Một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực TP.HCM đến năm 2010 và 2020

MỤC LỤC Trang Mở đầu Chương I: Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của Công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh (CTĐLHCM)................................. 1 1.1. Giới thiệu tổng quát về Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh ....... 1 1.2. Những đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện lực............................................................................ 3 1.3. Đánh giá thực trạng và phân tích các tồn tại trong sản xuất kinh doanh của Công ty Điện lực Tp.Hồ

pdf70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực TP.HCM đến năm 2010 và 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chí Minh trong thời gian qua ...................................................................................... 6 1.3.1. Một số đặc điểm mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh............................................... 6 1.3.1.1. Hệ thống các văn bản pháp lý của chính phủ chi phối hoạt động kinh doanh điện hiện nay của công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh.................................................................... 6 1.3.1.2. Đặc điểm về thị trường, khách hàng của Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh.................................................................... 8 1.3.1.3. Bối cảnh hoạt động của Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh10 1.3.2. Đánh giá thực trạng và phân tích các tồn tại trong sản xuất kinh doanh của Công ty CTĐLHCM thời gian qua. .................. 11 1.3.2.1. Về phương thức tổ chức và hiệu quả sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM .................................................................... 11 1.3.2.2. Về công tác kinh doanh điện năng. ....................................... 14 1.3.2.3. Về kế hoạch sản xuất kinh doanh . ....................................... 18 1.3.2.4. Về công tác quản lý kỹ thuật và vận hành lưới điện ............ 21 1.3.2.5. Về công tác đầu tư xây dựng . ............................................... 26 1 Chương II: Một số giải pháp phát triển Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020. .................................... 29 2.1. Dự báo nhu cầu phụ tải điện năng đến năm 2010 và 2020 ..... 29 2.2. Các mục tiêu phát triển công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đến 2010 và 2020. ............................................................................ 30 2.2.1. Cơ sở để xác định mục tiêu ...................................................... 30 2.2.2. Các mục tiêu ............................................................................. 30 2.3. Một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020 ....................................... 31 2.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh CTĐLHCM. .............................................................................. 31 2.3.2. Nhóm giải pháp cải tiến công tác kinh doanh điện năng......... 37 2.3.3. Nhóm giải pháp về công tác kế hoạch và kỹ thuật vận hành lưới điện .................................................................................... 45 2.3.4. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng .................................................................................. 47 2.4. Các kiến nghị ...............................................................................49 Kết luận ...........................................................................................................54 Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn. Điện năng là một sản phẩm đặc biệt, nó có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân. Hoạt động sản xuất kinh doanh điện có 3 khâu chính là sản xuất, truyền tải và phân phối điện. Các khâu đó có quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc cung cấp điện trong một địa bàn nhất định. Khâu phân phối điện năng là khâu cuối cùng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện năng cho sản xuất và sinh hoạt đời sống nhân dân. Đồng thời, khâu phân phối điện năng là khâu trực tiếp bán sản phẩm, tạo doanh thu bù đắp lại chi phí của khâu sản xuất và truyền tải điện. Vai trò của ngành điện đã được Lê-Nin đề cập trong bản đề cương báo cáo sách lược của Đảng cộng sản Nga, trình bày tại Đại hội lần thứ III của quốc tế cộng sản, ở mục "Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội và kế hoạch điện khí hoá nước Nga". Lênin đã viết: "Một nền đại công nghiệp thích ứng với trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo được nông nghiệp, đó là việc điện khí hoá toàn nước Nga". Tư tưởng của Lênin đã chỉ rõ tầm quan trọng của ngành điện và phải là ngành phát triển trước một bước để thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Với vị trí đó của ngành điện, việc nghiên cứu để phát triển ngành này luôn được Đảng, Nhà nước và mọi người cùng quan tâm. Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh (CTĐLHCM) là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) được thành lập từ năm 1995, với nhiệm vụ quản lý, vận hành và kinh doanh điện năng trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. Từ ngày thành lập đến nay CTĐLHCM đã có những bước phát triển đáng kể về qui mô, trình độ kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý, về cơ bản đã cung cấp đủ điện cho nền kinh tế và sinh hoạt của nhân dân. Độ tin cậy cung cấp điện và an toàn ngày càng cao, uy tín đối với khách hàng dùng điện được cải thiện đáng kể. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 theo đường lối của Đảng với mục tiêu là công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, CTĐLHCM đang đứng trước những cơ hội phát triển đồng thời đối mặt với nhiều thách thức mới. Đường lối kinh tế đổi mới của Tp.Hồ Chí Minh mở ra một thị trường tiềm năng có tốc độ phát triển nhu cầu phụ tải điện 10-15%/năm trong suốt giai đoạn 2000 – 2020. Với khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật và uy tín trên thị trường CTĐLHCM có khả năng mua các máy móc thiết bị tiên tiến, tiếp cận với các công 3 nghệ quản lý hiện đại áp dụng cho ngành điện. Bên cạnh đó CTĐLHCM cũng đang gặp nhiều thách thức trước nguy cơ thiếu vốn đầu tư phát triển các công trình điện theo tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn V đã được chính phủ phê duyệt tháng 03/2003. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, cung cách phục vụ của CB-CNV ngành điện đối với khách hàng chịu ảnh hưởng nhiều phong cách kinh doanh thời bao cấp, độc quyền cũng là những thách thức đối với HMCPC. Việc hoạch định các giải pháp để phát triển CTĐLHCM trong thời kỳ từ nay đến 2010 và 2020 là một yêu cầu khách quan và cấp thiết. Chính vì thế tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đến 2010 và 2020" để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu: Xuất phát từ việc phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh của HMCPC, phân tích các mặt tồn tại từ đó đưa ra một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sản xuất, kinh doanh của CTĐLHCM. Các nội dung nghiên cứu, từ việc phân tích thực trạng, đánh giá các điểm mạnh và các tồn tại đều được đề cập trong phạm vi của CTĐLHCM. Số liệu thu thập để phân tích được giới hạn từ khi CTĐLHCM được thành lập đến nay, tức là từ năm 1995 đến 2003. 4. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích thống kê, phân tích tình huống, tham khảo ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý có kinh nghiệm để trình bày luận văn. 5. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 60 trang, 12 bảng biểu, hình ảnh. Chương 1: Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh. Chương 2: Một số giải pháp phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh. 4 CHƯƠNG I PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY ĐIỆN LỰC TP.HỒ CHÍ MINH 1.1. Giới thiệu tổng quát về công ty điện lực Tp.Hồ Chí Minh. - Công ty Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh (CTĐLHCM) là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN). CTĐLHCM được thành lập năm 1994, tiền thân là Sở điện lực Tp.Hồ Chí Minh. CTĐLHCM có chức năng chính là sản xuất và kinh doanh điện năng trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh, phương châm của công ty là "Chất lượng ngày càng cao, dịch vụ ngày càng hoàn hảo". Ngoài ra CTĐLHCM còn có các chức năng tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát các công trình điện trên phạm vi toàn quốc, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại vật tư thiết bị điện. - Từ khi thành lập, công ty chỉ có hơn 500.000 khách hàng, đến giữa năm 2004 số khách hàng của công ty tăng lên 1,21 triệu. Trong những năm qua, CTĐLHCM đã không ngừng đầu tư đổi mới nhiều mặt, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến nâng cao trình độ của người làm công tác kinh doanh - dịch vụ khách hàng, nhằm đáp ứng được nhu cầu điện năng của Tp.Hồ Chí Minh và tích cực phục vụ khách hàng ngày hơn. Chính sách đổi mới kinh tế và tính năng động của Tp.Hồ Chí Minh đã làm tốt thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu dân cư không ngừng gia tăng đã làm cho khách hàng của CTĐLHCM gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu như năm 1995 sản lượng điện thương phẩm chỉ đạt 2,815 tỉ KWH thì đến cuối năm 2003 sản lượng điện thương phẩm đã tăng lên 8,363 tỉ KWH. Trung bình mỗi năm số khách hàng tăng 10% và điện thương phẩm tăng 12,5%. - Hằng năm CTĐLHCM đã đầu tư trên 500 tỉ đồng để nâng cấp và mở rộng lưới điện Tp.Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, công ty đã tập trung thực hiện việc phủ kín lưới điện đến khắp các xã vùng sâu, vùng xa của thành phố và đã hoàn thành việc điện khí hoá nông thôn ngoại thành, Tp.Hồ Chí Minh. Nhờ sự đầu tư có hiệu quả, đến cuối năm 2003 khả năng tiếp nhận của lưới điện Tp.Hồ Chí Minh đã đạt 1700. MW và sản lượng điện nhận tối đa 28,78 triệu KWH mỗi ngày. 5 Sản lượng điện tiêu thụ bình quân đầu người đạt 1487 KWH/năm. Song song với việc mở rộng lưới điện, nâng cao khả năng truyền tải và phân phối, CTĐLHCM còn đầu tư tự động hoá mạng lưới điện phân phối để tự động cô lập vùng bị sự cố, tự động chuyển tải nguồn để hạn chế vùng mất điện và giảm thời gian mất điện. Tất cả điều đó làm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện, đáp ứng được yêu cầu chất lượng điện ngày càng cao cho các dây chuyền công nghiệp hiện đại. CTĐLHCM đang mở rộng công nghệ GIS để xây dựng các trạm biến thế truyền tải trong trung tâm thành phố, giải quyết được khó khăn trong việc giải toả mặt bằng, chi phí đền bù đất cao. Các tuyến dây 110KV dự kiến cũng sẽ đi ngầm dưới đất để tăng tính mỹ quan đô thị và độ tin cậy cung cấp điện. - Lực lượng lao động của CTĐLHCM đến cuối năm 2003 là 6394 người, trong đó lao động trực tiếp và công nhân kỹ thuật chiếm 73,6%, các cán bộ có trình độ đại học và sau đại học chiếm 18,1%, phần còn lại là các lực lượng chuyên môn khác. Nguồn nhân lực của CTĐLHCM luôn được chú trọng đào tạo phát triển để đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và phát triển của công ty. Hằng năm công ty đều thực hiện đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ, đào tạo tại chức, hội thảo, hội nghị kỹ thuật, tham quan, khảo sát học tập trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước. Đối với cán bộ quản lý được công ty phối hợp với các trường Đại học, Viện, Trung tâm nghiên cứu để tổ chức các lớp học bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ quản lý, tài chính, ngoại ngữ. Nhờ đó năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý được nâng lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành. Đối với công nhân kỹ thuật và nhân viên kinh doanh hằng năm đều tổ chức cho ôn tập, bồi dưỡng qui phạm quản lý kỹ thuật, qui trình kinh doanh điện năng, sau đó tổ chức thi kiểm tra đạt yêu cầu mới cho tiếp tục công tác. - Bộ máy tổ chức của công ty gồm Giám đốc công ty, giúp việc cho giám đốc có 3 phó giám đốc, kế toán trưởng. Công ty có 13 phòng chức năng, 1 trạm y tế, 15 điện lực khu vực, 3 xí nghiệp, 4 trung tâm, 1 ban quản lý dự án và nhà máy điện. Các đơn vị trực thuộc công ty đều hạch toán phụ thuộc theo kế hoạch của công ty. Sơ đồ tổ chức của CTĐLHCM được trình bày trong phụ lục 1. - Quá trình sản xuất kinh doanh điện năng gồm 3 khâu chủ yếu có liên quan mật thiết với nhau. Đó là khâu sản xuất điện, truyền tải điện (chuyển điện năng từ các nhà máy điện đến nơi tiêu thụ) và phân phối điện (nhận điện từ trạm truyền tải 6 điện đến cung cấp cho các hộ sử dụng điện). Quá trình sản xuất kinh doanh điện năng có thể tóm tắt trong hình 1.4 sau đây: Khâu sản xuất điện Khâu truyền tải điện Khâu phân phối điện Hộ sử dụng điện Các nhà máy điện Các công ty truyền tải Các công ty điện lực Hộ tiêu dùng Hộ SXKD Hình 1.4.1. Quá trình sản xuất kinh doanh điện năng - Tại Việt Nam Tổng Công ty Điện lực Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý điều hành cả 3 khâu nói trên. Từ trước 2000, chính phủ độc quyền và sở hữu kiểm soát cả 3 khâu, không có sự cạnh tranh và khách hàng không có sự chọn lựa người cung cấp. Nhà nước can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng giá bán điện, thực hiện chính sách bù chéo giữa các mục đích và các đối tượng sử dụng điện khác nhau. Từ năm 2000 trở về sau, từ khi có nghị quyết 23/NĐ/BCT của Bộ Chính trị, khâu sản xuất điện đã bắt đầu có các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư, nhưng hiện nay vẫn chiếm tỉ trọng sản lượng rất thấp (8%), các khâu truyền tải và phân phối điện vẫn do nhà nước độc quyền quản lý. - Các đơn vị trực thuộc CTĐLHCM hoạt động theo hình thức hạch toán phụ thuộc, hoạt động theo các mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật do công ty giao. Toàn bộ doanh thu từ các đơn vị trực thuộc được nộp tập trung 100% về cho công ty. Công ty phân cấp cho các đơn vị thực hiện một số khâu cụ thể như: thực hiện chi phí sửa chữa nhỏ, đầu tư xây dựng các công trình dưới 5 tỉ; mua sắm vật tư; một số vấn đề trong khâu tổ chức nhân sự. Việc phân cấp có mức độ sẽ là những nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh trình bày ở phần sau. 1.2. Những đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện lực. (1) Sản phẩm chính của ngành điện lực có tính đặc thù: Ngành điện lực kinh doanh sản phẩm chính chiếm hơn 95% doanh số đó là “điện năng”. Điện năng là loại sản phẩm có quá trình sản xuất và quá trình sử dụng xảy ra đồng thời và hầu như không thể dự trữ một cách trực tiếp được. Sản 7 phẩm điện năng có tính chất không thể thấy và không có Sản phẩm tồn kho. Tuy vậy trong quá trình truyền tải và kinh doanh sản phẩm điện năng bị tổn hao. Tổn thất điện năng trong quá trình quản lý kinh doanh là phần chi phí chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng chi phí. Tổn thất điện năng bao gồm hai phần đó là tổn thất kỹ thuật và tổn thất phi kỹ thuật. (1) Tổn thất kỹ thuật là loại tổn thất xảy ra bởi các quá trình vật lý, tất yếu và nó phụ thuộc vào tình trạng dây dẫn và các thiết bị trên lưới điện. Các loại dây dẫn có điện trở suất thấp, các loại thiết bị điện hiện đại được lắp trên lưới sẽ gây tổn thất kỹ thuật thấp. (2) Tổn thất phi kỹ thuật hay còn gọi là tổn thất trong khâu kinh doanh xảy ra hoàn toàn do chủ quan của người làm công tác kinh doanh như điện kế hoạt động không chính xác, ghi chỉ số điện sai, người tiêu dùng ăn cắp điện… thông thường phần tổn thất kỹ thuật chiếm tỉ trọng cao hơn nhiều so với phần tổn thất phi kỹ thuật. Sản phẩm điện năng được giao đến nhà khách hàng không phải bằng phương tiện vận tải mà nó được giao đến nhà khách hàng bằng hệ thống lưới điện phân phối. Đặc điểm này đã tạo nên nguồn gốc độc quyền của ngành điện trong thời gian qua. (2) Ngành điện là ngành có nguồn gốc độc quyền. Nguồn gốc độc quyền của ngành điện lực xuất phát từ các lý do sau đây: - Công suất nguồn của hệ thống điện Việt Nam chiếm trên 60% là thủy điện. Các nguồn năng lượng sơ cấp để xây dựng thủy điện là tài nguyên do nhà nước quản lý do đó trong thời gian qua các nhà máy thủy điện hầu hết do nhà nước đầu tư vốn và tổng công ty Điện lực Việt Nam quản lý. Trong thời gian 5 năm gần đây các công ty 100% vốn nước ngoài, hoặc liên doanh đã đầu tư được 32 nhà máy điện loại nhỏ dưới phương thức BOT hoặc IPP, nhưng tổng công suất của 32 nhà máy này chỉ chiếm chưa đến 20% tổng công suất và sản lượng điện quốc gia. - Vì vấn đề an ninh hệ thống năng lượng quốc gia nên hầu hết các nước trên thế giới đều kiểm soát và quản lý hệ thống điện truyền tải (hệ thống lưới điện từ các nhà máy sản xuất điện dẫn đến các khu vực tiêu dùng). - Trong khâu kinh doanh điện năng hiện nay tại Việt Nam khó có khả năng có đối thủ cạnh tranh để cùng bán sản phẩm điện năng cho cùng một khách hàng. Với một khách hàng nhất định có nhu cầu điện năng tại một địa điểm nhất định thì chỉ có khả năng mua điện từ một công ty điện lực nhất định, vì khó có thể xây dựng 8 được thêm một mạng lưới điện phân phối song song với mạng lưới điện hiện hữu để có thể diễn ra cạnh tranh trong kinh doanh. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc cạnh tranh trong kinh doanh điện năng là xu thế của các quốc gia. Tuy vậy hầu hết các nước nhà nước vẫn nắm giữ khâu truyền tải điện. Các nhà kinh doanh điện năng phải thuê truyền tải điện năng từ các nhà máy về đến khu vực tiêu thụ điện. Hiện nay Việt Nam chúng ta cũng đang nghiên cứu mô hình này. (3) Ngành điện chịu sự chi phối của chính phủ. Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu sẽ xác định giá cả của sản phẩm. Khác như thế hầu như ở mọi quốc gia, giá cả của sản phẩm điện năng do nhà nước chi phối. Công ty điện lực thoả thuận ký một hợp đồng mua bán điện là chỉ thoả thuận sản lượng và phương thức cung cấp điện mà thôi, giá cả phải thực hiện theo biểu giá chính phủ qui định. Việc chính phủ can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện nhằm hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế nói chung chứ không phải mục tiêu kinh tế của riêng ngành điện. Việc xác định vùng, địa phương để đầu tư đưa điện về cũng chịu sự quản lý của nhà nước, với mục tiêu phát triển đồng đều giữa các vùng, không theo lợi ích của cục bộ ngành điện. (4) Ngành điện hoạt động với trách nhiệm và đạo đức kinh doanh cao. Điều này thể hiện ở các điểm sau đây: - Ngành điện rất quan tâm đến vấn đề an toàn điện trong xã hội, bên cạnh việc kinh doanh điện năng, ngành điện luôn tuyên truyền qui định sử dụng điện an toàn và hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn do điện giật ngoài nhân dân. - Không chỉ quan tâm nâng cao sản lượng điện bán được, ngành điện còn hướng dẫn khách hàng cách sử dụng điện sao cho tiết kiệm, hiệu quả cao. - Không chỉ quan tâm đến việc tối đa hoá lợi nhuận, ngành điện phải tìm đủ mọi cách để có đủ nguồn cung cấp cho mức nhu cầu của xã hội, đặc biệt là trong những thời kỳ nguồn điện khan hiếm. Trong những tình huống cụ thể, công ty điện lực phải mua điện của các khách hàng có máy phát điện với giá cao để bán lại cho khách hàng theo giá qui định của chính phủ với giá thấp hơn. Nếu chỉ chạy theo lợi nhuận hoặc lợi ích cục bộ thì cách giải quyết trên không phải là tối ưu. 9 - Khía cạnh đạo đức kinh doanh của ngành điện lực còn thể hiện trong qui trình kinh doanh điện năng: Một số khách hàng vi phạm hợp đồng mua bán điện ăn cắp điện, sau xử lý xong ngành điện không thể ngưng bán điện vô thời hạn. Những đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện đã quyết định những chính sách kinh doanh của nội bộ ngành đồng thời là cơ sở để chính phủ có những qui định và tác động chi phối hoạt động của ngành điện để ngành điện là động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác trong xã hội. 1.3. Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh tại công ty Điện lực thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua. 1.3.1. Một số đặc điểm trong sản xuất kinh doanh của công ty Điện lực thành phố Hồ Chí Minh. 13.1.1. Hệ thống các văn bản pháp lý chi phối hoạt động kinh doanh điện hiện nay của công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh. Văn bản pháp lý cho các hoạt động điện lực hiện nay là Nghị định 45/2001/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 02/08/2001. Nghị định này qui định về hoạt động điện lực và sử dụng điện trên lãnh thổ Việt Nam cho mọi tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Đi kèm theo Nghị định này là 10 văn bản hướng dẫn, làm rõ nội dung của Nghị định 45. Các nội dung chính của nghị định này gồm: - Qui định về việc lập và phê duyệt qui hoạch phát triển điện lực. - Qui định về điều kiện cho các đơn vị được phép đấu nối vào lưới điện quốc gia. - Qui định về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các đơn vị hoạt động sản xuất và truyền tải điện. - Quy định về điều kiện ký hợp đồng dân sự, áp dụng cho việc mua bán điện với mục đích dân sự, hợp đồng kinh tế áp dụng cho việc mua bán điện với mục đích sản xuất kinh doanh . Quyền và nghĩa vụ của các bên mua và bán điện. - Qui định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan điều hành hệ thống điện quốc gia. - Qui định về tiêu chuẩn, chất lượng điện năng - Qui định về việc cấp điện cho khu công nghiệp và cho khu vực nông thôn miền núi - Qui định về việc đo đếm điện, về giá điện và thanh toán tiền điện. - Qui định về quản lý nhà nước về hoạt động điện lực và sử dụng điện. 10 Theo qui định tại Nghị định 45, chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động điện lực. Bộ công nghiệp là cơ quan giúp chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước bao gồm một số chức năng chính như sau: - Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến hoạt động điện lực - Trình thủ tướng chính phủ quyết định ban hành biểu giá bán lẻ điện. - Cấp giấy phép hoạt động điện lực - Thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư các công trình điện - Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động điện lực. Nghị định 45 không qui định rõ cơ quan nào thực hiện chức năng điều tiết điện lực. Một số chức năng điều tiết hiện nay được đưa vào như là một phần chức năng quản lý nhà nước của Bộ công nghiệp và Chính phủ. Bộ công nghiệp vừa đóng vai trò cơ quan quản lý nhà nước vừa là cơ quan điều tiết các hoạt động điện lực. Bộ công nghiệp không có quyền điều chỉnh giá bán điện mà chỉ là cấp thẩm định và trình chính phủ phê duyệt. Nghị định 45 không nêu tên các nguyên tắc chung cho việc định giá điện. Riêng giá bán điện của các nhà máy điện BOT hoặc IPP cho EVN thì do hai bên thoả thuận. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, khi hai bên không thoả thuận được thì phải kiến nghị lên chính phủ giải quyết. Bộ công nghiệp được giao nhiệm vụ lập qui hoạch tổng thể phát triển lưới điện quốc gia và cấp giấy phép hoạt động điện lực, cấp phép đầu tư theo phân cấp của chính phủ, chịu trách nhiệm thanh tra giải quyết các tranh chấp, khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động điện lực, qua đó đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia mua và bán điện. Nghị định 45 xác định việc cấp điện cho vùng nông thôn là nội dung thuộc chính sách xã hội của Đảng và nhà nước, nhằm làm cho các vùng trong lãnh thổ phát triển đồng đều. Nghị định 45 qui định quan hệ giữa các đơn vị điện lực là quan hệ mua bán, thể hiện cụ thể trong hợp đồng mua bán điện theo nguyên tắc bình đẳng, sòng 11 phẳng, rõ ràng và cùng có lợi, đồng thời nó cũng qui định điều kiện đấu nối vào lưới điện quốc gia. 1.3.1.2. Đặc điểm về thị trường, khách hàng của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh có chức năng kinh doanh điện năng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy HCM PC là người bán điện cho tất cả các khách hàng mua điện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, nhờ chủ trương cải cách và đổi mới về quản lý kinh tế, các ngành kinh tế đều phát triển với tốc độ khá cao. Chính vì thế, nhu cầu về điện năng liên tục tăng với tốc độ cao. Năm 1995 khi mới thành lập CTĐLHCM, tổng sản lượng điện thương phẩm là 2.815 triệu KWH năm 2002 sản lượng điện đã tăng 2,8 lần đạt 7489 triệu KWH. Trong ba năm 2000, 2001, 2002, sản lượng điện tiếp tục tăng với tốc độ trung bình là 14% /năm. Riêng năm 2003 sản lượng điện thương phẩm tiếp tục tăng với tốc độ 14,5% sản lượng đạt 8480 triệu KWH. Hình 1.3.1. Sản lượng điện thương phẩm của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1995 - 2003. 12 Tốc độ phát triển khách hàng bình quân tăng liên tục 10% đến 12% trong suốt giai đoạn từ 1995 đến 2003. Tổng số khách hàng mua điện của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng từ 500.000 năm 1995 đến trên 1,96 triệu năm 2003. Phân loại theo mục đích sử dụng điện, khách hàng mua điện của CTĐLHCM chia ra làm 05 loại chính là nông lâm nghiệp; công nghiệp; thương nghiệp, dịch vụ; sinh hoạt tiêu dùng và các hoạt động khác. Trong đó tỉ trọng điện cho công nghiệp có giá trị cao nhất là 46,88% Sinh hoạt 39,89% N/Nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy Sản 0,16% Dịch vụ, T/Nghiệp, K/Sạn 9,69% Khác 3,39% Công nghiệp, xây dựng 46,88% Hình 1.3.2. Tỉ trọng điện thương phẩm tương ứng với các thành phần phụ tải. Hộ công nghiệp trong giai đoạn 1995 - 2003 đạt tỉ lệ trung bình từ 41%, năm 2003 đã tăng lên 46,88%, điều này chứng tỏ các chính sách thúc đẩy công nghiệp phát triển của Đảng và Chính phủ đã phát huy tác dụng tốt. Ba loại hộ tiêu thụ nông nghiệp, thương nghiệp dịch vụ và hoạt động khác chiếm tỉ lệ thấp trong tổng sản lượng điện thương phẩm của CTĐLHCM. Tuy nhiên từ năm 1998 trở lại đây, một số khu công nghiệp đã tự đầu tư xây dựng nhà máy phát điện để cung cấp điện cho các doanh nghiệp trong hàng rào. Ví dụ như các khu công nghiệp: Vedan, Tân Thuận... làm ảnh hưởng đến tốc độ gia tăng phụ tải công nghiệp CTĐLHCM. Nếu CTĐLHCM không chú trọng đến chất lượng điện năng, cung cách phục vụ, sự kịp thời đáp ứng nhu cầu phụ tải, thì trong những năm tới xu thế này sẽ phát triển và ảnh hưởng lớn đến doanh thu và lợi nhuận của CTĐLHCM. Đây là một đặc điểm cần được quan tâm trong quá trình xây dựng định hướng phát triển của CTĐLHCM. Từ các phân tích trên, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của thị trường và khách hàng mua điện của CTĐLHCM như sau: 13 - Hai loại hộ tiêu thụ điện chiếm tỉ lệ cao, tốc độ tăng trưởng nhanh tại thời điểm hiện tại và tương lai trong cơ cấu các khách hàng của CTĐLHCM là hộ tiêu dùng sinh hoạt và hộ công nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh đã xuất hiện trên thị trường và tập trung vào nhóm khách hàng có giá bán cao mang lại doanh thu và lợi nhuận cao. Đó là các khách hàng công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Xét về vị trí địa lý thì ngoài các trung tâm phụ tải truyền thống, đã và đang hình thành thêm các trung tâm phụ tải mới ở các khu công nghiệp định vị tại các vùng ven như Quận 7, BìnhChánh, Hóc Môn, Củ Chi... 1.3.2. Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh tại công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. 1.3.2.1. Về kế hoạch sản xuất kinh doanh : Bối cảnh: Trong thời gian tới CTĐLHCM có nhiều thuận lợi, đồng thời đan xen nhiều thách thức trong phát triển, cụ thể là: (1) Những điều kiện thuận lợi: - Khoa học công nghệ thế giới có những bước nhảy vọt, nhiều thiết bị sản xuất, truyền tải và phân phối điện có công nghệ ngày càng cao ra đời. Công nghệ thông tin phát triển mạnh làm cho việc điều hành hệ thống càng trở nên hiện đại hơn. Nhiều mô hình quản lý ngành điện, việc đa dạng hoá đầu tư phát triển các công trình điện đã được nghiên cứu áp dụng trên thế giới, tạo tiền đề và kinh nghiệm trong việc cải tiến mô hình quản lý, nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh điện năng. - Nền kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng nhanh, sự phát triển của các ngành kinh tế tạo nhu cầu và thị trường lớn hơn cho ngành công nghiệp Điện cả qui mô và phạm vi thị trường. - Công cuộc đổi mới gắn liền với những cơ chế quản lý mới của nền kinh tế, mà trong đó các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời thông qua cơ chế tài chính và những lần tăng giá điện trước đây đã tạo được nguồn nội lực của ngành điện nói chung và của công ty điện lực Tp.Hồ Chí Minh nói riêng, làm cho khả năng đầu tư được đảm bảo. (2) Những khó khăn thách thức: - Sự thiếu đồng bộ trong khuôn khổ pháp lý: Luật điện lực làm cơ sở pháp lý nhất quán, tạo điều kiện cho các hoạt động của ngành và cho sự giám sát khách 14 quan của Chính phủ đối với ngành Điện lực chậm được ban hành; nhiều văn bản pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư và quản lý ngành điện còn chậm được ban hành và sửa đổi cho phù hợp. - Xu hướng hình thành thị trường điện, tạo ra sự cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất và phân phối điện góp phần nâng cao hiệu quả chung, nhưng cũng đòi hỏi Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh phải có định hướng giải pháp mới để có thể giữ vững và phát triển thị trường, đáp ứng được nhu cầu điện năng cho xã hội. - Về nguy cơ tụt hậu: Tuy đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể sau hơn một thập kỷ đổi mới, nhưng ngành công nghiệp điện vẫn ở mức phát triển thấp. Sự lạc hậu thể hiện rõ qua số lượng chất lượng, công nghệ mới thiếu đồng bộ và kể cả về cơ chế quản lý. - Về vốn đầu tư phát triển và giá điện: Để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải và khắc phục tình trạng lạc hậu hiện nay, mỗi năm CTĐLHCM cần nguồn vốn để đầu tư khoảng trên 850 tỉ đồng. Để có vốn đầu tư cần phải huy động từ nhiều nguồn: Vốn tích luỹ từ lợi nhuận sau thuế, vốn vay từ các ngân hàng trong nước hoặc các tổ chức tài chính hoặc ngân hàng thế giới (WB); ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) khả năng huy động vốn này sẽ gặp khó khăn khi giá điện không tăng được theo lộ trình đặt ra vì lý do giá điện tác động nhạy cảm đến giá cả tất cả các loại hàng hoá khác. Công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh là một đơn vị thành viên của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam , mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM đều bám chặt với kế hoạch phát triển dài hạn và trung hạn của EVN. Hằng năm vào đầu quí II, CTĐLHCM triển khai xây dựng kế hoạch năm sau cho công ty. Việc này thực hiện bắt đầu từ việc các đơn vị trực thuộc công ty xây dựng kế hoạch cho đơn vị mình, sau đó công ty tổng hợp và hiệu chỉnh thành kế hoạch của CTĐLHCM. Kế hoạch hàng năm của CTĐLHCM sẽ được Tổng Côngty Điện lực Việt Nam phê duyệt. Sau đó theo phân cấp, giám đốc công ty sẽ phê duyệt giao kế hoạch hằng năm cho các đơn vị trực thuộc vào cuối quí 3 hằng năm. Việc giao kế hoạch hằ._.ng năm cho các đơn vị trực thuộc công ty bằng những chỉ tiêu rời rạc như sản lượng điện thương phẩm, giá bán bình quân, tổn thất, đơn 15 giá chi phí nhưng lại chưa giao giá bán điện nội bộ hợp lý dẫn tới hệ quả là các đơn vị trực thuộc công ty chưa nỗ lực để thực hiện chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận đây là một tồn tại cần được khắc phục. Nhìn chung công tác kế hoạch tại CTĐLHCM trong thời gian qua đã đạt được các thành quả sau đây: - Hoạch định được kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng và phát triển hằng năm của toàn công ty theo định hướng qui hoạch chung được duyệt: từ năm 1995 công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh thành lập, chuyển đổi mô hình hoạt động từ hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập, đòi hỏi công tác lập và xây dựng kế hoạch phải đổi mới về cách thức và phương pháp tiếp cận. Nếu như trước đây, khi còn là một đơn vị hạch toán phụ thuộc thì công tác kế hoạch chỉ chú trọng nhiều đến kế hoạch cung cấp điện là chủ yếu, mọi chi phí đều do cấp trên cấp phát, thì khi chuyển sang cơ chế hạch toán độc lập, ngoài kế hoạch cung cấp điện, hàng loạt chỉ tiêu kế hoạch cần phải được nghiên cứu và tính toán như kế hoạch giá thành, kế hoạch đầu tư xây dựng, kế hoạch lợi nhuận, phân tích và thẩm định hiệu quả đầu tư của dự án... sao cho vừa phải đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu về cung ứng điện, vừa phải đảm bảo điều hành sản xuất kinh doanh có lợi nhuận để đảm bảo thu nhập cho cán bộ công nhân viên và tích luỹ nguồn vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. - Công tác kế hoạch trong lĩnh vực đầu tư xây dựng được thực hiện chủ động, nhờ đó hằng năm giải ngân được 500-600 tỉ đồng cho các công trình cải tạo và phát triển lưới điện từ các nguồn vốn khấu hao cơ bản, vốn vay, vốn phụ thu... Nhờ đó trong giai đoạn 1995 - 2002 đã hoàn tất được hai dự án quan trọng: (1) dự án điện khí hoá nông thôn ngoại thành 575 tỉ đồng và (2) dự án cải tạo phát triển lưới điện phân phối dùng vốn vay ngân hàng thế giới 64 triệu USD. Hai dự án lớn này đã giúp cho lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh được phát triển, phủ kín lưới điện vùng ngoại thành, nâng cao khả năng mang tải. Trong việc theo dõi các dự án đạt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã dùng các chương trình theo dõi, quản lý tiến độ các công ty như Microsoff project, chương trình quản lý đầu tư xây dựng... nhờ đó từ khâu thiết lập danh mục công trình đến lập báo cáo đầu tư, quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, đấu thầu, thi công, nghiệm thu đã được thực hiện đúng qui định của nhà nước và đạt được tiến độ tổng công ty giao. 16 - Đã thực hiện được các qui chế phân cấp trong công tác thực hiện kế hoạch, phân định được nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp, phát huy được tính chủ động ở các bộ phận trực thuộc CTĐLHCM. Đến cuối năm 2003 CTĐLHCM đã phân cấp công việc điều hành trên các lĩnh vực: đầu tư xây dựng, kinh doanh kỹ thuật, kế hoạch, vật tư, tài chính kế toán, tổ chức nhân sự... cho các đơn vị trực thuộc. Kèm với các quyết định phân cấp này, công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành hàng loạt các qui trình, qui định, hướng dẫn thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị hoạt động ổn định và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch. Các dịch vụ về điện cho khách hàng như giải quyết các yêu cầu lắp đặt điện kế mới xây dựng trạm biến thế cho khách hàng, giải quyết các yêu cầu tăng cường công suất, được thực hiện nhanh, gọn, giảm các thủ tục từ đó ngăn chặn được các hiện tượng tiêu cực ở nhân viên thừa hành, lấy lại uy tín ngành điện và niềm tin của khách hàng. Ngoài ra công tác kế hoạch của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh cũng còn một số tồn tại, chúng ta sẽ phân tích trong phần 1.4. 1.3.2.2. