Tài liệu Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: ... Ebook Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư được coi là động lực của sự phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng của mọi quốc gia trên thế giới. Để hội nhập và phát triển, nước ta cần rất nhiều vốn đầu tư. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa nguồn lực hạn hẹp và nhu cầu phát triển buộc chúng ta phải lựa chọn đầu tư vào ngành nào, lĩnh vực nào để đạt được hiệu quả cao nhất.
Với vai trò là kênh cung cấp vốn chủ yếu, nhà tài trợ lớn cho các dự án đầu tư, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế. Tuy nhiên trong những năm qua, hiệu quả cho vay của các ngân hàng thương mại chưa cao, nơi cần vốn đầu tư thì chưa được đáp ứng trong khi có tình trạng lãng phí vốn ở nơi khác.
Một trong những nghiệp vụ có nhiều đóng góp quan trọng trong hoạt động kinh doanh cũng như sự an toàn của các ngân hàng thương mại là thẩm định dự án đầu tư. Việc thẩm định chính xác sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn vay, giảm sự rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam".
Đề tài này gồm có 3 chương:
Chương I : Một số vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Trần Chu Toàn trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề này. Em cũng chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, các cô chú, anh chị Phòng Nguồn vốn kinh doanh đã tạo điều kiện và hướng dẫn em tận tình trong thời gian thực tập vừa qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do thời gian nghiên cứu và trình độ còn hạn chế, bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo, các anh chị Phòng Nguồn vốn, bạn bè và những người quan tâm để em có thể hoàn thiện hơn nữa bài viết của mình.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Đầu tư và dự án đầu tư :
Đầu tư :
Khái niệm :
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu và hoạt động thực tiễn khác nhau mà có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư. Trong phạm vi bài viết này, khái niệm đầu tư được hiểu là “ hoạt động sử dụng vốn trong thời gian dài nhằm thu lợi trong tương lai ”. Thực chất của hoạt động đầu tư là tìm kiếm lợi ích trong tương lai xa đối với chủ đầu tư và lợi ích kinh tế xã hội đối với đất nước.
Các đặc trưng cơ bản của đầu tư là tính sinh lợi, thời gian kéo dài và chứa đựng nhiều rủi ro.
Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không ai bỏ vốn, công sức để thực hiện đầu tư mà không tính toán đến lợi ích, lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư đó. Tất cả những người có ý định đầu tư đều mang hy vọng rằng họ sẽ thu được lợi ích lớn hơn chi phí đă bỏ ra. Chính niềm hy vọng đó là động lực chủ yếu của đầu tư.
Đặc trưng thứ hai của đầu tư là tính chất dài hạn. Thực tế việc xây dựng một nhà máy, một xí nghiệp để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu hồi vốn và lợi nhuận không thể được thực hiện và hoàn thành trong ngày một ngày hai.
Đầu tư là một qúa trình gắn với một khối lượng công việc lớn, phải tiến hành trong một số năm, thậm chí nhiều năm. Tính dài hạn của đầu tư cho thấy những dự tính trong đầu tư đều phải chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Do đó nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư.
Nói đến đầu tư cßn là nói đến một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Thực chất của đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận cho chủ đầu tư, đồng thời mang lại lợi ích cho xã hội và điều này chỉ có thể đạt được trong tương lai, có thể sau nhiều năm. Với khoảng thời gian dài đó, có thể có rất nhiều “ biến cố ” xảy ra gây cản trở cho hoạt động đầu tư, thậm chí làm cho đầu tư bị thất bại, đẩy nhà đầu tư vào cảnh “ khuynh gia, bại sản ”. Nhận thức rõ rủi ro trong đầu tư là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tìm ra những cách thức, biện pháp ngăn ngừa, hạn chế để khả năng rủi ro là ít nhất.
Các loại đầu tư :
Đầu tư có thể được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo giác độ nghiên cứu. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu :
Phân loại đầu tư theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào đối tượng mình bỏ vốn :
- Đầu tư gián tiếp : là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn không tham gia quản lý vốn đã bỏ ra. Vì vây, họ cũng không tham gia quản lý điều hành quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Trong đầu tư gián tiếp, người bỏ vốn và người quản lý sử dụng vốn là những chủ thể khác nhau.
Ví dụ : việc các Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho Chính phủ các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; việc các cá nhân, các tổ chức mua lại các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức; hoạt động tín dụng của các tổ chức ngân hµng, quỹ tín dụng…
- Đầu tư trực tiếp : là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Trong đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn và người quản lý sử dụng vốn là một chủ thể. Đầu tư trực tiếp được chia làm hai loại :
+ Đầu tư dịch chuyển : là hoạt động bỏ vốn để mua lại một số cổ phần đủ lớn nhằm nắm quyền chí phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm tăng tài sản của doanh nghiệp mà chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu giá trị tài sản.
+ Đầu tư phát triển : là hoạt động bỏ vốn nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư phát triển có vai trò quan trọng hàng đầu, là phương thức căn bản để tái sản xuất mở rộng, tăng thu nhập quốc dân, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Phân loại đầu tư theo hình thức đầu tư ( theo tính chất đầu tư hay theo mục tiêu đầu tư ) :
- Đầu tư mới : là hoạt động đầu tư nhằm hình thành nên các công trình mới hoàn toàn. Đầu tư mới đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trình độ công nghệ và quản lý mới, nó có ý nghĩa quyết định trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đầu tư chiều sâu : là hoạt động đầu tư, bỏ vốn để mở rộng cơ sở đang hoạt động nhằm nâng cao công suất, tăng thêm mặt hàng, hoặc cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ dây chuyền sản xuất dịch vụ trên cơ sở các công trình đã có sẵn. Đầu tư chiều sâu cần được xem xét trước khi có quyết định đầu tư mới. Đầu tư theo chiều sâu có thể được chia thành : đầu tư mở rộng, đầu tư cải tạo công trình đang hoạt động, đầu tư hiện đại hoá công trình đang sử dụng.
Phân loại đầu tư theo nội dung kinh tế :
- Đầu tư vào lực lượng lao động : nhằm mục đích tăng về lượng về chất, đó là sức lao động thông qua việc tuyển mộ, thuê mướn và đào tạo chuyên gia cán bộ quản lý và công nhân.
- Đầu tư vào tài sản lưu động : nhằm bảo đảm sự hoạt động liên tục nhịp nhàng của quá trình sản xuất kinh doanh, đó là tư liệu sản xuất giá trị nhỏ, nguyên vật liệu, tiền tệ… phục vụ cho quá trình kinh doanh.
- Đầu tư xây dưng cơ bản : nhằm tạo ra hoặc nâng cao mức độ hiện đại tài sản cố định của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng mới nhà xưởng, các công trình hạ tầng và đầu tư cho thiết bị máy móc, bằng phát minh, mua bản quyền, bí quyết công nghệ…
Đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò quyết định, nó gắn liền với việc nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, đòi hỏi vốn lớn, chậm thu hồi.
Ngoài ra, đầu tư còn được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như :
- Theo ngành : đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển công nghiệp, đầu tư phát triển nông nghiệp, đầu tư phát triển dịch vụ.
- Theo nguồn vốn : đầu tư bằng nguồn vốn trong nước, đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài.
- Theo chủ thể đầu tư : đầu tư của Nhµ nước, đầu tư của doanh nghiệp, đầu tư của cá nhân.
Dự án đầu tư :
Khái niệm :
Khái niệm dự án đầu tư được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
- Về mặt hình thức : dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và hệ thống các hoạt động sẽ được thực hiện với các nguồn lực và chi phí, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ nhằm đạt được những kết quả cụ thể để thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
- Về mặt nội dung : dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Một dự án đầu tư bao gồm các yếu tố cơ bản sau :
- Các mục tiêu của dự án : đó là những kết quả và lợi ích mà dự án đem lại cho nhà đầu tư và cho xã hội.
- Các hoạt động để thực hiện mục tiêu của dự án.
- Các nguồn lực cần thiết để thực hiện các hoạt động của dự án và chi phí về các nguồn lực đó.
- Thời gian và địa điểm thực hiện các hoạt động của dự án.
- Các nguồn vốn đầu tư để tạo nên vốn đầu tư của dự án.
- Các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra của dự án.
Yêu cầu của dự án đầu tư :
Một dự án đầu tư muốn có sức thuyết phục, mang tính khả thi thì phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau :
- Tính khoa học : đây là một yêu cầu lớn và rất quan trọng đối với dự án. Để đảm bảo tính khoa học của dự án, những người soạn thảo dự án phải có một quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, kỹ càng, tính toán chính xác từng nội dụng của dự án. Nhiều nội dung rất phức tạp như phân tích tài chính, phân tích nội dung kỹ thuật của dự án, xây dựng tiến độ sử dụng vốn…. rất cần sự tư vấn, giúp đỡ của các cơ quan chuyên môn làm dịch vụ đầu tư.
- Tính thực tiễn : một dự án mang tính thực tiễn cho phép giảm bớt những yếu tố “ không lường trước được ”. Muốn vậy, các nội dung của dự án phải được nghiên cứu và xác định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá đúng mức các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể có liên quan trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động đầu tư. Những hoạt động cụ thể thông thường được xem xét là : điều kiện về mặt hàng, về công nghệ thiết bị, cung ứng vật tư, về vốn đầu tư….
- Tính pháp lý : là cơ sở bước đầu để một dự án đầu tư có được phép đầu tư hay không. Một dự án đầu tư muốn được Nhà nước cấp giấy phép để đi vào hoạt động thì trước hết dự án phải chứa đựng những điều không trái với pháp luật và chính sách của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Tính thống nhất ( hay tính chuẩn mực ) : sự ra đời của dự án không thể thiếu tính thống nhất, bởi dự án có liên quan đến nhà tài trợ, các cơ quản quản lý Nhà nước… Để tạo điều kiện cho các bên đối tác hiểu vµ quyết định lựa chọn dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay vốn đối với dự án và Nhà nước xem xét cấp giấy phép hoạt động cho dự án thì dự án phải tuân thủ các quy định chung của các cơ quan chức năng về hoạt động đầu tư. Đối với những dự án quốc tế thì chúng còn phải tuân theo những quy định chung mang tính quốc tế.
Phân loại dự án đầu tư :
Dự án trong thực tế có nhiều dạng, tuỳ theo các tiêu chuẩn ta có các dạng sau:
Xét theo phân cấp quản lý dự án :
Theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, các dự án đầu tư ( không kể dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ) được phân thµnh ba nhóm A,B,C theo các quy định sau đây :
Dự án nhóm A :
- Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị, xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp mới ( không phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư).
- Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ, khai thác chế biến khoáng sản quý hiếm : vŕng bạc, đá quý, đất quý ( không phụ thuộc quy mô đầu tư ).
- Dự án BOT trong nước xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng đô thị có vốn đầu tư 100 tỷ đồng trở lên.
- Dự án ODA có vốn từ 1,5 triệu USD vốn nước ngoài trở lên.
- Các dự án phi sản xuất : ngành y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học.… trên 75 tỷ đồng ( không kể trụ sở làm việc của cơ quan Nhà nước ).
- Các dự án có tổng mức vốn đầu tư lớn :
+ Trên 400 tỷ đồng đối với các dự án thuộc ngành công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác khoáng sản, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
+ Trên 200 tỷ đồng đối với các dự án về thuỷ lợi, giao thông cấp thoát nước và công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, kỹ thuật điện, điện tủ, tin học, công trình cơ khí, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông.
+ Trên 100 tỷ đồng đối với các dự án hạ tầng khu đô thị mới, các dự án về công nghiệp nhẹ, sành sứ thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông lâm sản.
Dự án nhóm B :
- Các dự án từ 30 đến 400 tỷ đồng thuộc các ngành : công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông, cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
- Từ 20 đến 200 tỷ đồng đối với các dự án về thuỷ lợi, giao thông, cấp thoát nước, công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BTO trong nước, xây dựng khu nhà ở, trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
- Từ 15 đến 100 tỷ đồng đối với các dự án hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới, các dự án về công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây dựng, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông lâm sản.
