Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu ở Công ty 20

lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường, cùng với quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới đã tạo ra sự cạnh tranh về mọi mặt ngày càng gay gắt và quyết liệt. Sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng, của hàng nước ngoài buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh, quyết định sự

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu ở Công ty 20, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Công ty may 20 là một doanh nghiệp Nhà nước dưới sự chỉ đạo của Tổng cục hậu cần từ khi thành lập, Công ty luôn tồn tại trong một thời gian dài của chế độ bao cấp cũ, với chế độ hạch toán tập trung, Nhà nước cấp nguyên liệu vật tư đầy đủ và bao tiêu toàn bộ sản phẩm sản xuất ra. Do vậy, trong giai đoạn này, công tác chất lượng sản phẩm không được chú trọng nhiều. Sản phẩm chỉ đạt được ở mức chấp nhận được nhưng vẫn tiêu thụ hết. Thêm vào đó, Công ty chỉ quan tâm đến năng suất lao động, số lượng sản phẩm sản xuất ra hơn là vấn đề nâng cao chất lượng. Sau hơn 40 năm tồn tại như vậy, khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn do việc thị trường các nước Đông Âu tan rã, chất lượng kém không thể cạnh tranh được. Do đó, Ban Giám đốc Công ty đã đề ra đường lối chiến lược phát triển cho Công ty nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng trong tình hình mới. Điều này thể hiện rất rõ qua việc Công ty phấn đấu áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 vào cuối năm 2000 và triết lí kinh doanh của Công ty như: "Để hội nhập tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, chất lượng là mục tiêu, mối quan tâm hàng đầu đối với Công ty May 20. Để gìn giữ và phát triển mối quan hệ bạn hàng, Công ty 20 cam kết chỉ cung cấp những sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng cho khách hàng". Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu ở công ty là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Vì những lý do trên tôi xin chọn đề tài: "Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu ở Công ty 20" Chuyên đề gồm có 3 phần: Phần I: Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Phần II: Phân tích tình hình chất lượng sản phẩm ở Công ty 20 hiện nay. Phần III: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty 20. Phần I Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng khả năng cạnh tranh của nghiệp I. Khái niệm, vai trò của chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường khi mà các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận thì vấn đề chất lượng sản phẩm ngày càng được các nhà sản xuất đặc biệt quan tâm và sử dụng như là một thứ vũ khí chủ chốt để đánh bại các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngày càng có nhiều trường Đại học, Trung cấp... đưa vào giảng dậy, nghiên cứu về môn học chất lượng sản phẩm, có nhiều sách, báo viết về chất lượng sản phẩm đã cho thấy bước tiến quan trọng trong nhận thức của sinh viên cũng như của người tiêu dùng. 1.1. Khái niệm và phân loại chất lượng sản phẩm. a. Khái niệm và những quan điểm về chất lượng sản phẩm. Hiện nay, theo tài liệu của các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội và nhằm những mục tiêu khác nhau mà người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm khác nhau. Trước đây, các nước trong hệ thống XHCN nhận thức rằng: “chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế – kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế – kỹ thuật”. Về cơ bản quan điểm này phản ánh đúng bản chất của chất lượng. Ta có thể dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được, nhờ đó xác định rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần phải hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm mới chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự biến động của nhu cầu trên thị trường với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này xuất phát từ việc sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch của các nước XHCN. Sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường cho nên chất lượng sản phẩm không theo kịp nhu cầu thị trường nhưng vẫn tiêu thụ được. Hơn nữa, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế phát triển khép kín nên không có sự so sánh hay cạnh tranh về sản phẩm. Bước sang cơ chế thị trường, khi nhu cầu được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh (như một nhà kinh tế đã nói: sản xuất những gì mà người tiêu dùng cần chứ không sản xuất những gì mà ta có) thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng phải được nhìn nhận một cách khách quan, năng động hơn. Tức là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan niệm chất lượng sản phẩm hướng theo khách hàng. Lý thuyết này cho rằng: “Chất lượng phụ thuộc vào cái nhìn đầu tiên của người sử dụng, vì vậy tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá chất lượng là khả năng thoả mãn những đòi hỏi, những yêu cầu của người sử dụng”. Một số nhà kinh tế học phương Tây theo quan niệm này đã định nghĩa về chất lượng như sau: Feigenbaum: “Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm”. Juran: “Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng”. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường với chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên, tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn”. (Theo ISO 8402:1994) Dựa trên khái niệm này, Cục đo lường chất lượng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “ Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước ”. (TCVN 5814 - 1994) Về thực chất, đây là khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, các khái niệm trên đã được chấp nhận và sử dụng khá phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ sung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không phải theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế – xã hội và công nghệ. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm. b. Phân loại chất lượng sản phẩm: - Chất lượng thiết kế: là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ. - Chất lượng tiêu chuẩn: là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành. - Chất lượng thị trường: là chất lượng bảo đảm thoả mãn nhứng nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng. - Chất lượng thành phần: là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc một số tầng lớp người nhất định. - Chất lượng phù hợp: là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường tâm lý người tiêu dùng. - Chất lượng tối ưu: là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu cuả xã hội nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. 1.2. Vai trò của chất lượng sản phẩm Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển cuả các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng đặt ra những thách thức đối với doanh nghiệp qua sự chi phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường cho phép các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện. Người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo yêu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Do đó, doanh nghiệp nào thu hút được khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều nhất thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Chính điều này đã tạo động lực to lớn buộc các doanh nghiệp ngày càng phải hoàn thiện để phục vụ khách hàng được tốt nhất. Đối với doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm cuả doanh nghiệp khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó, người t iêu dùng sẽ sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp và nếu có thể sẽ mở rộng thị trường ra nước ngoài. Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất cao, tiêu thụ với khối lượng lớn mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình sản xuất. Muốn làm được điều này, ta chỉ có thể thực hiện bằng cách luôn nâng cao chất lượng sản phẩm với mục tiêu “ làm đúng ngay từ đầu ” sẽ hạn chế được chi phí phải bỏ ra cho những phế phẩm. Việc làm này, không những đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước thông qua việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm bớt những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đi sau tìm tòi nghiên cứu các tiến bộ khoa học – kỹ thuật và ứng dụng nó vào sản xuất – kinh doanh. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ nhằm giảm lao động sống, lao động quá khứ, tiết kiệm nguyên vật liệu và nâng cao năng lực sản xuất. Do vậy, giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm từ đó giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là nâng cao lợi nhuận. Đây đồng thời cũng là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Khi doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao, có điều kiện đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ, làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp từ đó đóng góp hết sức mình vào công việc sản xuất – kinh doanh. Đối với nền kinh tế quốc dân. Việc tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc người dân được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tốt hơn với tuổi thọ lâu dài hơn, góp phần làm giảm đầu tư chi phí cho sản xuất sản phẩm và hạn chế phế thải gây ô nhiễm môi trường. Riêng đối với ngành sản xuất những sản phẩm là tư liệu sản xuất, nếu chất lượng sản phẩm được tăng lên tức là nó đã góp phần đưa khoa học – kỹ thuật hiện đại và trang bị cho nền kinh tế quốc dân nhằm tăng năng suất lao động và kéo theo việc tăng chất lượng sản phẩm mà thiết bị đó sản xuất ra. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn là cách để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước qua việc xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao ra nước ngoài. II. hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm. 2.1. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là một phạm trù KT – XH, công nghệ tổng hợp. Nó luôn gắn bó chặt chẽ với những mong đợi của khách hàng và những xu hướng vận động của những mong đợi đó trên thị trường. Bởi vậy, chất lượng là một phạm trù có ý nghĩa tương đối, không phải là bất biến mà thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. Chất lượng có thể cao trong thời điểm này nhưng sẽ không còn cao nữa đối với giai đoạn sau hoặc chất lượng cao ở thị trường này nhưng không cao đối với thị trường khác. Khi nói đến chất lượng, cần phân biệt rõ đặc tính chất lượng chủ quan và khách quan của sản phẩm. + Đặc tính khách quan thể hiện trong chất lượng tuân thủ thiết kế. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kinh tế – kỹ thuật càng gắn với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng càng cao, được phản ánh thông qua tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng, loại bỏ sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ vào tính chất, đặc điểm và trình độ công nghệ, trình độ tổ chức quản lý, sản xuất của các doanh nghiệp. Loại chất lượng này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh về giá cả của sản phẩm. 2.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm Khi nói đến chất lượng của một sản phẩm, ta cần phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng nội tại và bên ngoài sản phẩm thì mới khách quan và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ, lý, hoá nhất định, có thể đo lường đánh giá được. Từ đó, ta so sánh giữa các sản phẩm với nhau trên cùng một tiêu chí để nhận ra sản phẩm nào đạt chất lượng cao hơn. Điều này cho chúng ta thấy quan điểm sai lầm khi cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm: - Chỉ tiêu chức năng, công dụng của sản phẩm: Đó chính là những đặc tính cơ bản của sản phẩm đưa lại những lợi ích nhất định về giá trị sử dụng, tính hữu ích của chúng đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết của người tiêu dùng. - Chỉ tiêu tin cậy: đặc trưng cho thuộc tính của sản phẩm giữ được khả năng làm việc chính xác, tin tưởng trong một khoảng thời gian xác định. - Chỉ tiêu tuổi thọ: thể hiện thời gian tồn tại có ích của sản phẩm trong quá trình đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. - Chỉ tiêu lao động học: đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm như các chỉ tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người có liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt. - Chỉ tiêu thẩm mỹ: đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về kết cấu. - Chỉ tiêu công nghệ: đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí. - Chỉ tiêu thống nhất hoá: đặc trưng cho mức độ sử dụng sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác. - Chỉ tiêu sinh thái: đặc trưng cho độ độc hại của sản phẩm tác động đến môi trường khi sử dụng. - Chỉ tiêu an toàn: đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn về sức khoẻ cũng như tính mạng cuả người sản xuất và người tiêu dùng. - Chỉ tiêu chi phí, giá cả: đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo lên sản phẩm. Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với những sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất, phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp để làm ra được những sản phẩm mang sắc thái riêng biệt, độc đáo khác với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Ngoài ra, để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các thời kỳ sản xuất ta còn có các chỉ tiêu so sánh như sau: - Tỉ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất: + Dùng thước đo hiện vật để tính, ta có công thức: Trong đó, số sản phẩm hỏng bao gồm sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. + Dùng thước đo giá trị để tính, ta có công thức: Trong đó, chi phí sản phẩm hỏng bao gồm chi phí về sản phẩm sửa chữa được và chi phí về sản phẩm hỏng không sửa chữa được. Trên cơ sở tính toán về tỉ lệ sai hỏng đó ta có thể so sánh giữa ký này với kỳ trước, hoặc giữa năm nay với năm trước. Nếu tỉ lệ sai hỏng kỳ này so với kỳ trước mà nhỏ hơn tức là chất lượng kỳ này tốt hơn kỳ trước và ngược lại. - Dùng thứ hạng chất lượng sản phẩm: để so sánh thứ hạng chất lượng sản phẩm của kỳ này so với kỳ trước người ta căn cứ vào mặt công dụng, thẩm mỹ và các chỉ tiêu về mặt cơ, lý, hoá của sản phẩm. Nếu thứ hạng kém thì được bán với mức giá thấp, còn nếu thứ hạng cao thì sẽ bán được với giá cao. Để đánh giá thứ hạng chất lượng sản phẩm ta có thể sử dụng phương pháp giá đơn vị bình quân. Công thức tính như sau: Trong đó: P: Giá đơn vị bình quân. Pki: Giá đơn vị kỳ gốc của thứ hạng i. Qi: Số lượng sản phẩm sản xuất của thứ hạng i. Theo phương pháp này, ta tính giá đơn vị bình quân của kỳ phân tích và kỳ kế hoạch. Sau đó, so sánh giá đơn vị bình quân kỳ phân tích so với kỳ kế hoạch. Nếu giá đơn vị bình quân kỳ phân tích cao hơn kỳ kế hoạch ta kết luận doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch chất lượng sản phẩm và ngược lại. Để sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm sao cho đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý và người tiêu dùng. III. Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1. Các nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng cuả nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia thành hai nhóm nhân tố chủ yếu bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. a. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Nhu cầu thị trường: Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo động lực, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại không cao ở thị trường khác. Thông thường, khi mức sản phẩm xã hội còn thấp, các sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao. Họ chưa quan tâm tới sản phẩm có chất lượng cao. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi về chất lượng sản phẩm ngày càng cao, ngoài tính năng sử dụng còn yêu cầu cả tính năng thẩm mỹ, an toàn...Người ta sẵn sàng mua với giá cao để có được những sản phẩm ưng ý. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Để làm được việc này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường KT – XH, xác định chính xác nhận thức của khách hàng, thói quen, truyền thống, phong tục tập quán, lối sống văn hoá, mục đích sử dụng sản phẩm, khả năng thanh toán,...nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường; có như vậy doanh nghiệp mới đáp ứng được tốt nhất những yêu cầu, đòi hỏi của từng loại khách hàng. Lúc này việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi đúng hướng. Trình độ tiến bộ khoa học – công nghệ:Trong thời đại ngày nay, sự tiến bộ khoa học – công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ và quyết định đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhờ những thành tựu khoa học mà các sản phẩm có được độ bền cao hơn, chính xác hơn với những nguyên vật liệu rẻ hơn, tốt hơn. Từ đó, tiến tới ngày càng hoàn thiện sản phẩm đáp ứng gần như triệt để yêu cầu của người tiêu dùng. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp công nghiệp có đặc trưng chủ yếu là sử dụng nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau để sản xuất ra sản phẩm, do vậy, khoa học – công nghệ có ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động và là động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. b. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp. Lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Dù trình độ công nghệ có hiện đại đến đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến hoạt động quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi người lao động chính là người sử dụng máy móc thiết bị để sản xuất ra sản phẩm. Bên cạnh đó, có rất nhiều tác động, thao tác phức tạp đòi hỏi kỹ thuật khéo léo, tinh tế mà chỉ có con người mới có thể làm được. Hiện nay, rất nhiều nhà kinh tế đã đề ra phương hướng quản trị chất lượng dựa trên nguyên tắc coi trọng yếu tố con người. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật và sự phối hợp hành động giữa các thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của doanh nghiệp: Đối với những doanh nghiệp công nghiệp, máy móc và công nghệ sản xuất luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã coi công nghệ là chìa khoá của sự phát triển. Quả đúng như vậy, trong thời đại ngày nay khi mà nền khoa học – kỹ thuật trên thế giới phát triển mạnh mẽ thì việc ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất đã làm cho sản phẩm có được độ chính xác hơn, bền hơn, đẹp hơn... Mức độ CLSP trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, tính đồng bộ của máy móc, tình hình bảo dưỡng. Với những doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất đồng loạt, có tính tự động hoá cao thì có khả năng rút giảm được lao động sống mà vẫn tăng năng suất lao động. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu nhận thức được rõ vai trò của chất lượng trong cuộc chiến cạnh tranh thì doanh nghiệp đó sẽ có đường lối, chiến lược kinh doanh quan tâm đến vấn đề chất lượng. Trên cơ sở đó, các cán bộ quản lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất nhằm mục đích cao nhất là hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Trình độ của cán bộ quản trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng xác định chính sách, mục tiêu chất lượng và cách thức tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch chất lượng. Cán bộ quản lý phải biết cách làm cho mọi công nhân hiểu được việc đảm bảo và nâng cao chất lượng không phải là riêng của bộ phận KCS hay của một tổ công nhân sản xuất mà nó phải là nhiệm vụ chung của toàn doanh nghiệp. Đồng thời, công tác quản lý chất lượng tác động mạnh mẽ đến công nhân sản xuất thông qua chế độ khen thưởng hay phạt hành chính để từ đó nâng cao ý thức lao động và tinh thần cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3.2. Các biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta có một điểm yếu cơ bản đó là trang thiết bị máy móc lạc hậu, hư hỏng nhiều, lao động thủ công vẫn chiếm tỉ lệ cao. Điều này đã hạn chế sự phát triển sản xuất, làm giảm năng suất lao động cũng như không đảm bảo chất lượng sản phẩm. Vì lẽ đó, các mặt hàng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam rất khó tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nhờ thành tựu khoa học – kỹ thuật mà hàng hoá được sản xuất với hàm lượng kỹ thuật cao do các nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam tác động mạnh mẽ đến tâm lý người tiêu dùng theo hướng chất lượng cao và hiện đaị hơn. Giải pháp cơ bản nhưng đặc biệt quan trọng hiện nay là cần phải ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất để cải tạo toàn bộ nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sản phẩm hàng hoá là kết quả của sự tác động của con người vào đối tượng lao động thông qua các công cụ lao động. Việc ứng dụng rộng rãi khoa học – kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất, vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ... trực tiếp tạo điều kiện cho quá trình sản xuất có được các sản phẩm đạt chất lượng cao, hiện đại, phù hợp với xu thế tiêu dùng. Đây là một hướng đi đạt hiệu quả nhất và cũng tạo được chỗ đứng vững nhất trong cuộc chiến cạnh tranh. Để có thể ứng dụng thành công những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp có thể tiến hành theo cách như sau: Thứ nhất: Tập trung huy động vốn tự có, vốn vay để từng bước mua sắm và đổi mới cơ sở vật chất của doanh nghiệp bao gồm: hệ thống dây chuyền sản xuất, công nghệ, hệ thống đo lường và kiểm tra chất lượng. Khi áp dụng biện pháp này, doanh nghiệp cần phải cẩn thận khi chọn mua các loại máy móc công nghệ tránh mua phải đồ lạc hậu, tiêu tốn nguyên liệu... phải xem xét mối quan hệ vốn – công nghệ – tiêu thụ. Thứ hai: Trong điều kiện hạn chế về vốn, các doanh nghiệp có thể tập trung cải tiến chất lượng theo hướng động viên công nhân trong doanh nghiệp phát huy nội lực, chịu khó tìm tòi, học hỏi để có được những sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng cường bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị, quản lý kỹ thuật để có thể sử dụng máy móc thiết bị được lâu dài. Thứ ba: Có chính sách, quy chế tuyển chọn, bồi dưỡng trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài. Đảm bảo điều kiện cho cán bộ khoa học yên tâm vào việc nghiên cứu, tổ chức tốt thông tin khoa học, đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ cho sản xuất, liên kết giữa khoa học và đào tạo với sản xuất kinh doanh. Phát huy ý thức, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân. Chất lượng sản phẩm làm ra chịu ảnh hưởng quyết định bởi trình độ tay nghề của người công nhân làm ra. Trong điều kiện ngày nay, khi nhiều doanh nghiệp đã thay đổi công nghệ sản xuât, hiện đại hoá trang thiết bị thì vấn đề đặt ra là người công nhân phải có trình độ, hiểu biết để sử dụng tốt các trang thiết bị mới. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần nâng cao ý thức của người lao động, giúp cho họ hiểu được vai trò của họ đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cụ thể, ban giám đốc cần đề ra các tiêu chuẩn cụ thể đối với việc tuyển chọn lực lượng công nhân đầu vào. Các công nhân phải thoả mãn yêu cầu của công việc sau một thời gian thử việc và phải đảm bảo sức khỏe. Để không ngừng nâng cao về tri thức, trình độ nghề nghiệp. Doanh nghiệp nên tuyển chọn những cán bộ quản lý, công nhân sản xuất trực tiếp đi đào tạo nâng cao tại các trường đại học, cao đẳng và trung học dạy nghề... theo từng đợt hợp lý không ảnh hưởng đến công tác, sản xuất. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tay nghề để lựa chọn người làm gương sáng trong lao động và học tập để phát động phong trào thi đua, sản xuất trong toàn doanh nghiệp. Thực hiện tốt điều này không những làm cho chất lượng sản phẩm được bảo đảm, mà còn tạo ra năng suất lao động cao hơn giúp doanh nghiệp hoạt động ổn định và từng bước mở rộng thị trường. Tăng cường quản lý các lĩnh vực, đặc biệt là quản lý kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ quản lý là bộ phận cấp cao trong doanh nghiệp. Vì vậy, họ phải là những người đi đầu trong các hoạt động, các phong trào hướng dẫn người lao động hiểu rõ từng việc làm cụ thể. Ban giám đốc phải nhận rõ vai trò của mình trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó, đề ra đường lối chiến lược, từng bước dìu dắt doanh nghiệp vươn lên. Bộ máy quản lý là yếu tố chủ yếu của quá trình kiểm tra và kiểm soát. Bộ máy quản lý tốt là bộ máy phải dựa vào lao động quản lý có kinh nghiệm, năng lực, có trách nhiệm đối với sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Phải biết cách huy động khả năng của công nhân vào quá trình cải tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hợp tác khoa học – kỹ thuật trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao khả năng công nghệ, trình độ quản lý và trình độ sản xuất. Cán bộ quản lý phải đi sâu, đi sát hiểu rõ nhu cầu, nguyện vọng của người công nhân và cố gắng đáp ứng càng đầy đủ càng tốt, phải có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bộ máy quản lý phải làm cho mọi thành viên trong doanh nghiệp hiểu được vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ chung của mọi phòng, ban cũng như của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp. IV. Quản trị chất lượng sản phẩm một lĩnh vực quan trọng để bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm. 4.1. Bản chất và đặc điểm của quản trị chất lượng sản phẩm. Khoa học quản trị chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng - Quan điểm phương Tây cho rằng: quản lý chất lượng là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong những tổ chức, trên một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng. - Theo quan niệm của người Nhật: Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất. Hiện nay, chúng ta có một số phương pháp quản trị chất lượng như: quản trị chất lượng đồng bộ (TQM), quản trị chất lượng rộng rãi toàn công ty (CWQM), quản trị chiến lược chất lượng (SQM)... Mỗi phương pháp có những quan niệm khác nhau về cách thức quản trị. Chúng cũng có những ưu điểm khác nhau. Tuy nhiên, quan niệm chung nhất, khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay do tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra như sau: “Quản trị chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách chất lượng mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng”. Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế – kỹ thuật biểu thị mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường, một hệ thống tổ chức điều khiển và hệ thống chính sách khuyến khích phát triển chất lượng. Chất lượng được duy trì đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thông kê trong quản trị chất lượng. Trước đây, trong các doanh nghiệp công nghiệp người ta thường coi công tác quản lý chất lượng sản phẩm là một chức năng riêng cuả phòng KCS, các cán bộ nhân viên của phòng này thường xuyên giám sát, thanh tra, kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm. Từ đó phân loại c._.hất lượng, gạt bỏ những sản phẩm không phù hợp với yêu cầu. Đó là một quan niệm gây lãng phí vì nó làm cho doanh nghiệp đầu tư thời gian,nguyên vật liệu... vào những sản phẩm hoặc dịch vụ mà không phải bao giờ cũng đảm bảo được. Việc làm này không loại bỏ tận gốc được sai lầm trong sản xuất, nó chỉ mang tính chất loại bỏ sản phẩm kém chất lượng. Do đó, quản trị chất lượng theo kiểu này không phục vụ nhiều cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Quản trị chất lượng hiện đại cho rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo và tiêu dùng sản phẩm. Quản trị chất lượng là một quá trình liên tục mang tính chất hệ thống thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. 4.2. Những yêu cầu chủ yếu trong quản lý chất lượng - Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu có vai trò trung tâm trong hoạt động của các doanh nghiệp. Cần có sự cam kết, quyết tâm thực hiện của mọi thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt quan trọng là sự cam kết của giám đốc. - Coi chất lượng là nhận thức của khách hàng. Mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng chính là mức độ chất lượng đạt được. Khách hàng là người đánh giá, xác định mức độ chất lượng đạt được chứ không phải các nhà quản lý hay người sản xuất. - Tập trung vào yếu tố con người, con người là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Tất cả mọi người từ giám đốc, các cán bộ quản lý và người lao động đều có vai trò và trách nhiệm về chất lượng. Cần nâng cao về nhận thức tinh thần trách nhiệm, đào tạo tay nghề cho cán bộ, công nhân sản xuất. - Đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện. Công tác quản lý chất lượng phải là kết quả của một hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng đầy trách nhiệm giữa các khâu, các bộ phận vì mục tiêu chất lượng. Tạo ra sự quyết tâm, nhất quán, thống nhất trong phương hướng chiến lược và phương châm hành động trong ban giám đốc. - Sử dụng vòng tròn chất lượng và các công cụ thống kê trong quản lý chất lượng. - Quản lý chất lượng thực hiện bằng hành động và cần văn bản hoá các hoạt động có liên quan đến chất lượng. 4.3. Nội dung của công tác quản lý chất lượng 4.3.1 Thực hiện vòng tròn Deming(PDCA) Hình1. Vòng tròn Deming (PDCA) Theo phương pháp này, cán bộ quản lý thiết lập được vòng tròn Deming và kết thúc mỗi quá trình thực hiện chúng ta có thể ghi ra thành văn bản trong nội bộ doanh nghiệp, sau đó ta soát xét lại những tiêu chuẩn đã thực hiện được ở trên và áp dụng vòng tròn mới. Quá trình này được thực hiện lặp đi lặp lại thành một vòng tuần hoàn liên tục, nhờ đó làm cho chất lương các doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện, cải tiến và đổi mới. Kiểm tra chất lượng. Để đảm bảo rằng các mục tiêu chất lượng dự kiến được thực hiện theo đúng yêu cầu, kế hoạch đặt ra trong quá trình tổ chức thực hiện, cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng. Đó là hoạt động theo dõi thu nhập, phát hiện và đánh giá những khuyết tật của sản phẩm. Mục đích của kiểm tra là tìm kiếm, phát hiện những nguyên nhân gây ra khuyết tật của sản phẩm và sự biến thiên của quá trình để có những biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động này gồm: - Theo dõi tình hình thực hiện, tổ chức thu thập thông tin và các dữ kiện cần thiết về chất lượng thực hiện. - Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức độ chất lượng đạt được trong thực tế cuả doanh nghiệp. - So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện các sai lệch và đánh giá các sai lệch đó trên các phương diện kinh tế – kỹ thuật và xã hội. - Phân tích các thông tin nhằm tìm kiếm và phát hiện các nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện đi chệch so với kế hoạch đặt ra. Khi thực hiện kiểm tra các kết quả thực hiện kế hoạch cần phải đánh giá 2 vấn đề cơ bản sau: - Sự tuân thủ các mục tiêu kế hoạch và nhiệm vụ đã đề ra. Đó là việc tuân thủ các quy trình và kỷ luật công nghệ, duy trì và cải tiến các tiêu chuẩn tính khả thi và độ tin cậy trong việc thực hiện kế hoạch chất lượng. - Tính chính xác, hợp lý của bản thân các kế hoạch. Nếu mục tiêu không đạt được có nghĩa là một trong hai hoặc cả hai điều kiện trên không được thoả mãn. Cần thiết phải xác định rõ nguyên nhân để đưa ra những hoạt động điều chỉnh khác nhau cho thích hợp. Có nhiều phương pháp để kiểm tra CLSP như: phương pháp thử nghiệm, phương pháp cảm quan, phương pháp dùng thử, phương pháp chuyên gia, phương pháp thống kê. 4.3.2. Quản trị chất lượng trong các khâu Quản trị chất lượng sản phẩm là một hoạt động sâu rộng bao trùm từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng thông qua công tác kiểm tra. Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế: Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kinh tế – kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng của mỗi một sản phẩm. Để thực hiện được mục tiêu đó, những nhiệm vụ quan trọng sau đây cần phải được tiến hành. - Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các nhà quản trị Marketing tài chính, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm của sản phẩm. Thiết kế là quá trình nhằm đảm bảo thực hiện những đặc điểm sản phẩm đã được xác định để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản đồ thiết kế và ích lợi của sản phẩm đó. - Đưa ra các phương án khác nhau về các đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Có thể kết hợp từ nghiên cứu với cải tiến sản phẩm và để ra những sản phẩm mới. - Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn ra phương án tối ưu - Quyết định những đặc điểm đã lựa chọn. Các đặc điểm cuả sản phẩm thiết kế phải đáp ứng được các yêu cầu sau: + Đáp ứng nhu cầu của khách hàng. + Thích hợp với khả năng. + Đảm bảo tính cạnh tranh. + Tối thiểu hoá chi phí. - Những chỉ tiêu chủ yếu cần kiểm tra là: + Trình độ chất lượng sản phẩm. + Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chi thức. + Hệ số khuyết tật của sản phẩm thử, chất lượng cho sản phẩm hàng loạt. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất: Mục đích của quản trị chất lượng trong sản xuất là khai thác, huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Giai đoạn này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau. - Cung ứng vật tư, nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa điểm. - Kiểm tra chất liệu vật tư, nguyên liệu đưa vào sản xuất. - Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, thao tác thực hiện từng công việc. - Kiểm tra chất lượng các chi tiết từng bộ phận, bán thành phẩm sau từng công đoạn. Phát hiện sai sót, tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ. - Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh. - Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ, duy trì, bảo dưỡng máy móc. - Đánh giá chung về chất lượng sản phẩm thông qua các thông số kỹ thuật, tỉ lệ sản phẩm sai hỏng.... 4.4. Vai trò của quản trị chất lượng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay quản trị chầt lưộng có vai trò rất quan trọng. Bởi vì quản trị chất lượng một mặt làm cho chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là cơ sở để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường tăng khả năng cạnh tranh về chất lượng, giá cả, củng cố và tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường. Quản trị chất lượng cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp hơn với những mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả. Để nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ các doanh nghiệp có thể tập trung vào cải tiến công nghệ hoặc sử dụng công nghệ mới hiện đại hơn. Hướng đi này rất quan trọng nhưng gắn với chi phí ban đầu lớn và nếu quản lý việc đổi mới máy móc công nghệ không tốt sẽ gây ra lãng phí lớn. Mặt khác có thể nâng cao chất lượng trên cơ sở giảm chi phí hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý chất lượng. Chất lượng sản phẩm được tạo ra từ quá trình sản xuất. Các yếu tố lao động, công nghệ và con người kết hợp chặt chẽ với nhau theo những hình thức khác, tạo thành những sản phẩm, dịch vụ khác. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp xác định đầu tư đúng hướng, khai thác quản lý sử dụng công nghệ, con người có hiệu quả hơn. Đặc biệt yếu tố sáng tạo của con người trong việc cải tiến không ngừng chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Đây là lý do vì sao quản trị chất lượng được đề cao trong những năm gần đây. phần II Phân tích tình hình chất lượng sản phẩm ở công ty 20 hiện nay I. Giới thiệu tổng quát về Công ty 20 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 20 Công ty được thành lập theo Quyết định số 452QĐ-QP ngày 04/08/1993 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và theo Quyết định số 1119/ĐM-DN ngày 13/03/1996 của Văn phòng Chính phủ. Nhiệm vụ chính của Công ty là sản xuất các sản phẩm quốc phòng. Chủ yếu là hàng dệt, may mặc theo kế hoạch hàng năm và dài hạn của Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng. Sản xuất và kinh doanh các mặt hàng dệt, may phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Xuất nhập khẩu các sản phẩm, vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất các mặt hàng thuộc ngành may và dệt của công ty. Để có được một công ty may đứng đầu trong ngành may quân đội, một doanh nghiệp vừa đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng quốc phòng và nhiệm vụ xây dựng kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Những cán bộ chiến sĩ công nhân may 20 đã phải liên tục phấn đấu trong suốt 43 năm qua, 43 năm gian khổ nhưng cũng rất vinh quang bởi những người thợ may 20 đã đóng góp những thành tích đáng kể trong việc xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chặng đường hình thành và phát triển của Công ty 20 trong 43 năm qua có thể chia thành 4 giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Từ năm 1957 đến năm 1962 Sự ra đời và phát triển của "Xưởng may đo hàng kỹ" - Tiền thân của Xí nghiệp may 20. Trong thời gian này, miền Bắc nước ta thực sự có hoà bình. Để xây dựng quân đội chính quy hiện đại, chuẩn bị cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước thì nhu cầu về trang phục cho bộ đội phải có bước phát triển mới. Vì vậy, ngày 18/02/1957 Bộ Quốc phòng đã có Quyết định thành lập "Xưởng may đo hàng kỹ" gọi tắt là X20 - Tiền thân của Công ty 20. X20 ra đời có nhiệm vụ may đo quân trang, phục vụ cán bộ trung cao cấp trong toàn quân, tham gia nghiên cứu, chế thử và sản xuất thử nghiệm các kiểu quân trang quân phục cho bộ đội. Cơ sở vật chất ban đầu rất nghèo, chỉ có một phòng làm việc cũ của tên chủ nhà máy da Thuỵ Khuê thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Lực lượng cán bộ công nhân viên chỉ có hơn 30 người. Với 2 thiết bị các loại, mô hình sản xuất nhỏ, thủ công (giống như một tổ hợp) được chia làm 3 tổ sản xuất, 1 nhóm kỹ thuật đo cắt và một tổ hành chính hậu cần. Mặc dù vậy X20 vẫn luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Cùng với sự trưởng thành lớn mạnh của quân đội, X20 cũng ngày một được mở rộng quy mô sản xuất, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khối lượng sản xuất ngày càng lớn. Từ năm 1960 ngoài kế hoạch sản xuất thường xuyên, X20 còn phải nhận thêm nhiệm vụ sản xuất các loại quân trang đặc biệt cho cán bộ chiến sỹ đi B. Giai đoạn 2: Từ năm 1962 đến 1987 Sự ra đời và phát triển của Xí nghiệp may 20 - Tiền thân của Công ty 20. Sau năm năm vừa xây dựng vừa sản xuất, "Xưởng may đo hàng kỹ" đã thực sự phát triển cả về nhiệm vụ, tổ chức và trang bị kỹ thuật. Vì thế tháng 12 năm 1962, Tổng cục Hậu cần có quyết định "Xưởng may đo hàng kỹ" là Xí nghiệp may 20. Với nhiệm vụ chính là ngoài may đo cho cán bộ trung cao cấp và đảm nhận các kế hoạch đột xuất, xí nghiệp còn phải nghiên cứu tổ chức dây chuyền sản xuất hàng loạt và tổ chức mạng lưới may gia ngoài xí nghiệp. Với nhiệm vụ đó từ những năm 1963 trở đi khối lượng sản phẩm may mặc của xí nghiệp ngày càng tăng việc tổ chức sản xuất gia công ngoài xí nghiệp cũng phát triển rất mạnh với 30 hợp tác xã may mặc ở miền Bắc. Đây là sự phát triển rất đáng khích lệ vì sự phát triển này rất phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của ngành may quân đội trong những năm thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể thấy rõ, từ năm 1965 đầu năm 1975 nhu cầu về đảm bảo quân trang cho bội đội không ngừng tăng lên về số lượng và yêu cầu về chất lượng, kiểu dáng phải được cải tiến phù hợp với yêu cầu chiến đấu của chiến sĩ và yêu cầu xây dựng quân đội chính quy hiện đại. Do đó ngoài việc duy trì và phát triển các tổ chức gia công ngoài xí nghiệp. Tuy phải sơ tán tránh chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, những xí nghiệp vẫn phải mở rộng sản xuất, tuyển thêm lao động. Đến năm 1970 xí nghiệp đã thành lập 7 ban nghiệp vụ và 5 phân xưởng thay thế các tổ nghiệp vụ, tổ sản xuất và từ một xí nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ đã thực sự trở thành một xí nghiệp có quy mô vừa, khẳng định được vị trí của mình trong ngành may quân đội. Từ năm 1974, xí nghiệp lại vinh dự được Tổng cục Hậu cần giao nhiệm vụ may toàn bộ lễ phục cho cán bộ. Có thể nói rằng từ năm 1962 đến 1975 cùng với lực lượng vũ trang nói riêng và cả nước nói chung thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Xí nghiệp may 20 gặp rất nhiều khó khăn về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, máy móc thiết bị,... vừa sản xuất vừa xây dựng và vừa phải phòng chống sự phá hoại của đế quốc Mỹ nhưng xí nghiệp vẫn trưởng thành. Nếu như năm 1963 tổng sản lượng chỉ đạt 92.798 bộ tiêu chuẩn thì năm 1975 tổng sản lượng đã đạt tới 812.874 bộ tiêu chuẩn. Tăng 775,9%. Đó là sự tăng trưởng vượt bậc để xí nghiệp cùng với cả nước bước vào sự nghiệp mới xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để cùng với quân đội và cả nước thực hiện tốt nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng ngoài việc chi viện lực lượng cán bộ công nhân viên cho các xí nghiệp may quan đội ở miền Nam mới được thành lập, xí nghiệp đã nhanh chóng tiến hành hàng loạt các biện pháp như tổ chức lại sản xuất, kiện toàn lại bộ máy quản lý, tăng cường quản lý vật tư, đẩy mạnh sản xuất phụ, tận dụng phế liệu, phế phẩm và lực lượng lao động, mở rộng liên doanh liên kết kinh tế với các đơn vị bạn. Mở rộng cơ sở sản xuất, chuẩn bị điều kiện để tiến hành hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngoài nhiệm vụ may mặc quân phục cho Quân đội Nhân dân Việt Nam, xí nghiệp còn đảm nhận may quân phục cho Quân đội Nhân dân Lào. Đồng thời cử cán bộ sang giúp Lào xây dựng cơ sở may đo. Từ sau ngày giải phóng đến năm 1979, toàn bộ dây chuyền sản xuất của xí nghiệp đã được cơ khí hoá. Xí nghiệp đã đảm nhiệm được khâu sửa chữa, phục hồi các trang bị máy móc của mình và đã có được phương thức quản lý mới khoa học mang lại hiệu quả trong sản xuất. Giai đoạn 3: Từ 1987 đến 1992 Công ty 20 chuyển sang hạch toán kinh doanh mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu tiến lên một bước mới. Tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được nên mặc dù năm 1987 nhu cầu sản xuất quốc phòng giảm mạnh, xí nghiệp đã chủ động khai thác thị trường Liên Xô. Do vậy xí nghiệp vẫn đủ việc làm và cải thiện được đời sống của cán bộ công nhân viên, hoàn thành vượt mức kế hoạch Tổng cục Hậu cần giao (kế hoạch giá trị sản lượng năm 1987 trên giao là 876.866.304 đồng xí nghiệp thực hiện được 890.643.931 đồng, đạt 103% kế hoạch). Với sự nỗ lực phấn đấu để đứng vững trên thị trường quốc tế cũng trong năm 1987, xí nghiệp đã mạnh dạn đầu tư 20.000 USD thiết bị chuyên dùng cho may xuất khẩu. Và một vinh dự lớn đến với Việt Nam là năm 1988 xí nghiệp đã được chấp nhận là thành viên của Confectimex và tham gia chương trình 19/5 về làm gia công xuất khẩu cho bạn hàng Liên Xô. Đây là thành công lớn của xí nghiệp nó đánh dấu một bước tiến của xí nghiệp trong công tác tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý và khả năng trình độ kỹ thuật của xí nghiệp, nhưng nó cũng đòi hỏi xí nghiệp phải tự vươn lên nhanh chóng về mọi mặt để có thể mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà ở nhiều nước trên toàn thế giới. Vì thế những năm 1988 đến 1990 xí nghiệp đã chú trọng tăng cường công tác quản lý sản xuất, quản lý sản phẩm, đẩy mạnh hoạt động Marketing củng cố các mối quan hệ liên doanh. Vì vậy, từ năm 1988 đến 1990 sản xuất kinh doanh của xí nghiệp tăng trưởng nhanh chóng. Đơn vị tính: 1.000.000đ Chỉ tiêu 1988 1989 1990 Sản lượng hàng hoá thực hiện 3.099,975 6.820,53 8.089,027 Nhịp độ phát triển 1 2,20 1,19 Về đời sống của cán bộ CNVC trong xí nghiệp luôn được cải thiện, vào mùa là CBCNVC đều được đi an dưỡng nghỉ mát. Nhờ những thành quả ấy mà năm 1989 xí nghiệp May 20 đã được Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên dương danh hiệu cao quý: đơn vị anh hùng lao động (Quyết định số 317/KT-HĐNN). Bắt đầu từ những năm 1990-1992 do tình hình đất nước có những thay đổi, quân đội có những điều chỉnh quân số nên sản xuất hàng quốc phòng giảm mạnh xuống 50% rồi 15% thậm chí có năm chỉ có 7,5%. Mặt khác ở Đông Âu và Liên Xô có những biến động lớn về chính trị nên Hiệp định 19/5 về hợp đồng gia công hàng may mặc xuất khẩu với bạn hàng Liên Xô chỉ còn thực hiện đến tháng 5 năm 1991. Đứng trước năm nguy cơ thiếu việc làm như vậy, xí nghiệp đã mạnh dạn tổ chức lại sản xuất, bộ trí lại dây chuyền sản xuất ở phân xưởng 2 và phân xưởng 3 tổ chức lại bộ máy quản lý xí nghiệp giảm lao động gián tiếp hạ tỷ lệ lao động gián tiếp từ 11,5% xuống còn 9,6%. Rà soát lại hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, tăng cường hoạt động Marketing, nhờ đó xí nghiệp đã có được các bạn hàng mới ở khu vực Hồng Kông, Đài Loan và Nam Triều Tiên. Sản phẩm của xí nghiệp đã có sức cạnh tranh lớn trên thị trường như các loại áo Jakét, áo Nam Triều tiên được bạn hàng đánh giá cao. Thị trường nghiệt ngã, nhưng thị trường cũng đã tạo những cơ hội để xí nghiệp lớn mạnh. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng với nghị lực của Anh bộ đội Cụ Hồ, cần cù sáng tạo, vừa làm vừa học. Biết đánh giá đúng tình hình, biết nhanh chóng khắc phục những thiếu sót nên xí nghiệp vẫn đứng vững và phát triển trong cơ chế mới: cơ chế thị trường tạo ra những cơ sở tiền đề để nâng cao xí nghiệp thành công ty. Giai đoạn 4: Từ 1993 đến nay Công ty 20 ra đời và phát triển. Sau 35 năm xây dựng (từ 1957 - 1992) từ một "Xưởng máy đo hàng kỹ" có một phòng làm việc với hơn 30 cán bộ công nhân xí nghiệp May 20 đã có 8 phân xưởng sản xuất với 4 phòng chức năng. Từ việc chuyên sản xuất hàng nội địa đã sản xuất hàng xuất khẩu có uy tín trên trường quốc tế với những cơ sở vững chắc như vậy, để hoạt động của xí nghiệp có nhiều thuận lợi. Trong cơ chế thị trường và đảm bảo yêu cầu phát triển của xí nghiệp. Đồng thời cũng đánh dấu một bước trưởng thành của xí nghiệp. Ngày 12/12/1992, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 74b/QP do Thượng tướng Đào Đình Luyện ký chuyển Xí nghiệp May 20 thành công ty 20. Đến ngày 04/08/1993, Bộ Quốc phòng lại có Quyết định số 467/QĐ-QP chính thức thành lập Công ty 20. Khi thành lập về cơ cấu tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý có 6 phòng ban và 3 xí nghiệp: ã 6 phòng ban là: - Phòng sản xuất kinh doanh - Phòng kế toán tài chính - Phòng kỹ thuật chất lượng - Phòng hành chính quản trị - Cửa hàng dịch vụ và giới thiệu sản phẩm - Trung tâm đào tạo kỹ thuật may bậc cao. ã 3 xí nghiệp là: - Xí nghiệp may 1 - Xí nghiệp may 2 - Xí nghiệp may 3. Công ty 20 ra đời trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do sự chi phối của quy luật cạnh tranh, nên công ty gặp phải rất nhiều khó khăn về việc làm, phương tiện máy móc thiết bị, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ, trình độ tay nghề của công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của cạnh tranh. Nhưng với ý chí không ngại khó khăn gian khổ của người lính và với truyền thống vẻ vang hơn 35 năm qua, công ty từng bước ổn định sản xuất, tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân lành nghề, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời tăng cường công tác quản lý, đẩy mạnh hoạt động Marketing. Năm 1994, công ty đã ban hành "Quy chế hoạt động của Công..." đầu tư 1.740 triệu đồng để đổi mới trang thiết bị, 2.400 triệu đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng. Xin phép Bộ Quốc phòng được phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Nhờ những giải pháp trên mà công ty đã có thêm nhiều bạn hàng mới sản phẩm của công ty đã được xuất sang Hàn Quốc, Hà Lan, Nhật Bản, Liên bang Nga. Không thoả mãn với những thành quả đã đạt được. Trong các năm 1995-1998, công ty lại đầu tư thêm một dây chuyền máy may dệt kim trị giá trên 2 tỷ đồng. Thành lập thêm 3 xí nghiệp mới là xí nghiệp dệt kim, xí nghiệp may và xí nghiệp dệt vải. Tuyển thêm lao động, tổ chức đào tạo nâng bậc cho công nhân. Đầu tư xây dựng khu sản xuất và khu điều hành sản xuất ở Sài Đồng, Gia Lâm, Hà Nội. Từ đây sản phẩm của Công ty 20 không đơn thuần chỉ là sản phẩm may nữa mà có cả sản phẩm dệt kim vải,... Do vậy, ngày 17/03/1998, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 319/QĐ-QP đổi tên Công ty may 20 thành Công ty 20. Như vậy, sau 43 năm ra đời xây dựng và trưởng thành từ 1 xưởng "May đo hàng kỹ" với hơn 30 lao động ngày nay Công ty 20 đã có 6 phòng ban nghiệp vụ, 7 xí nghiệp trực thuộc, 1 trung tâm huấn luyện, 1 trường mầm non mẫu giáo đóng tại 9 địa điểm từ TP Nam Định đến Hà Nội. Với lực lượng lao động rất hùng hậu 2.700 người. Nhìn lại chặng đường 43 năm từ "Xưởng may đo hàng kỹ" đến công ty 20 cho ta thấy quá trình phát triển của công ty 20 là phù hợp với tiến trình lịch sử phát triển của đất nước và của Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung và của ngành hậu cần quân đội nói riêng. Đây là quá trình phát triển từ nhỏ đến lớn, từ thô sơ đến hiện đại, từ sản xuất thủ công đến bán cơ khí và cơ khí hoá. Từ quản lý tập trung bao cấp phục vụ cho yêu cầu của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến hạch toán từng phần đến hạch toán toàn bộ, hoà nhập với kinh tế thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới. Những bước đi đó đã tạo ra thế vững chắc cho sự phát triển tiếp theo của Công ty 20. Có thể thấy rõ sự tăng trưởng của Công ty 20 trong 5 năm gần đây qua các chỉ tiêu sau: TT Chỉ tiêu ĐVT 1996 1997 1998 1999 2000 Số lượng Nhịp độ Số lượng Nhịp độ Số lượng Nhịp độ Số lượng Nhịp độ Số lượng Nhịp độ 1 Doanh thu bán hàng tỷ đồng 104,0 1,0 126,60 1,21 150,180 1,20 247,580 1,64 270,70 1,10 2 Giá vốn bán hàng tỷ đồng 92,669 1,0 111,513 1,20 131,371 1,17 225,64 1,71 241,50 1,10 3 Lợi nhuận tỷ đồng 4,9 1,0 6,8 1,38 9,79 1,44 13,20 1,35 15,7 1,20 4 Nộp ngân sách tỷ đồng 5,68 1,0 6,7 1,20 7,50 1,12 7,9 1,05 13,26 1,67 5 Vốn kinh doanh tỷ đồng 23 1,0 34 1,48 52 1,53 63,3 1,22 74,8 1,18 6 Tổng số LĐ bình quân tỷ đồng 1.491 1,0 2.083 1,40 2.596 1,24 2.608 1,01 3.021 1,15 7 Thu nhập bình quân đ/ng 682.000 1,0 750.000 1,10 782.000 1,04 838.200 1,06 906.380 1,09 1.2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu của công ty. * Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và đặc điểm của sản phẩm Lãnh đạo công ty nhận nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm may mặc chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng cục hậu cần, với phương châm, đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu, do vậy công ty luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hoạt động sản xuất của công ty chủ yếu là hàng bộ đội, và mặt hàng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu gia công do khách nước ngoài, khách hàng thiết kế trước hình dáng, kích thước, mầu sắc nguyên vật liệu cũng được giao cho công ty đủ số lượng để sản xuất theo đơn đặt hàng trung bình mỗi đơn hàng từ 1.000 đến 2.000 sản phẩm nhưng cũng có nhiều đơn hàng chỉ có vài trăm hoặc dưới 100 sản phẩm điều này gây khó khăn và tốn kém cho sản xuất, cũng như công tác quản lý chất lượng sản phẩm do mẫu mã thay đổi thường xuyên có những mẫu mã hàng công nhân làm chưa quen tay, chưa đẹp thì đã hết. Sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều kiểu dáng cầu kỳ, phức tạp có nhiều loại hàng do nhiều mảnh vải ghép lại phối tới 8 mầu trong khi đó công nhân còn bỡ ngỡ với nhiều kiểu dáng mầu sắc mới lạ. Do vậy công việc sản xuất gặp một số khó khăn do phải đào tạo nâng cao, hướng dẫn cụ thể cho từng mẫu mã hàng để cho công nhân có thể hoàn thành tốt công việc của mình. Sản phẩm do công ty sản xuất là hàng xuất khẩu cho nên mỗi sản phẩm phải đảm bảo tuyệt đối các tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng cũng như đóng gói sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Một số sản phẩm chủ yếu của công ty như: - áo Jacket - áo đua mô tô - Quần áo bộ đội. 1.3. Đặc điểm thị trường tiêu thụ - Thị trường trong nước: dân số nước ta hiện nay khoảng 80 triệu dân nhu cầu về sản phẩm may mặc là tất yếu đang ngày càng tăng lên, mức sống của người dân được nâng cao, lối sống ăn mặc hiện đại đã du nhập vào nước ta. Điều này buộc các nhà sản xuất phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình kiểu dáng mẫu mãu đến chất lượng sản phẩm. Số lượng các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc ở Hà Nội nhiều, và cả công ty tư nhân ở khắp mọi nơi có thể tồn tại với lượng một đơn vị từ 5-10 người hoặc vài trăm người chính vì vậy nó gây ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp cả về chất lượng lẫn giá cả. - Thị trường nước ngoài: trong giai đoạn này công ty 20 đã có 3 bạn hàng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ. Hiện nay công ty còn đang tiếp tục thâm nhập vào các thị trường khác nữa. Khi đối tác nước ngoài vào Việt Nam để ký hợp đồng gia công hàng xuất khẩu, họ cũng đến nhiều công ty lớn mà các công ty này chủ yếu tới 90% doanh thu đều làm gia công hàng xuất khẩu đem lại. Chính vì vậy, công ty 20 muốn tồn tại và phát triển được thì phải ký được nhiều hợp đồng chỉ còn có cách vượt lên trên họ về mặt chất lượng sản phẩm để nhằm thoả mãn mọi yêu cầu khắt khe của thị trường nước ngoài. 1.4. Đặc điểm về công nghệ. Do quá trình sản xuất cho nhiều loại sản phẩm, mẫu mã khác nhau cho nên công ty đã xây dựng một mô hình sản xuất theo quá trình công nghệ như sau: Gồm 3 công đoạn - Giai đoạn chế thử sản phẩm. - Giai đoạn cắt, thêu, may. - Giai đoạn hoàn thiện sản phẩm Sơ đồ 1. Quy trình công nghệ sản xuất. - Thiết kế bản giác và cho cắt bán thành phẩm - Chế thử sản phẩm - Xác định quy trình công nghệ và yêu cầu kỹ thuật - Chuẩn bị vật tư - Cấp vật tư theo phiếu - May sản phẩm - Là chi tiết - Kiểm tra sản phẩm - Thêu bán thành phẩm - Cấp bán thành phẩm cho phân xưởng may - Cắt bán thành phẩm - Kiểm tra cắt bán thành phẩm - Kiểm tra sản phẩm lần cuối. - Đóng gói sản phẩm - Kiểm tra đóng gói - Là hơi toàn bộ sản phẩm đã may xong - Nhập kho sản phẩm - Xuất kho sản phẩm Trong các bước để tạo ra thành phẩm thì công đoạn may sản phẩm từ bán thành phẩm cắt, thêu và phụ liệu là quan trọng nhất. Đây là giai đoạn mà người công nhân sử dụng kỹ thuật của mình để tạo ra thành phẩm cuối cùng. Tính hợp lý và khoa học của quá trình may ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. - Giai đoạn chế thử sản phẩm là giai đoạn quan trọng. Vì mẫu mà của khách hàng rất đa dạng, phức tạp và chất liệu vải rất khó làm. Vì vậy bộ phận chế thử có trách nhiệm kiểm tra mẫu mã xem có khớp với tài liệu hay không, chất liệu vải như thế nào, rồi từ đó máy lại sản phẩm, xem chi tiết của từng bộ phận có gì phức tạp để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục tránh hiện tượng sai hỏng, sửa chữa trong quá trình sản xuất làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm. - Giai đoạn thiết kế bản giác là công đoạn người công nhân giác mẫu phải kiểm tra mẫu giác xem có đúng từng chi tiết trên mẫu gốc do khách hàng gửi sang hay không và các chỉ tiêu đó có đúng canh sợi chưa, nhiều khi mẫu do khách hàng gửi sang không đúng với áo mẫu. Vì vậy bộ phận chế thử có trách nhiệm kiểm tra và đánh dấu lại canh sợi trên mẫu giác, rồi từ đó người giác mẫu tiếp tục công việc của mình thành một bản giác chính thức nhưng trong quá trình giác mẫu do định mức của khách hàng giao cho có hạn lên các chi tiết của mẫu giác bị trồng lên nhau, canh sợi cũng bị sai đi sẽ gây ra ... bị bùng, vặn, có khi còn bị hụt. Vì vậy người giác mẫu phải chú ý từng chi tiết và giác sao cho phù hợp với bản giác mà không ảnh hưởng đến chất lượng của bán thành phẩm mà định mức cũng không được tăng lên. Chính vì những điều nêu trên đã gây ra không ít khó khăn cho Công ty mà nó còn ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm trong các mã hàng. 1.5. Về phần máy móc thiết bị: Công ty 20 nhận thức được đây chính là phần cốt lõi của công nghệ sản xuất hàng may mặc để có thể nâng cao năng lực sản xuất và tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường thế giới. Do vậy, trong những năm vừa qua công ty đã chú trọng đầu tư hàng loạt máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Hầu hết các máy móc được đầu tư là của các nước có công nghệ sản xuất hàng may mặc tiên tiến như Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc. Hiện tại công ty có: - Máy cắt vòng 10 chiếc - Máy 1 kim 1.182 chiếc - Máy 2 kim 68 chiếc - Máy thùa khuyết 14 chiếc - Máy cắt tay 21 chiếc - Máy vắt sổ 11 chiếc - Máy thùa khuyết bằng 34 chiếc - Máy đính cúc 39 chiếc - Máy thùa khuyết đầu tròn 14 chiếc - Máy ép mex 10 chiếc - Máy vắt gấu mờ 13 chiếc - Máy đính bọ 23 chiếc - Máy may trần đè 15 chiếc - Máy may dích dắc 3 chiếc - Máy bổ túi tự động 1 chiếc - Máy tra tay 3 chiếc - Máy hút bụi vệ sinh 2 chiếc Mấy năm gần đây Công ty 20 đầu tư một số máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất và nâng cao chất lượng của các mã hàng. Nhưng điều đáng quan tâm là đầu tư máy móc hiện đại nhưng trình độ của công nhân còn có hạn chưa làm chủ được máy móc thiết bị. Vì vậy rễ gây ra tình trạng làm chưa đúng, chưa đẹp, có khi còn bị rách gây ra lãng phí mà chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt yêu cầu và gây ra mất lòng tin với khách hàng. Vì vậy trong khi đầu tư thiết bị phải đầu tư đúng lúc, đúng chỗ sao cho có hiệu quả tránh tình trạng sản xuất mà chất lượng của sản phẩm cũng không cao. 1.6. Đặc điểm về nguyên vật liệu: Hầu hết nguyên vật liệu đều do khách hàng mua v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0008.doc
Tài liệu liên quan