách hàng và là mảng nghiệp vụ rất lớn và nó mang lại nguồn lợi quan trọng cho Ngân hàng. ở bài viết này em không đi sâu vào phân tích các kỹ năng kinh doanh ngoại tệ mà em chỉ nghiên cứu về dịch vụ mua bán ngoại tệ trong Ngân hàng. * Dịch vụ chiết khấu: Là việc các tổ chức tín dụng thực hiện mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Khi thực hiện dịch vụ này Ngân hàng được hưởng hoa hồng % trên giá trị hiện tại của thương phiếu. Ngoài ra còn rất nhiều các dịch vụ khác như dịch vụ bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két sắt, dịch vụ tư vấn tài chính,dịch vụ kiểm đếm tiền, dịch vụ thu đổi ngân phiếu.v.v. mang lại nguồn lợi lớn cho Ngân hàng Các nhà quản lý Ngân hàng thương mại ở nhiều nước đánh giá rất cao tầm quan trọng của các dịch vụ trong Ngân hàng. Vì đây là nghiệp vụ sinh lợi cao mà tốn ít vốn nhất, rủi ro từ các dịch vụ này lại rất thấp. Và họ coi nó là chìa khoá mở ra hướng hoạt động của Ngân hàng theo chiều hướng hiện đại và đa năng. II. Sự cần thiết phát triển các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thương mại T rong cơ chế thị trường và xu thế phát triển của toàn thế giới ngành kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng cũng không ngừng phát triển đổi mới và hoàn thiện để phục tốt nhất cho nền kinh tế. Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học phát triển công nghệ cao. Việc áp dụng khoa học công nghệ tin học vào lĩnh vực ngân hàng đã giúp cho các Ngân hàng thương mại thế giới có những bước tiến vượt bậc. Các nghiệp vụ cổ truyền của ngân hàng là huy động vốn tín dụng tỏ ra kém hiệu quả. Vì vậy để theo kịp hướng đi chung của các Ngân hàng phát triển thì các Ngân hàng thương mại phải mở rộng lĩnh vực kinh doanh xây dựng mô hình một Ngân hàng hiện đại hoạt động theo hướng đa năng. Đặc điểm nổi bật của Ngân hàng hiện đại hoạt động theo hướng đa năng là trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì hoạt động nhận gửi và cho vay không chiếm ưu thế tuyệt đối trong kết cấu của nó, thay vào đó là một danh mục đa dạng các dịch vụ ngân hàng với tỉ trọng rất lớn. Thứ nhất : Ngân hàng hiện đại với hoạt động dịch vụ phát triển sẽ phát huy được thế mạnh riêng có của mình tăng sức cạnh tranh do đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng. Hiện nay do sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ sản xuất hàng hoá phát triển với qui mô rất rộng không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới. Chính điều này làm cho cạnh tranh càng quyết liệt và sâu rộng. Thêm vào đó điều kiện kinh tế càng phát triển đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu tất yếu về một hàng hoá dịch vụ nào đó càng lớn.Đặc biệt là hàng hoá của ngân hàng ngoài tiêu chí hàng đầu là chính xác, an toàn,nhanh chóng phải kể đến yếu tố thuận lợi đa dạng tạo nhiều tiện ích cho khách hàng. Hơn nữa khách hàng luôn có xu hướng muốn duy trì quan hệ lâu dài tin tưởng vào một ngân hàng.Do đó họ muốn chọn ngân hàng nào có khả năng cung cấp tất cả dịch vụ khi họ có nhu cầu. Nếu một khách hàng nào lần đầu đến ngân hàng mà bị từ chối yêu cầu của mình dù dưới bất kì lý do gì rất khó hy vọng họ trở lại lần sau hoặc ít nhất gây cho họ có ấn tượng không tốt về tổng quan toàn bộ ngân hàng. Chính vì thế đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng cùng với sự nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng là con đường hiệu quả nhất để “giành giật “ khách hàng về mình nhằm nâng cao uy tín và tạo cho ngân hàng ưu thế nổi trội để đứng vững trong cạnh tranh. Thứ hai: Với danh mục dịch vụ đa dạng phong phú sẽ giúp cho Ngân hàng phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Rủi ro là những thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát của các đơn vị kinh doanh. Nó là hiện tượng khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực phức tạp như hoạt động Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng đơn năng hoạt động với một hoặc một số nghiệp vụ vốn có chủ yếu dựa trên cơ sở đi vay để phục vụ cho vay thì rủi ro là một vấn đề nghiêm trọng thực sự. Giả sử Ngân hàng chỉ thực nghiệp vụ cho vay mà chủ yếu cho vay vào lĩnh vực công nghiệp. Nếu sản xuất công nghiệp bị đình trệ thì tất nhiên hoạt động Ngân hàng sẽ gặp khó khăn thậm trí đi vào bế tắc. Vì Ngân hàng không thể chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác ngay được ( do vốn Ngân hàng đã tập trung chủ yếu vào phát triển công nghiệp, cán bộ chỉ có chuyên môn ở lĩnh vực này.v.v..). Điều đó sẽ đẩy Ngân hàng vào tình thế bất lợi “tiến thoái lưỡng nan” với kết quả hoạt động kinh doanh tồi tệ nhất thậm chí còn khả năng bị phá sản cao. Ngoài ra để thu hút khách hàng về mình Ngân hàng phải nâng lãi suất tiền gửi giảm lãi suất cho vay dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra rất thấp. ở Việt Nam theo quy định của Ngân hàng nhà nước thì chênh lệch này tối đa là 0.35%.Thêm vào đó trong điều kiện kinh tế hiện nay không phải Ngân hàng huy động vốn lớn cũng cho vay được nhiều, thậm chí bị đọng vốn rất lớn. Hoặc khi cho vayđể đáp ứng yêu cầu tăng trưởng dư nợ lành mạnh Ngân hàng phải bỏ chi phí rất lớn trong việc thẩm định dự án, kiểm tra hồ sơ vay vốn, xác minh tài sản thế chấp".Vậy mà còn chứa đựng rủi ro mất vốn do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích hay kinh doanh kém hiệu quả không có khả năng chi trả ". Những điều đó dẫn đến khoản thu tín dụng của các Ngân hàng thương mại ngày càng giảm. Một khi Ngân hàng không có khoản thu từ lĩnh vực khác sẽ dẫn Ngân hàng đến tình trạng kinh doanh thua lỗ phạm vi hoạt động dần bị thu hẹp. Trong đó khi Ngân hàng hiện đại hoạt động theo hướng đa năng đã tỏ rõ ưu thế của mình trong khắc phục rủi ro qua đa dạng hoá hoạt động kinh doanh. Nếu một lĩnh vực nào đó gặp khó khăn xuất hiện nguy cơ rủi ro thì Ngân hàng vẫn có khả năng phát triển và tìm nguồn thu nhập từ các lĩnh vực khác. Do đó rủi ro mới không gây cản trở trong quá trình phát triển Ngân hàng. Thế mạnh thứ ba là khả năng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Do dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động Ngân hàng nên chất lượng dịch vụ đặc biệt chú trọng. Vì vậy công nghệ Ngân hàng đặc biệt đối với dịch vụ thanh toán “nhanh và chính xác “ phải đặt nên hàng đầu. Trong khi đó nếu chỉ sử dụng con người với các phương tiện thô sơ thì không đạt được yêu cầu. Chính vì vậy trong quá trình phát triển nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ sẽ thúc đẩy công nghệ Ngân hàng phát triển Lợi thế cuối cùng là Ngân hàng hiện đại với uy tín chất lượng dịch vụ cao sẽ thúc đẩy quan hệ tiền gửi, quan hệ tiền vay phát triển tạo điều kiện phát triển các dịch vụ khác thông qua các dịch vụ như uỷ thác, kí thác, tư vấn đầu tư, mua bán hộ chứng khoán. Hệ thống Ngân hàng còn là cầu nối giữa người đầu tư và thị trường chứng khoán. Bởi người đầu tư muốn đầu tư vào chứng khoán thường phải có số tiền tiết kiệm nhất định trên tài khoản của một Ngân hàng thương mại nào đó. Khi họ muốn biến khoản tiết kiệm đó thành chứng khoán họ có thể yêu cầu Ngân hàng mua một loại chứng khoán nào đó. Ngược lại có thể yêu cầu Ngân hàng bán hộ chứng khoán để chuyển ra tiền mặt hay loại chứng khoán khác. Các Ngân hàng thương mại với đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi về phân tích chứng khoán sẽ trở thành người tư vấn cho khách hàng. Ngoài ra khi thị trường chứng khoán được thiết lập và hoạt động thì việc thanh toán, bảo quản và quản lý chứng khoán sẽ là một trong những dịch vụ quan trọng của Ngân hàng thương mại mang món lợi đáng kể cho Ngân hàng và Ngân hàng thương mại sẽ bổ sung thêm vào danh mục hoạt động của mình một lĩnh vực hoạt động hiệu quả mang lại thu nhập không nhỏ cho Ngân hàng. Hoặc với các dịch vụ cho vay mua nhà trả góp, thanh toán lương cho khách sạn, công ty liên doanh giúp Ngân hàng có quan hệ tín dụng được mở rộng. Ngoài ra với các dịch vụ ngoại hối như dịch vụ kinh doanh ngoại tệ,chi trả kiều hối sẽ giúp cho Ngân hàng tạo lập được nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán L/C cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hoạt động dịch vụ Ngân hàng được coi là hoạt động thu lãi của Ngân hàng thương mại vì đây là hoạt động tương đối an toàn, rủi ro thấp vừa không phải bỏ vốn đầu tư lại vừa tận dụng cơ sở vật chất sẵn có để tăng thu nhập. Qua phân tích trên dễ dàng nhận thấy các dịch vụ Ngân hàng chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của một Ngân hàng hiện đại. Điển hình là hệ thống Ngân hàng thương mại của Anh quốc có 40-60% thu nhập từ các hoạt động dịch vụ Ngân hàng với hình thức đa dạng và chất lượng cao. Có thể nói số lượng và chất lượng dịch vụ là tiêu thức đánh giá sự phát triển của một Ngân hàng hiện đại. III. Thực trạng hoạt động kinh doanh và xu hướng phát triển hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thương mại Việt Nam T heo pháp lệnh Ngân hàng Hợp tác xã tín dụng và các công ty tài chính ban hành ngay 24/5/1990 của Hội đồng Nhà nước “ Ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu làm phương tiện thanh toán “ Đây là một khái niệm của một Ngân hàng cổ điển. Theo đó hoạt động Ngân hàng thương mại chỉ bó hẹp trong việc huy động vốn và cho vay vốn. Để có một lượng vốn sử dụng thì các Ngân hàng thương mại phải huy động từ nhiều nguồn trong xã hội và được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Trên cơ sở nguồn vốn huy động trong xã hội cùng với vốn tự có của mình các Ngân hàng thương mại sẽ đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Khi hai quá trình huy động và cho vay vốn được tiến hành một cách bình thường thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại sẽ diễn ra thuận lợi. Nhưng nếu một trong hai quá trình đó bị ách tắc sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong đó việc cho vay luôn kèm theo những rủi ro không dễ dàng khắc phục. Trước đây Ngân hàng chỉ chú trọng phát triển nghiệp vụ cho vay và huy động vốn coi nhẹ các hoạt động dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng đã dẫn đến hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động kém hiệu quả với nhiều tồn đọng trong công tác tín dụng. Nhưng trong những năm gần đây Ngân hàng chủ động tiếp cận với công nghệ mới của một số Ngân hàng hiện đại trong khu vực và trên thế giới đã rút ra những kinh nghiệm vận dụng hoạch định chiến lược chú trọng đến dịch vụ Ngân hàng. Đặc biệt với luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng đã được kì họp thứ 2_Quốc hội khoá X thông qua ngày 01/10/2000 quy định “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi sử dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Trên cơ sở đó đã đưa Ngân hàng thương mại Việt Nam có một bước tiến xa hơn nhấn mạnh vai trò trung gian tài chính của mình bên cạnh các hoạt động truyền thống nhận gửi và cho vay còn có các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng. Với mô hình hoạt động như vậy đã thể hiện xu hướng phát triển của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần hội nhập với xu hướng phát triển của các Ngân hàng hiện đại trên thế giới. Với hệ thống Ngân hàng lớn mạnh từ trung ương đến các tỉnh thành phố trên toàn quốc và các chi nhánh Ngân hàng ở nước ngoài, các công ty tài chính, Ngân hàng thương mại cổ phần rồi các quỹ tín dụng cơ sở. Trong những năm qua đã có những khởi sắc nhất định đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế được nhiều chuyên gia trong và ngoài nước thưà nhận. Hoạt động của các tổ chức tín dụng ổn định và phát triển, huy động vốn và cho vay với nền kinh tế tăng cao.Chỉ riêng năm 2000 tổng nguồn vốn tăng 29% và tổng dư nợ tăng 22% so với năm 1999. Dư nợ tín dụng tăng trưởng theo hướng lành mạnh phù hợp với sự kiểm soát của Ngân hàng. Thanh toán qua Ngân hàng tiếp tục mở rộng, công tác tiền tệ kho quỹ đảm bảo an toàn, ý thức chấp hành các luật tổ chức tín dụng có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng hoạt dộng tín dụng quản lý tài chính được nâng lên. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng bộc lộ nhiều tồn tại. Mặc dù xác định hoạt động và phát triển của Ngân hàng theo hướng đa năng với việc đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh nhưng các Ngân hàng thương mại Việt nam vẫn ít nhiều mang tính chất của một ngân hàng đơn năng. Nếu so sánh hệ thống ngân hàng Việt nam với hệ thống Ngân hàng của các nước trong khu vực cũng cho thấy cùng là hình thức cho vay nhưng hình thức cho vay của các Ngân hàng Việt nam là quá đơn điệu. Đó là một nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Thể hiện qua những năm qua các Ngân hàng thương mại huy động vốn nhiều nhưng cho vay nền kinh tế rất thấp. Không phải khách hàng không có nhu cầu vay vốn mà Ngân hàng không khai thác được thị trường. Vì mỗi khách hàng có nhu cầu vốn khác nhau nên để khai thác được mọi nhu cầu của thị trường thì Ngân hàng cần có các hình thức tín dụng đa dạng và phù hợp. Mặt khác đa dạng hoá là biện pháp quan trọng để phân tán rủi ro. Khi các Ngân hàng thương mại Việt nam không có các hình thức cho vay đa dạng nghĩa là đã tự loại bỏ cơ hội giảm rủi ro của mình. Bên cạnh đó chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang giảm, thể hiện rõ nhất là nợ quá hạn có xu hướng ngày càng gia tăng có thể nói đã lên con số báo động vượt quá khả năng kiểm soát. Chất lượng tín dụng của các khoản cho vay thấp đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị sau đó là các Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Thực tế cho thấy đến 31/8/2000 tổng dư nợ của toàn hệ thống Ngân hàng thương mại lên tới đến khoảng 100 ngàn tỷ đồng trong đó nợ quá hạn chiếm khoảng 10% và tính riêng nợ khó đòi chiếm khoảng 6,8% so với tổng dư nợ. Nếu xét đến từng loại hình cho thấy . Với các Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và dư nợ khó đòi khoảng 10% tổng dư nợ . Các Ngân hàng thương mại quốc doanh mức dư nợ quá hạn khoảng 11% và nợ khó đòi khoảng 8%so với tổng dư nợ . Các Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thì nợ quá hạn chiếm khoảng 5,6%và nợ khó đòi khoảng 0,7% . Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh thì tỷ lệ này thấp hơn.Nợ quá hạn khoảng 2,3%và nợ khó đòi khoảng 1,2% tổng dư nợ. Để cụ thể ta xem xét số liệu sau sẽ rõ tình trạng nợ quá hạn của các loại hình Ngân hàng thương mại Việt Nam Chỉ tiêu NHTM cổ phần đô thị NHTM cổ phần nông thôn NHTM quốc doanh Tổng dư nợ /vốn 72% 37% 11% Tổng dư NQH/ Tổngdư nợ 20% 63% 4,6% Tổng dư NQH/ tổng tài sản có 9,7% 5,6% 6,1% ( Nguồn báo cáo của Ngân hàng Thế giới số 17031_Việt Nam ) Thực tế cho thấy nợ quá hạn trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam là rất lớn con số lên đến gần 100 ngàn tỷ đồng. So với thông lệ quốc tế về nợ quá hạn cho phép thì nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng Việt Nam đã vượt gấp đôi. Qua đó phản ánh rất rõ sự yếu kém trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam. Còn về huy động vốn thì sao.Theo số liệu của các Ngân hàng thương mại thì hoạt động huy động vốn những năm qua đã đạtđược kết quả rất lớn số dư tiền gửi của khách hàng tăng lên thường xuyên và tăng vững chắc. Mặc dù trong những năm qua ngành Ngân hàng đã 4 lần hạ lãi suất tiền gửi. Tại thời điểm cuối năm 1999 tổng số dư tiền gửi của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đạt trên 80 ngàn tỷ tăng so với đầu năm là 15,4 ngàn tỷ (+28,1%) trong khi đó khối Ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm 72% tổng số dư tiền gửi toàn quốc. Và đến cuối năm 2000 tổng số dư các loại tiền gửi các loại của khách hàng toàn quốc vẫn đạt trên 80 tỷ đồng. Như vậy với mục tiêu phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa,ngành Ngân hàng đã xây dựng một chính sách huy động vốn thu hút ngày một tốt hơn tiền gửi của dân chúng vào Ngân hàng. Mặc dù chính sách huy động vốn của ngành Ngân hàng đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thực tế vẫn còn một lượng vốn nhàn rỗi rất lớn trong dân cư chưa được khai thác. Điều đó cho thấy chính sách huy động vốn vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là các hình thức huy động vốn vẫn chưa nhiều, còn đơn điệu chủ yếu là các hình thức nhận gửi truyền thống. Mạng lưới huy động vốn tuy được mở rộng nhưng phong cách phục vụ tác phong giao tiếp của nhân viên Ngân hàng chưa thực sự khẳng định “ khách hàng là thượng đế “. Công nghệ Ngân hàng áp dụng vào lĩnh vực nhận gửi và lĩnh tiền của dân chúng chưa được cải tiến nhiều đa số còn thực hiện bằng các phương tiện thủ công và trực tiếp. Mọi khoản tiền gửi của dân chúng chỉ được hưởng lãi còn các tiện ích khác từ các dịch vụ Ngân hàng hầu như không có. Lĩnh vực thông tin tiếp thị về Ngân hàng còn thấp dân chúng hầu như chưa có sự hiểu biết đầy đủ về hoạt động Ngân hàng Ngoài ra hoạt động Ngân hàng còn hạn chế về thời gian chỉ phục vụ từ 6 -7 giờ trong một ngày vào giờ hành chính.Trong khi đó nhu cầu gửi và rút tiền của công chúng là cả ngày (bất kì lúc nào thậm chí xảy ra phần lớn ngoài giờ làm việc ). Và một điều nữa nhiều khi chính các Ngân hàng cũng không muốn áp dụng nhiều hình thức gọi vốn vì vấn đề chất lượng đầu ra đang gặp nhiều khó khăn. Đó là những điểm hạn chế của chính sách huy động vốn mà các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải tìm biện pháp khắc phục. Qua phân tích ta thấy hiện nay cả hai lĩnh vực cơ bản của Ngân hàng là nhận gửi và cho vay đều gặp nhiều khó khăn. Vậy còn tình hình thực hiện các dịch vụ Ngân hàng thì sao. Trong những năm gần đây theo xu hướng phát triển công nghệ Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng rất cố gắng đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng cùng với việc cố gắng nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng phần lớn nhu cầu của khách hàng với mức phí thấp tạo sự thoải mái, an toàn cho khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động dịch vụ của Ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu kém.Trong kết cấu thu nhập của một Ngân hàng hiện đại trên thế giới dịch vụ chiếm khoảng từ 40-60% tổng thu nhập,khi đó con số này ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn quá thấp nhỏ hơn 10%. Số liệu này đã hiển thị rõ dàng khoảng cách quá lớn giữa Ngân hàng thương mại Việt Nam và các Ngân hàng hiện đại trên thế giới. Lý do chủ yếu của tình trạng này là do các dịch vụ của Ngân hàng thương mại Việt Nam còn hạn hẹp chủ yếu là dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, chuyển tiền. Trong khi đó các dịch vụ kinh điển trên thế giới như chiết khấu thương mại, tư vấn đầu tư, kinh doanh chứng khoán, uỷ thác … thì ở các Ngân hàng Việt Nam lại hoàn “bị bỏ ngỏ “. Trong những năm qua chất lượng các loại dịch vụ Ngân hàng thực hiện chưa cao chưa thoả mãn được nhu cầu của khách hàng nhất là các dịch vụ thanh toán quốc tế do chưa hiểu rõ quy định,luật lệ, thông lệ quốc tế do vậy Ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro và trở ngại. Thậm chí nhiều khách hàng truyền thống của Ngân hàng thương mại quốc doanh chuyển sang các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài để hưởng các dịch vụ chất lượng cao hơn. Mặt khác phí các dịch vụ của Ngân hàng rất thấp do Ngân hàng hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất gay gắt. Chính vì những lý do đó mà thu nhập từ các dịch vụ Ngân hàng hiện nay của các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa phát huy được hiệu quả như tiềm năng vốn có của nó. Hoạt động kinh doanh hướng về thị trường là quá trình thiết lập phát triển và hoàn thiện các mối quan hệ khách hàng. Cho nên các Ngân hàng hiện đại trên thế giới đều có xu hướng chung là phát triển các hoạt động dịch vụ Ngân hàng _đây là một hướng đi an toàn để tăng thu nhập Ngân hàng. Bởi lẽ hoạt động dịch vụ Ngân hàng không bị rủi ro cao như hoạt động tín dụng hơn nữa tính đa dạng của nó tạo cho Ngân hàng có nhiều nguồn thu nhập khác nhau. Đặc biệt trong sự hội nhập với nền tài chính quốc tế nên các Ngân hàng thương mại Việt Nam không tránh khỏi sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng trong nước với nhau và giữa Ngân hàng trong nước với Ngân hàng nước ngoài. Mà cạnh tranh là đọ sức, cạnh tranh luôn tuân theo quy luật đào thải và chọn lọc mạnh được, yếu thua. Muốn chiến thắng thì các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải tự trang bị kiến thức công nghệ Ngân hàng, nghệ thuật tiếp thị, luôn đa dạng hoá hoạt động và cung ứng nhiều loại dịch vụ với chất lượng cao mà thị trường đòi hỏi đểđạt được mục tiêu tối đa lợi nhuận.Việc đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng không chỉ có ý nghĩa nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam mà còn là nhiệm vụ mang ý nghĩa sống còn trong sự phát triển của ngành Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. CHƯƠNG II : Tình hình hoạt động cung cấp dịch vụ và kết quả hoạt động kinh doanh tạI Ngân hàng công thương hai bà trưng I. kháI quát tình hình hoạt động của Ngân hàng công thương hai bà trưng ( nhct_hbt) 1. Qúa phát triển và mô hình tổ chức của NHCT-HBT N HCT_HBT là Ngân hàng cấp quận trực thuộc NHCT Việt nam thành năm 1988 có trụ sở tại 306 Bà Triệu _ quận Hai Bà Trưng _Hà nội. Quận Hai Bà Trưng là một quận có địa bàn rộng lớn với diện tích tự nhiên khoảng 1300 ha và 35 vạn dân. Đây là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp nhà nước, các công ty lớn, tổ chức sản xuất,các hợp tác xã thủ công nghiệp, các hộ công thương như : tổng công ty giấy Việt nam, tổng công ty lâm sản Việt nam, tổng công ty dệt Việt nam, may thăng long, sợi Hà nội,công ty giầy thăng long, nhà máy đóng tàu Hà nội … Ngoài ra còn các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể. Hầu hết các công ty trên đều đặt quan hệ với chi nhánh, qua đó ta thấy thành phần khách hàng của Ngân hàng rất đa dạng,nguồn vốn trong dân cư dồi dào. Những yếu tố đó tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng khối lượng và qui mô kinh doanh trên các lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán các dịch vụ ngân hàng. Từ khi thành lập đến nay NHCT _ HBT luôn là một trong những Ngân hàng lớn mạnh, kinh doanh có lãi đó là do Ngân hàng luôn bám sát và thực hiện những định hướng của ngành. Đặc biệt từ khi ngành Ngân hàng nước ta chuyển từ Ngân hàng một cấp sang hai cấp đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải tự phấn đấu tồn tại và phát triển. Để đứng vững trong cơ chế thị trường NHCT _HBT đã luôn tự đổi mới mình gắn liền với sự đổi mới của NHCT Việt nam và của nền kinh tế. Thể hiện ở chỗ NHCT thường xuyên củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức phù hợp với mục tiêu kinh doanh trong từng giai đoạn khác nhau. Hiện nay với tổng số cán bộ công nhân viên 335 người được bố trí sắp xếp thành những phòng ban sau : 9 phòng nghiệp vụ : Phòng tổ chức thành lập năm 1988 Phòng kế toán thành lập năm 1988 Phòng kinh doanh thành lập năm 1988 Phòng kho quỹ thành lập năm 1988 Phòng nguồn vốn thành lập năm 1988 Phòng tiếp dân thành lập năm 1988 Phòng kiểm soát thành lập năm 1995 Tổ thông tin điện toán thành lập năm 1995 đến năm 1996 nâng cấp thành phòng thông tin điện toán Tổ kinh doanh đối ngoại thành lập năm 1995 đến năm 1998 nâng cấp thành phòng kinh doanh đối ngoại Tổ cân đối tổng hợp thành lập năm 1999 Hai phòng giao dịch Chợ Hôm và Trương Định thành lập năm 1995 Một cửa hàng vàng và 12 quỹ tiết kiệm đặt tại 12 phường trên địa bàn quận. Điều hành hoạt động Ngân hàng là ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc. Các bộ phận được chuyên môn hoá theo nghiệp vụ Ngân hàng và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Các phòng ban có quan hệ mật thiết với nhau cùng phối hợp chặt chẽ tạo thành guồng máy hoạt động trôi chảy, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nằm trên địa bàn kinh doanh thuận lợi đa dạng phong phú về các thành phần kinh tế trong khu vực là một lợi thế để Ngân hàng mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình không chỉ giới hạn trong các nghiệp vụ nhận gửi và cho vay truyền thống mà còn tạo khả năng đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng đặc biệt là mở rộng thanh toán qua Ngân hàng. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng vấp phải một số khó khăn như trong những năm gần đây kinh tế ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn do việc kinh doanh không ổn định, dự án đầu tư không khả thi. Điều này dẫn đến dư nợ ngoài quốc doanh giảm xuống, cụ thể trước đây chi nhánh cho vay đối với thành phần này lớn hơn 20% tổng dư nợ nay giảm xuống còn dưới 10% tổng dư nợ. Qua đó ta thấy sự biến động của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Mặt khác với địa bàn rộng và tiềm năng như quận Hai Bà Trưng thì NHCT_HBT không tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng khác như Ngân hàng Sài gòn công thương,ADB,Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển.v.v. Ngoài ra Ngân hàng còn chịu sức ép từ nhiều phía như chế độ chính sách, yêu cầu thị trường. Nhưng do nắm bắt được tính phức tạp của địa bàn hoạt động NHCT_HBT đã có những chính sách điều hành linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Một mặt duy trì tốt các quan hệ sẵn có một mặt tích cực tìm kiếm khách hàng mới nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, khai thác lợi thế một cách có hiệu quả. Tiếp tục thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ, các dịch vụ Ngân hàng đi đôi với nâng cao chất lượng và phong cách phục vụ của cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng. Mọi hoạt động của NHCT_HBT đều tuân thủ đúng pháp luật nhà nước các thông lệ điều ước quốc tế về lĩnh vực Ngân hàng.Từ đó tạo tiền đề cho những bước tiến xa hơn trong những năm tới. 2. Kết quả kinh doanh của NHCT_HBT T rong những năm gần đây hoạt động của chi nhánh gặp nhiều khó khăn như biến động kinh tế, sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng, số lượng nhân viên tương đối lớn trình độ bất cập với với thông tin thị trường, cơ sở vật chất còn hạn hẹp, công nghệ hoá tin học Ngân hàng còn thấp. Mặc dù vậy chi nhánh NHCT_HBT đã phát huy sức mạnh nội lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ định sát sao của NHCT VN và Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội.Tranh thủ sự giúp đỡ của Quận uỷ,UBND quận Hai Bà Trưng đã thực hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ, kế hoạch đề ra, từ đó khẳng định vị thế vai trò của mình trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy đến nay chi nhánh NHCT_HBT đã thu hút được số khách hàng đến giao dịch với chi nhánh tương đối lớn. Đến cuối năm 2001 số khách hàng có quan hệ giao dịch tiền gửi là 2470 tài khoản bằng VNĐ và ngoại tệ, 1201 tài khoản tiền vay. Khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán là khoảng 2000 doanh nghiệp, cơ quan đơn vị trung ương, thành phố và cấp quận. Có thể nói đây là thành công đáng kể của Ngân hàng. Song để thấy rõ tình hình kinh doanh của Ngân hàng ta cần xem xét từng mặt hoạt động của nó. 2.1 Hoạt động huy động vốn : V ốn trong kinh doanh của Ngân hàng không những quyết định về quy mô hoạt động của Ngân hàng thương mại mà còn quyết định năng lực cạnh tranh, vị thế, uy tín cũng như khả năng thanh toán chi trả trong hoạt kinh doanh của mỗi Ngân hàng thương mại. Nhận thức được tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường đang phát triển như vậy. Để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh chi nhánh NHCT_HBT luôn coi trọng hoạt động, coi chiến lược huy động vốn là hoạt động mở đầu trong việc kinh doanh tiền ._.o thu nhập từ dịch vụ này giảm xuống. Năm 2001 thu nhập từ dịch vụ này là 85.400.599 đồng giảm so với năm 2000 là 253.318.227 đồng. Vì vậy chi nhánh nên có những biện pháp thích hợp để dịch vụ này ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng, góp phần nâng cao thu nhập. Ngoài ra chi nhánh còn thực hiện các dịch vụ ngân quỹ, kiểm đếm hộ tiền, thu đổi ngân phiếu, bảo mật số dư tài khoản … cũng góp phần củng cố thu nhập cho Ngân hàng. Bên cạnh đó năm 2001 chi nhánh thực hiện dịch vụ uỷ thác đại lý. Kết quả bước đầu thu được từ dịch vụ này là 6.000.000 đồng. Nó tạo tiền đề cho những năm sau chi nhánh thực hiện dịch vụ này tốt hơn. 2. Nhận xét, đánh giá : T rước hết chúng ta cùng nhìn lại tình hình tín dụng của chi nhánh. Doanh số thu lãi cho vay Chỉ tiêu Thu lãi cho vay Tỷ trọng năm sau/năm trước Năm 1998 56.241.753.264 Năm 1999 40.046.324.526 71.2% Năm 2000 36.581.120.749 91,3% Năm 2001 38.989.813.029 106% Qua số liệu trên ta thấy việc thu lãi từ hoạt động tín dụng của chi nhánh trong những năm qua cũng gặp không ít khó khăn. Mặc dù năm 2001 chi nhánh có chú trọng đến công tác tín dụng nhưng kết quả đạt được chưa có khả quan. Đối với mô hình Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là mô hình Ngân hàng truyền thống. Trong đó huy động vốn và cho vay là hai hoạt động chính đem lại 90% thu nhập cho Ngân hàng. Do đó sự phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự vận hành nhịp nhàng hiệu quả của hai nghiệp vụ trên. Thực tế tại NHCT_HBT thì hoạt động huy động vốn phát triển rất cao làm cho nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay. Kết quả sự chênh lệch này chi nhánh phải điều chuyển vốn lên cấp trên tăng dần hằng năm. Năm 2000 điều chuyển lượng vốn là : 845 tỷ Năm 2001 điều chuyển lượng vốn là : 950 tỷ Đây không phải là dấu hiệu đáng khích lệ bởi vì lãi điều chuyển vốn thấp hơn nhiều so với lãi cho vay.Mặc dù vậy công tác tín dụng cũng không thể phát triển tự do bởi lẽ vốn của Ngân hàng sử dụng chủ yếu là “vốn đi vay để cho vay “. Hơn nữa thực trạng nợ quá hạn với hàng loạt quy định chặt chẽ về việc cho vay như tài sản thế chấp, năng lực tài chính lành mạnh là những rào cản rất lớn trong việc mở rộng tín dụng. Vì vậy có thể nói công tác tín dụng nói riêng và kinh doanh Ngân hàng nói chung đang lâm vào tình thế bế tắc. Vậy phải làm như thế nào để Ngân hàng tiếp tục phát triển, mở rộng thu nhập ? Những vấn đề đã trình bầy ở chương I cho chúng ta câu trả lời _ đó là hiện đại hoá Ngân hàng mà cụ thể là đa dạng hoá danh mục dịch vụ Ngân hàng với chất lượng cao. Như ta đã biết để cho vay được một món, Ngân hàng phải tốn rất nhiều chi phí trong việc thẩm định dự án, xem xét hồ sơ cho vay, xác minh tài sản thế chấp. v.v..mà chỉ thu được chênh lệch lãi suất tối đa là 0,35%. Bên cạnh đó còn bao nhiêu rủi ro khác có thể dẫn đến khả năng mất vốn. Trong khi đó dịch vụ Ngân hàng với mức phí trên 0,1% lại không chịu rủi ro nào, không phải đầu tư vốn như hoạt động tín dụng. Thêm nữa nếu tìm một khách hàng đủ tiêu chuẩn là rất khó khăn trong công tác tín dụng nhưng việc lôi kéo khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ dễ dàng hơn nhiều bởi nó không chịu ràng buộc chặt chẽ như trong cho vay. Một lý do nữa nếu hoạt động tín dụng chỉ đơn thuần là cho vay thì dịch vụ Ngân hàng lại có một danh mục hoạt động phong phú. Đây là lợi thế rõ rệt của dịch vụ vừa tránh rủi ro “bỏ trứng vào một giỏ “, vừa có thêm nguồn thu nhập khác nhau. Nhận thức được điều đó các Ngân hàng hiện đại trên thế giới đều xác định đây là mục tiêu phát triển của mình. Để mau chóng đuổi kịp và hoà nhập vào nền tài chính thế giới chi nhánh NHCT_HBT cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển. Tình hình thực hiện dịch vụ tại chi nhánh năm 1999,2000,2001 Doanh số thục hiện dịch vụ của NHCT_HBT Tên danh mục Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Kinh doanh vàng bạc đá quý 2.713.000 1.096.000 125.000 Kinh doanh mua bán ngoại tệ 809.363.676 1.361.282.020 114.922.823 Thu phí các dịch vụ Ngân hàng 1.755. 471.214 2.916.720.846 2.945.046.198 Phí dịch vụ Ngân hàng được hạch toán vào tài khoản 8017.01 gồm các dịch vụ : +Thanh toán séc du lịch. +Chuyển tiền kiều hối. +Nhờ thu. +L/C nhập xuất. +Thông báo sửa đổi L/C. +Mua bán ngoại tệ. +Chuyển tiền cá nhân Tuy nhiên để thấy tốc độ phát triển của tình hình thực hiện dịch vụ ta xem xét bảng sau. Bảng :Tình hình thực hiện dịch vụ : Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Dvụ/ Tổng thu nhập Tỷ trọng Dvụ năm sau/ năm trước Năm 1999 2.567.547.890 2,94% Năm 2000 4.279.098.866 4,1% 166% Năm 2001 3.050.277.021 2,7% 71% Qua số liệu trên ta thấy tình hình dịch vụ của Ngân hàng tương đối phát triển nhưng do lãi kinh doanh ngoại tệ năm 2001 quá thấp và kinh doanh vàng bạc bị thu hẹp đã ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ các dịch vụ giảm đáng kể. Tuy nhiên nhìn tổng quát thì tình hình phát triển các dịch vụ Ngân hàng của chi nhánh cũng đang từng bước nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cầu của một Ngân hàng hiện đại. Bởi vì một Ngân hàng hiện đại trên thế giới thì tỷ trọng Dvụ/Tổng thu nhập từ 40% _ 50%. So sánh kết quả đạt được của chi nhánh thì quả là sự chênh lệch quá lớn.Chưa nói đến 40%_50% mục tiêu đạt con số 10% cũng là thử thách mà chi nhánh không dễ vượt qua. Tóm lại qua nghiên cứu các dịch vụ của chi nhánh,nhận thấy những năm gần đây chi nhánh không phát triển thêm các dịch vụ mới nào mà trong khi đó những dịch vụ cũ đã không có bước tiến triển khả quan thậm chí có hoạt động còn đi thụt lùi. Như hoạt động thanh toán séc du lịch,chi nhánh đã chứng tỏ được sự nhạy bén của mình bằng việc thực hiện dịch vụ này từ rất sớm ( năm 1998 ) nhưng đã trải qua 3 năm thực hiện hoạt động này mới chỉ dừng lại ở việc chấp nhận thanh toán một loại thẻ duy nhất và doanh số thực hiện ngày càng thụt lùi. Ngoài ra dịch vụ cầm đồ cũng dần bị mất thị trường. Điều đó làm cho thu nhập từ dịch vụ có chiều hướng giảm. Đó là thực tế mà chi nhánh cần phải quan tâm và tìm biện pháp khắc phục. Hiện nay danh mục dịch vụ của chi nhánh đã trở nên quá hạn chế ngay cả với các Ngân hàng cùng hệ thống. Nắm bắt được nhu cầu hiện đại, các Ngân hàng trong nước mở chiến lược đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng, tăng chất lượng phục vụ,mở rộng phạm vi hoạt động như các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, cho vay xây nhà, tư vấn đầu tư, mua nhà trả góp, chi trả lương cho khách sạn công ty nước ngoài....Mà hầu như các dịch vụ này chưa có trong danh mục dịch vụ của chi nhánh. Điều cuối cùng là NHCT_HBT hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Ngoài đối thủ tất yếu của chi nhánh là các Ngân hàng nằm cùng trên địa bàn ở đây còn phải nói đến các đối thủ cạnh tranh mới nằm ngoài hệ thống Ngân hàng đó là 3 công ty tài chính của các tổng công ty Dệt may, Cao su, Bưu chính viễn thông được nhà nước cấp giấy phép kinh doanh lần lượt đi vào hoạt động năm 2000 với chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi của người lao động trong tổng công ty, phát hành trái phiếu huy động vốn của các tổ chức kinh tế.v.v. Và đối thủ nặng ký nhất của Ngân hàng bây giờ là bưu điện không chỉ cạnh tranh trên lĩnh vực chuyển tiền mà còn cả trên lĩnh vực huy động vốn tiết kiệm trong dân cư. Vậy Ngân hàng phải coi sự cạnh tranh này là động lực thúc đẩy Ngân hàng nỗ lực xây dựng một danh mục dịch vụ đa dạng với chất lượng cao. Từ những nhận xét trên có thể đi đến kết luận là hoạt động cung cấp dịch vụ của chi nhánh NHCT_HBT mới chỉ đạt dược mục tiêu ổn định và an toàn chưa đáp ứng dược mục tiêu phát triển. Chương III: Một số giảI pháp phát triển hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm tăng thu nhập tạI NHCT_HBT t rong cơ chế thị trường việc mở rộng kinh doanh của Ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh theo hướng đa năng, ngoài nghiệp vụ truyền thống, các Ngân hàng thương mại còn cung ứng đến thị trường và khách hàng những sản phẩm với tên gọi phổ biến là các dịch vụ Ngân hàng. Dịch vụ Ngân hàng với chất lượng cao là thành tố quan trọng quyết định đến hình ảnh uy tín của Ngân hàng và là cơ sở chủ yếu để thắt chặt mối quan hệ khách hàng quyết định khả năng sinh lời của Ngân hàng. Do đó đối với các Ngân hàng thương mại hiện đại thì dịch vụ Ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu chiếm vị trí quan trọng mang lại nguồn thu chủ yếu và là công cụ cạnh tranh quyết định sự phát triển và thành công của Ngân hàng. Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay bước đầu đã hoà nhập vào kinh doanh theo hướng thị trường có những cải tiến đáng kể về các dịch vụ Ngân hàng.Nhưng thẳng thắn mà nhìn nhận thì vị trí của lĩnh vực này còn quá khiêm tốn. Các nhà kinh doanh Ngân hàng ở Việt Nam vẫn giành nhiều quan tâm đến việc giải quyết những vướng mắc trong khâu cho vay,cách thức huy động vốn mà vô tình quên đi lĩnh vực quan trọng đó là dịch vụ Ngân hàng. Riêng NHCT_HBT đã có nhiều lỗ lực nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng.Tuy nhiên qua phân tích thực trạng tình hình cung cấp dịch vụ tại NHCT_HBT ở chương II cho thấy vấn đề này còn nhiều tồn tại và chưa được quan tâm đúng mức cho nên quá trình nâng cấp các dịch vụ diễn ra chậm, thu nhập từ hoạt động này còn chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong tổng thu nhập. Những hạn chế trong quá trình cung ứng dịch vụ của Ngân hàng cho thấy đã đến lúc Ngân hàng phải đưa ra những chính sách cụ thể có tính thực tế không những hoàn thiện và phát huy các dịch vụ sẵn có mà còn triển khai xây dựng các dịch vụ mới nhằm đạt được danh mục dịch vụ đa dạng phong phú phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tạo đà cho Ngân hàng tiến tới mô hình hoạt động của một Ngân hàng hiện đại. Để góp phần phát triển các hoạt động dịch vụ nhằm thu nhập từ lĩnh vực này của NHCT_HBT nói riêng và của NHCT VN nói chung, em xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến của mình. I. Một số ý kiến góp phần củng cố và hoàn thiện các dịch vụ Ngân hàng tạI NHCT_HBT 1. Dịch vụ chuyển tiền cá nhân Q ua phân tích và đánh giá tiềm năng phát triển dịch vụ chuyển tiền cá nhân cho thấy mặc dù NHCT_HBT đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực này nhưng cũng để tồn tại nhiều điểm chưa hợp lý mà Ngân hàng cần phải khắc phục để đạt được kết quả cao hơn cho mục tiêu tập trung nguồn vốn tăng lợi nhuận từ dịch vụ Cụ thể : Vấn đề đầu tiên :là phải đơn giản hoá thủ tục nhận và gửi tiền. Đối với giấy nộp tiền người gửi cần ghi các yếu tố sau : Họ tên người gửi....... Địa chỉ....... Số tiền bằng số.......(bằng chữ.......) Họ tên người nhận....... Địa chỉ người nhận....... Số CMT (nếu có)....... Ngân hàng trả tiền....... Ngân hàng không nên bắt buộc người gửi tiền phải nhớ số CMT của người nhận tiền. Tuy đây là yếu tố an toàn nhưng chi nhánh có thể tham khảo phương thức trả tiền của bưu điện yêu cầu người nhận chủ động mang giấy tờ tuỳ thân đến lĩnh tiền để không đặt người gửi tiền vào thế bị động. Nhưng đây không hẳn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến doanh số thực hiện bởi vì khi nộp tiền khách hàng chỉ việc điền vào các yếu tố trên giấy nộp tiền mà Ngân hàng in sẵn rồi nộp phí là xong. Việc này tương ứng với việc điền vào mẫu in sẵn của bưu điện. Và việc người gửi phải ghi số CMT của người nhận cũng không phức tạp hơn lắm thủ tục của bưu điện thay vì mang CMT đến nhận tiền người gửi phải có giấy giới thiệu,xác nhận của cơ quan đơn vị làm việc hoặc của UBND phường xã. Chi nhánh có thể yêu cầu NHNN sửa đổi chế độ chứng từ cho phép Ngân hàng được in giấy nộp tiền cho khách hàng (theo mẫu do NHNN quy định thống nhất ) khi giao dịch bằng máy tính. Khi đó khách hàng chỉ nói rõ các yếu tố để kế toán viên nhập và in ra phiếu thu. Khách hàng chỉ phải kiểm tra lại, kí tên và nộp tiền. Điều này vừa có lợi khách hàng là người già hoặc những người không biết chữ vừa tiết kiệm thời gian, chi phí in ấn giấy tờ vì người viết có thể viết sai nhiều lần Nhưng những thiếu xót chưa hợp lý trong thực tế chủ yếu là phương pháp phục vụ. Biểu hiện là việc giao dịch với khách hàng chưa thật chu đáo, chưa có sự hướng dẫn tận tình và chuyển tiền chưa có thông báo cho người nhận biết đến lĩnh tiền. Để nâng cao chất lượng dịch vụ này thì trong giao dịch với khách hàng cán bộ thực hiện phải vui vẻ, thân thiện giới thiệu hướng dẫn tận tình cho khách hàng làm thủ tục, chọn Ngân hàng chuyển tiền để người nhận thuận tiện trong việc lĩnh tiền. Lưu ý khách hàng kiểm tra CMT, địa chỉ, điện thoại của người nhận. Trong công tác chi trả tiền Ngân hàng có thể cử cán bộ chuyển tiền tận tay người nhận hoặc chủ động thông báo cho người nhận đến lĩnh tiền. Sở dĩ Ngân hàng cần lỗ lực hơn nữa trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ vì so với công tác cho vay nhất là cho vay hộ sản xuất thì cán bộ tín dụng thậm chí phải trèo đèo lội suối đi khảo sát và mang tiền trực tiếp đến cho vay với chi phí rất lớn mới thu được chênh lệch lãi suất tối đa là 0,35% song còn chứa đựng rất nhiều rủi ro. Trong khi đó dịch vụ chuyển tiền hầu như không có rủi ro mà ngoài lệ phí thu được thì trong quá trình chuyển tiền Ngân hàng còn tranh thủ tập trung được nguồn vốn mở rộng tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng khác. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng có thể thành lập một tổ chuyên trách lĩnh vực dịch vụ này. Trực tiếp hướng dẫn khách hàng các thủ tục cần thiết khi nhận và trả tiền vừa thông báo hoặc chuyển tiền đến tận tay cho khách hàng, có thể kiêm nhiệm luôn đối với việc thông báo chi trả kiều hối. Như vậy vừa tận dụng được cán bộ hiện có lại vừa nâng cao chất lượng của cả hai dịch vụ này. Tiếp theo là Ngân hàng phải trang bị tốt thiết bị xử lý công nghệ phục vụ cho thanh toán được đồng bộ và liên hệ chặt chẽ giữa các Ngân hàng thương mại và giữa Ngân hàng thương mại với NHNN cũng như trong Ngân hàng giúp cho việc thanh toán, chuyển tiền nhanh chóng hơn. Tất cả các chuyển tiền ra ngoài tỉnh không kể lớn hay nhỏ cần được chuyển về xử lý tại Ngân hàng. Trong nội bộ Ngân hàng trước mắt phải có chương trình liên hàng nội tỉnh đi kèm thanh toán điện tử hiện nay và lâu dài cần khép mạng thanh toán điện tử chung để xử lý các chuyển tiền được nhanh chóng hơn. Vấn đề cuối cùng chi nhánh phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng tập chung hướng vào khu vực dân cư để nhân dân hiểu biết rõ về công tác thanh toán qua Ngân hàng nói chung về dịch vụ chuyển tiền cá nhân nói riêng trên các mặt. Những đổi mới của việc thanh toán, việc ứng dụng công nghệ tin học trong thanh toán và thành quả trong từng thời kỳ, thủ tục thanh toán, thời gian chuyển tiền, mạng lưới thực hiện chuyển tiền … từ đó nhân dân hiểu rõ tin tưởng và giao dịch nhiều hơn với Ngân hàng. Tóm lại đây là một lĩnh vực dịch rất quan trọng của Ngân hàng cho nên việc đẩy mạnh công tác chuyển tiền ở đây không chỉ đơn thuần là thu dịch vụ phí, nó còn mang tính chất ý nghĩa quan trọng thu hút được lượng lớn tiền mặt vào Ngân hàng, thúc đẩy công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Từ đó Ngân hàng thực hiện được vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. 2. Chi trả kiều hối : N hư phân tích ở trên đã biết một số nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh số thực hiện dịch vụ chi trả kiều hối. Đó là hiện nay lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam hầu như không qua Ngân hàng mà qua cá nhân và các đơn vị không chính thức. Việc kiểm soát và hạn chế các tổ chức này là nhiệm vụ của các ngành chức năng không nằm trong hoạt động của Ngân hàng.Vì vậy Ngân hàng không thể chủ động nắm bắt các tổ chức này mà trong phạm vi hoạt động của mình Ngân hàng chỉ có thể tự hoàn thiện dịch vụ để trở thành một điểm hấp dẫn để khách hàng tìm đến. Muốn làm được điều đó Ngân hàng phải xem xét các mặt mạnh, yếu của mình trong tương quan so sánh với các tổ chức không chính thức từ đó tìm ra biện pháp củng cố và hoàn thiện dịch vụ. Để khắc phục các điểm yếu đó chi nhánh phải phát triển công nghệ hiện đại cùng với việc mở rộng quan hệ với nhiều Ngân hàng nước ngoài. Chi nhánh chú ý đến việc tạo thêm tiện ích cho Ngân hàng qua dịch vụ chi trả kiều hối. Sẵn sàng chuyển đổi ngoại tệ theo yêu cầu khách hàng, có thể hướng khách hàng thường xuyên nhận tiền kiều hối vào việc đầu tư các dự án xuất nhập khẩu, khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ, chỉ rút ngoại