Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ

LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong khoa, tập thể các cán bộ Ban phát triển Nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội và sự đóng góp chân thành của của các bạn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Phạm Ngọc Linh và tập thể thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ rất nhiều đ

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể tôi thực hiện đề tài này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Phạm Lê Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập vừa qua. Mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng song do kinh nghiệm bản thân có hạn, thời gian không cho phép nghiên cứu quá sâu về đề tài và cũng bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, hướng dẫn của thầy cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bài Chuyên đề tốt nghiệp là bài viết của tôi dựa trên sự tham khảo một vài tài liệu của các văn bản, nghị định, báo cáo tổng hợp từ các cơ quan, các nhóm chuyên gia nghiên cứu về vấn đề việc làm cho lao động nói chung và cho lao động trẻ nói riêng. Tôi xin cam đoan trong bài viết này không có sự sao chép từ các tài liệu và luận văn sẵn có. Đây là bài viết do chính tôi thực hiện trên sự sưu tập tài liệu và sự hướng dẫn của các thầy cô trong khoa Kế hoạch và Phát triển cùng với các cán bộ Ban phát triển Nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội, Viện chiến lược, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Nếu bài của tôi có sự sao chép từ một tài liệu hoặc luận văn nào sẵn có thì tôi xin chịu mức kỷ luật do nhà trường đặt ra. Người cam đoan Trịnh Thị Lan Hương MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIẾU Sơ đồ cơ cấu lao động 3 Cơ cấu lao động chia theo tình trạng việc làm 10 Sơ đồ phân loại dân số và Nguồn lao động 12 Bảng 1: Dự báo tăng dân số trong tuổi lao động đến năm 2015 16 Bảng 2: Số thanh niên bước vào độ tuổi lao động hàng năm 2000 – 2007 28 Biểu đồ 1 Dân số trong độ tuổi 15 -34 năm 2006 – 2010 29 Biểu đồ 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo độ tuổi năm 1996 và 2007 30 Biểu đồ 3: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động trẻ theo nhóm tuổi, giới tính 32 Bảng 3: Trình độ học vấn của lao động trẻ qua các năm 2000 – 2007 34 Bảng 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2003, 2007 35 Biểu đồ 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ nói chung và trong các doanh nghiệp năm 2007 35 Bảng 5: Tỷ lệ lao động phân theo nhóm tuổi và trình độ chuyên môn kỹ thuật 36 Bảng 6: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2007 38 Biểu đồ 5: Tổng cầu lao động trẻ trong nền kinh tế quốc dân và số việc làm mới trong các năm 2000 - 2007 39 Bảng 7: Cơ cấu đầu tư xã hội theo các nhóm ngành năm 2000 – 2007 41 Bảng 8: Cơ cấu việc làm mới tạo ra cho lao động trẻ các năm 2005 – 2007 42 Biểu đồ 6: Cơ cấu việc làm phân theo thành phần kinh tế năm 2007 43 Biểu đồ 7: Tỷ lệ lao động trẻ làm công ăn lương chia theo vùng năm 2006 và 2007 45 Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ và lao động lớn tuổi khu vực thành thị 46 Biểu đồ 8: Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trẻ ở khu vực nông thôn giai đoạn 1996 – 2007 48 Biểu đồ 9: Tỷ lệ đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn 52 Bảng 10: Nguồn vốn bổ sung cho quỹ 120 từ 2001 – 2008. 57 Bảng 11: Số việc làm tạo ra từ Quỹ 120 theo các giai đoạn 57 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ILO : Tổ chức lao động quốc tế KV : Khu vực NGO : Tổ chức phi Chính phủ ODA : Vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài Quỹ 120 : Quỹ quốc gia về việc làm THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề Việt Nam là một đất nước đông dân có nguồn lao động dồi dào, đặc biệt nhóm dân số trẻ từ 15 – 34 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 45,47% tổng dân số). Trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lực lượng này luôn được coi là “lực lượng rường cột, nắm giữ vận mệnh của nước nhà”. Vì thế, quá trình trưởng thành của nhóm dân số trẻ là một trong những vấn đề được xã hội quan tâm nhiều nhất. Mối quan tâm này càng trở nên có ý nghĩa hơn trong giai đoạn có những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội như những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Mức sống trong xã hội được nâng cao và tỷ lệ theo học đại học và sau đại học gia tăng khiến cho lớp trẻ ngày hôm nay không nhất thiết phải đi làm ngay sau khi học xong tiểu học hay trung học cơ sở như các thế hệ cha anh họ trước đây. Biến đổi xã hội ở Việt Nam gây nên những sức ép tâm lý trong đời sống của giới trẻ, hiện đang lớn lên giữa các giá trị truyền thống và hiện đại. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong xã hội Việt Nam, song song với tác động của quá trình toàn cầu hóa, đã và đang làm xói mòn những giá trị truyền thống. Thời gian đi học dài hơn, kết hôn muộn hơn và những đòi hỏi chuyên môn ngày một cao hơn là những điểm khác biệt trong đời sống của lớp người trẻ hôm nay so với thế hệ cha anh họ trước đây.Những khoảng cách và khác biệt thế hệ có thể dẫn đến những xung đột trong sinh hoạt thường ngày, trong nội bộ từng gia đình, cộng đồng và ngay tại nơi làm việc. Cái khó của các chính sách là làm sao đảm bảo được công ăn việc làm tốt và hữu ích cho lực lượng lao động trẻ. Trong mối liên kết giữa quá độ thị trường, toàn cầu hoá và biến đổi xã hội, giải quyết được các vấn đề nói trên và nắm bắt được bức xúc việc làm của lực lượng lao động trẻ là vô cùng quan trọng, không chỉ về lâu dài cho đất nước mà còn đối với ngay chính thế hệ trẻ hôm nay. Mặc dù nhiều vấn đề khác cũng rất quan trọng như tình dục, tàn tật, tiêm chích ma túy, mại dâm, HIV, di dân và trẻ lang thang… song mục tiêu giảm thất nghiệp, tạo việc làm, tăng khả năng tìm việc của lao động trẻ là những ưu tiên hàng đầu hiện nay đối với sự phát triển của đất nước. Nhận thức được vấn đề đó và bản thân cũng là một trong những người sắp bước vào lực lượng lao động trẻ trong thời gian tới, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ”. 2. Mục đích nghiên cứu Đưa ra cái nhìn tổng quan về các khái niệm có liên quan đến lao động và việc làm, đặc biệt là lao động trẻ. Phân tích và đánh giá thực trạng một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ hiện nay, tìm ra những vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng từ đó có hướng đề xuất để nâng cao hiệu quả, hoàn thiện các giải pháp đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: việc làm cho lực lượng lao động trẻ. Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trên phạm vi cả nước, đối với tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề, chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp duy vật biện chứng Phương pháp thống kê và mô tả. Phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh số liệu 5. Kết cấu của chuyên đề Ngoài các phần phụ lục, danh mục bảng biểu, các từ viết tắt, … chuyên đề gồm ba phần chính được chia làm ba chương: Chương I: Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ Chương II: Đánh giá một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ Chương III: Hoàn thiện các giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ CHUƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ I. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước 1. Một số quan niệm về lực lượng lao động trẻ Nguồn lao động Ở một không gian và thời gian xác định, xét về khả năng có thể sử dụng theo Bộ Luật lao động thì nguồn nhân lực có ý nghĩa tương đương với Nguồn lao động: - Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (Moscow 1997 – Bản Tiếng Nga) thì nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tang (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động); - Theo từ điển thuật ngữ lao động Pháp (1977 – 1985 – Bản Tiếng Pháp) thì nguồn lao động không gồm những người lao động có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc.Theo quan điểm này, phạm vi dân số được tính vào nguồn lao động theo nghĩa hẹp hơn so với quan điểm nêu trong từ điển thuật ngữ về lao động của Liên Xô cũ. - Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nôị thì nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Với quan điểm này, nguồn lao động sẽ không bao gồm dân số ngoài tuổi lao động đang thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Mặc dù đều giới hạn độ tuổi lao động theo luật định của mỗi nước nhưng thuật ngữ nguồn lao động và dân số trong đột tuổi lao động được phân biệt với nhau bởi quy mô: quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn hơn quy mô nguồn lao động do nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động trong khi dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sực lao động bẩm sinh hoặc do các nguyên nhân khác như: chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động… Lực lượng lao động Theo quan niệm của Tổ chức lao động Quốc tế ( ILO ) thì lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. ( Dân số đang làm việc trong tuổi + người thất nghiệp) Trong những chính sách hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam của Tổng Cục Thống Kê quy định Lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm hoặc không có việc làm ( biểu thị dân số hoạt động kinh tế ) Các quan niệm nêu trên chỉ làm rõ phần nào về mặt định tính hoặc định lượng của chỉ tiêu lực lượng lao động, không thể dùng làm căn cứ để đánh giá thống kê về quy mô lực lượng lao động bởi trong đó còn có một số yếu tố chưa xác định Khái niệm về lực lượng lao động được sử dụng trong các cuộc điều tra lao động – việc làm hằng năm từ 1996 đến nay đã nêu ra : Lực lượng lao động ( tương đương với khái niệm dân số hoạt động kinh tế ) gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc tìm việc làm nhưng có nhu cầu làm việc Ngoài ra, khái niệm lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cũng được sử dụng một cách phổ biến. Lực lượng này còn được gọi là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động, bao gồm những người trong độ tuổi lao động ( nam từ đủ 15 tuổi đến hết tuổi 60, nữ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi ), đang có việc làm hoặc không có việc làm ( thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. Hai khái niệm này cơ bản thống nhất với khái niệm của TLO và quy định hiện hành của Tổng cục Thống kê, và chỉ cụ thể hơn nhóm thứ hai của lực lượng lao động là những người thất nghiệp, chứ không nói chung chung là không có việc làm ( không có việc làm = thất nghiệp + nội trợ, sinh viên…). Nó được sử dụng làm căn cứ khi tính toán thống kê cho lưc lượng lao động của Việt Nam ngày nay. Phân biệt lực lượng lao động và nguồn lao động: Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng không đồng nhất với nguồn lao động ở chỗ, lực lượng lao động không bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia hoạt động kinh tế như: đang đi học ( học sinh, sinh viên ), đang làm việc nội trợ cho gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc. Ngoài các đặc trưng về nhân khẩu, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, lực lượng lao động còn bao hàm các đặc trưng về trình độ, cơ cấu kỹ năng, nghề nghiệp, cấu trúc đào tạo, tác phong kỷ luật lao động, đạo đực làm nghề, sự hiểu biết về pháp luật, khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN, khả năng hội nhập với thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới. Sơ đồ cơ cấu lao động Dân số Có việc làm Thất nghiệp Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động Hoạt động kinh tế Không hoạt động kinh tế Lực lượng lao động trẻ Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “ Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không… phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên… Nghị quyết đại hồi đoàn: Bổ sung thêm, nghị quyết mới hơn của đại hội X Trong sự phát triển của xã hội, thanh niên nói riêng và bộ phận dân số trẻ nói chung được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: dưới góc độ tâm lý học, sinh lý học, triết học, kinh tế học, xã hội học, dân số học và các ngành khoa học khác. Mỗi một ngành khoa học nghiên cứu khoa học về bộ phận dân số này đều có cách tiếp cận riêng, tùy thuộc nội dung và góc độ nghiên cứu. Để có một quan niệm đúng về lứa tuổi này, cần nghiên cứu tổng hợp trên nhiều khía cạnh, có tính đến những quy luật bên trong sự phát triển Về thể chất và tinh thần. Bộ phận dân số này được tính từ đủ 15 tuổi đến 34 tuổi. Ở lứa tuổi này, con người phát triển nhanh về thể chất, sinh lý, tâm lý, đó là tuổi trưởng thành về đạo đức, nhân cách và văn hóa, là tuổi khẳng định cá tính sáng tạo, nhiều ý tưởng, ước mơ, hoài bão khát vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Bước ngoặt trong lứa tuổi này được đánh dầu bằng những mốc lớn: tốt nghiệp phổ thông, đại học, cao đẳng hoặc một trường dạy nghề bước vào cuộc đời lao động, xây dựng tình bạn tình yêu, lập gia đình, đón nhận nghĩa vụ xã hội trong tư thế và tư cách công dân của mình. Bộ phận dân số trẻ của một đất nước, một dân tộc sống và hành động như thế nào thì đó là tấm gương phản chiếu bộ mặt tinh thần và sức sống của dân tộc, đất nước đó. Tóm lại, có thể hiểu lực lượng lao động trẻ là một nhóm người thuộc lực lượng lao động, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 15 đến 34 tuổi được gắn với mọi giai cấp dân tộc, mọi tầng lớp kinh tế xã hội và tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và đặc điểm của từng quốc gia dân tộc. Đây là lực lượng lao động có lợi thế về sự phát triển mạnh mẽ của thể chất tinh thần, trí tuệ và phẩm chất nhân cách của một công dân hình thành thế giới quan và lý tưởng đạo đực cuộc sống, là những người nhanh nhạy với cái mới dễ dàng tiếp thu và chấp nhận cái mới cũng chính là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những chuyển biến của sự phát triển kinh tế xã hội. 2. Các bộ phận cấu thành (phân loại) Có nhiều cách để phân loại lực lượng lao động trẻ thành các nhóm khác nhau. Sau đây là một vài cách phân loại chủ yếu : - Theo giới: Lực lượng lao động trẻ gồm hai bộ phận nam giới và nữ giới - Theo khu vực: Gồm hai bộ phận là lực lượng lao động trẻ ở thành thị và lực lượng lao động trẻ ở nông thôn - Theo vùng lãnh thổ Nước ta: Có 8 vùng lãnh thổ chính. Tương ứng với các lực lượng lao động trẻ ở mỗi vùng đó + Đồng bằng sông Hồng + Đông Bắc + Tây Bắc + Bắc Trung Bộ + Duyên hải Nam Trung Bộ + Tây Nguyên + Đông Nam Bộ + Đồng bằng sông Cửu Long - Theo tuổi: + Từ 15 đến dưới 18 tuổi: Lực lượng lao động trẻ chưa thành niên. + Từ đủ 18 đến 34 tuổi: Lực lượng lao động trẻ thành niên Theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, gồm 3 nhóm: + Lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo. + Lao động trẻ sau khi tốt nghiệp phổ thông không tiếp tục học trung học chuyên nghiệp hoặc là cao đẳng , đại học. + Lao động trẻ thất nghiệp, mất việc làm. Trong đó, cách làm phân loại theo giới và theo khu vực được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất 3. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học đề thừa nhận: để tăng trưởng kinh tế nói chung đều phải đảm bảo bốn nhân tố cơ bản: nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ. Song lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, nguồn lao động là nhân tố tái tạo, sử dụng các nguồn lực còn lại. Lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế. Chi phí lao động. mức tiền công, số người có việc làm biểu hiện sự cấu thành của nguồn lao động trong hàng hóa và dịch vụ, nó trở thành nhân tố phản ánh sự tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động đã tham gia và tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Như vậy với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tạo ra cung của nền kinh tế, với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, người lao động trở thành nhân tố tạo ra cầu của nền kinh tế. Đây cũng chính la sự khác biệt cơ bản của người lao động và các nguồn lực khác, người lao động vừa tạo cung, vừa tạo cầu cho nền kinh tế, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế xã hội do con người tạo nên. Người lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ bản kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu đó. Có thể nói con người là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế Đặt trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam, các quan hệ đối ngoại được tiếp tục mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế là giữ vững định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt nam là một đất nước có dân số trẻ, khoảng % trong tổng số… triệu dân dưới 35 tuổi. Một đất nước có nguồn lực trẻ là một lợi thế quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của một quốc gia. Vì thế, lớp người trẻ được đặt vào vị trí trung tâm, là động lực chính của phát triển. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 của Chính phủ đã nêu rõ: “ Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và có vai trò xung kích sáng rạo của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Lực lượng lao động trẻ ở Việt Nam không chỉ là lực lượng lao động chính , mà còn là nhân tố quyết định cho xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập ngày nay. Vì thế, hiện đại hóa nền kinh tế phải gắn liền với việc hiện đại hóa nguồn nhân lực trẻ để chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. II. Một số vấn đề về việc làm 1. Những đặc điểm chung Khái niệm việc làm. Có ý kiến cho rằng, việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy, theo quan điểm này, khi và chỉ khi có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố “sức lao động” và “ tư liệu sản xuất” thì ở đó có việc làm. Với cách hiểu như vậy thì khái niệm việc làm chưa thật toàn diện, đó chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là “ môi trường ( điều kiện ) lao động”. Nếu điều kiện lao động không đảm bảo thì quá trình lao động cũng không thể diễn ra được. Vì vậy, trong điều 13 Bộ luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc là hiện vật, công việc tự làm thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó. Việc làm tồn tại dưới ba hình thức chính: Một là, làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc để đổi công Hai là các công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân. - Ba là, làm các công việc nhằm tạo thu nhập ( bằng tiền hoặc bằng hiện vật) cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương (tiền công). Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phát triển nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. Người có việc làm. Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước điểm điều tra (gọi là tuần lễ tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm. Ở nhiều nước, mức chuẩn này là 11 giờ, ở Việt Nam mức chuẩn được sử dụng nhiều trong lao động, việc làm từ năm 1996 đến nay là 8 giờ. Riêng với những người trogn tuần lễ tham khảo không làm viêc vì lý do bất khả kháng hoặc do thai sản, nghỉ ốm, nghỉ phép, nghỉ hẹ, hoặc là đi học có hưởng lương, nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian thực tế làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm và họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ việc, vẫn được tính là người có việc làm. Căn cứ vào thời gian thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra, người có việc làm lại được chia thành hai nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việc làm. Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc bé hơn 36 giờ nhưng có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc bé hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc hơn giờ chế độ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại Người thiếu làm việc: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo bé hơn 36 giờ hoặc ít hơn chế độ quy định đối với người làm những công việc nặng nhọc, độc hai, có nhu cầu làm thêm giờ hoặc sẵn sàng làm khi có việc Người thất nghiệp. Người thất nghiệp là người có đủ 15 tuổi trở lên có khả năng làm việc, đang không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc và sẵn sàng làm việc Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp gồm: Thất nghiệp dài hạn: là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hay từ thời điểm điều tra trở về trước. Thất nghiệp ngắn hạn: là người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước. Căn cứ theo cơ cấu lao động thị trường ngày nay, thất nghiệp gồm: Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do sự di chuyển không ngừng của con người giữa các vùng, công việc hoặc giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế đầy đủ việc làm, vẫn luôn luôn có một số chuyển động nào đó do tồn tại một số người đi tìm việc làm khi tốt nghiệp các trường, hoặc chuyển đến một nơi sinh sống mới, phụ nữ có thể quay lại lực lượng lao động sau khi có con, những công nhân thất nghiệp tạm thời thường chuyển công việc hoặc tìm những công việc tốt hơn nên người ta thường gọi họ là những người thất nghiệp tự ng… Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nguyên nhân có thể vì mức cầu đối với một loại lao động phát triển lên khi mức cầu đối với một loại khác giảm đi. Trong khi đó mức cung không thể điều chỉnh một cách nhanh chóng. Trong thực tế vẫn có xảy ra những sự mất cân đối trong các ngành nghề hoặc trong các vùng do một số lĩnh vực phát triển so với một số lĩnh vực khác và do quá trình đổi mới công nghệ. Nếu tiền lương rất linh hoạt sẽ hạn chế được sự mất cân đối trên các thị trường lao động: tiền lương giảm khi cung tăng, tiền lương tăng khi cầu cao. Thất nghiệp theo chu kỳ: là tình trạnh thất nghiệp xảy ra do rơi vào đúng thời điểm suy thoái cua chu kỳ kinh tế hoặc ở giai đoạn suy thoái của một chu kỳ sản phẩm. Cơ cấu lao động chia theo tình trạng việc làm Thất nghiệp ngắn hạn Lực lượng lao động Lao động có việc làm Lao động thất nghiệp Thiếu việclàm Đủ việc làm Thất nghiệp dài hạn Thất nghiệp được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ này được xác định bằng tỷ số phần trăm giữa số người thất nghiệp và tổng lực lượng lao động. UR = U/ LF (%) U: Số người thất nghiệp LF: Tổng số lực lượng lao động UR: Tỷ lệ thất nghiệp Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa phản ánh hết tình trạn sử dụng lao động ở các nước đang phát triển. Bởi ở các nước này còn tồn tại một hình thức thất nghiệp phổ biến mà người ta gọi là THẤT NGHIỆP TRÁ HÌNH Khác với thất nghiệp công khai (thất nghiệp hữu hình) theo đúng định nghĩa là một chỉ tiêu có thể xác định, đo đếm, tính toán được, thất nghiệp trá hình xuất hiện phổ biến trên thị trường lao động ở các nước đang phát triển với nhiều hình thức nhưng tồn tại ở hai dạng hình thức chính đó là: - Bán thất nghiệp: là những người có việc làm nhưng làm không đủ cho toàn phần thời gian. Ở Việt Nam, bộ phận này chủ yếu là nông dân, được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn = = (Theo chế độ = Số người đang làm * số giờ định mức Theo quy chuẩn = Số lượng thực ) - Thất nghiệp vô hình: là những người có việc làm và làm hết toàn phần thời gian lao động, tuy nhiên làm việc với năng suất và hiệu quả thấp Hiện tượng này thường xuất hiện trong các bộ phận hành chính của các cơ quan nhà nước. Trong bài viết sẽ nghiên cứu chủ yếu tỷ lệ thất nghiệp và thất nghiệp trá hình Những người không thuộc lực lượng lao động Những người không thuộc lực lượng lao động tương đương với nhóm dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và thất nghiệp Những người không thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi lao động hay dân số không hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động gồm toàn bộ số người ( trong đó: nam từ đủ 15 tuổi trở lên đến hết tuổi 60; nữ đủ 15 tuổi trở lên đến hết 55 tuổi ) không thuộc bộ phận người có việc làm và người thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Những người không hoạt động kinh tế chủ yếu là do: Đang đi học Đang làm công việc nội trợ cho gia đình mình Già cả , ốm đau kéo dài. Tàn tật, không có khả năng lao động Lý do khác. Sơ đồ phân loại dân số và Nguồn lao động Đủ việc làm Dân số trong độ tuổi lao động Dân số ngoài độ tuổi LĐ Dân số hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế Có việc làm Thất nghiệp Người mất khả năng lao động Người có khả năng lao động Thiếu việc làm Dài hạn Ngắn hạn Tổng dân số Nguồn lao động 2. Đặc điểm về việc làm của lực lượng lao động trẻ Vấn đề việc làm vốn là một vấn đề phực tạp, đặc biệt là vấn đề việc làm cho lực lượng lao động trẻ, bởi lực lượng lao động trẻ có những đặc điểm riêng biệt đặc thù cho lứa tuổi lao động trẻ. Trong những năm vừa qua (2001 – 2008 ), bộ phận dân số trẻ, mà đặc biệt là bộ phận thanh niên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên tăng không đáng kể, nguyên nhân là do lượng người được đi học ngày càng tăng, phần lớn trong số đó lao động trong các hộ gia đình không hưởng lương ( chiếm 55,3 % tổng số lực lượng lao động trẻ) ; 17,7 % lao động trẻ làm việc hưởng lương khu vực ngoài Nhà nước, chỉ có 9% số lao động trẻ làm việc trong khu vực Nhà nước và 1% vủa bộ phận này là chủ doanh nghiệp tư nhân. Số lao động trẻ được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 25%). Hàng năm có khoảng 120.000 số học sing tốt nghiệp THPT chưa có điều kiện học tiếp nâng cao lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở lại các địa phương. Đây chính là lực lượng lao động cơ bản và có nhu cầu việc làm. Thu nhập của người lao động chỉ xoay quanh 350 đến 400 m2 đất (đây là diện tích đất canh tác bình quân của một lao động trên một năm). Trong khi đó, thời gian và sức lao động dành cho sản xuất nông nghiệp không nhiều dẫn tới tình trạng dư thừa lao động ở địa phương , nhất là lực lượng thanh niên nông thôn. Lực lượng thanh niên nông thôn rất mong muốn có việc làm và thu nhập, hơn thế nữa là việc làm ổn định có thu nhập cao ngay tại địa phương. Nhưng phần lớn việc làm ổn định có thu nhập cao tại địa phương là không nhiều nên số lao động trẻ đi tìm việc làm ở các địa phương khác là khá đông. Mặc dù là một bộ phận lao động dồi dào nhưng bộ phận lao động trẻ lại được đánh giá là chất lượng chưa cao, tay nghề, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Theo kết quả của một cuộc điều tra mới đây đối với 10.000 lao động trẻ ( đã tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng hoặc các trường trung học chuyên nghiệp ) tham gia tuyển dụng trong vài năm gần đây ( 2001 – 2007 ), có độ “ chênh” khá lớn giữa yêu cầu của nhà tuyển dụng với khả năng đáp ứng của người lao động. Có thể tổng kết lại hiện tượng thất nghiệp hiện nay của lực lượng lao động trẻ là do các nguyên nhân sau: Một là, không có việc làm vì thiếu kiến thức xã hội: Thông tin từ các buổi phỏng vấn tuyển dụng cho thấy; 80% ứng viên đi phỏng vấn sau khi tốt nghiệp đã từng lang thang tìm việc bằng cách rải hồ sơ, chờ may mắn chứ không có kế hoạch dài hạn, cụ thể nào để tìm việc làm. Đa số ứng viên còn không tìm hiểu nhiều về công ty mà mình tham gia thi tuyển. Hai là, các nhà tuyển dụng không tuyển những người thiếu tự tin. Tâm lý chung của các ứng viên đều coi trọng bằng cấp và coi thường các yếu tố khác, họ thường có tư tưởng ngắn hạn, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, như được trả lương bao nhiêu, quyền lợi là gì mà ít hình dung mình sẽ làm gì, đóng góp ra sao, công việc có phù hợp với năng lực chuyên môn hay không. Thực tế thì những đối tượng này có kiến thức nhưng đó chỉ là những kiến thức sách vở khi đem áp dụng vào thực tế cần thời gian, thử thách thậm chí cần phải đào tạo lại. Tâm lý “Đứng núi này trông núi nọ” là hệ quả của sự thiếu ổn định, thiếu tự tin của lực lượng lao động trẻ. Lao động trẻ thường muốn mọi việc suôn sẻ ngay, những yêu sách đưa ra phải được đáp ứng, nếu không được thoả mãn thì rất dễ nảy sinh tâm lý bất mãn, tiêu cực… Vì thế, bản chất của sự thay đổi công việc liên tiếp của lao động trẻ là quá trình đi tìm sự hợp lý giữa bằng cấp và đòi hỏi công việc trên thực tế. Thêm vào đó, lao động trẻ thường nôn nóng muốn khẳng định vị trí công việc và đồng lương nên thường “vỡ mộng” trong thời gian ngắn, tạo ra tâm lý muốn thay đổi vị trí công việc và nó đã tạo ra những “bước nhảy cóc” liên tiếp. Và mặc dù được đánh giá là có chất lượng lao động trẻ cao gấp 4 lần Thái Lan (theo tin đã đưa của Hãng AFP về nhận định chung của một số nhà lãnh đạo kinh tế đang làm ăn tại Việt Nam), nhưng nếu trình độ tay nghề, ý thức lao động về việc chấp hành nội quy, kỷ luật lao động… thì trong thời gian tới, lao động trẻ sẽ không còn là một lợi thế của Việt Nam nữa. Vì thế, cần phải có những biện pháp mới giúp hạn chế những nhược điểm trên của lực lượng lao động trẻ để có thể tiếp tục là “niềm hy vọng tốt nhất giúp Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoàng kinh tế toàn cầu và là điểm tựa cho sự tăng trưởng trong tương lai”(Theo hãng tin AFP). 3. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động trẻ Việc làm và nghề nghiệp là nguy._.ện vọng chính đáng và luôn là mối quan tâm hàng đầu của thanh niên. Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp giải quyết việc làm cho đối tượng này. Điều này một mặt phản ánh bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân, vì dân, mặt khác nó còn bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Xu thế gia tăng cầu việc làm ở Việt Nam Sự gia tăng cầu việc làm ở Việt Nam chủ yếu do hai nguyên nhân chính: sự bùng nổ dân số và thất nghiệp gia tăng do khủng hoảng kinh tế. - Bùng nổ dân số: Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua số người bước vào độ tuổi lao động ở Việt Nam tăng mạnh, trong khi đó số người ra khỏi tuổi lao động lại không nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước có quy mô dân số lớn, năm 2008, dân số nước ta là 86,3 triệu người.Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động chiếm 92,27 %, đặc biệt dân số trong độ tuổi từ 15 – 34 tuổi là 32.411.751 người, chiếm 37,55 % trong tổng dân số và 40,7 % so với dân số trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi vào khoảng 21 % (số liệu thống kê năm 2008). Chính vì thế mà mức tăng dân số hàng năm ở Việt Nam vẫn còn ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm tới, dự báo dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao và do vậy. bộ phận dân số trong tuổi lao động, đặc biệt là lao động trẻ sẽ vẫn tăng cao. Điều này sẽ tạo ra áp lực lớn cho vấn đề giải quyết việc làm. Theo dự báo đến năm 2010, Việt Nam sẽ có khoảng 88,5 triệu người; đến năm 2019 là 95 triệu người và năm 2025 là 100 triệu người. Gia tăng dân số đồng nghĩa với việc gia tăng số người trong độ tuổi lao động và gia tăng lực lượng lao động. Cũng theo dự báo, đến năm 2010 sẽ có khoảng 57,08 triệu người trong độ tuổi lao động, như vậy bình quân mỗi năm tăng khoảng 1 triệu người, năm 2015 là 62,909 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,16 triệu người. Bảng 1: Dự báo tăng dân số trong tuổi lao động đến năm 2015 Năm Dân số trong tuổi lao động (1000 người) % so với tổng dân số (%) Mức tăng bình quân/ năm (1000 người) Tốc độ tăng bình quân/năm (%) 2005 51580 62,1 1282 2,7 Dự báo 2010 57080 64,7 1100 2,1 Dự báo 2015 62909 66,2 1165,8 2,12 Nguồn: Số liệu thống kê Việt Nam các năm. Có thể thấy dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng nhanh về số lượng, mức gia tăng thời kỳ 2001 – 2005 là gần 7 triệu người, tốc độ tăng bình quân là 2,7%/ năm; thời kỳ 2006 – 2010 là 5,5 triệu người, bình quân là 1,1 triệu người/ năm. Thời kỳ 2006 – 2008, số người bước vào tuổi lao động là 5,478 triệu người (bình quân 1,826 triệu người/năm); dự báo 2009 – 2015, số người bước vào tuổi lao động là 10,722 triệu người (bình quân 1,787 triệu người/năm). Do vậy, mức gia tăng của dân số trong giai đoạn này vẫn còn rất cao, cộng với số chưa được đào tạo nghề, chưa có việc làm và thiếu việc làm đầu kỳ chuyển sang rất lớn nên giải quyết việc làm tiếp tục trở thành áp lực lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo của Việt Nam. - Thất nghiệp gia tăng do khủng hoảng kinh tế: Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu ở Mỹ vào khoảng tháng 12 năm 2007 và lan rộng ra toàn thế giới tạo nên một “bức tranh tài chính xám xịt” từ năm 2008 và dự báo sẽ còn kéo dài trong ít nhất là 2 – 3 năm tới. Những hậu quả kéo theo của cuộc khủng hoảng này đã bắt đầu có những biểu hiện ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng. Một trong những vấn đề đó chính là giải quyết việc làm. Nền kinh tế thế giới đang đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất trong vòng vài thập kỷ. Tính đến tháng 2 năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp Mỹ tăng lên đến 8,1%, mức cao nhất trong 25 năm trở lại đây. Tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp tính đến thời điểm này là 6,23%, trong đó, số lao động thất nghiệp nằm trong độ tuổi lao động trẻ là 5,20%. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết tỷ lệ thất nghiệp trên thế giới sẽ tăng đến mức 7,1% vào cuối năm 2009, so với 6% năm 2008 và 5,7% năm 2007. Trong đó, các quốc gia đang phát triển chịu nhiều thiệt hại nhất do tình trạng có them nhiều người mất việc làm. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Đối với lực lượng lao động trẻ, vấn đề này lại càng trở nên nghiêm trọng bởi lực lượng này hầu hết thiếu kinh nghiệm, có một bộ phận lớn nằm trong diện mới được nhận vào làm việc, hoặc đang trong quá trình đào tạo lại, học việc, thu thập kinh nghiệm thực tế… nên rất dễ bị cắt giảm khi các nhà sản xuất phải thu hẹp quy mô hoạt động của các cơ sở kinh doanh. Mục tiêu thiên niên kỷ Tháng 9 năm 2000, thay mặt Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chủ tịch Trần Đức Lương đã ký cam kết Quốc tế về việc Việt Nam sẽ thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu giải quyết việc làm. Theo đó, Việt Nam đã cam kết sẽ thực hiện các mục tiêu sau trong giai đoạn 2006 – 2010: Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động một năm, đạt tổng số trong 5 năm 2006 – 2010 là 8 triệu lao động. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới 50% vào năm 2010. Nâng tỷ lệ qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống dưới 5% trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động vào năm 2010. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam rất coi trọng đến việc giải quyết việc làm. Chính phủ đã xây dựng Chiến lược việc làm giai đoạn 2000 – 2010, xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xóa đói Giảm nghèo và Giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005 và Chương trình Mục tiêu Quốc gia Việc làm giai đoạn 2006 – 2010; và các Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng như người lao động trong giai đoạn. Theo Chiến lược việc làm thời kỳ 2000 – 2010, Chính phủ đã xác định: Tạo việc làm là ưu tiên số một trong các chính sách kinh tế - xã hội. Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy yếu tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động – xã hội để chuyển dịch cơ cấu kinh tế kết hợp với tăng trưởng việc làm, không ngừng nâng cao chất lượng việc làm . Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Mục tiêu tổng quát của chiến lược và chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động có nhu cầu làm việc, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Mục tiêu cụ thể trong năm nay là: tạo việc làm cho phần 13,5 triệu người; (trung bình 1,35 triệu người/ năm); đạt cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp là 50%; ngành công nghiệp là 23%; ngành dịch vụ là 27% vào năm 2010; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% vào năm 2010. Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) đã được Quốc hội thông qua; trong giai đoạn này, chúng ta sẽ tập trung giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, trong đó, 6 triệu là tạo chỗ làm việc mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống dưới 5%, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp và thủy sản xuống còn 50% vào năm 2010, tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên ít nhất là 24 – 28% và tăng lao động thương mại – dịch vụ lên ít nhất 26 – 27%. Theo kết quả điều tra lao động – việc làm năm 2007, tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động (tỷ lệ thất nghiệp) là 4,91%, trong đó, lực lượng lao động trẻ chiếm 3,5 %, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn là 80,7%, với lực lượng lao động trẻ là 78,3%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 34,75%, của lực lượng lao động trẻ là 32,4%; tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 52,20%, trong đó có đến 48,7% là lao động trẻ; lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,20%, trong đó lao động trẻ chiếm 16,5%,; lao động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ là 28,6%, trong đó có 22,7% là lao động trẻ. Như vậy, trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ tiếp tục phải nỗ lực rất nhiều để giải quyết việc làm nhằm đạt các mục tiêu thiên niên kỷ đã cam kết với quốc tế và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) đã được Quốc hội thông qua. Nằm trong mục tiêu chung về giải quyết việc làm, mục tiêu giải quyết việc làm cho lao động trẻ cũng đang được tập trung các nguồn lực để thực hiện bởi lực lượng này được coi là “niềm hy vọng tốt nhất để đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, hội nhập sâu vào nền kinh tế tòan cầu…” III. Các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm Việc làm là kết quả thu được của quá trình tạo việc làm, một quá trình đòi hỏi sự tham gia của Nhà nước – với vai trò quản lý trong lĩnh vực tìm việc làm để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự kết hợp giữa hai yếu tố sức lao động của bản thân người lao động và tư liệu sản xuất của người sử dụng lao động. Vì thế, vấn đề giải quyết việc làm bị ảnh hưởng của cả những nguyên nhân chủ quan thuộc về phía người lao động và nguyên nhân khách quan đến từ môi trường bên ngoài. 1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Mỗi quốc gia đều có chính quyền với tổ chức bộ máy Nhà nước. Nhà nước quản lý điều hành hoạt động của Quốc gia thông qua bộ máy công quyền bằng hệ thống pháp luật kết hợp với quan điểm đường lối phát triển kinh tế. Quan điểm, chiến lược phát triển kinh tế có một vai trò quan trọng, mang tính chất định hướng, quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia. Nếu quan điểm đó đúng đắn sẽ góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho tăng trưởng nhanh, bền vững và ngược lại. Việc làm vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho tăng trưởng và phát triển. Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, nhu cầu về việc làm tăng nhanh, nhu cầu việc làm tăng nhanh từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái thì nhu cầu về việc làm giảm dẫn đến tăng khả năng thất nghiệp của một bộ phận dân cư. Như vậy rõ rang các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ vừa có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác việc làm của mỗi quốc gia. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 đã xác định: GDP đến năm 2010 tăng gấp 2 lần năm 2000. GDP trong nông nghiệp tăng bình quân khoảng 4 – 4,5%/năm và phấn đấu đến năm 2010, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm 16 – 17%. Công nghiệp và xây dựng tăng bình quân hàng năm khoảng 10 – 15%và chiếm 40 – 41% trong GDP vào năm 2010. Dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7 – 8% và chiếm 42 – 43% trong GDP vào năm 2010. Phân tích tác động của tăng trưởng kinh tế đến tạo việc làm thời gian qua cho thấy: cứ 1% tăng trưởng của GDP thì cầu lao động tăng 0,3 – 0,37%. Như vậy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cầu lao động sẽ tiếp tục tăng khá. Đặc biệt, hệ số co giãn việc làm trong khu vực dịch vụ cao gấp 3 lần khu vực nông nghiệp và trong khu vực công nghiệp – xây dựng cao gấp 1,5 – 2 lần khu vực nông nghiệp càng cho thấy vai trò to lớn trong giải quyết việc làm của các hoạt động phi nông nghiệp. Trong thời kỳ 1991 – 2000, tính trung bình cứ tăng 1% tỷ trọng của khu vực phi nông nghiệp trong tổng GDP thì tương ứng sẽ tạo thêm được 287,6 nghìn việc làm trong khu vực này (tức là cầu lao động trong khu vực này tăng thêm); trong thời kỳ 2001 – 2007, tỷ lệ này là 1% và 402,15 nghìn. Vì vậy, việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ tới sẽ tiếp tục làm tăng đáng kể cầu lao động. Việc làm phản ánh kết quả của đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và tăng trưởng kinh tế. Khả năng thu hút lao động tạo việc làm của mọi nền kinh tế tùy thuộc rất nhiều vào mô hình tăng trưởng được áp dụng, đó việc lựa chọn các ngành trọng điểm để đầu tư phát triển thu hút nhiều lao động hay sử dụng nhiều vốn, đó là việc lựa chọn công nghiệp, là hướng nhập khẩu thay thế xuất khẩu…Những hoạt động đó đều phụ thuộc vào ý đồ của các nhà lãnh đạo đất nước, được thể hiện rất rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Ngoài ra, Chiến lược việc làm cũng cần dựa trên các điều kiện về kinh tế, xã hội khác như thu nhập, mức sống, khả năng cung cấp các dịch vụ xã hội và mức độ tiếp cận của người dân. Vì vậy, Chiến lược việc làm phải được xây dựng trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các Chiến lược thành phần khác 2. Hệ thống luật pháp và các chính sách tác động đến giải quyết việc làm Hệ thống luật pháp và các chính sách của Nhà nước cũng là những yếu tố quan trọng cần tính đến trong xây dựng chiến lược việc làm Với việc hoàn thiện luật đầu tư theo hướng nới lỏng các hạn chế với khu vực đầu tư, lĩnh vực và ngành nghề được đầu tư, mở rộng…. khuyến khích ( về thuế, đất đai, cung cấp nhân lực…) và hợp nhất hai luật đầu tư trong nước và đầu tư nước, ngoài trong thời gian tới môi trường đầu tư sẽ được cải thiện, các nguồn vốn trong dân sẽ được khai thông và được đưa vào đầu tư. Sản xuất phát triển sẽ có khả năng thi hút thêm nhiều lao động vào làm việc Luật doanh nghiệp mới sẽ tiếp tục được phát huy tác dụng, đặc biệt nếu việc hợp nhất các luật doanh nghiệp hiện hành, số lượng doanh nghiêp được thành lập hằng năm sẽ tăng lên nhiều và thu hút thêm lao động. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có khoảng 1,2 triệu doanh nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động thu hút từ 6 – 12 triệu lao động. Các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp sẽ phát huy tác dụng và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh như Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, quỹ khuyến khích đầu tư, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là xuất khẩu… Theo thông tin mới nhất từ Bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội và Bộ Tài Chính, trong năm 2009, doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế sẽ được Nhà Nước cho vay để thanh toán tiền lương, đóng góp bảo hiểm xã hội và trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc cho người lao động ( theo quy định ) . Lãi suất của lần hỗ trợ này là 0% Được tiến hành đồng thời với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp là các chính sách hỗ trợ cho người lao động. Các đối tượng được Chính Phủ hỗ trợ là những người lao động bị mất việc làm tại doanh nghiệp bỏ trốn năm 2009, không có người đại diện hợp pháp đứng sau giải quyết quyền lợi của người lao động và được UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có chức năng sẽ xác định người lao động có trong danh sách trả lương của doanh nghiệp, xác định cụ thể tiền lương còn nợ sau đó sẽ trả cho người lao động. Cũng tại lần hỗ trợ này, đối tượng được vay vốn là người lao động bị mất việc làm trong năm 2009 bao gồm cả người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bị mất việc làm phải về nước trước thời hạn sẽ được vay vốn học nghề. Điều đáng chú ý ở đây là những đối tượng này đều được ở độ tuổi lao động trẻ Ngoài ra, hằng năm còn có các chính sách riêng dành cho lao động trẻ được triển khai bởi Đoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh phối hợp với các Ngân hàng. Năm 2007 có chương trình phối hợp giữa thành đoàn Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội ( SHB) thỏa thuận ký kết “Chương trình hỗ trợ thanh niên lập nghiệp giai đoạn 2007 – 2012”; năm 2009 với tháng thanh niên có chủ đề “Tuổi trẻ hành động vì môi trường – hỗ trợ thanh niên về nghề nghiệp và việc làm”, triển khai ở tình thành đoàn. Đề án hỗ trợ học nghề này ( 2009 ) tập trung hỗ trợ thanh niên học nghề, tạo việc làm thông qua các hoạt động tư vấn tuyển sinh đại học, cao đẳng; hỗ trợ thanh niên học nghề, dạy nghề, hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, xây dựng và triển khai các dự án kinh doanh, ý tưởng kinh doanh của thanh niên, tư vấn, hỗ trợ thanh niên vay vốn Ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tín dụng khác để học tập, tạo việc làm… Các luật như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT, xuất nhập khẩu, thuế đất…sẽ tiếp tục cải tiến và sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp Hệ thống luật pháp và chính sách về lao động tiếp tục được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện theo hướng thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, xóa bỏ dần các rào cản, tạo sự thông thoáng và linh hoạt trên cơ sở một hệ thống thông tin thị trường lao động hoàn thiện và đảm bảo tiếp cận tốt nhất cho người lao động. 3. Quy mô và sự phân bố dân số - nguồn nhân lực. Lao động và việc làm là hai mặt của một vấn đề sử dụng nguồn lực con người. Xây dựng chiến lược việc làm không thể không tính đến tình hình cung lao động. Bài toán cân đối cung – cầu lao động luôn là trọng tâm của mọi chiến lược việc làm. Chỉ có thông qua cân đối cung – cầu lao động mới có cơ sở xây dựng các giải pháp thích hợp nhằm giảm thất nghiệp và tăng hiệu quả sử dụng lao động. Như vậy, chiến lược việc làm cũng cần được dựa trên các quá trình dân số, trong đó đặc biệt là tốc độ tăng trưởng dân số ( tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết ), tuổi thọ và tình hình di dân, chất lượng dân số ( sức khỏe, học vân, trình độ tay nghề…), chất lượng nguồn lao động. Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, quy mô dân số nước ta năm 2010 vào khoảng 88 – 89 triệu người, ứng với tốc độ tăng trưởng dân số khoảng 1.15 – 1,20% / năm. Trong đó dân số trong độ tuổi 15 – 34 là 22,97 triệu người, chiếm 25,95 % tỷ trọng dân số. Như vây, hằng năm dân sô tăng lên khoảng 1,1 đến 1,2 triệu người nói chung và 1,7 triệu người trẻ nói riêng. Với xu hướng này, cung lao động tiếp tục gia tăng với quy mô tương đối lớn trong những năm tới. - Biến đổi cơ cấu dân số Do tỷ lệ sinh liên tục giảm trong nhiều năm, đồng thời là xu hướng tuổi thọ của dân số, cơ cấu tuổi của dân số nước ta đang biến đổi theo hướng già hóa. Trẻ em dưới 15 tuổi giảm từ 39% năm 1989 xuống còn 33% năm 1999; giảm bình quân xuống 1,7% năm; từ 32% năm 2000 xuống còn 25% năm 2007. Trong những năm tới dự kiến tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi tiếp tục giảm xuống, nghĩa là tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên sẽ gia tăng, số lượng dân số bước vào tuổi lao động vẫn còn cao. - Biến đổi trạng thái hoạt động của dân số Tình hình thực tế ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy trạng thái hoạt động của dân số đang có những thay đổi theo thời gian. Đó là tăng tỷ lệ dân số không hoạt động kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này là do: tỷ lệ đi học tăng lên; tỷ lệ tàn tật – sức lao động giảm nhẹ; tỷ lệ nội trợ tăng nhẹ; tỷ lệ tham gia các hoạt động khác tăng nhẹ. Kết quả là tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế giảm xuống. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm có nghĩa là tốc độ tăng cung lao động sẽ thấp hơn tốc độ tăng lực lượng lao động nói chung. 4. Vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập Việt Nam có lực lượng lao động lớn và tăng nhanh, đặc biệt là lao động trẻ. Trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao trong nhiều năm liền, tình trạng việc làm của lực lượng lao động được cải thiện. Tuy nhiên, hiện tượng việc làm của Việt Nam còn nhiều yếu kém: chất lượng việc làm thấp, năng suất lao động thấp, thị trường lao động kém phát triển…lại thêm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho hiện trạng việc làm ở Việt Nam xấu đi. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, vấn đề việc làm sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều, đặc biệt là việc làm cho lực lượng lao động trẻ bởi đây là đối tượng tiếp thu nhanh nhất cũng như bị ảnh hưởng nhiều nhất trước những điều kiện mới. Tác động của hội nhập kinh tế thế giới với việc làm và thị trường lao động của Việt Nam được thể hiện bằng những cơ hội và thách thức chủ yếu: 4.1. Cơ hội - Thứ nhất: Hội nhập tạo ra cơ hội có thêm nhiều việc làm có năng suất cao, trước hết là trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và thông qua việc nhập khẩu các loại máy móc thiết bị hiện đại với năng suất cao. Trên cơ sở đó Việt Nam xây dựng và phát triển được một bộ phận việc làm hiện đại với năng suất cao tác động lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với các nước về trình độ công nghệ và sớm tiếp cận được trình độ công nghệ và năng suất lao động của các nước phát triển. - Thứ hai: Trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam và ở nước ngoài ), thông qua con đường đào tạo và học hỏi, Việt Nam có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể tiếp cận đến trình độ nguồn nhân lực cung của thế giới ( nhất là chuyên gia quản lý trong doanh nghiệp, kỹ sư và công nhân kỹ thuật lành nghề…). Đồng thời thu hút mạnh FDI để phát triển giáo dục và đào tạo ở trình độ tiên tiến. - Thứ ba: Đề hội nhập tốt nhất, Việt Nam sẽ cần có cải tiển hệ thống pháp luật và tổ chức quản lý Nhà nước về lao động khiến cho việc làm và thị trường lao động vừa phản ánh đúng yêu cầu thực tế của Viêt Nam vừa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. - Thứ tư: Trong khi mở cửa hội nhập, Việt Nam cũng tiếp cận cả những kinh nghiệm về xây dựng mạng lưới an sinh xã hội và hệ thống tiêu chuẩn lao động tiên tiến của thế giới, trước hết là mạng lưới bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, hệ thống định mức và chuẩn tiên tiến về vệ sinh, an toàn lao động, điều kiện làm việc và chế độ nghỉ ngơi… - Thứ năm: Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, trong đó có những thị trường là các nước phát triển có triển vọng đem lại thu nhập cao và nhờ đó đào tạo những kỹ năng và ngành nghề mới cho người lao động 4.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội từ việc hội nhập kinh tế thế giới đem lại, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức: Thứ nhất, tình trạng thất nghiệp và nghèo có thể gia tăng. Do tác động của cạnh tranh nhiều doanh nghiệp và sản phẩm có thể bị phá sản hoặc thu hẹp quy mô sản xuất. Vì vậy, tất yếu có một bộ phận người lao động sẽ bị thất nghiệp, giảm thu nhập và trở thành người nghèo. Thứ hai, những khó khăn trong việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Đó là do ở Việt Nam hiện nay lực lượng lao động chưa qua đào tạo cũng … vể số lượng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng lực lượng lao động, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao cũng thiếu như phần lớn lao động làm nông nghiệp và sinh sống ở nông thôn. Vì vậy, khi có những nguồn vốn FDI lớn vào Việt Nam, những người này không thể đáp ứng dược yêu cầu của các nhà đầu tư, không được tuyển dụng, do đó không được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Thứ ba, đội ngũ cán bộ,công chức ( bao gồm cán bộ quản lý Nhà nước, quản trị doanh nghiệp và chuyên gia trong các lĩnh vực và doanh nhân của Việt Nam cũng thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, kỹ năng quản lý,trình độ tin học, ngoại ngữ. Việt Nam cũng đang thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế và ngoại ngữ để tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh và giải quyết các tranh chấp thương mại lao động. Thứ tư, hình thành và phát triển lao động trong nước liên thông với thị trường lao động quốc tế, trong đó người lao động nước ngoài tham gia vào thị trường lao động trong nước ở Việt Nam ngày càng nhiều, cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt, người lao động Việt Nam nếu không đào tạo tốt về kiến thức chuyên môn, kỹ năng lao động, thái độ phong cách và ý thức kỷ luật lao động sẽ bị thua thiệt đối với thị trường lao động ngoài nước, Việt Nam không thể duy trì… việc xuất khẩu lao động chưa qua đào tạo. Để giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, Việt Nam phải tăng cường đào tạo nghề, ngoài giữ và pháp luật nước tiếp cận lao động cho những người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Thứ năm, khuôn khổ pháp lý về lao động, việc làm và thị trương lao động Việt Nam còn thiếu, có nhiều quy định lạc hậu và chưa thích ứng với các nước đối tác và quốc tế đang là những khó khăn cho việc thực hiện hội nhập quốc tế trong lĩnh vực lao động, việc làm và thị trường lao động 5. Đô thị hóa Xu hướng đô thị hóa, cùng với quá trình di dân nông thôn, được thực hiện làm tăng khá nhanh dân số khu vực đô thị trong thời gian gần đây. Dân số thành thị các năm 2000 – 2008 tăng với tốc độ 3,5…..trong khi khu vực nông thôn chỉ tăng trung bình khoảng 0,65% trước cùng thời kỳ. Xu hướng đô thị hoá nhanh sẽ tác động mạnh đến cơ cấu và đặc điểm việc làm. Xu hướng đô thị hoá cũng đặt ra nhiều vấn đề về đào tạo nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp và dịch vụ việc làm. Dự báo đến năm 2010 nước ta sẽ có khoảng 29,53% dân số sống ở khu vực đô thị. Kết quả này cũng khá phù hợp với báo cáo triển vọng đô thị thế giới năm 2003 của liên hợp quốc, theo đó đến năm 2010 sẽ có 29,4% dân sô Việt Nam sống ở các vùng đô thị. 6. Sự phát triển của khoa học công nghệ Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của con người. Để có việc làm với năng suất, chất lượng cao cần có kỹ thuật máy móc, công nghệ hiện đại, tiên tiến…ứng dụng công nghệ giúp con người khắc phục được những hạn chế và cho phép phát huy nhiều lợi thế của minh trong quá trình chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội. Việc ứng dụng khoa học công nghệ đã và đang tạo ra các ngành nghề mới trong xã hội với quy mô và chủng loai không ngừng được mở rộng, tạo ra những việc làm mới cho con người trong các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là các lĩnh vực có hàm lượng chất xám và công nghệ cao như: tự động hóa, điện tử, dịch vụ…Tuy nhiên, việc làm này cũng đòi hỏi một trình độ, tiêu chuẩn nghề nghiệp cao hơn nhiều đối với người lao động. Đây cũng là một lợi thế cho lực lượng lao động trẻ. Bởi đây là bộ phận có khả năng đáp tiếp thu và học hỏi các ứng dụng công nghệ mới rất nhanh nhạy và chính xác. Hơn nữa, bộ phận này ngày càng được chú trọng trong việc trang bị các kiến thức và kỹ năng cần thiết giúp nâng cao trình độ trước khi tham gia vào thị trường lao động. Tóm lại, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ đến vấn đề việc làm của mỗi quốc gia. Ứng dụng khoa học kỹ thuât làm tăng năng suất lao động tức là giảm số suất việc làm nhưng cũng làm mở mang thêm nhiều ngành nghề tức là góp phần mở rộng quy mô việc làm cho xã hội. Hai quá trình này luôn tồn tại song song với nhau. Con người luôn tìm tòi, ứng dụng khoa học công nghệ để giải phóng sức lao động nhưng cũng không ngừng tạo ra nhiều ngành nghề việc làm mới thông qua nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Kết quả lao động trong xã hội luôn biến đổi, cơ cấu lại theo hướng hợp lý, đa dạng, phong phú hơn. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ I. Phân tích và đánh giá thực trạng lực lượng lao động trẻ 1. Quy mô Tính đến năm 2007, lực lượng lao động cả nước là 46,7 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi là 44,16 triệu người (chiếm 94,54%), lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 là 21,27 triệu người (chiếm 45,54% trong tổng lực lượng lao động), là lợi thế lớn về nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn về nhu cầu việc làm của hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động mỗi năm. Bảng 2: Số thanh niên bước vào độ tuổi lao động hàng năm 2000 – 2007 Đơn vị : nghìn người Năm Thành thị Nông thôn Cả nước 2000 499 1476 1975 2001 478 1478 1956 2002 450 1491 1941 2003 425 1463 1888 2004 391 1484 1875 2005 386 1478 1864 2006 380 1454 1834 2007 374 1466 1840 2008 (sơ bộ) 369 1457 1826 Nguồn: Tổng Cục thống kê Theo kết quả điều tra của Tổng Cục thống kê , dân số trong độ tuổi lao động năm 2000 là 55,36 triệu, chiếm 65 % dân số; năm 2005 là 45,10 triệu, chiếm 54,3% dân số, đến năm 2007 là 44,16 triệu người, chiếm 51,85% dân số. Điều này cho thấy, quá trình “trẻ hóa” ở Việt Nam đang chững lại nhường chỗ cho quá trình “già hóa” của dân số, tỷ lệ người cao tuổi đang gia tăng trong khi tỷ lệ người trẻ lại có xu hướng giảm xuống. Dự báo đến năm 2010, dân số trong độ tuổi lao động là 57,4 triệu người, chiếm 64,65% dân số. Thời kỳ 2006 – 2010 được dự báo là sẽ có những biến động nhỏ về dân số trong độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi gia tăng hàng năm với tốc độ bình quân khoảng 2%/năm song mức gia tăng dự kiến sẽ giảm vào hai năm cuối của thời kỳ. Dân số bước vào tuổi lao động tiếp tục gia tăng trong vài năm đầu, bắt đầu có xu hướng giảm từ năm 2007 – 2008 trở đi, trong khi đó dân số hết tuổi lao động lại gia tăng từ sau những năm đầu của thập niên này so với các năm 1989 và 1999. Cụ thể, dân số trong độ tuổi gia tăng khoảng 1,1 triệu người/năm trong giai đoạn từ năm 2006 – 2008, nhưng vào hai năm cuối 2009 – 2010, mức gia tăng được dự báo sẽ giảm xuống dưới 1triệu người/năm. Biểu đồ 1 Dân số trong độ tuổi 15 -34 năm 2006 – 2010 Đơn vị: triệu người Năm Dân số Dân số trong độ tuổi 15 - 34 % trong tổng dân số 2006 84 20,98 24,976 2007 85,14 21,64 25,41 2008 86,92 23,15 26,63 Dự báo 2009 87,9 22,65 25,76 Dự báo 2010 88,8 21,45 24,15 Nguồn : Số liệu thống kê lao động việc làm các năm Lực lượng lao động của cả nước đang có xu hướng già hóa và số lượng thanh niên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên tăng không đáng kể, từ 14 triệu người lên 14,9 triệu người, chiếm khoảng 60% trong tổng số thanh niên cả nước. So với dân số hoạt động kinh tế cả nước thì lực lượng này có xu hướng giảm dần : từ 35,6% năm 2001 giảm xuống còn 33,9% năm 2006 và đến năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn 32,1%. Có nhiều lý do giải thích sự giảm dần tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của lực lượng lao động trẻ so với tổng lực lượng xã hội, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do số lượng thanh niên đi học ngày càng tăng. Riêng số học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp giai đoạn 2000 – 2006 tăng gấp 2,2 lần giai đoạn 1995 – 2000. 2. Cơ cấu Việc nghiên cứu cơ cấu (cấu trúc) dân số theo các tiêu chí khác nhau chính là việc làm rõ các đặc trưng về dân số của nhóm dân số đó ở các khía cạnh khác nhau. Các tiêu chí được dùng chủ yếu là giới, tuổi, ngành, thành phần kinh tế…Lao động trẻ là một nhóm dân số thuộc lực lượng lao động được chia khi nghiên cứu cơ cấu dân số theo tuổi – tức xem xét xem độ tuổi nào là lực lượng lao động chính, chiếm phần đông trong lực lượng lao động. Tuy nhiên, để có thể hiểu sâu hơn về cơ cấu lao động trẻ theo nhóm tuổi, việc nghiên cứu sẽ được lồng ghép với các tiêu chí khác. Trong bài viết này, hai tiêu chí ._.ế (lạm phát), nhất là chính sách bảo hiểm sản xuất, dự trữ và xúc tiến thương mại…để không dẫn đến sa thải hàng loạt. Phát triển hệ thống bảo hiểm việc làm, lưới an toàn xã hội có khả năng bảo vệ người lao động trong cơ chế thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho lao động di chuyển. Thực hiện chính sách và chương trình phòng tránh, cứu trợ thiên tai, nhất là các vùng thường xuyên bị thiên tai. 1.4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế vĩ mô nhằm đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế. Sửa đổi, bổ sung pháp luật kinh tế đảm bảo các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nhất là xây dựng Luật Doanh nghiệp mới trên cơ sở Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Doanh nghiệp; xây dựng luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài; sửa đổi bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng nâng mức sàn miễn thuế để thu hút nhân tài trong nước và chuyên gia giỏi ngoài nước vào việc làm ở Việt Nam, xây dựng Luật Phá sản, Luật cạnh tranh, Luật thương mại… Điều chỉnh chiến lược, quy hoạch kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội, phát triển các sản phẩm và ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất…gắn với phát triển, phân bố và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nguồn vốn quý nhất ở nước ta nhất là thanh niên, trên phạm vi cả nước, các khu vực, các vùng, các tỉnh, thành phố. Đặc biệt quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết là đường giao thông, bến cảng, sân bay, hạ tầng cơ sở thông tin, việc thông… Hoàn thiện chính sách, tiền tệ, ngân hàng lành mạnh, nhất là hệ thống thuế, giảm bảo hộ của Nhà nước, điều tiết hợp lý thu nhập doanh nghiệp theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu và có hiệu quả, đảm bảo cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, tạo nhiều việc làm và nâng cao chất lượng việc làm. Tiếp tục cải cách hành chính, trước hết là tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế, cho thị trường lao động phát triển; giảm các thủ tục hành chính trong cấp phép thành lập doanh nghiệp, cấp phép cho người lao động nước ngoài, cho xuất khẩu lao động, bỏ duyệt hợp đồng xuất khẩu lao động; đơn giản thủ tục về Bảo hiểm Xã hội…đảm bảo sự chuyển dịch lao động linh hoạt giữa các thành phần kinh tế các vùng. 2. Nhóm các giải pháp trực tiếp tạo việc làm 2.1 Các giải pháp hỗ trợ trực tiếp thông qua hoạt động cho vay vốn của Quỹ 120 Thứ nhất, tăng cường ngân sách Nhà nước bổ sung cho Quỹ quốc gia về việc làm nhằm đảm bảo nguồn lực cho sự tăng trưởng số lượng và chất lượng việc làm. Dự kiến kế hoạch nguồn vốn ngân sách Nhà nước phân bổ sung vào Quỹ 120 đến 2010 đạt 5.500 tỷ đồng, tăng 3000 tỷ so với năm 2005 và gấp 2 lần so với giai đoạn 2001 – 2005. Trong đó nguồn bổ sung từ ngân sách Trung ương là 2.500 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 3.000 tỷ đồng; Thứ hai, tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò chỉ đạo của các Bộ, ngành, các tổ chức hội đoàn thể, chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý, điều hành các chương trình giải quyết việc làm. Củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo giải quyết việc làm các cấp, thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện; tăng cường và nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh, sửa chữa kịp thời những sai sót trong thực tiễn điều hành, đảm bảo sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Giữ gìn kỷ cương quản lý, đặt mọi hoạt động của Chương trình cho vay này dưới sự chỉ đạo của chặt chẽ của Ban chỉ đạo Chương trình, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp; Thứ ba, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế, tạo sự thông thoáng trong việc triển khai thực hiện ở các cấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, công khai hóa và thực hiện đúng vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quan hệ với các chủ thể kinh tế, giúp các chủ thể này được hưởng chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước một cách bình đẳng, kịp thời và hiệu quả; Thứ tư, đối với công tác xây dựng và lập kế hoạch cũng cần có một cơ chế mềm dẻo, linh hoạt để phân bổ, điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch hằng năm sát với tình hình thực tế và phù hợp với những biến động của nền kinh tế cũng như sự phát triển khác nhau giữa các vùng, miền, các thành phần và khu vực kinh tế trong cả nước. Thứ năm, để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước và đạt được mục tiêu cho vay của Quỹ cần có một cơ chế tạo lập nguồn vốn từ các nguồn đóng góp của doanh nghiệp, các khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và từ chính bản thân người dân để đến năm 2010 Quỹ có thể đáp ứng được 50% nhu cầu vay vốn để giải quyết việc làm. Thứ sáu, xây dựng các chính sách khuyến khích nhằm tạo động lực và hỗ trợ các doanh nghiệp, người sử dụng lao động tạo ra nhiều việc làm cho người lao động thông qua các chính sách về ưu đãi lãi suất, thuế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khuyến khích đầu tư vùng sâu và vùng xa… Thứ bảy, dành một khoản ngân sách hợp lý nhằm tăng cường công tác tập huấn, nâng cao nhận thức về pháp luật, các chính sách giải quyết việc làm, công tác quản lý và đặc biệt là trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác giải quyết việc làm. Thứ tám, đẩy mạnh thực hiện dự án cho vay vốn tạo việc làm với lãi suất thấp từ Quỹ quốc gia về việc làm (doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, làng nghề thủ công truyền thống…) và các hộ gia đình, ưu tiên cho vay vốn các đối tượng nhóm yếu thế như lao động là người tàn tật, người dân tộc thiểu số, người nghèo, lao động ở nơi có nhiều diện tích chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp… Thứ chín, tăng mức trợ cấp xã hội cho người dân tộc thiểu số từ mức 140.000 đồng / người hiện nay lên mức bằng 70% lương tối thiểu chung, đồng thời mở rộng đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội, bao gồm học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số thuộc gia đình hộ nghèo hoặc cận nghèo và ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tăng mức hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn cho phù hợp với điều kiện thực tế và hoàn cảnh cụ thể. Tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng đối với học sinh sinh viên, mở rộng đối tượng được vay vốn và điều chỉnh mức vay vốn phù hợp với điều kiện thực tế giá cả sinh hoạt… 2.2 Giải pháp hỗ trợ xuất khẩu lao động và chuyên gia Trong những năm tới, chúng ta cần tăng số lượng và nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường lao động nước ngoài; tập trung vào xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư cho đào tạo lao động có tay nghề, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật phục vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia. Đưa đào tạo lao động và chuyên gia xuất khẩu vào chương trình đạo tạo nghề của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ trong trường phổ thông. Có chính sách khuyến khích người lao động tự đào tạo, doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo để phát triển nguồn lao động và chuyên gia. Trong thời gian trước mắt, cần thực hiện chỉ đạo thực hiện tốt Đề án thí điểm Đào tạo nghề cho lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế đặt hàng giai đoạn 2008 – 2015. Đồng thời, cần đầu tư cơ sở vật chất, nguồn vốn xây dựng cơ sở đào tạo, bổ sung đội ngũ giáo viên có trình độ cao, giáo dục định hướng cho người lao động để một mặt chủ động được nguồn lao động, mặt khác nâng cao chât lượng đào tạo trên cơ sở hoàn thiện chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Việc tích cực tìm kiếm, khai thác và mở rộng các thị trường lao động ngoài nước phù hợp với lao động trẻ nông thôn Việt Nam cũng là một trong những giải pháp có hiệu quả trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động trẻ nói chung và lao động trẻ nông thôn nói riêng. Hiện, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang xây dựng chương trình hỗ trợ người dân các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động theo hướng hỗ trợ đào tạo nghề và đào tạo các chi phí liên quan đến thủ tục xuất khẩu lao động cho người dân. Chính phủ cũng cần có những chính sách đối ngoại phù hợp với các nước và vùng lãnh thổ có khả năng tiếp cận nhiều lao động và chuyên gia Việt Nam. Thuế cũng là một trong những rào cản làm giảm hiệu quả của các chương trình xuất khẩu lao động. Do đó, cần xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, thực hiện công khai và giảm tối đa các khoản người lao động đóng góp khi đi làm việc ở nước ngoài; cải cách thủ tục hành chính, tạo sự thông thoáng và giảm phiền hà cho người lao động và doanh nghiệp. 2.3 Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo nghề Công tác tuyên truyền hướng nghiệp đối với phụ huynh học sinh là hết sức cần thiết trong nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo nghề. Bởi họ là người đóng vai trò quyết định phần lớn trong việc định hướng con đường học tập và sự nghiệp tiếp theo của con em mình. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng và đảm bảo dạy nghề bằng cách đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng giáo viên cho phát triển dạy nghề, phục vụ yêu cầu Công nghiêp hóa – Hiện đại hóa đất nước; đổi mới và phát triển mục tiêu, chương trình đào tạo, chuẩn hóa cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề là một hướng đi không mới nhưng rất cần thiết. Một trong những giải pháp quan trọng thuộc nhóm giải pháp này là chính sách tín dụng ưu đãi cho thanh niên vay học nghề, tạo việc làm và đi làm việc ở nước ngoài. Với chính sách này, thanh niên sẽ có điều kiện vay tín dụng ưu đãi để học nghề. Sẽ không có trường hợp thanh niên có nhu cầu học nghề, đảm bảo các điều kiện học nghề của các cơ sở đào tạo mà không được học nghề do thiếu kinh phí. Chính sách tín dụng ưu đãi cho cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp có chức năng dạy nghề vay để mở rộng quy mô dạy nghề hiện có,đáp ứng nhu cầu học nghề cho thanh niên, trong đó có các cơ sở dạy nghề thuộc hệ thống của tổ chức Đoàn cũng cần gấp rút đưa vào áp dụng. Trong thời gian tới cần tăng cường tuyên truyên sâu rộng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển dạy nghề, về vai trò vị trí của dạy nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, phổ biến kiến thức, giới thiệu chuyên sâu các nghề trong xã hội, thông tin về việc làm trên các thông tin đại chúng để các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ sở dạy nghệ và xã hội biết và tích cực tham gia thực hiện phát triển dạy nghề, thiết lập mạng thông tin dạy nghề và việc làm. Đồng thời các cơ quan chức năng cần tổ chức triển khai có hiệu quả các hoạt động về hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp, việc làm cho thanh niên. Đa dạng hóa các hình thức tư vấn giúp thanh niên lựa chọn nghề nghiệp, việc làm. Trong các hoạt động của đoàn thanh niên, các cơ quan và đoàn thể nên phối hợp để đưa các nội dung về nghề nghiệp và việc làm vào thành những hoạt động sinh hoạt thường kỳ, tăng cường tổ chức các diễn đàn “Thanh niên với nghề nghiệp”, “Giúp bạn chọn nghề”, tổ chức các “Ngày hội tư vấn nghề nghiệp”, “Hội chợ việc làm”… Một hướng đi mới trong việc triển khai giải pháp này là hình thành quỹ tín dụng quay vòng để cho vay học nghề, tạo việc làm cho thanh niên. Lồng ghép các chương trình, chính sách, dự án trên từng địa bàn để huy động nguồn lực đồng bộ nhằm tăng quy mô, nâng cao chất lượng dạy nghề. Dạy nghề trong doanh nghiệp cũng là một kênh quan trọng và lớn nhất để dạy nghề cho thanh niên, nhất là dạy nghề gắn với sử dụng và cập nhật kỹ năng, tay nghề theo yêu cầu áp dụng công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, cần tập trung chỉ đạo dạy nghề ở bộ phận này. Song song với các giải pháp trên cần phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình ban hành, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chính sách khuyến khích học nghề và tạo việc làm cho mọi đối tượng trong đó chú trọng cho lao động trẻ học nghề giai đoạn 2008 – 2012 bao gồm: Tín dụng ưu đãi để học nghề và đào tạo nghề nghiệp trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học; tín dụng ưu đãi để đào tạo bồi dưỡng doanh nhân trẻ và khởi sự doanh nghiệp, mở rộng làng nghề, phát triển sản xuất kinh doanh; tự tạo việc làm, xây dựng chính sách sản xuất kinh doanh thu hút thêm thanh niên vào làm việc; tín dụng ưu đãi xây dựng mới cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế có chức năng dạy nghề hoạt động theo quy định của pháp luật, nhằm đáp ứng nhu cầu học nghề của xã hội, trong đó chú trọng đến nhu cầu bức thiết của lao động trẻ. Ngoài ra, cần mở rộng hình thức dạy nghề theo địa chỉ thông qua hợp đồng dạy nghề giữa doanh nghiệp và trường dạy nghề, tín chấp cho thanh niên vay vốn học nghề, tự tạo việc làm, tạo lập doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, đồng hành cùng thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khởi nghiệp và lập nghiệp, nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hóa tinh thần, nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động xã hội. Tóm lại, dạy nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên, nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của thế hệ trẻ trong thời đại ngày nay, theo tinh thần “Đồng hành cùng thanh niên trên con đường lập thân, lập nghiệp”, phát huy vai trò của thanh niên xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. 3. Nhóm các giải pháp hỗ trợ 3.1 Nâng cao năng lực các Trung tâm Giới thiệu Việc làm Để thực hiện đúng hướng đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm Giới thiệu Việc làm, Chính phủ cần sửa đổi bổ sung và xây dựng cơ chế, chính sách, các công cụ (hệ thống chỉ tiêu thông tin thị trường lao động, phần mềm, hệ thống sổ sách, biểu mẫu…) thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường lao động cho các cấp xã / phường, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ sở đào tạo, nhân rộng mô hình sàn giao dịch việc làm Bắc ninh ra toàn quốc, thống nhất các phần mềm phục vụ cho hoạt động của sàn giao dịch việc làm. Để sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm đúng mục đích, hiệu quả, các đia phương phải kết nối, bố trí ngân sách cho chi thường xuyên, vận hành, bảo trì, bảo dưỡng định kỳ hoạt động của sàn giao dịch việc làm và điểm giao dịch vệ tinh; thu thập thông tin thị trường lao động tại địa phương; đầu tư xây dựng mới, nâng cấp trụ sở, mặt bằng Trung tâm Giới thiệu Việc làm để tiếp nhận trang thiết bị, phần mềm, đồng thời đảm bảo biên chế cán bộ để thực hiện các nhiệm vụ. Các cơ quan Bộ ngành có liên quan cần cân nhắc lựa chọn các Trung tâm Giới thiệu Việc làm để đầu tư đảm bảo các tiêu chí, cụ thể: Có dự án đầu tư trung tâm khả thi được UBND phê duyệt; thị trường lao động phát triển, các giao dịch việc làm diễn ra thường xuyên với tần suất lớn; cơ sở hạ tầng, đội ngũ cán bộ có năng lực hoạt động tốt, đủ khả năng tiếp nhận các nhiệm vụ và được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương. Các cấp lãnh đạo cũng cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm Giới thiệu Việc làm nhằm đảm bảo đầu tư có hiệu quả, thống nhất trên phạm vi toàn quốc đồng thời tiếp nhận, quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ chương trình theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. 3.2 Xây dựng và phát triển hệ thống sàn giao dịch hiệu quả và có thương hiệu. 3.2.1 Về cơ chế, chính sách Ở cấp TW, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động của sàn giao dịch việc làm thành một nội dung quan trọng trong chính sách giải quyết việc làm. Ở cấp tỉnh, UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW đề ra chủ trương, cơ chế để tạo điều kiện thuận lợi mở rộng mặt bằng sử dụng cho Trung tâm Giới thiệu Việc làm và hoạt động của sàn giao dịch việc làm, khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tuyển dụng lao động thông qua sàn. 3.2.2 Về tần suất hoạt động của sàn giao dịch và đối tượng tham gia sàn giao dịch Tùy theo đặc điểm và yêu cầu của thị trường, Giám đốc các Trung tâm Giới thiệu Việc làm quyết định tần suất hoạt động tối thiểu 1 lần / tháng, tiến tới hoạt động định kỳ hàng ngày hoặc hàng tuần. Đối tượng chính tham gia sàn giao dịch việc làm chủ yếu là người lao động cần tìm việc làm và các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh cần tuyển dụng lao động và các đối tượng khác có nhu cầu. 3.2.3 Về các nội dung hoạt động của sàn giao dịch việc làm Cần liên tục cung cấp thông tin về cung – cầu lao động và các thông tin liên quan đến lao động – việc làm, đào tạo nghề, quan hệ lao động thông qua các hình thức cung cấp thông tin đa dạng như máy chiếu, máy tra cứu dữ liệu đa năng, tờ rơi, Website… Tổ chức tiếp nhân đăng ký tìm việc, đăng ký học nghề, đăng ký tuyển dụng thông qua hệ thống máy tính hoặc trực tiếp giữa người lao động với đại diện người sử dụng lao động. Tổ chức kết nối việc làm, tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra, giới thiệu người lao động đến các đơn vị hoặc các tổ chức phỏng vấn tại phiên giao dịch. Tổ chức lưu trữ hồ sơ việc làm trống và hồ sơ người tìm việc có hiệu lực để tiếp tục chắp nối việc làm, tổ chức tư vấn về tác phong, kỹ năng, nghiệp vụ đối với những lao động đến sàn giao dịch việc làm để tìm việc những chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. 3.2.4 Về hoạt động của các điểm giao dịch việc làm vệ tinh và website giao dịch việc làm trên mạng Internet Bên cạnh hoạt động của sàn giao dịch việc làm chính thức, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và Trung tâm Giới thiệu Việc làm phối hợp UBND cấp huyện, Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, các Trung tâm Giới thiệu Việc làm khác thành lập các điểm giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận, huyện, khu công nghiệp, khu chế xuất ở xa sàn giao dịch chính thức và nơi có nhu cầu sử dụng lao động và nhu cầu tìm việc làm cao, để tạo môi trường, mở rộng khả năng tiếp cận giữa người lao động và người sử dụng lao động với các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm cũng như giảm tải cho các sàn giao dịch chính thức. Tần suất hoạt động của các điểm giao dịch vệ tinh có thể theo tần suất hoạt động của sàn giao dịch việc làm chính thức hoặc thưa hơn, tùy theo đặc điểm và nhu cầu của thị trường lao động. Hình thành cổng thông tin điện tử về việc làm quốc gia và các website giao dịch việc làm của các địa phương, chú trọng đẩy mạnh hoạt động giao dịch việc làm trên mạng Internet, tiến tới phát triển hệ thống giao dịch việc làm điện tử, các diễn đàn về giao dịch việc làm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động ở xa vẫn có thể tham gia sàn giao dịch việc làm. 3.2.5 Về tài chính và đầu tư cho sàn giao dịch việc làm Trong thời gian tới, cần tập trung đầu tư cho các hạng mục chính, đảm bảo hiệu quả từ việc thiết lập cơ sở vật chất ban đầu cho đến tổ chức vận hành và nâng cấp, phát triển định kỳ, bao gồm: Thuê và sửa chữa, nâng cấp mặt bằng cho sàn giao dịch việc làm và điểm giao dịch; Mua sắm trang thiết bị, máy móc phục vụ cho hoạt động tại sàn giao dịch và điểm giao dịch; Điều tra thu thập thông tin về cung – cầu lao động, liên lạc với người sử dụng lao động tham gia hoạt động của sàn giao dịch việc làm và điểm giao dịch trên địa bàn; Chi trả tiền công, tiền lương, thưởng cho nhân lực phục vụ vận hành sàn giao dịch và điểm giao dịch vệ tinh Tuyên truyền, quảng bá thông tin về hoạt động của sàn giao dịch việc làm và điểm giao dịch trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nguồn đầu tư để thiết lập và vận hành sàn giao dịch việc làm và điểm giao dịch việc làm vệ tinh từ nguồn vốn TW và nguồn vốn địa phương. Hàng năm, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về việc làm sẽ hỗ trợ một phần kinh phí cho địa phương. Các địa phương xây dựng kế hoạch tổ chức sàn giao dịch việc làm và các điểm giao dịch vệ tinh trình UBND cấp tỉnh phê duyệt và gửi về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để có căn cứ xem xét và phân bổ kinh phí. Ngoài ra, nguồn đầu tư còn bao gồm cả các nguồn vận động được từ các dự án, chương trình hợp tác quốc tế, các doanh nghiệp, các nguồn tài trợ khác. 3.2.6 Về đội ngũ cán bộ Hình thành và đào tạo, tập huấn để đảm bảo chất lượng cho đội ngũ cán bộ tư vấn, giới thiệu việc làm, thu thập và cung ứng thông tin thị trường lao động, cán bộ chuyên về công tác vận hành và quản lý sàn giao dịch việc làm và các điểm giao dịch vệ tinh và cán bộ công nghệ thông tin để đảm nhiệm và quản lý, bảo trì hệ thống công nghệ thông tin, website giao dịch việc làm trên mạng Internet. Xây dựng và áp dụng chương trình bài giảng chuyên biệt, cấp chứng chỉ cho từng loại cán bộ tham gia vận hành giao dịch. 3.2.7 Về tuyên truyền, quảng bá Các địa phương lập và phê duyệt kế hoạch hàng năm về tuyên truyền, quảng bá mạnh mẽ hoạt động của sàn giao dịch việc làm và các điểm giao dịch vệ tinh, hoạt động của website giao dịch việc làm trên mạng Internet tới đông đảo người lao động, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thông qua các phương tiện thông tin truyền thông. 3.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động Một trong những giải pháp quan trọng để hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động là xây dựng và hoàn chỉnh bộ công cụ về thị trường lao động, mô hình dự báo cung – cầu lao động ở Việt Nam, tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động. Thường xuyên thu thập, xử lý, cung cấp thông tin thị trường lao động từ các Trung tâm Giới thiệu Việc làm và sàn giao dịch việc làm. Đa dạng hóa các hình thức thông tin nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của mọi nhóm đối tượng với dạy nghề và việc làm. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nghiên cứu và đưa vào vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu về lao động – việc làm vào cuối năm 2010. Tăng cường tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển dạy nghề, về nghề nghiệp, việc làm đối với thanh niên trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức truyền thông khác đến mọi đối tượng trong xã hội. Do hiện nay, ở Việt Nam vẫn chưa có những định nghĩa thống nhất về các yếu tố cấu thành cũng như bộ chỉ tiêu hệ thống thông tin thị trường lao động phục vụ cho việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin cho các đối tượng có nhu cầu dẫn tới hiện tượng một số liệu được nhiều đơn vị công bố với các thông số khác nhau, gây khó khăn cho người sử dụng trong việc lựa chọn một bộ lao động chính thống nên trước mắt cần thống nhất lại các định nghĩa này một cách có hệ thống, đồng bộ giữa các tỉnh, vùng, đơn vị. Với những biến động thường xuyên của thông tin thị trường lao động thì việc điều tra mỗi năm một lần như hiện nay là chưa đủ mà việc điều tra cập nhật thông tin cần được tiến hành thường xuyên hơn nữa để đáp ứng cho nhu cầu dự báo của quốc gia cũng như nhu cầu sử dụng của các nhà tuyển dụng lao động và người lao động. Công tác lưu trữ hồ sơ, dữ liệu cần được cải tiến, trang bị thêm các trang thiết bị thông tin, công nghệ phần mềm và cơ sở vật chất hiện đại hơn… để thuận lợi cho cả phía lưu trữ và tra cứu. KẾT LUẬN Tạo công ăn việc làm là một trong những bức xúc của xã hội vì đó là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định xã hội và tăng trưởng bền vững. Việt Nam được đánh giá là một nước có tiềm năng lớn để vươn mình lên thành “con rồng Châu Á”, tuy nhiên, để làm được điều đó, cần có một nguồn nhân lực đông về số lượng, mạnh về chất lượng, đặc biệt là lao động trẻ – lực lượng lao động nòng cốt của nước ta hiện nay. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính đang lan rộng trên quy mô toàn cầu, vấn đề ổn định việc làm cho lao động nói chung và cho lao động trẻ nói riêng càng cấp bách. Với những hạn chế trong chính sách đào tạo nghề, những lỗ hổng trong việc triển khai thực hiện các chương trình cho thanh niên vay vốn lập nghiệp… nước ta cần tập trung nhiều nguồn nhân lực và vật lực hơn nữa để có thể nhanh chóng giải quyết việc làm cho thanh niên, tạo điều kiện cho “thế hệ nắm giữ vận mệnh tương lai của đất nước” phát triển và cũng đồng thời đưa đất nước ra khỏi tình trạng suy thoái, tiếp tục thực hiện con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước theo chủ trương, đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Điều tra lao động – việc làm hàng năm từ 2000 - 2007; Tổng Cục thống kê, Niên giám thống kê các năm 2001 – 2007; Số liệu thống kê việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005; Nhà xuất bản Lao động – Xã hội – Hà Nội, 2006; Ths. Phan Nguyên Thái, Nguyễn Văn Buồm (2007), Vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên hiện nay, Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh; PGS. TS Trần Xuân Cầu, PGS. TS Mai Quốc Chánh (2008), Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực, trường ĐH Kinh tế Quốc dân, khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực; Báo cáo kết quả điều tra Lao động – Việc làm năm 2007; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ; Đặng Nguyên Anh, Lê Bạch Dương, Nguyễn Hải Vân (2005), Việc làm thanh niên ở Việt Nam: đặc điểm, yếu tố quyết định và ứng đối chính sách; Viện Xã hội học (IOS), Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (MOLISA); Đàm Hữu Đắc, Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên đến năm 2015; Báo Lao động và Xã hội, số 353 (từ 16 – 28/2/2009); Nguyễn Thị Hải Vân, Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động; Báo Lao động và Xã hội, số 350 (từ 1 – 15/1/2009) ; Vũ Phạm Dũng Hà, Định hướng đầu tư nâng cao năng lực các Trung tâm Giới thiệu Việc làm đến năm 2010; Báo Lao động và Xã hội, số 350 (từ 1 – 15/1/2009); PGS. TS. Cao Văn Sâm, Để dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên; Báo Lao động và Xã hội, số 331 (từ 16 – 31/3/2008); Mạc Tiến Anh, Đào tạo nghề ở Việt Nam những chặng đường; Báo Lao động và Xã hội, số 268 + 269 (từ 1 – 31/8/2005); Duy Quốc ((9/10/2008), Lao động trẻ chưa coi trọng đầu tư phát triển nghề nghiệp, Báo Người Lao động, Hoài Anh (16/12/2008), Lao động trẻ không còn là lợi thế, Báo An ninh Thủ đô; Linh Nhật (22/3/2009), Khủng hoảng việc làm và trách nhiệm của Chính phủ, Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Danh mục các quy định, chính sách trực tiếp xúc tiến việc làm và khả năng tìm việc cho thanh niên Chỉ thị số 145 –TTg ngyaf 6/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc Thanh niên tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội. Quyết định số 770/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và chính sách đối với thanh niên xung phong. Trong đó quy định về tổ chức và hoạt động của thanh niên xung phong. Quyết định số 354/QĐ – TTg ngày 28/4/2000 Thủ tướng Chính phủ về tổ chức các đội trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi; Quyết định số 149/2000/QĐ – TT ngày 28/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách ưu đãi đối với đội viên trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi. Quyết định số 1169/QĐ – TTg ngyaf 30/8/201 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức các đội y, bác sĩ trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi. Quyết định số 50/1999/QĐ – TTg về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo nghề nghiệp giai đoạn 1999 – 2000 Quyết định số 48/2002/QĐ – TTg về phát huy vai trò của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới Nghị quyết liên tịch số 01/NQLT/BNN –TƯĐTN giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về việc “Phát huy vai trò của tuổi trẻ trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp – nông thôn giai đoạn 1996 – 2000” Nghị quyết liên tịch số 02/NQLT?BNN –TƯĐTN giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về việc “Phát huy vai trò xung kích, tình nguyện thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2002 – 2005” Chương trình phối hợp hoạt động số 16/CTLT ngày 16/3/1998 giữa Ủy ban Dân tộc và miền núi và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về việc “Phát huy vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi” Nghị quyết liên tịch số 01/NQLT ngày 8/7/1997 và số 02 ngày 10/1/2002 giữa Bộ Thủy sản và ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về việc “Phát huy vai trò của thanh niên trong sự nghiệp phát triển ngành thủy sản” Nghị quyết số 03/NQLT ngày 23/2/1998 giữa Bộ Công nghiệp và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về việc “Phát huy vai trò xung kích sáng tạo của thanh niên công nhân viên chức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Phụ lục 2: Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đền vân đề lao động – việc làm cho thanh niên Bộ Luật Lao động (đã được sửa đổi, bổ sung ngày 2/4/2002); Luật Thanh niên số 53/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định 39/2003/NĐ – CP, ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về việc làm; Quyết định số 70/2003/QĐ – TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010; Quyết định số 103/2008/QĐ – TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 – 2015; Quyết định số 81/2005/QĐ – TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn ; Quyết định số 267/2005/QĐ – TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú; Quyết định số 157/2007/QĐ – TTg ngày 17/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên; Chỉ thị số 11/2006/CT – TTg ngày 27/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; Nghị định số 120/2007/NĐ – CP, của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên; Thông tư số 116/2004/TT – BTC ngày 7/12/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ – CP, ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT – BTC – BLDTBXH ngày 19/01/2006 của Liên bộ Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Quyết định số 81/2005/QĐ – TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22234.doc
Tài liệu liên quan