- Từ 7 đến 75 tỷ đồng đối với các dự án y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học.
Dự án nhóm C :
- Các dự án có tổng mức vốn dưới 30 tỷ đồng thuộc các ngµnh : công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông như : cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
- Dưới 20 tỷ đồng đối với các dự án thuộc các ngành thuỷ lợi, cấp thoát nước, công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông.
- Dưới 15 tỷ đồng đối với các dự án hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới, các dự án thuộc ngµnh công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây dựng, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông lâm sản.
- Dưới 7 tỷ đồng đối với các dự án về y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học.
Xét theo mức độ chi tiết của nội dung dự án :
- Dự án tiền khả thi: được lập cho những dự án có quy mô đầu tư lớn, giải pháp đầu tư phức tạp và thời gian đầu tư dài, không thể đạt được ngay tính khả thi mà phải qua nghiên cứu sơ bộ và lập dự án sơ bộ. Đối với các dự án có quy mô đầu tư không lớn, giải pháp đầu tư không phức tạp có thể bỏ qua bước lập dự án tiền khả thi và lập ngay dự án khả thi.
- Dự án khả thi : là dự án chi tiết, các giải pháp có căn cứ và mang tính hợp lý, có thể thực hiện được, khả năng tạo ra kết quả như dự tính và đạt được mục tiêu đề ra có thể được xem là chắc chắn.
Ngoài ra, việc phân loại dự án đầu tư còn được xem xét theo các cách khác như :
- Xét theo thời gian ấn định có : dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài hạn.
- Xét theo ngành kinh tế xã hội có : các dự án sản xuất thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội.
- Xét theo chủ đầu tư có : dự án đầu tư của Nhà nước và dự án đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Ý nghĩa của dự án đầu tư :
Đầu tư là một quá trình tìm kiếm lợi nhuận đầy gian nan, vất vả. Mặt khác, đây cũng là một quá trình hết sức phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xă hội. Ý nghĩa của dự án đầu tư được thể hiện cụ thể như sau :
- Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng nhất để quyết định bỏ vốn đầu tư.
- Dự án đầu tư là phương tiện để t×m đối tác trong và ngoài nước liên doanh bỏ vốn đầu tư, là phương tiện thuyết phục các tổ chức tài chính tiền tệ trong và ngoài nước tài trợ hoặc cho vay vốn, là văn kiện cơ bản để các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư.
- Dự án đầu tư là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi, đánh giá và có sự điều chỉnh kịp thời những tồn tại và vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình.
- Dự án đầu tư tốt có tác dụng tích cực giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các bên có liên quan đến việc thực hiện dự án. Đây cũng là cơ sở pháp lý để xét xử khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh, là căn cứ quan trọng để xây dựng hợp đồng liên doanh, soạn thảo điều lệ của xí nghiệp liên doanh.
Chu kỳ của dự án đầu tư :
Chu kỳ của dự án đầu tư (còn gọi là chu trình của dự án đầu tư) là các giai đoạn và các bước mà một dự án đầu tư phải trải qua, để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đạt được các mục tiêu đề ra.
Chu kỳ dự án đầu tư bao gồm các giai đoạn sau :
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư :
Đây là giai đoạn đầu tiên của mọi dự án, tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở các giai đoạn sau. Nội dung chính của giai đoạn này là thu thập mọi thông tin, số liệu, tài liệu có liên quan đến công trình đầu tư sau này. Từ đó tiến hành phân tích, đánh giá nhằm đưa ra kết luận nên hay không nên đầu tư vốn vào dự án. Giai đoạn này gồm các bước chính sau :
- Nghiên cứu, phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư : mục đich của bước này là phát hiện các cơ hội đầu tư và xác định khả năng khai thác từng cơ hội, làm cơ sở lựa chọn những cơ hội có triển vọng và phù hợp để tiến hành các bước nghiên cứu xây dựng dự án tiếp theo. Sản phẩm của bước này là các báo cáo kỹ thuật về các cơ hội đầu tư.
- Nghiên cứu tiền khả thi : đây là bước tiếp tục nghiên cứu các cơ hội đầu tư đã được phát hiện và đánh giá ở trên nhằm sàng lọc các cơ hội đầu tư có triển vọng và phù hợp nhất để tiến hành nghiên cứu sâu hơn, chi tiết và kỹ lưỡng hơn. Thực chất là thông qua nghiên cứu các báo cáo kinh tế kỹ thuật về các cơ hội đầu tư để chọn các cơ hội đầu tư có triển vọng và phù hợp nhất.
Nội dung của bước này là thu thập những thông tin cơ bản có liên quan đến dự án, tiến hành xử lý và đưa ra những kết luận sơ bộ ban đầu, từ đó khẳng định được là nên hay không nên tiếp tục triển khai dự án.
Sản phẩm của bước này là các báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi là cơ sở để trình cho các cơ quan chủ quản xem xét, là cơ sở để các đối tác xem xét có nên bỏ vốn đầu tư hay không và cũng là căn cứ để quyết định việc tiếp tục hay ngừng dự án đầu tư.
- Nghiên cứu khả thi : trên cơ sở nghiên cứu tiền khả thi, chủ đầu tư nghiên cứu đánh giá các kết quả, nếu thấy dự án có những dấu hiệu khả quan theo các chỉ tiêu phân tích thì chủ đầu tư có thể quyết định nghiên cứu khả thi.
Nghiên cứu khả thi là bước nghiên cứu đầy đủ nhất và sâu sắc nhất trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Nội dụng nghiên cứu ở bước này cũng bao gồm những vấn đề như ở bước nghiên cứu tiền khả thi nhưng được nghiên cứu kỹ lưìng, chi tiết và có độ chính xác cao hơn giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, nhằm loại bỏ những sai sót có thể có ở các bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và nghiên cứu tiền khả thi. Mục tiêu của bước này là khẳng định lại lần cuối cùng về việc nên hay không nên đầu tư vào dự án.
Các nghiên cứu và các kết luận sẽ được tập hợp trong một tài liệu gọi là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi ( hay luận chứng kinh tế kỹ thuật ). Nghiên cứu khả thi là cơ sở để thẩm định, quyết định đầu tư và là căn cứ để quyết định triển khai dự án trên thực tế.
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư : dự án sau khi được hoàn thiện sẽ được tiến hành thẩm định để đi đến quyết định có nên đầu tư hay không. Trình tự và nội dung thẩm định được tiến hành theo quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trong từng thời kỳ.
Giai đoạn thực hiện đầu tư :
Giai đoạn này bao gồm các công việc sau :
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước ( nếu có xây dựng).
- Chuẩn bị mặt bằng xây dựng ( nếu có xây dựng ).
- Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kỹ thuật và chất lượng công trình (đấu thầu tuyển chọn tư vấn ).
- Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình.
- Tổ chức đầu thầu, mua sắm thiết bị, thi công xây lắp.
- Xin giấy phép xây dựng, giấy phép khai thác tài nguyên ( nếu có ).
- Ký kết hợp đồng với nhà thầu để thực hiện dự án.
- Thi công xây dựng, lắp đặt công tr×nh.
- Vận hành chạy thử.
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng.
Giai đoạn vận hành và khai thác dự án :
Đây là giai đoạn thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý các hoạt động đó theo kế hoạch đã dự tính. Trong giai đoạn này, dự án bắt đầu sinh lợi. Đối với một số dự án, quá trình khai thác, vận hành có thể tiến hành ngay cả trong giai đoạn còn đang thực hiện dự án.
Ở giai đoạn khai thác dự án, cần tiến hµnh công việc đánh giá dự án sau thực hiện. Thực chất đây là việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành, khai thác nhằm điều chỉnh các thông số kinh tế kỹ thuật để đảm bảo mức độ được dự kiến. Bên cạnh đó, việc đánh giá dự án còn nhằm tìm kiếm cơ hội phát triển, mở rộng dự án hoặc điều chỉnh các yếu tố của dự án cho phï hợp với tình hình thực tế để đảm bảo hiệu quả của dự án. Dựa vào các kết quả đă phân tích, đánh giá quá trình vận hành, khai thác dự án, chủ đầu tư ra quyết định đúng đắn về sự cần thiết kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động của dự án.
Khi kết thúc dự án phải tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt động của dự án ( thanh toán công nợ, thanh lý tài sản và hoàn thành các thủ tục pháp lý khác ).
Nội dung của dự án đầu tư :
Một dự án đầu tư thường có các nội dung sau :
- Sự cần thiết phải đầu tư.
- Nghiên cứu, phân tích thị trường sản phẩm, dịch vụ của dự án.
- Phân tích, lựa chọn hình thức đầu tư.
- Nghiên cứu, phân tích công nghệ và kỹ thuật.
- Phân tích tài chính.
- Nghiên cứu phân tích kinh tế xã hội.
- Tổ chức và quản lý dự án.
- Kết luận và kiến nghị.
Thẩm định dự án đầu tư :
Khái niệm :
Các dự án đầu tư khi được soạn thảo xong, dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ lưỡng thì mới chỉ qua bước khởi đầu. Trong qúa trình nghiên cứu đó không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Để đánh giá tính hợp lý, tính khả thi, tính hiệu quả của dự án và quyết định dự án có được thực hiện hay không phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Qúa trình đó gọi là thẩm định dự án.
Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc thẩm tra, so sánh đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án, hoặc so sánh đánh giá các phương án của một hay nhiều dự án để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Từ đó có những quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
§ối với ngân hàng, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của dự án để phục vụ cho việc xem xét, quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án.
Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư :
Xuất phát từ vai trò quản lý vĩ mô đối với các hoạt động đầu tư, Nhà nước tiến hành can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước biết xem liệu dự án có góp phần đạt được mục tiêu của đất nước hay không ? Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào ? Đây chính là quá trình thẩm định dự án.
Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Để đảm bảo tính khách quan của dự án, cần thiết phải thẩm định. Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể có mâu thuẫn, không logic, thậm chí có thể có những câu văn, những chữ dùng sơ hở có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án sẽ phát hiện và sửa chữa những sai sót đó.
Ngân hàng cũng như mọi nhà đầu tư khác, luôn quan tâm đến tính sinh lợi của đồng vốn mình bỏ ra. Chính vì vậy, trước khi quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án, ngân hàng quan tâm đến việc liệu dự án đó có khả năng hoàn trả vốn và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không ? Việc thẩm định sẽ giúp ngân hàng tránh cho vay những dự án không có hiệu quả nhưng mặt khác cũng không bỏ lỡ những cơ hội đầu tư có lợi.
Mục đích của thẩm định dự án đầu tư :
Đối với mọi dự án đầu tư, việc thẩm định nhằm mục đích đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án. Tuy nhięn, mục đích cuối cùng của thẩm định dự án đầu tư phụ thuộc vào chủ thể thẩm định dự án :
- Chủ đầu tư thẩm định dự án nhằm đưa ra quyết định đầu tư.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng thẩm định dự án tiền khả thi để xét duyệt cho phép tiếp tục nghiên cứu khả thi, thẩm định dự án khả thi để xét duyệt cấp giấy phép đầu tư.
- Các định chế tài chính thẩm định dự án khả thi để đưa ra quyết định tài trợ hoặc cho vay vốn.
Ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư :
Thẩm định dự án đầu tư có nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào các chủ thể khác nhau :
- Thẩm định dự án đầu tư giúp chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất theo quan điểm hiệu quả tài chính và tính khả thi của dự án.
- Giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được tính hợp lý của dự án đứng trên hiệu quả kinh tế xã hội.
- Giúp mọi người nhận thức và xác định rõ những cái lợi cái hại của dự án trên các mặt để có biện pháp khai thác và khống chế.
- Xác định rő tư cách pháp nhân của các bên tham gia dự án.
Đối với ngân hàng thương mại, với tư cách là người tài trợ vốn cho các dự án trên nguyên tắc phải thu được vốn và lãi trong một thời gian, vì vậy thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa sau :
- Thông qua thẩm định với những kết quả thu được, ngân hàng có cơ sở quan trọng nhất để quyết định chủ trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn, đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư. Sau khi thẩm định, ngân hàng sẽ tiến hành tài trợ cho các dự án có khả năng hoàn trả vốn và lãi, đồng thời từ chối những dự án kém hiệu quả không có khả năng hoàn trả.
- Thông qua thẩm định, phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp cho chủ đầu tư nhằm nâng cao tính khả thi cho việc triển khai thực hiện dự án, hạn chế và giảm bớt các rủi ro. Thông thường các ngân hàng sẽ tham gia góp ý kiến về thị trường tiêu thụ, giá thành, tỷ giá, lãi suất...
- Thông qua thẩm định, ngân hàng có cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, dự kiến tiến độ giải ngân, mức thu nợ hợp lý, các điều kiện cho vay tạo tiền đề cho khách hàng hoạt động có hiệu quả và đảm bảo mục đích đầu tư của ngân hàng.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư :
Tuỳ theo quy mô đầu tư, hình thức đầu tư, nguồn vốn đầu tư mà yêu cầu về nội dung thẩm định có sự khác nhau.
Thẩm định tổng quan :
Trước khi tiến hành thẩm định chi tiết các nội dung của dự án, các chủ thể thẩm định cần thẩm định tổng quan nhằm hình dung được một cách sơ bộ về dự án, nhanh chóng lựa chọn ra những dự án có triển vọng, từ đó mới tiến hành các bước tiếp theo.
Thẩm định tổng quan bao gồm :
- Thẩm định hồ sơ dự án : xem xét tính hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ của bộ hồ sơ. Hồ sơ xin vay vốn tại ngân hàng gồm các loại sau :
+ Giấy đề nghị vay vốn ( theo mẫu quy định của ngân hàng ).
+ Hồ sơ về khách hàng vay vốn : chủ yếu là hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng và người bảo lãnh.
+ Hồ sơ về dự án vay vốn.
+ Hồ sơ bảo đảm nợ vay : đó là các giấy tờ pháp lý về tài sản thế chấp hoặc cầm cố của bên vay hoặc người bảo lãnh.
- Thẩm định, đánh giá mức độ tin cậy, uy tín và năng lực của chủ đầu tư.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ của chủ đầu tư, cán bộ thẩm định tiến hành kiểm tra các thông tin ban đầu được cung cấp từ chủ đầu tư. Trên cơ sở đó có những đánh giá về quá trình hoạt động kinh doanh, năng lực kinh doanh….của chủ đầu tư.
Đối với ngân hàng, việc đánh giá về chủ đầu tư sẽ dễ dàng hơn nếu họ là khách hàng lâu năm của ngân hàng. Nếu là khách hàng mới, ngân hàng có thể tham khảo các bạn hàng của họ và từ các nguồn khác.
Thẩm định sự cần thiết đầu tư và mục tiêu của dự án :
Trong bước này cần xem xét trên các khía cạnh và vấn đề sau :
- Mục tiêu của dự án là gì ? Mục tiêu đó có phù hợp và đáp ứng mục tiêu của ngành, của địa phương và của cả nước không ?
- Nếu được thực hiện th× dự án đầu tư sẽ mang lại lợi ích gì cho chủ đầu tư, cho địa phương, cho nền kinh tế ?
- Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề Nhà nước cho phép hoạt động hay không ? Dự án đó có thuộc diện được Nhµ nước ưu tiên, khuyến khích hay không ?
Thẩm định về thị trường của dự án :
Nội dung thị trường của dự án đầu tư rất được ngân hàng quan tâm vì hai lý do cơ bản : ý tưởng hình thành phải xuất phát từ thị trường, từ quá trình nghiên cứu thị trường cẩn thận của chủ đầu tư khi quyết định đầu tư. Thị trường là nơi cuối cùng đánh giá chất lượng của sản phẩm, về khả năng tiêu thụ và hiệu quả của dự án đầu tư. Nếu ngân hàng không đánh giá chính xác yếu tố này thì dù có chính xác trong thẩm định các yếu tố sau của dự án thì cũng khó tránh khỏi những rủi ro trong việc đưa dự án đầu tư vào thực hiện trên thực tế.
Nội dung thẩm định thị trường của dự án đầu tư bao gồm :
- Kiểm tra tính toán về nhu cầu hiện tại, dự toán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm của dự án. Xu hướng của sản phẩm tăng hay giảm trong thời gian tới ? Ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm, liên hệ với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm của dự án bị thay thế bởi các sản phẩm có cùng công dụng.
- Xác định năng lực sản xuất, khả năng đáp ứng nhu cầu nhu cầu trong nước hiện tại của dự án như thế nào ? Các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao nhiªu %, phải nhập khẩu bao nhiêu ? Việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn ?
- Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác cùng loại, ảnh hưởng của các chính sách xuất nhập khẩu đến thị trường sản phẩm của dự án khi Việt Nam tham gia vào hiệp hội các nước trong khu vực và quốc tế.
- Thị trường mục tiêu của sản phẩm là gì ? Việc định hướng thị trường như thế là có hợp lý ._.hay không ?
- Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án : về hình thức, mẫu mã, chất lượng, giá cả sản phẩm của dự án so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường như thế nào ? Có ưu điểm gì không ? Sản phẩm có phù hợp với thị hiếu, khả năng thu nhập của người tiêu dùng không ? Đối với thị trường nước ngoài thì còn phải xem xét đến khả năng đạt các yêu cầu về tiêu chuẩn để xuất khẩu không? Sản phẩm cùng loại của Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường xuất khẩu dự kiến chưa ? Kết quả như thế nào ?….
- Sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào ? Mạng lưới phân phối sản phẩm của dự án đã được xác lập hay chưa ? Có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không ? Chi phí dự kiến để thiết lập mạng lưới phân phối ?
- Phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay ? Nếu việc tiêu thụ chỉ dựa vào một số đơn vị phân phối thì cần có nhận định xem có xảy ra việc bị ép giá hay không ? Dự đoán khả năng tiêu thụ của sản phẩm…
Nếu các kết quả phân tích trên cho thấy nhu cầu của thị trường chỉ mang tính nhất thời hay đang dần bị thu hẹp lại thì cần phải hết sức thận trọng khi bỏ vốn đầu tư cho dự án.
Thẩm định về công nghệ kỹ thuật của dự án :
Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt hàng xây dựng dự án :
Các dự án đầu tư mới, mở rộng quy mô sản xuất lớn cần có các phương án về địa điểm để xem xét lựa chọn :
- Vị trí của dự án phải được tối ưu hoá về :
+ Tuân thủ các quy định về quy hoạch xây dựng, kiến trúc của địa phương và các quy định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về phòng cháy, chữa cháy, quản lý di tích lịch sử…
+ Thuận lợi về giao thông.
+ Gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu.
+ Tận dụng các cơ sở hạ tầng có sẵn trong vùng : đường sá, bến cảng, điện nước…
+ Các chất phế thải, nước thải nếu có độc hại đều phải qua khâu xử lý và gần tuyến thải cho phép.
- Mặt bằng được chọn phải đủ rộng để phát triển trong tương lai phù hợp với tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.
- Cần xem xét các số liệu về địa chất công trěnh để từ đó ước tính được chi phí xây dựng và gia cố nền móng.
- Nếu việc đầu tư đòi hỏi phải xây dựng ở địa điểm mới cũng cần xem xét kỹ khả năng thực thi việc giải phóng mặt bằng, đền bù để có thể ước lượng tương đối đúng chi phí và thời gian.
Lựa chọn quy mô vµ c«ng suÊt cñadự án :
Khi lựa chọn quy mô và công suất của dự án cần trả lời tốt các câu hỏi sau :
- Quy mô và công suất có phù hợp với khả năng tiêu thụ sản phẩm không ?
- Quy mô và công suất có phù hợp với khả năng đáp ứng vốn, cung cấp nguyên liệu, năng lực quản lý của doanh nghiệp không ?
Lựa chọn công nghệ và trang thiết bị :
Những vấn đề cần làm rõ khi lựa chọn công nghệ và trang thiết bị là :
- Công nghệ được lựa chọn có phù hợp với điều kiện của địa phương hay không ?
- Tính hiện đại và đồng bộ của công nghệ thiết bị ?
- Lý do lựa chọn thiết bị công nghệ hiện tại ?
- Đã đưa ra các phương án để so sánh, lựa chọn công nghệ thiết bị chưa ?
- Công nghệ, thiết bị mới và hiện đại có được đảm bảo bằng các hợp đồng chuyển giao hay không ?
- Ưu, nhược điểm của từng phương án ?
- Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô của dự án.
- Đối với các thiết bị nhập ngoại cần qua đấu thầu để lựa chọn nhằm đảm bảo chất lượng vµ giá cả. Kiểm tra các hợp đồng cung ứng, các bên chào hàng, thanh toán, tránh sơ hở gây thiệt hại cho chủ đầu tư và ngân hàng.
Khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác :
Nội dung cụ thể bao gồm :
- Kiểm tra các tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên nhiên vật liệu chủ yếu, năng lượng, điện, nước… trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh mức tiêu hao thực tế.
- Đối với nguyên nhiên vật liệu thời vụ hoặc nhập khẩu cần tính toán mức dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp thường xuyên, tránh lãng phí.
- Về nguồn cung cấp : cần xác định rő dự án có một hay nhiều nhà cung cấp, đã có quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng, mức độ tín nhiệm?
- Chính sách nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào ( nếu có ).
- Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào, tỷ giá trong trường hợp phải nhập khẩu.
- Đối với các dự án khai thác tài nguyên khoáng sản phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, phân tích đánh giá về trữ lượng, hàm lượng, chất lượng tài nguyên, giấy phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án hoạt động được lâu dài.
Những phân tích đánh giá trên nhằm kết luận được hai vấn đề :
- Dự án có chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào hay không ?
- Những thuận lợi, khó khăn đi kèm với việc để có thể chủ động được nguồn nguyên nhiên vật liệu.
Kỹ thuật xây dựng công trình, giải pháp kiến trúc, kết cấu xây dựng :
Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án :
Thẩm định phương diện tổ chức, quản trị, nhân sự :
Thẩm định phương diện tài chính :
Mục đích chủ yếu của việc thẩm định, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư nhằm :
- Kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
- Kiểm tra tình hình, kết qủa và hiệu quả hoạt động của dự án để đánh giá khả năng sinh lời của vốn đầu tư, thời gian hoŕn vốn, độ rủi ro của dự án….
Để đạt được mục đích trên, cần tiến hành thẩm định thông qua các nội dụng chủ yếu sau :
Xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án :
Tổng mức vốn đầu tư là số vốn dự kiến để chi phí cho toàn bộ quá trình đầu tư nhằm đạt được mục tiªu đầu tư, đưa vào khai thác, sử dụng theo yêu cầu của dự án ( bao gồm cả yếu tố trượt giá ) được phân tích, tính toán và xác định trong nghięn cứu khả thi của dự án.
Tổng vốn đầu tư cho thấy một cách khái quát quy mô của dự án, thông thường bao gồm các bộ phận : vốn cố định, vốn lưu động vµ vốn dự phòng.
Về phía ngân hàng khi tiến hành thẩm định tổng vốn đầu tư cho dự án, cần xem xét kỹ các khía cạnh sau :
- Đối với vốn xây lắp : Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây lắp phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi đó khi kiểm tra cần chú ý :
+ Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lặp.
+ Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.
+ Kiểm tra tính đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng trong dự án.
- Đối với vốn thiết bị : đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các dự án đặc biệt là các công trình sản xuất công nghiệp. Thông thường vốn thiết bị trong các dự án chiếm tới 60-70% tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy khi kiểm tra cần chú ý :
+ Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu kỹ thuật để đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ thuật.
+ Kiểm tra lại giá mua, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản. Tuỳ theo từng loại thiết bị mà giá mua có thể sử dụng là giá thị trường hoặc giá do Nhà nước quy định. Đối với các thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ sản xuất thì chi phí thiết bị còn bao gồm chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí mua bí quyết kỹ thuật, chi phí cho chuyên gia lắp đặt và điều chỉnh. Vốn thiết bị là cơ sở cho việc tính khấu hao thiết bị sau này nên khi tính toán cần đảm bảo tính chính xác cao.
Ngoài ra trong việc kiểm định ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu vốn đầu tư bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nµo sẽ đảm bảo cho dự án được thực hiện.
Như vậy đối với ngân hàng, việc xác định vốn tiến độ bỏ vốn cho dự án giúp cho quá trình điều hành vốn của ngân hàng được thuận lợi trong khâu lập kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn, đồng thời còn giúp ngân hàng theo dõi tốt hơn các hoạt động của chủ đầu tư, từ đó xác định được mức độ hiệu quả của những đồng vốn bỏ ra.
Xác định nguồn vốn và sự bảo đảm nguồn vốn tài trợ cho dự án :
Ngân hàng khi thẩm định cần kiểm tra các nguồn tài trợ cho dự án bao gồm :
- Vốn tự có : Khi xác định ngân hàng cần phải phân tích tình hình tài chính và tình hình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp trong hai năm gần nhất thông qua các báo cáo tài chính, thông tin từ cán bộ tín dụng chuyên quản đối với doanh nghiệp.
- Vốn từ ngân sách Nhà nước : đây là nguồn vốn có tính an toàn cao. Để khẳng định được nguồn vốn này, cán bộ thẩm định phải dựa vào những văn bản cam kết việc cấp vốn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kèm theo hồ sơ dự án và đơn xin vay.
- Vốn vay từ các ngân hàng khác : Người thẩm định cũng cần xem xét khả năng cho vay từ các ngân hàng này thông qua các văn bản cam kết ban đầu về số lượng, tiến độ bỏ vốn vào dự án của ngân hàng đó.
- Vốn doanh nghiệp vay trực tiếp từ nước ngoài : Đối với nguồn vốn này phải xem xét việc chấp hành các quy định của Nhà nước về vay vốn nước ngoài đối với doanh nghiệp, xem xét các điều kiện vay vốn như lãi suất, thời hạn vay, phương thức chuyển giao vốn…
Sau khi đă kiểm tra tính hiện thực của các nguồn vốn, ngân hàng đánh giá nguồn vốn đảm bảo thông qua chỉ tiêu tỷ số nợ :
Số vay nợ
Tỷ số nợ = ----------------------------------------------
Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp thường muốn có tỷ số nợ cao, ngược lại các nhà tài trợ như ngân hàng thường muốn tỷ số nợ thấp nhằm giảm bớt rủi ro.
Hiện nay theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì tỷ số này phải tối thiểu là 7:3. Khi xem xét, nếu ngân hàng nhận thấy dự án còn có nhược điểm thì cần tìm nguyên nhân để khắc phục hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp ngân hàng quyết định cho vay, ngân hàng cần có kế hoạch cho vay với lịch trình giải ngân phù hợp.
Thẩm định giá thành sản phẩm dự án :
Giá thành sản phẩm là những chi phí cần thiết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của dự án và cũng là chỉ tiêu gốc để tính toán các chỉ tiêu khác.
Khi tính toán giá thành, người thẩm định cần kiểm tra tính hợp lý của các định mức như :
- Mức tiêu hao nguyên vật liệu.
- Đơn giá tiền lương.
- Mức khấu hao….
Mặt khác cần xem xét phương pháp tính giá thành có phù hợp với quy trình sản xuất sản phẩm hay không ?
Sau khi kiểm tra việc tính toán giá thành sản phẩm của dự án, người thẩm định cần so sánh với giá thành sản phẩm cùng loại của các cơ sở sản xuất trong và ngoài nước khác để đánh giá theo nguyên tắc chung là giá thành sản phẩm dự án cần thấp hơn hoặc ngang với giá thành sản phẩm cùng loại.
Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của dự án :
Phương pháp phân tích hiệu quả tài chính giản đơn :
- Chỉ tiêu lợi nhuận giản đơn ( hệ số hoàn vốn giản đơn E, ROI ):
Hệ số hoàn vốn giản đơn ( E hoặc ROI ) là tỷ lệ của lợi nhuận ròng trong năm bình thường và vốn đầu tư ( vốn cố định và vốn lưu động ). Hệ số này có thể được tính toán trên tổng vốn đầu tư hoặc vốn tự có tuỳ thuộc vào việc ta muốn biết hiệu quả của tổng vốn đầu tư hay hiệu quả của vốn tự có.
+ Công thức tính :
F+Y
ROI = E = ----------
I
F
Hoặc ROIc = Ec = -------
It
Trong đó E = ROI : hệ số hoàn vốn giản đơn trên tổng vốn đầu tư.
Ec = ROIc : hệ số hoàn vốn giản đơn trên vốn tự có.
F : Lợi nhuận ròng trong năm bình thường.
Y : Lãi tiền vay hàng năm trong năm bình thường
I : Tổng vốn đầu tư bao gồm vốn vay và vốn tự có ( It )
Chỉ tiêu ROI cho biết một đồng vốn đầu tư của dự án thu được bao nhiêu đồng thu nhập ròng trong mỗi năm. ROI là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư cũng như dự án nói chung.
+ Nguyên tắc sử dụng : tiêu chuẩn để sử dụng hệ số hoàn vốn giản đơn là nếu hệ số E hoặc Ec cao hơn lãi suất tính toán ( Itt ) thì dự án được coi là tốt. Trong trường hợp phải lựa chọn một số dự án để xem xét thì dự án có hệ số giản đơn lớn nhất sẽ được chọn để thực hiện với điều kiện các tiêu chuẩn khác đều bằng nhau.
+ Ưu điểm của phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn : đơn giản trong việc tính toán, được tính trên cơ sở các giá trị dự kiến của vốn đầu tư và lợi nhuận ròng trong năm bình thường mà không cần bất kỳ một sự điều chỉnh nào.
+ Nhược điểm :
. Phương pháp này xuất phát từ tiêu chuẩn gần đúng bởi vì nó dựa vào các số liệu của một năm.
. Trong thực tế rất khó tìm được năm bình thường đại diện một cách thoả đáng cho toàn bộ thời gian hoạt động của dự án.
. Phương pháp này không xem xét tới yếu tố thời gian của các chi phí và lợi nhuận trong quá trình hoạt động của dự án.
Mặc dù vậy, phương pháp này là phương pháp tiện lợi để đánh giá nhanh chóng hiệu quả kinh tế vốn đầu tư của dự án, đặc biệt lŕ các dự án có thời gian hoạt động tương đối ngắn. Ngoài ra còn có thể sử dụng nó trong trường hợp ở trong nước không thể có đủ thông tin cần thiết cho việc phân tích một cách tổng hợp hơn hoặc đánh giá sơ bộ trong các giai đoạn đầu lập dự án.
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn ( T ) :
Thời gian hoàn vốn là thời gian cần thiết để dự án hoàn lại tổng số vốn đầu tư đă bỏ ra bằng các khoản lãi tiền mặt. Nó chính là số năm trong đó dự án sẽ tích luỹ các khoản bằng tiền mặt để bů đắp tổng số vốn đầu tư bỏ ra.
+ Công thức tính :
T
I = ∑ ( Ft + Đt )
t=0
Trong đó I : Tổng số vốn đầu tư
T : Thời gian thu hồi vốn
Ft : Lợi nhuận ròng hàng năm tại năm t ( lãi ròng )
Đt : Khấu hao hàng năm tại năm t
Nếu dự án có lãi hàng năm bằng nhau ( khấu hao hàng năm bằng nhau, lãi ròng hàng năm cũng bằng nhau ) thì sử dụng công thức :
I
T = --------------
Ft + Đt
Nếu dự án có sử dụng vốn vay, tức phải trả lãi và số lãi vay hàng năm cũng bằng nhau thì :
I
T = -------------------------
Ft + Đt + Lv
Với Lv : Lãi vay hàng năm.
Nếu lãi ròng, khấu hao và lãi vay hàng năm không bằng nhau thì tính thời gian hoàn vốn bằng cách lập bảng.
+ Nguyên tắc sử dụng tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn : dự án sẽ được chấp nhận nếu T Tm thì dự án xem như bị loại. T, được xác định trên cơ sở kinh nghiệm và các cơ hội đầu tư khác của chủ đầu tư, do đó nó sẽ khác nhau đáng kể trong các trường hợp khác nhau. Trong số các dự án xem xét, dự án nào có thời hạn thu hồi vốn ngắn nhất sẽ được chấp nhận lựa chọn.
+ Ưu điểm : Phương pháp thời gian thu hồi vốn đầu tư có ưu điểm chính là đơn giản, nhanh chóng và dễ hiểu.
+ Nhược điểm : do phương pháp này chỉ đề cập đến thời gian mà vốn bỏ ra được hoàn lại nên có một số hạn chế sau khi ra quyết định đầu tư :
. Thứ nhất : Phương pháp thời gian thu hồi vốn không xem xét đến lợi nhuận của dự án sau thời gian hoàn vốn. Đối với một dự án có thời gian hoàn vốn dài nhưng thu nhập về sau lại cao hơn thì vẫn có thể là dự án tốt.
. Thứ hai : Phương pháp thời gian hoàn vốn không xem xét đến giá trị theo thời gian của đồng tiền vì vậy sẽ dẫn đến sai lầm khi dùng phương pháp này để so sánh các phương pháp có những khoản tiền tệ khác nhau xuất hiện ở tại những thời điểm khác nhau.
Do nhược điểm của phương pháp này mà hiện nay người ta đề nghị tính toán chỉ tiêu thời gian hoàn vốn theo phương pháp động ( phương pháp được xem xét ở trên là phương pháp tĩnh ). Phương pháp động này đươc thực hiện bằng cách tính triết khấu các khoản tiền tệ xuất hiện ở các thời điểm khác nhau trong tương lai về một thời điểm gốc nào đó được chọn và tính T bằng cách áp dụng công thức T
T = ∑ ( Ft + Đt )
t=0
+ Ý nghĩa đối với ngân hàng : Do hạn chế về nguồn vốn trung – dài hạn nên các ngân hàng khó có thể đầu tư cho các dự án có thời gian hoàn vốn quá lâu. Khi tài trợ cho các dự án, ngân hàng sẽ tính toán thời gian thu hồi vốn vay theo công thức sau :
Tổng vốn vay
T = ------------------------------------------------------------------------------
Khấu hao tài sản cố định hình thành bằng vốn vay
Nguồn khác dùng để trả nợ
Lợi nhuận dự án dùng để trả nợ
+ +
Các ngân hàng cũng rất quan tâm đánh giá khả năng trả nợ của dự án thông qua tỷ lệ đảm bảo trả nợ. Công thức xác định như sau :
Các nguồn vốn dùng tài trợ hàng năm
Tỷ lệ đảm bảo trả nợ = -----------------------------------------------------------
Số nợ phải trả hàng năm ( gốc + lãi )
Tỷ lệ này càng cao càng tốt và ngược lại. Tìm tỷ lệ trả nợ hàng năm để thấy được mức độ tin cậy của dự án. Từ đó xác định được mức độ thu nợ hợp lý. Đối với dự án vay vốn ngoại tệ cần đánh giá thêm phương án cân đối ngoại tệ để trả nợ.
Trong điều kiện của một nước đang phát triển còn nhiều hạn chế như nước ta, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn được xác định là quan trọng hàng đầu, nhất thiết phải được xem xét khi đánh giá lựa chọn dự án, nó giúp cho việc thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra để sử dụng cho các mục đích sinh lời và mục tiêu phát triển khác. Vì vậy xác định chính xác thời gian hoàn vốn là điều quan trọng đối với một ngân hàng thương mại.
Phương pháp giá trị tương đương (phương pháp có chiết khấu):
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (NPV):
Giá trị hiện tại thuần là giá trị thu hồi thuần của các năm trong thời kỳ hoạt động hoặc thời kỳ phân tích dự án. Điều đó có nghĩa là thu hồi thuần ở các năm được chiết khấu về năm 0 theo tỷ suất chiết khấu đã định ( Itt ).
+ Công thức tính toán chỉ tiêu NPV:
n 1 Đn
NPV = ∑ ( Nt – It ) . ----------- + ------------
t=0 ( 1 + itt )t ( 1 + itt )n
Trong đó : Nt : - Thu hồi gộp tại năm t
- Thu hồi hoàn vốn tại năm t
Nt = Khấu hao tại năm t + Lợi nhuận tại năm t + Lãi vay tại năm t =(Ft + Pt+Lv)
It : Vốn đầu tư tại năm t ( Luồng tiền mặt chi tại năm t )
NPV : Giá trị hiện tại thuần tại thời điểm t=0
n : Số năm hoạt động hoặc số năm trong thời kỳ phân tích
( Nt – It ) : Thu hồi thuần tại năm t ( Lợi ích thuần tại năm t )
Đn : Giá trị đào thải hay thanh lý vào cuối kỳ sử dụng
Itt : Mức lãi suất tính toán
1
---------- : Hệ số chiết khấu tại năm t. Hệ số này được tính toán sẵn phụ
( 1 + itt )t thuộc vào mức lãi suất tính toán ( itt ) và thời gian t.
Công thức trên là dạng tổng quát nhất. Trong một số trường hợp đặc biệt thường xảy ra, bỏ vốn chỉ một lần vào thời điểm t=0 và sang năm thứ t = 1,2,3..n thu lại hàng năm giá trị hoàn vốn Nt, lúc đó công thức tính giá trị hiện tại thuần NPV được đơn giản :
n 1 Đn
NPV = - I0 + ∑ Nt . ------------- + --------------
t=1 ( 1 + itt )t ( 1 + itt )n
Nếu lượng hoàn vốn Nt = N = Constan và bỏ vốn một lần vào năm t = 0 thì công thức tính NPV trở thành :
( 1 + itt )n - 1 Đn
NPV = - I0 + N ----------------- + --------------
itt( 1 + itt )n ( 1 + itt )n
+ Ý nghĩa : NPV cho biết quy mô hiện giá tiền lời của dự án sau khi đã hoàn đủ vốn.
+ Nguyên tắc sử dụng :
. Những dự án có NPV ≥ 0 là những dự án đáng giá về mặt hiệu quả kinh tế
. Khi lựa chọn một trong số nhiều phương án loại bỏ nhau thì phương án có NPV lớn nhất sẽ có lợi nhất.
+ Ưu điểm : Phương pháp NPV có ưu điểm là cho biết quy mô số tiền lãi có thể thu được từ dự án. Phương pháp NPV khắc phục được nhược điểm của phương pháp thời gian hoàn vốn đó, nó là một tiêu chuẩn hiệu quả tuyệt đối tính đầy đủ đến giá trị theo thời gian của đồng tiền, tính đầy đủ mọi khoản thu chi trong cả thời kỳ hoạt động hoặc phân tích dự án. Vì vây, NPV là tiêu chuẩn để chọn tập dự án tức là không chỉ lựa chọn một dự án mà là một số dự án trong số những dự án có thể có để đạt tổng lợi ích lớn nhất với những nguồn lực hạn định.
+ Nhược điểm :
. Thứ nhất : Chỉ tiêu NPV phụ thuộc vào tỷ suất chiết khấu itt được chọn. Tỷ số này càng nhỏ thì NPV càng lớn và ngược lại. Việc xác định tỷ suất chiết khấu chính xác là hết sức khó khăn, nhất là khi thị trường vốn có nhiều biến động.
. Thứ hai : Khi sử dụng phương pháp NPV đòi hỏi dòng tiền mặt của dự án đầu tư phải được dự báo độc lập cho đến hết năm cuối cùng của dự án và các thời điểm phát sinh chúng. Các phương pháp đã được trình bày ở trên không đòi hỏi điều đó. Hơn nữa việc áp dụng phương pháp NPV để so sánh các phương án có thời kỳ hoạt động không giống nhau sẽ gặp nhiều khó khăn. Mặc dù các nhà phân tích đã dùng kỹ thuật thời kỳ phân tích chung của các dự án, phương pháp đầu tư bổ xung, gối đầu, chuỗi đầu tư… nhưng đó chỉ là giả định khó đảm bảo độ chính xác. Vì vậy người ta sử dụng phương pháp giá trị hàng năm AW để thay thế khi phương pháp NPV gặp khó khăn.
. Thứ ba : NPV là chỉ tiêu tuyệt đối nên dùng phương pháp NPV mới chỉ dừng lại ở mức xác định lỗ lãi thật của dự án mà nó chưa biết tỷ lệ lãi đó trên vốn đầu tư như thế nào ? Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi so sánh giữa các phương án có vốn đầu tư khác nhau. Để khắc phục hạn chế này người ta áp dụng phương pháp hệ số hoàn vốn đã chiết khấu.
- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ ( suất thu hồi nội bộ IRR ) :
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó NPV = 0.
+ Công thức tính được biểu hiện dưới dạng :
n 1 Đn
∑ ( Nt – It ) . ----------------- . ------------------ = 0
t=0 ( 1 + IRR ) t ( 1 + IRR )n
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ được mô tả như tỷ lệ tăng trưởng của dự án đầu tư, biểu thị tỷ lệ sinh lời lớn nhất mà tự bản thân dự án có thể đạt được. Có thể nói đây là chỉ tiêu quan trọng nhất trong đánh giá lựa chọn dự án, nhất là dự án có sử dụng vốn vay.
Chỉ tiêu IRR dùng để khắc phục nhược điểm của phương pháp giá trị tương đương nói chung, của phương pháp giá trị hiện tại nói riêng là chịu ảnh hưởng của việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu itt.
Khác với các chỉ tiêu khác, chỉ tiêu IRR không có một công thức toán học nào cho phép tính toán một cách trực tiếp. IRR được tính thông qua phương pháp nội suy, tức là phương pháp xác định một giá trị gần đúng giữa hai giá trị đã chọn. Theo phương pháp này, cần tìm hai tỷ suất chiết khẩu i1, i2 sao cho ứng với tỷ suất nhỏ hơn ( giả sử i1 ) ta có giá trị hiện tại vốn NPV dương, còn tỷ suất kia làm giá trị hiện tại vốn NPV âm. Việc nội suy giá trị thứ ba giữa hai tỷ suất trên được thực hiện theo công thức :
NPV( i1 )
IRR = i1 + ( i2 – i1 ) . -------------------------
NPV( i1 ) – NPV ( i2 )
Trong đó i1 : tỷ suất chiết khẩu thấp hơn. NPV ( i1 ) > 0
i2 : tỷ suất chiết khấu cao hơn. NPV ( i2 ) < 0
NPV ( i1 ) : giá trị hiệ tại thuần ứng với i1
NPV ( i2 ) : giá trị hiệ tại thuần ứng với i2
Nếu khoảng cách giữa giá trị IRR với i1 và i2 còn lớn thì tiếp tục nộ suy cặp IRR và i1 với cặp IRR và i2 để xác định một cách chính xác hơn giá trị IRR.
Khi sử dụng phương pháp nội suy, không nên nội suy quá rộng, cụ thể là khoảng cách giữa hai tỷ suất chiết khấu được chọn ( i1, i2 ) không nên vượt quá 5%. Ngoài ra cần thận trọng khi chọn tỷ suất ban đầu ( i1 và i2 ). Tỷ suất này càng gần IRR bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
+ Nguyên tắc sử dụng IRR trong phân tích hiệu quả :
. Dự án đầu tư có lợi khi lãi suất tính toán itt nhỏ hơn mức lãi suất nội tại IRR. Đây là tiêu chuẩn để chấp nhận hay gạt bỏ một dự án khi phân tích hiệu quả IRR theo giá trị itt.
. Trong số các dự án độc lập dự án nào có IRR cao hơn sẽ có vị trí cao hơn về khả năng sinh lợi.
+ Ưu điểm :
. Chỉ tiêu IRR chỉ rõ mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Qua đó cho phép xác định mức lãi suất tính toán itt tối đa mà dự án có thể chịu đựng được
. Việc sử dụng phương pháp này rất thích hợp với trường hợp vì lý do nào đó mà người phân tích muốn tránh hoặc khó xác định được chính xác tỷ suất chiết khấu ( itt ) dùng trong phương pháp hiện giá.
+ Hạn chế :
. Có thÓ cã trêng hîp tồn tại nhiều IRR và khó xác định một cách chính xác IRR nào làm chỉ tiêu đánh giá. Điều này được mô tả trên mô hình sau :
NPV
i ( % )
0
. Việc áp dụng IRR có thể dẫn đến các quyết ®Þnh không chính xác khi lựa chọn các dự án loại trừ nhau. Những dự án có IRR cao nhưng quy mô nhỏ có thể có NPV nhỏ hơn một dự án tuy có IRR thấp nhưng NPV lại cao hơn. Bởi vậy khi lựa chọn một dự án có IRR rất cao có thể đã bỏ qua cơ hội thu một giá trị hiện tại lớn hơn. Trong trường hợp này cần sử dụng phương pháp NPV.
. Ngoài ra phương pháp này cũng không cho phép xác định được những thông tin về mức độ sinh lợi của một đồng vốn bỏ ra ban đầu, thời gian hoàn vốn…
- Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn đã được chiết khấu ( NPVR ):
Phương pháp NPV mới chỉ dừng ở mức xác định quy mô lãi ròng của từng dự án. Nó chưa cho biết tỷ lệ lãi này trên vốn đầu tư như thế nào. Để khắc phục hạn chế này của phương pháp NPV người ta đã sử dụng phương pháp hệ số hoàn vốn đã chiết khấu. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp tỷ lệ giá trị hiện tại thuần NPVR.
Phương pháp tỷ lệ giá trị hiện tại thuần là phương pháp phân tích hiệu quả các dự án đầu tư trên cơ sở sử dụng chỉ tiêu hiệu quả tỷ lệ giá trị hiện tại thuần NPVR.
Tỷ lệ giá trị hiện tại thuần NPVR được tính bằng cách lấy giá trị hiện tại thuần của dự án chia cho giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
+ Công thức tính :
NPV
NPVR = ----------
PV(I)
Trong đó NPV : giá trị hiện tại thuần của dự án
PV(I) : giá trị hiện tại của vốn đầu tư
+ Nguyên tắc sử dụng : Tất cả các dự án có NPVR > 0 đều được chấp nhận. Trong số các dự án đem xếp hạng, dự án nào có NPVR lớn hơn sẽ được xếp hạng cao hơn.
+ Ưu điểm :
. Phương pháp NPVR khắc phục được những hạn chế của phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn. Phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn không tính đến yếu tố thời gian của các khoản thu nhập và chi phí trong toàn bộ đời hoạt động của dự án, phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn chỉ dựa vào số liệu của một năm bình thường.
. Phương pháp NPVR khắc phục được hạn chế của phương pháp NPV. Thực chất phương pháp NPVR là phương pháp tỷ lệ hoàn vốn đã tính đến yếu tố thời gian của đồng tiền và tính cho cả thời kỳ hoạt động của dự án.
+ Hạn chế : Phương pháp NPVR là một phương pháp dựa trên tiêu chuẩn đánh giá tương đối nên có thể dẫn đến những sai lầm khi lựa chọn những dự án loại trừ nhau vì với những dự án nhỏ mặc dù tỷ lệ NPVR lớn song tổng lợi nhuận vẫn nhỏ. Phương pháp này cần được kết hợp với các biện pháp khác để có được những kết luận chính xác hơn. Phương pháp NPVR cũng chịu nhiều ảnh hưởng của việc xác định lãi suất tính toán itt
Các phương pháp phân tích đầu tư trong điều kiện không an toàn:
Các phương pháp vừa trình bày ở trên là các phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính các dự án đầu tư trong điều kiện an toàn, tức là coi lượng vốn đầu tư bỏ ra và kết quả đầu tư là cố định và chắc chắn. Thực tế kết quả nhận được trong tương lai lại hoàn toàn trên cơ sở giả định, dự đoán và có độ an toàn không cao. Như vậy, việc tính toán và đánh giá trong trường hợp này sẽ phức tạp và việc ra quyết định đầu tư lại dựa trên cơ sở nhiều khả năng có thể xảy ra.
Trong điều kiện không an toàn người ta thường sử dụng các phương pháp sau đây :
Phương pháp phân tích điểm hoà vốn :
- Khái niệm : Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí
Tổng doanh thu = Tổng chi phí
Phân tích điểm hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản xuất hoặc mức doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành mà không gây nguy hiểm đến khả năng tồn tại về mặt tài chính của nó. Tức là dự án không bị lỗ, có đủ tiền mặt để hoạt động và có khả năng trả nợ. Ngoài ra việc phân tích điểm hoà vốn còn cho phép xem xét mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được.
Có các loại điểm hoà vốn sau :
- Điểm hoà vốn lời lỗ : là điểm mà tại đó mức sản lượng hoặc mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị lỗ trong năm hoạt động bình thường. Điểm hoà vốn lời lỗ được biểu hiện thông qua các hình thức sau :
+ Hệ số hoàn vốn lời lỗ : là tỷ lệ tính theo % của công suất thiết kế hoặc sản lượng tiêu thụ dự kiến tính trong năm hoạt động bình thường của dự án.
Đ
Hll = ----------- %
D – B
Hll càng thấp càng tốt.
Trong đó Đ : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án, bao gồm cả lãi vay
D : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án
B : Tổng chi phí biến đổi trong năm của dự án
Hệ số này chỉ rõ mức độ sử dụng công suất thiết kế hàng năm hoặc sản lượng tiêu thụ dự kiến trong năm để đảm bảo cho doanh nghiệp không bị lỗ.
+ Mức sản lượng lời lỗ : là số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ cần thiết tối thiểu để đảm bảo cho doanh nghiệp không bị lỗ ( công suất kinh tế )
Q0 = Hll . Q
Trong đó Q0 : Sản lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn
Hll : Hệ số hoàn vốn lời lỗ
Q : Công suất thiết kế hoặc sản lượng dự kiến tiêu thụ sản xuất và tiêu thụ hàng năm.
+ Mức doanh thu lời lỗ : là mức doanh thu cần thiết để đảm bảo cho doanh nghiệp bù đắp được chi phí
D0 = Hll . D
Trong đó D0 : Mức doanh thu lời lỗ
D : Doanh thu dự kiến ở mức hoạt động hết công suất
Điểm hoà vốn được mô tả trên mô hình :
Thu nhập, Chi phí
D Lãi Đ + B
B
Lỗ
Đ
Q (sản lượng)
Q0
- Điểm hoà vốn tiền tệ : Điểm hoà vốn tiền tệ là mức doanh thu mà tại đó dự án bắt đầu có tiền để trả nợ vay kể cả sử dụng khấu hao cơ bản tài sản cố định và chiết giảm chi phí thành lập.
Đối với khấu hao cơ bản, chỉ tính khấu hao cơ bản phần tài sản cố định vay vốn.
Điểm hòa vốn tiền tệ cũng được biểu hiện thông qua hệ số hoà vốn tiền tệ và mức doanh thu hoà vốn tiền tệ.
+ Hệ số hoà vốn tiền tệ :
Đ - Khấu hao cơ bản
HTT = ---------------------------
D – B
+ Mức sản lượng hoà vốn tiền tệ :
QT = HTT . Q
+ Doanh thu hoà vốn tiền tệ :
DT = HTT . D
Điểm hoà vốn tiền tệ thấp hơn điểm hoà vốn lời lỗ.
- Điểm hoà vốn trả nợ : là điểm hoà vốn mà tại đó cho phép dự án có tiền để trả nợ vốn vay và cho phép đóng thuế hàng năm.
Từ điểm hoà vốn tiền tệ dự án bắt đầu có tiền để trả nợ vay. Tuy nhiên trên thực tế ngoài số nợ vay, dự án phải có số tiền cao hơn để vừa trả nợ vừa đóng thuế lợi tức.
Số nợ phải trả và thuế lợi tức phải đóng trong năm được xem như chi phí cố định của năm sản xuất đó.
Đ - Khấu hao + N + T
HTN = -------------------------------
D – B
Như vậy chi phí cố định trong công thức tìm điểm hoàn vốn trả nợ là chi phí cố định của điểm hoà vốn tiền tệ cộng với số nợ vay phải trả và thuế lợi tức phải đóng. Thuế lợi tức được xem là chi phí cố định tại điểm hoà vốn.
QTN = HTN . Q
DTN = HTN . D
Trong đó HTN : Hệ số hoàn vốn trả nợ
QTN : Mức sản lượng tại điểm hoà vốn trả nợ
DTN : Mức doanh thu tại điểm hoà vốn trả nợ
T : Thuế lợi tức phải trả ở điểm hoà vốn
Thuế lợi tức phải trả ở điểm hoà vốn được tính theo công thức :
( N - Khấu hao )
T = ------------------------- . Suất thuế lợi tức
1 - Suất thuế lợi tức
- Điểm hoà vốn nhiều giá bán : Giá cả là một nhân tố luôn biến động trên thị trường. Những loại điểm hoà vốn đã xem xét coi doanh thu hoặc sản lượng theo công suất thiết kế hay theo sự ước tính kế hoạch là một đại lượng không đổi. Tình huống đặt ra là nếu đại lượng này thay đổi thì điều gì sẽ diễn ra với các điểm hoà vốn trên. Doan._.ầu tư ở SGD chưa được chuyên môn hoá. Sở hiên chưa có phòng thẩm định, công việc thẩm định được giao cho phòng tín dụng và phòng nguồn vốn. Đội ngũ cán bộ này chưa được đào tạo hệ thống ,cơ bản về mặt lý luận thẩm định dự án, cũng như chưa đủ khả năng thẩm định các dự án thuộc các lĩnh vực mới, hiện đại như hàng hải, hàng không, viễn thông, dầu khí... nên chưa có những ý kiến đóng góp thiết thực cho chủ đầu tư trong qua trình lựa chọn. Công tác thẩm định thụ động dựa vào các máy móc, thiết bị, phương án mà chủ đầu tư đã lựa chọn.
- Cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định tuy đã được đầu tư trang bị nhưng vẫn chưa được khai thác triệt để. Các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản lý dự án chưa được nghiên cứu, áp dụng. Nguồn thông tin cán bộ thẩm định có được hết sức nghèo nàn, không có được sự hỗ trợ từ phía NHĐT & PTVN cũng như từ phía các cơ quan ban ngành khác.
Sở vẫn chưa có bộ phận chuyên trách thu thập thông tin về các đối tượng đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Phòng quản lý khách hàng mới chỉ dừng lại ở khâu tìm kiếm, duy trì và phát triển nguồn khách hàng mà chưa có sự hỗ trợ thông tin khách hàng cho công tác thẩm định.
- Phương pháp thẩm định chưa được tiêu chuẩn hoá tại SGD và trong toàn bộ hệ thống NHĐT & PTVN. Quy trình mà NHĐT & PTVN đưa ra chỉ mang tính hướng dẫn, tham khảo, chưa phải là những quy định bắt buộc. Bản thân SGD cũng chưa có những quy định cụ thể về việc lập các bảng dự trù doanh thu, chi phí, nguồn trả nợ, lịch trả nợ, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính bắt buộc phải tính toán.
- Công tác tổ chức điều hành, xét duyệt dự án qua nhiều thủ tục hành chính, mất nhiều thời gian nhưng chưa chặt chẽ. Cán bộ thẩm định chưa phải chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thẩm định. Trách nhiệm được san đều cho những người trực tiếp liên quan từ nấc cao nhất: giám đốc, trưởng phòng thẩm định rồi mới đến cán bộ trực tiếp thẩm định. Hội đồng tín dụng tại Sở chưa được thành lập, nhiều dự án cán bộ thẩm định phải đánh giá tốt, theo yêu cầu của người quản lý cao hơn.
SGD chưa có các quy định, hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp xin vay theo dự án đầu tư. Các báo cáo tài chính doanh nghiệp nộp hầu hết đều chưa được kiểm toán. Báo cáo nghiên cứu khả thi do doanh nghiệp lập thường sơ sài, thiếu nghiên cứu cụ thể về mặt thị trường, tài chính của dự án.
Tính độc lập trong kinh doanh ở SGD chưa được phát huy. Các khoản tín dụng cho vay theo dự án còn bị tác động bởi nhiều cấp quản lý Nhà nước, NHĐT & PTVN. Do vậy, trong nhiều dự án, công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án chỉ mang tính hình thức, nhưng vẫn bắt buộc phải thực hiện, gây lãng phí thời gian, công sức cho người thẩm định.
Trong tình hình kinh tế hiện nay, không riêng gì SGD mà cả các tổ chức tín dụng nói chung, các ngân hàng thương mại nói riêng đều phải đối mặt với nhiều khó khăn để tồn tại và phát triển. Những tồn tại và vướng mắc nêu trên đều phải có phương hướng giải quyết thích hợp, thoả đáng thì ngân hàng mới hoạt động có hiệu quả, phát triển an toàn. Tuy nhiên, cũng giống như ở các ngân hàng khác, những khó khăn và tồn tại ở SGD Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam không thể giải quyết cùng một lúc, giải quyết ngay trong một sớm một chiều. Để giải quyết triệt để các tồn tại nêu trên đòi hỏi nhiều thời gian, công sức tìm tòi suy nghĩ, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban cũng như sự nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TẠI SGDI - NHĐT & PTVN
I. Phương hướng phát triển của SGD I - NHĐT & PTVN từ nay đến năm 2005
1. Mục tiêu
Dựa trên đường lối kinh tế và chiến lược phát triển của Đảng, kế hoạch phát triển và cơ cấu lại của hệ thống NHĐT & PTVN giai đoạn 2001 - 2010, căn cứ vào thuận lợi khó khăn của môi trường kinh doanh, các điểm mạnh yếu của nguồn lực hiện có, SGD xác định một số mục tiêu từ nay đến năm 2005 như sau (mục tiêu này nằm trong mục tiêu của kế hoạch phát triển giai đoạn 2001 - 2005):
- Trở thành ngân hàng hàng đầu trên địa bàn về quy mô hoạt động và chất lượng dịch vụ, về sức cạnh tranh và tính năng động.
- Là một trong những ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt trên địa bàn Hà Nội.
- Là ngân hàng kinh doanh đa năng tổng hợp, trong đó có kinh doanh dịch vụ chiếm tỷ lệ quan trọng.
- Phấn đấu có trình độ công nghệ ngân hàng tiên tiến, cao hơn mức trung bình trên địa bàn.
Kế hoạch một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2003 - 2005 như sau:
- Tăng trưởng tài sản: 20% (năm sau tăng lên so với năm trước 20%).
- Tăng trưởng huy động vốn: 25%.
- Tăng trưởng tín dụng: 30%.
- Thu dịch vụ: 15%, chiếm 30% tổng lợi nhuận.
- Tăng trưởng cán bộ: 20%.
2. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.1. Công tác nguồn vốn
- Xây dựng kế hoạch chăm sóc khách hàng có tiền gửi lớn, thường xuyên, phát triển khách hàng có tiềm năng tiền gửi như hệ thống kho bạc, các công ty bảo hiểm, các tổng công ty,...
- Nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm thủ tục giấy tờ, tăng năng suất phục vụ khách hàng, kết hợp các nghiệp vụ khác với công tác huy động vốn, qua khách hàng cũ mở rộng marketing tới các khách hàng mới, phấn đấu giảm sự phụ thuộc vào số ít khách hàng tiền gửi.