tệ khi cần hoặc bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng …. Ngoài ra để khơi tăng nguồn kiều hối Ngân hàng nên thiết lập một bộ phận chuyên phụ trách việc thông báo và giao tiền tận nhà cho khách hàng. Mặc dù Ngân hàng sẽ tốn thêm một khoản chi phí nhất định nhưng chắc chắn lượng phí dịch vụ thu được tăng thêm do tiện ích này mang lại còn cao hơn nhiều. Song song với việc nâng cao chất lượng chi nhánh phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện đại chúng. Có như vậy người dân mới biết được những tiện ích mà dịch vụ này mang lại. NHCT_HBT cần có những phương án chuyển tiền nhanh hơn để có thể thu hút lượng kiều hối của kiều bào gửi về. Làm tốt được những việc này ngoài khoản phí thu được chi nhánh còn tạo lập được nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán quốc tế. 3. Thanh toán séc du lịch : P hân tích thực trạng dịch vụ thanh toán séc du lịch tại NHCT_HBT cho thấy mặc dù dịch vụ này không còn là dịch vụ mới đối với chi nhánh nhưng doanh số thực hiện quá thấp, qua thời gian vẫn chưa có chuyển biến tích cực. Để củng cố và hoàn thiện dịch vụ em xin đưa ra một số giải pháp. Trước tiên để vực dậy nghiệp vụ này chi nhánh cần phải mở rộng phạm vi chấp nhận thanh toán séc du lịch, làm đại lý thẻ cho các Ngân hàng nước ngoài từ đó tăng cường các nguồn thu phí khác nhau. Việc bó hẹp phạm vi thanh toán trong một loại thẻ duy nhất sẽ hạn chế khả năng phát triển của dịch vụ, lãng phí nhân lực trong lĩnh vực này. Mặt khác thông qua công tác chi trả kiều hối chi nhánh đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều Ngân hàng ở Anh,úc, Nhật Pháp … lại không còn bỡ ngỡ với dịch vụ này chắc chắn chi nhánh sẽ thực hiện tốt việc mở rộng phạm vi chấp nhận nhiều loại séc du lịch. Thứ hai chi nhánh cần hợp lý lại công tác chi trả của mình. Công tác kiểm tra và thanh toán séc Ngân hàng nên hướng dẫn cho cán bộ ở các quỹ tiết kiệm và phòng giao dịch biết để trực tiếp xử lý vừa rút ngắn thời gian thanh toán chi trả vừa tận dụng năng lực cán bộ nhân viên trong Ngân hàng. Đồng thời với hai biện pháp trên Ngân hàng phải quảng cáo thông tin cho khách hàng biết được sự đổi mới,đa dạng của dịch vụ với nhiều tiện ích mới. Ngay cả Ngân hàng cũng thừa nhận chi nhánh còn nhiều hạn chế trong khâu tiếp thị kinh doanh. Vì vậy song song với việc đổi mới hoạt động là khâu tiếp thị quảng cáo. Có như vậy thì dịch vụ này mới hoạt động hiệu quả. 4. Kinh doanh mua bán ngoại tệ T rong điều kiện kinh doanh ngoại tệ tại một chi nhánh như NHCT_HBT, để tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại cũng như việc giao lưu kinh tế xã hội phát triển đồng thời góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng. Chi nhánh phải xử lý được những tồn tại trong việc mua bán ngoại tệ Trước hết chi nhánh phải tìm biện pháp mở rộng cung ngoại tệ. Như phân tích chi nhánh có 3 nguồn thu ngoại tệ, nhưng mỗi nguồn đều có những khó khăn riêng trong việc huy động.Trong đó ngoại trừ nguồn ngoại tệ huy động từ các Ngân hàng khác chỉ dùng trong tình thế bắt buộc.Thì hai nguồn còn lại chi nhành cần phải có biện pháp phát triển. Với những quy dịnh của NHNN trong thời gian qua Ngân hàng có thể kiểm soát được các nguồn ngoại tệ của các tổ chức tín dụng có quan hệ với chi nhánh. Nhưng vấn đề dặt ra là nguồn ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống Ngân hàng. Với nguồn này chi nhánh không thể có biện pháp nào bắt buộc người nắm giữ ngoại tệ bán vào Ngân hàng. Mà để thu hút nguồn vốn này Ngân hàng phải nắm được nguyên nhân vì sao người dân không muốn bán ngoại tệ cho Ngân hàng. Lý do chính là tỷ giá Ngân hàng luôn thấp hơn trên thị trường tự do. Trước tình trạng đó muốn tạo ra sức hấp dẫn thực sự thì chi nhánh phải có một tỷ giá phù hợp không hoặc có chênh lệch rất ít so với thị trường tự do. Tuy nhiên vấn đề này không đơn giản,chi nhánh còn phụ thuộc vào tỷ giá quy định của NHCT VN và NHNN. Vì vậy trước mắt chi nhánh cần chú trọng đến việc mở rộng hai dịch vụ chi trả kiều hối và thanh toán séc du lịch. Sự phát triển của hai hình thức này với hiệu quả cao sẽ hỗ trợ tốt nhằm cải thiện “cung” ngoại tệ của chi nhánh. Ngoài ra chi nhánh tạo cơ hội cho những người có ngoại tệ đến Ngân hàng bán công khai mà không cần chứng minh vì sao có ngoại tệ này. Bên cạnh việc tạo cung,chi nhánh cần chú trọng đến việc kích thích cầu. Để làm được điều này Ngân hàng phải chú trọng đến công tác khách hàng, chủ động hướng dẫn khách hàng. Đối với khách hàng còn bỡ ngỡ Ngân hàng cần có những hình thức tư vấn miễn phí. Điều này vừa giúp Ngân hàng nâng cao uy tín vừa thúc đẩy hoạt động hiệu quả của nghiệp vụ nnày. Tuy nhiên thực sự thúc đẩy cả cung và cầu ngoại tệ cần có sự tác động của NHCT VN. Cụ thể : NHCT VN chỉ nên qui định không được bán ngoại tệ ra ngoài hệ thống còn trong hệ thống nên để các chi nhánh có thể được mua bán với nhau để chủ động hơn trong kinh doanh ngoại tệ Hiện nay NHCT qui định trạng thái ngoại tệ cho NHCT HBT đối với tất cả các loại ngoại tệ là USD 200,000.00. Mức qui định này là thấp đối với hoạt động của chi nhánh. Vì vậy NHCT_HBT nên đề nghị NHCT VN tăng trạng thái ngoại tệ đối với chi nhánh để đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng Nên chăng chi nhánh có thể đề xuất NHCT có cơ chế xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ với chi nhánh một cách hợp lý phù hợp với thực tiễn để khuyến khích chi nhánh tự huy động vốn ngoại tệ phục vụ nhu cầu khách hàng. Nếu các biện pháp trên được tiến hành đồng bộ hiệu quả sẽ giúp cho Ngân hàng một nguồn thu rất lớn từ kinh doanh ngoại tệ 5. Mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư : Q ua phân tích ở chương II ta thấy còn nhiều khó khăn trong việc mở rộng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng hướng vào khu vực dân cư Theo em cần có những giải pháp sau : Chi nhánh cần cải tiến các thủ tục thanh toán với các thể thức có sẵn, khắc phục các nhược điểm trong quy định về thanh toán séc, có thể nguyên cứu phát hành thẻ thanh toán của Ngân hàng Thể thức thanh toán uỷ nhiệm chi (lệnh chi thường xuyên ) nếu khách hàng dùng để thanh toán các khoản dịch vụ ổn dịnh :tiền điện, điện nước, nhà nên sử dụng dưới hình thức lệnh chi khách hàng. Ngân hàng có những biện pháp thích hợp khuyến khích khách hàng mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Đối với người bán cung cấp hàng hoá, dịch vụ thường xuyên có tính chất thiết yếu thì hướng dẫn họ sử dụng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu để đòi tiền. Tuy nhiên trong hình thức này ngân hàng cần nghiên cứu giảm bớt tính phức tạp của chứng từ thanh toán, đưa ra mẫu chứng từ vừa là chứng từ gốc (hoá đơn cung cấp hàng hoá) vừa là chứng từ đòi tiền, ghi sổ của ngân hàng. Chi nhánh cần qua tâm đầu tư trang thiết bị đồng bộ nhằm tăng tốc độ thanh toán và giảm phí. Tuyên truyền rộng rãi tiện ích của dịch vụ một cách hợp lý kèm theo khuyến mãi và công tác này phải lâu dài theo kiểu “ mưa dầm thấm lâu” Đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng, cung cấp các dịch vụ ưu đãi cho khách hàng tham gia thanh toán thường xuyên. II. Một số kiến nghị về công tác triển khai các dịch vụ mới của chi nhánh N hư phân tích ở trên ta thấy danh mục dịch vụ hoạt động của chi nhánh còn quá hạn hẹp dẫn đến tỷ trọng dịch vụ / tổng thu nhập rất nhỏ. Để khắc phục tình trạng này thì việc củng cố các dịch vụ hiện có là không đủ mà phải tiến hành song song với việc bổ xung các dịch vụ mới trong khả năng của chi nhánh 1 Tư vấn đầu tư Đây không phải là khái niệm quá xa lạ đối với Ngân hàng bởi từ lâu không chỉ NHCT VN mà ở một vài chi nhánh đã triển khai nghiệp vụ này. Tuy nhiên tại NHCT HBT vẫn chưa có hoạt động tư vấn đầu tư trong danh mục của mình. Từ trước đến nay ở đây chỉ có khái niệm tư vấn cho khách hàng khi thực hiện hợp đồng tín dụng mà chưa phát triển nó thành một dịch vụ cụ thể. Hiện nay tình hình kinh tế đang biến động rất phức tạp với những diễn biến khó lường. Điều này gây khó khăn đối với các tổ chức kinh tế. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự sa sút của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bởi lẽ ông chủ nào của công ty TNHH,công ty tư nhân cũng được học hành qua trường lớp đào tạo các nghiệp vụ kinh doanh. Trong khi đó tại chi nhánh đội ngũ cán bộ có năng lực được đào tạo chính qui, lại luôn tiếp xúc với nhiều loại hình kinh doanh khác nhau cho nên có khả năng dự đoán được các biến động của nền kinh tế. Chính vì thế chi nhánh nên vận dụng thế mạnh của mình để triển khai hoạt động tư vấn đầu tư. Đặc biệt trong một thời gian ngắn nữa với sự ra đời TTCK thì dịch vụ này sẽ là một hoạt động mang lại thu nhập rất lớn cho Ngân hàng.Nhất là khi mọi người còn chưa am hiểu đầy đủ các thao tác kinh doanh trên TTCK. Tuy nhiên để Ngân hàng thực hiện dịch vụ này một cách có hiệu quả nhất khi TTCK bắt đầu hoạt động thì ngay bây giờ Ngân hàng cần triển khai hoạt động này một mặt để có thời gian hoàn thiện một mặt để khách hàng làm quen và biết đến dịch vụ này. Với sự chuẩn bị đó vào thời điểm ra đời của TTCK chi nhánh đã hội đủ điều kiện trở thành một thành viên tích cực của thị trường vốn này. 2.Chiết khấu thương phiếu : Tại các nước phát triển, chiết khấu thương phiếu, cầm cố thương phiếu là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro. Mặt khác đây là nghiệp vụ có thể tái tạo nguồn vốn ngắn hạn vì mục đích của tái chiết khấu hoặc tái cầm cố thương phiếu là vay nợ Ngân hàng.Ngoài ra Ngân hàng thương mại có thể thực hiện dịch vụ thu hộ thương phiếu,kì phiếu tài chính đến hạn để hưởng hoa hồng và khơi tăng nguồn vốn huy động ở nước ta quyết định số 198/QĐ _NH 5 ngày 16/9/1996 của Thống đốc NHNN ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn cũng có qui định về “chiết khấu chứng từ có giá “ nhưng trong mấy năm qua nghiệp vụ này của các Ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể chủ yếu là mua lại các tín phiếu, trái phiếu ngắn hạn của nhà nước chưa đến hạn, NHCT _HBT cũng không ngoại lệ. ở đây Ngân hàng chỉ tiến hành thủ tục chiết phiếu trên thương phiếu xác lập bởi quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với khách hàng. Với nghiệp vụ này chi nhánh xem như một nghiệp vụ cho vay đơn giản từng lần. Tuy nhiên khi TTCK đi vào hoạt động thì hàng hoá của nghiệp vụ này sẽ trở thành đa dạng hơn. Đây là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu trên TTCK mà người thực hiện chính là các Ngân hàng thương mại. Nhận thức đúng được sự cần thiết của nghiệp vụ này đối với nền kinh tế trong thời kì phát triển cũng như để khắc phục tình trạng bỏ ngỏ của nghiệp vụ chứng khoán thương phiếu. Điều 57 luật NHNN và các TCTD có hiệu lực thi hành từ 1/10/2000 qui định tổng quát về “chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và chứng từ có giá ngắn hạn khác “ và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành đồng thời với luật thương mại để đa dạng hoá nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai nghiệp vụ này. Do vậy Ngân hàng nên chú trọng triển khai hoạt động này ngay từ bây giờ vì chắc chắn thời điểm ra đời của TTCK sẽ không còn bao lâu 3. Dịch vụ thanh toán mua bán nhà Nhà đất không những là gia sản có giá trị to lớn mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Nhà ở không chỉ liên quan đến các mặt sinh hoạt đời sống cá nhân mà nó còn liên quan đến tình hình kinh tế, an ninh trật tự xã hội. Nhằm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh tiền tệ,tín dụng và dịch vụ Ngân hàng cũng như đáp ứng phần nào nhu cầu mua bán nhà của khách hàng trên địa bàn,NHCT_HBT nên xem xét triển khai dịch vụ này. Đây là một dịch vụ hoạt động tương đối mới mẻ và khá phức tạp. Do vậy để thực hiện được dịch vụ này,Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ để đưa ra những kế hoạch cụ thể. Ngoài ra chi nhánh có thể học tập kinh nghiệm tổ chức thực hiện tại Ngân hàng á Châu chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh (ACB_SG). Điểm qua thực tế tại Ngân hàng ACB_SG qua 3 năm hoạt động có một lượng tiền, vàng rất lớn được thanh toán qua Ngân hàng.Chứng tỏ dịch vụ này đang có sức hút mạnh mẽ đối với khách hàng có nhu cầu mua bán nhà. Đặc biệt khi triển khai dịch vụ này thì các hoạt động không chỉ bó hẹp trong việc thanh toàn hộ mà còn phát sinh thêm nhiều yêu cầu khác có liên quan đến việc mua bán nhà : người mua còn thiếu một phần tiền, hay người bán cần ứng trước một khoản tiền để thanh toán nợ đến hạn. Do đó Ngân hàng có thể bổ sung và thực hiện thêm nghiệp vụ khác. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội chưa có nhiều Ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán tiền mua nhà. Trong khi đó, kinh doanh bất động sản đang thu hút ngày càng nhiều người tham gia. Vì vậy Ngân hàng cần nắm được xu hướng vận động của nền kinh tế nhanh chóng triển khai nghiệp vụ này. Thực hiện được nghiệp vụ này không những thu được khoản phí rất lớn (ACB_SG tỷ lệ phí là 0,2 % trên giá trị mua bán nhà ) còn tạo ra nhiều tiện ích khác như nâng cao tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, mở rộng tín dụng và các dịch vụ khác.v.v... Kết luận Hơn 10 năm hoạt động, chi nhánh NHCT_HBT nói riêng và hệ thống NHCT VN nói chung đã có bước tiến đáng kể,đóng vai trò tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá _hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên cũng qua nghiên cứu thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho thấy vẫn còn một khoảng cách quá lớn giữa Ngân hàng Việt Nam và các Ngân hàng phát triển trên thế giới. Sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh vẫn đang là yếu điểm chưa được khắc phục của các NHTM Việt Nam. Trong xu thế nền tài chính thế giới đang hoà nhập mạnh mẽ như hiện nay, công cuộc hiện đại hoá Ngân hàng là yêu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Việt Nam. Nhận thức dược tầm quan trọng của việc hiện đại hoá Ngân hàng luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ 01/10/2000 cũng đã xác định rõ việc xây dựng hệ thống Ngân hàng đa dạng khuyến khích phát triển kinh doanh tổng hợp và đa dạng. Trước mắt với hệ thông Ngân hàng hiện đại sẽ là nhân tố thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán và nó là nền tảng phát triển nền kinh tế vững chắc trong tương lai Dịch vụ Ngân hàng là vấn đề còn khá mới mẻ đối với ngành Ngân hàng nước ta.Do vậy luận văn của em không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong được thầy cô, ban lãnh đạo các cô chú trong NHCT_HBT cùng các bạn góp ý thêm. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của cô giáo, tập thể cán bộ chi nhánh NHCT_HBT đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0375.doc
Tài liệu liên quan