- Từng bước thí điểm giao chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi khách hàng đối với các cán bộ giao dịch trực tiếp như cán bộ tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế,... giao chỉ tiêu huy động vốn dân cư hàng quý đối với Quỹ tiết kiệm có gắn với động lực vật chất.
- Mở rộng mạng lưới huy động vốn, chú trọng tạo một bộ mặt mang phong cách riêng của SGD, tạo nên sự an tâm tin tưởng đối với người dân.
- Nghiên cứu, thực hiện hình thức tiết kiệm gửi góp, nhận và trả tiết kiệm tại nhà; thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động đưa ra lãi suất hợp lý, linh hoạt.
- Vận dụng các cơ chế hiện hành tổ chức điều hành nguồn vốn linh hoạt, phấn đấu dần dần điều chỉnh cơ cấu tài sản Nợ - Có phù hợp nhằm hạn chế rủi ro cơ cấu, lãi suất đối với hoạt động ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản.
2.2Công tác tín dụng
- Duy trì thường xuyên công tác tổ chức đánh giá phân loại khách hàng theo định kỳ (trên cơ sở các thông tin có chọn lọc). Từ đó xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng cho từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
- Mạnh dạn mởi rộng tín dụng ngắn hạn trong các ngành nghề phi xây lắp (sản xuất công nghiệp, dịch vụ,...) một cách có chọn lọc trước mắt đối với một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường. Mở rộng tín dụng các lĩnh vực khác và các thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có uy tín trong giao dịch.
- Mở rộng tín dụng ngoại tệ với những khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp voí áp dụng các công cụ phòng chống các rủi ro tỷ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của SGD đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phủ hợp với tình hình cung cầu.
2.3. Dịch vụ và công nghệ ngân hàng
- Mở rộng hơn nữa các dịch vụ ngân hàng, tăng thêm hiệu quả sử dụng ATM.
- Nghiên cứu triển khai mở rộng nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ tại các điểm giao dịch; tìm kiếm các đại lý đủ điều kiện thực hiện thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch, mở tài khoản cá nhân, chuyển tiền kiều hối.
- Có kế hoạch tiến độ từng bước thực hiện hạch toán phân tán đối với các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tín dụng, điều hành nguồn vốn nhằm tăng nhanh tốc độ phục vụ khách hàng nhất là tốc độ thanh toán và tăng cường khả năng kiểm soát kế toán. Đặc biệt chú trọng tăng cường khả năng tự xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng phục vụ các mặt nghiệp vụ, phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh của SGD.
- Nâng cấp Home Banking để tiến tới thực hiện thanh toán điện tử, trước mắt giữa SGD với chi nhánh trực thuộc và các phòng giao dịch, tiến tới với các khách hàng lớn khi có chế độ.
2.4. Công tác tổ chức đào tạo cán bộ
- Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, mời các chuyên gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội, ngân hàng tài chính nói chuyện. Chú trọng hình thức tập huấn nghiệp vụ đối với các cơ chế, chế độ hướng dẫn mới hoặc các chiến dịch hoạt động lớn.
- Phát động phong trào nghiên cứu khoa học sâu rộng trong toàn thể cán bộ SGD, xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở chế độ hiện hành, xây dựng chính sách nghiên cứu khoa học để khuyến khích mọi người tích cực tham gia nghiên cứu, nâng cao trình độ nghiệp vụ.
II. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Quá trình đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định dự án đầu tư của SGD cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc cần khắc phục. Để hoàn thành được kế hoạch kinh doanh đã đề ra, để tiếp tục phát triển một cách ổn định và vững mạnh, Sở cần tìm ra những biện pháp tháo gỡ khó khăn và hình thức quản lý thích hợp hơn. Dưới đây là một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN.
1. Chuyên môn hoá công tác thẩm định
Thẩm định dự án là công việc khó. Việc thẩm định được giao cho cán bộ phòng nguồn vốn và phòng tín dụng thực hiện đã làm công tác thẩm định đạt hiệu quả chưa cao. Phần lớn số cán bộ này không được đào tạo chính thức về nghiệp vụ thẩm định dự án, thiếu kiến thức tổng hợp. Hơn nữa, họ lại phải làm nhiều công việc khác nhau nên không có đủ thời gian để nghiên cứu thêm tài liệu, nghiên cứu thị trường, tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn...Vì thế, chất lượng thẩm định dự án không dược bảo đảm, chuyên môn hoá công tác thẩm định là hết sức cần thiết.
Để thực hiện được điều này, SGD cần thành lập phòng thẩm định riêng. Mỗi cán bộ thẩm định sẽ phụ trách một lĩnh vực cụ thể, đồng thời họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thẩm định của mình. Việc quy định trách nhiệm phải đi kèm với chế độ đãi ngộ hợp lý.
Việc chuyên môn hoá công tác thẩm định nhằm ứng phó linh hoạt với các tình huống phức tạp xảy ra, đồng thời tạo dựng niềm tin cho khách hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, đầu tháng 4 năm 2003, SGD đã tách bộ phận thẩm định ra riêng, tiến tới thành lập phòng thẩm định độc lập. điều đó chứng tỏ SGD đã không ngừng tìm tòi các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
2. Tăng cường đầu tư hiện đại hoá các phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định
Ngày nay, việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của ngân hàng. Nếu hoạt động thẩm định của ngân hàng được hỗ trợ bằng chương trình phần mềm như phần mềm tính toán theo các tiêu chuẩn thẩm định, các chỉ số tài chính phức tạp... thì tốc độ xử lý thông tin sẽ tăng lên nhiều lần , giảm được nhiều sai sót so với việc xử lý ghi chép thông tin sẽ tăng lên nhiều lần, giảm được nhiều sai sót so với việc xử lý ghi chép thông tin bằng tay; giảm chi phí về nhân công và giấy tờ; giúp lưu trữ và tra cứu các thông tin phục vụ việc ra quyết định kinh doanh và ngăn ngừa rủi ro một cách chính xác, kịp thời.
Tuy đã được đầu tư rất nhiều nhưng cho đến nay các trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định dự án ở SGD vẫn ở trong tình trạng lạc hậu. Để đảm bảo công tác thẩm định được thực hiện nhanh chóng và chính xác, SGD cần tiếp tục đầu tư các trang thiết bị hiện có, mua sắm các trang thiết bị mới, nối mạng nội bộ giữa các phòng ban toàn ngân hàng, đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các phần mềm quản lý dữ liệu, các phần mềm thẩm định dự án hiện đại. Khi đó, qua mạng thông tin nội bộ, thông tin sẽ được trao đổi với cường độ cao hơn, hiệu quả hơn, sự phối hợp giữa các phòng ban nhờ đó mà nhịp nhàng hơn, công tác thẩm định dự án vì thế sẽ đạt chất lượng cao hơn.
Bên cạnh đó, SGD cũng cần xây dựng hệ thống thông tin về khách hàng và dự án. Theo đó, các thông tin về tình hình tài chính các khách hàng truyền thống được lưu trữ lại, phát triển thêm nguồn thông tin về các khách hàng mới. Đối với các dự án đã được thẩm định, cần tiến hành phân loại, đánh giá kết quả thực hiện dự án. Thông tin phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau nhằm đảm bảo tính chính xác của nó. Tất cả các thông tin trên sẽ được lưu trữ trong mạng nội bộ ngân hàng để các phòng ban có thể tra cứu khi cần thiết.
Khi trang bị thêm các trang thiết bị hiện đại, cần quan tâm đến việc đào tạo cán bộ nhân viên để họ có đủ trình độ sử dụng các trang thiết bị đó.
3. Về nội dung và phương pháp thẩm định
Quy trình thẩm định dự án đầu tư ở SGD hiện nay là quy trình hướng dẫn chung, mang tính chất tham khảo do NHĐT & PTVN xây dựng. Trong thời gian tới, SGD cần xây dựng một quy trình riêng, chặt chẽ, quy định các dự án loại nào sẽ được thẩm định theo các bước cụ thể ra sao, các khoản mục bắt buộc phải có đối với một số dự án. Bởi vì mỗi loại dự án có có mục tiêu và đặc điểm riêng, việc áp dụng một quy trình thẩm định cụ thể sẽ giúp cán bộ thẩm định tiết kiệm thời gian, công việc tiến hành chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Việc xây dựng quy trình thẩm định chi tiết còn cần kèm theo việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả dự án, đặc biệt là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính. Các chỉ tiêu này coá thể được chia thành hai nhóm: một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, nhóm kia phản ánh độ rủi ro của dự án. Còn xuất phát từ góc độ nhà thẩm định là ngân hàng, người thẩm định bổ sung thêm nhóm chỉ tiêu nói lên khả năng hoàn trả vốn của dự án. Các chỉ tiêu này phải có mối quan hệ mật thiết với nhau để phản ánh hiệu quả dự án được toàn diện, chính xác. trong việc sử dụng các chỉ tiêu, cần quan tâm đến giá trị theo thời gian của tiền.
4. Những giải pháp hỗ trợ cho công tác thẩm định
- Hoàn thiện phương thức quản lý của ngân hàng
SGD cần tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các chi nhánh, các phòng ban trong quá trình thực hiện các công đoạn khác nhau của hoạt động thẩm định dự án, tạo điều kiện để các bộ phận có thể hỗ trợ tốt cho nhau, không những tác động đến hiệu quả hoạt động thẩm định mà còn tác động đến hiệu quả hoạt động thẩm định mà còn tác động đến hiệu quả hoạt động của toàn ngân hàng.
Ngân hàng cần xây dựng, hoàn thiện quy chế vận hành của bộ máy thẩm định theo hệ thống thống nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của phòng thẩm định, cán bộ thẩm định.
Hàng năm trên cơ sở kế hoạch chung, ngân hàng cần xây dựng một chương trình, kế hoạch nhiệm vụ cụ thể cho công tác thẩm định. Hàng quý ngân hàng nên có các báo cáo tổng hợp tình hình thẩm định dự án đầu tư trong toàn ngân hàng. Cuối năm hoặc sang một phạm vi xem đầu năm sau, ngân hàng tổ chức cuộc họp tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm và công bố, chương trình và kế hoạch cuối năm.
- Chủ động tìm kiếm các dự án lớn có tính khả thi thực hiện đồng tài trợ cho vay vốn và đồng thẩm định dự án đầu tư, tạo điều kiện cho khách hàng được vay vốn từ các tổ chức tín dụng nhanh chóng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. SGD cần chủ động tiếp cận các dự án khả thi để mở rộng tín dụng đầu tư. Từ đó, SGD lựa chọn được khách hàng có khả năng tài chính tốt, tạo được thế chủ động trong công tác thẩm định. Bên cạnh đó, SGD tiến hành đồng tài trợ với các dự án lớn, một mặt vừa đáp ứng được nhu cầu vốn vay lớn của doanh nghiệp, mặt khác đó là biện pháp phân tán rủi ro và tận dụng những điểm mạnh trong công tác thẩm định cuả ngân hàng đối tác.
5. Giải pháp về con người
Con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện hoạt động thẩm định theo các phương pháp, kỹ thuật riêng có. Kế quả thẩm định dự án là kết quả đánh giá, xem xét theo chủ quan của con người trên cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn khác nhau. Con người khác máy móc ở chỗ họ biết linh hoạt xử lý các tình huống nhờ kinh nghiệm, trình độ, năng lực và tư cách đạo đức của mỗi cá nhân. Kiến thức của con người không chỉ ở những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm của con người được tích luỹ qua các hoạt động thực tiễn, giúp họ nắm bắt và xử lý công việc trên cơ sở kiến thức tích luỹ được và tư duy mới.
Để hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư, đòi hỏi người thẩm định phải được trang bị nhữg kiến thức căn bản về dự án, kỹ năng thẩm định dự án và nắm được các quy định cảu Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra người thẩm định cũng cần có nhữgn hiểu biết nhất định về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách.
Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn cao, có ý thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, SGD cần thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ ngay từ khâu tuyển chọn nhân viên. Tuyển dụng nhân viên mới vào làm công tác thẩm định phải là người tốt nghiệp Đại học hệ chính quy theo đúng chuyên ngành phù hợp. Ngoài ra còn phải có các tố chất khác: nhanh nhẹn, nắm bắt tâm lý tốt, có óc phân tích.
Công tác tổ chức thi tuyển phải công khai, chặt chẽ, bảo đảm công bằng để có thể lựa chọn được những người giỏi nhất. Việc kiểm tra, sát hạch trình độ chuyên môn, nghiệp vụ người dự tuyển phải do các cán bộ có kinh nghiệm, thâm niên công tác trực tiếp tiến hành.
Những người vượt qua kỳ thi tuyển phải qua thời gian thử việc thích hợp (có thể làm những công việc hỗ trợ cho cán bộ thẩm định) để đánh giá khả năng ứng dụng các kiến thức trong công việc thực tế.
Ngân hàng tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định đi học để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Ngân hàng có thể tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn ngày tập trung tại ngân hàng do các chuyên gia trong nước hoặc nước ngoài đến giảng dạy về hạch toán kế toán, quản trị kinh doanh, luật, bảo hiểm, ngoại hối và thanh toán quốc tế.
Ban lãnh đạo ngân hàng, hàng năm nhận xét và đánh giá đối với từng cán bộ thẩm định, từ đó đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm việc khác đối với những người không đáp ứng được yêu cầu công việc.
SGD cần khuyến khích các nhân viên chủ động đề xuất các ý kiến về nghiệp vụ thẩm định, về chính sách đối với cán bộ nhân viên. Tập hợp những đề xuất sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng, hoặc có sự giải thích rõ ràng tạo tâm lý, tình cảm tích cực trong cán bộ nhân viên khi có những bất bình hay kiến nghị.
Để khuyến khích cán bộ thẩm định nâng cao tinh thần trách nhiệm, SGD cần xây dựng một chính sách thưởng phạt rõ ràng, cụ thể về tinh thần, vật chất.
Các biện pháp nêu đều là những biện pháp đơn lẻ có tác động tích cực tới hoạt động thẩm định dự án của SGD I NHĐT & PTVN theo những cách khác nhau. Tuy vậy, các biện pháp này lại có mối quan hệ mật thiết ảnh hưởng lẫn nhau, có tác dụng hỗ trợ nhau. Do đó, tuy mỗi biện pháp đơn lẻ đều có tác động nhất định nhưng nếu các biện pháp nêu trên được tiến hành đồng thời sẽ đạt được hiệu quả cao nhất.
III. Một số kiến nghị
Thẩm định dự án là công việc rất phức tạp, khối lượng công việc nhiều, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, cần có sự kết hợp đồng bộ, phối hợp của nhiều ngành nhiều cấp khác nhau.
1. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Tăng cường tổ chức các khóa học ngắn hạn, các lớp tập huấn chuyên đề thẩm định dự án đầu tư, tổ chức đi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác thẩm định cho các chi nhánh nhằm nâng cao năng lực thẩm định.
- Cần tăng cường hoạt động của bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro thuộc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam để cung cấp các thông tin một cách thường xuyên cho các chi nhánh của mình.
- Cần nghiên cứu, tổng kết các tỷ lệ tài chính trung bình trong từng ngành để tạo thuận lợi trong công tác thẩm định. Mặt khác, NHĐT & PTVN cũng cần tích luỹ các chỉ tiêu dự án sau khi đã kiểm chứng qua thực tế cùng với việc sưu tầm những chỉ tiêu của ngân hàng bạn.
- Định kỳ có tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm trong toàn hệ thống để làm bài học chung trong lĩnh vực đầu tư.
2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các Ngân hàng thương mại khác
- Ngân hàng Nhà nước cần căn cứ vào quy hoạch định hướng phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ để định hướng đầu tư đúng đắn cho các ngân hàng thương mại, giảm thiểu rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn tỉnh, thành phố nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của tỉnh mình, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội toàn tỉnh, những ngành nghề kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các dự án của các doanh nghiệp đúng hướng phát huy hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao nghiệp vụ thẩm định phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin, kinh nghiệm cho ngân hàng. Hàng năm ngân hàng nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Trung tâm này cần đưa ra mức độ rủi ro về từng nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
- Đề nghị các ngân hàng thương mại quốc doanh trong toàn quốc như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công thương, Ngân hàng ngoại thương cần tăng cường sự hợp tác trong việc xử lý thông tin, trao đổi kinh nghiệm. Vì mỗi ngân hàng đều có thế mạnh trên một số lĩnh vực cụ thể nên rất có ý nghĩa khi bổ sung hỗ trợ cho nhau, nhất là trong các dự án đồng tài trợ.
- Ngân hàng nhà nước cần chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng, nhất là cơ chế về cho vay trung, dài hạn và quy trình thủ tục cho vay đồng tài trợ của nhiều Ngân hàng thương mại cho phù hợp với môi trường pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Ngân hàng nhà nước cũng nên quy định rõ ràng trách nhiệm thẩm định, giải ngân, thu nợ... khi cho vay đồng tài trợ.
- Ngân hàng nhà nước cần thiết ban hành một số quy chế về quyền lựa chọn Ngân hàng phục vụ khách hàng, tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng.
3. Kiến nghị với Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan
- Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng để thực hiện chính sách tài chính tiền tệ. Trước mắt, ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn quan trọng nhât trong nền kinh tế nên Nhà nước cần tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động nhất là trong lĩnh vực đầu tư tín dụng.
- Đề nghị Chính phủ nên có văn bản cụ thể quy định rõ trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án. Chính phủ nên có văn bản vụ thể quy định rõ trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án. Chính phủ nên có các quy định từng bước về mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định dự án cho từng đối tượng thường xuyên liên quan đến việc lập và thẩm định dự án như ngân hàng, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và công nghệ môi trường.
- Thành lập công ty dịch vụ, đánh giá tài sản thế chấp. Đây là một mô hình tương đối tốt mà nhiều nước trên thế giới đang làm. Cũng như công tác kiểm toán, công ty dịch vụ, đánh giá tài sản phải chịu trách nhiệm vật chất và pháp lý về việc đánh giá không đúng giá trị tài sản.
- Chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy trình của Nhà nước. Nhà nước ban hành quy chế bắt buộc ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, các doanh nghiệp phải chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia và mức độ trách nhiệm cho từng bên một cách rõ ràng.
- Đề nghị Bộ tài chính cần tạo dựng một khung pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính của mình khi xin vay ngân hàng. Để làm được điều này cần tiến hành kiểm toán các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước nhằm có được báo cáo tài chính có độ tin cậy cao.
- Đề nghị các Bộ, Ngành, địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. Vì thực tế, các nội dung của dự án có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chỉ cần một nội dung trong dự án không được xem xét cẩn thận sẽ dẫn đến các nội dung khác thiếu đi sự chính xác và hiệu quả của dự án khó có thể đảm bảo được như dự tính. Mặt khác, các Bộ, các Ngành và địa phương cần tham gia thẩm định cùng một dự án nhưng ở các khía cạnh khác nhau. Do vậy, sự phối hợp này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của từng bộ phận của dự án.
- Đề nghị các Bộ chủ quản như: Công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình quản lý. Hàng năm nên công bố những thông tin này một cách công khai qua các tài liệu chuyên ngành và tập hợp lại ở các trung tâm thông tin của ngành để giúp chủ đầu tư cũng như ngân hàng thương mại thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ cho công tác lập và thẩm định dự án đầu tư.
- Đề nghị các cấp Bộ, Ngành cùng phối hợp để xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật của từng ngành, các lĩnh vực kinh doanh dễ làm cơ sở cho việc so sánh hiệu quả của dự án được sát hơn.
- Đề nghị các Bộ, ngành, địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp thông tin, cần thiết lập và phát triển một mạng thông tin, cần thiết lập và phát triển hơn trong việc trao đổi thông tin trong toàn quốc với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan trong việc đổi mới hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư và công tác thẩm định dự án đầu tư.
KẾT LUẬN
Công tác thẩm định dự án đầu tư rất cần thiết trong việc đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư và trong hoạt động cho vay, do đó nó ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên đây lại là một nghiệp vụ phức tạp, nó vừa mang tính chuyên sâu nghiệp vụ lại vừa đòi hỏi có kiến thức tổng hợp. Hơn nữa, công tác thẩm định dự án liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, vì vậy cần có sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm, nỗ lực thực hiện từ nhiều phía.
Trong nội dung của bài viết này, em chỉ tập trung vào nghiên cứu, xem xét một số vấn đề sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lí luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư cũng như những nhân tố tác động đến công tác thẩm định dự án đầu tư. đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư đối với các ngân hàng thương mại.
- Phân tích và làm rõ thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN, từ đó rút ra những kết quả, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng và những tồn tại, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, do đó chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ ngân hàng và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Chu Toàn, Ban lãnh đạo SGD cùng các cô chú, anh chị phòng Nguồn vốn kinh doanh đã tận tình giúp em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trương Quốc Cường, Trần Trọng Sinh: Giáo trình Tài trợ dự án - Học viện Ngân hàng - NXB Thống kê - Hà Nội 2000.
Khoa Khoa học quản lý: Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - NXB Khoa học và Kỹ thuật - 2001.
Nguyễn Ngọc Mai: Giáo trình Kinh tế đầu tư - Trường Đại học Kinh tế quốc dân - NXB Giáo dục - 1998.
Nguyễn Xuân Thuỷ: Quản trị dự án đầu tư - Viện đào tạo mở rộng thành phố Hồ Chí Minh - 1998
Vũ Công Tuấn: Thẩm định dự án đầu tư - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 1999.
NHĐT & PTVN: Quy trình thẩm định dự án đầu tư.
SGD I - NHĐT & PTVN: Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban.
Báo cáo kết quả kinh doanh SGD các năm 2000, 2001, 2002.
Kế hoạch phát triển kinh doanh 5 năm (2001 - 2005).
Các website:
http:/www.vneconomy.com.vn
http:/www.bidv.com.vn
http:/www.vnexpress.net
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I: Một số vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư 2
I. Đầu tư và dự án đầu tư 2
1. Đầu tư 2
2. Dự án đầu tư 4
II. Thẩm định dự án đầu tư 12
1. Khái niệm 12
2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư 12
3. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư 13
4. Ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư 13
5. Nội dung thẩm định dự án đầu tư 14
6. Phương pháp thẩm định dự án đầu tư 40
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định 41
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 45
I. Giới thiệu chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 45
1. Quá trình hình thành và phát triển 45
2. Cơ cấu tổ chức 49
3. Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong những năm gần đây 50
II. Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 56
1. Quy trình và nội dung thẩm định 56
2. Đặc điểm hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 61
3. Đánh giá tình hình đầu tư vào dự án 63
4. Thẩm định dự án đầu tư: "Đầu tư dây chuyền sản xuất vải DENIM" 65
III. Đánh giá về hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 76
1. Những ưu điểm đã đạt được 76
2. Những tồn tại 79
3. Nguyên nhân của các tồn tại 81
Chương III: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 84
I. Phương hướng phát triển của Sở giao dịch từ nay đến năm 2005 84
1. Mục tiêu 84
2. Giải pháp và tổ chức thực hiện 85
II. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 87
1. Chuyên môn hoá công tác thẩm định 87
2. Tăng cường đầu tư hiện đại hoá các phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định 88
3. Về nội dung và phương pháp thẩm định 89
4. Những giải pháp hỗ trợ cho công tác thẩm định 90
5. Giải pháp về con người 91
III. Một số kiến nghị 93
1. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 93
2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các ngân hàng thương mại khác 93
3. Kiến nghị với Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan 95
Kết luận 97
Tài liệu tham khảo 98
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6751.doc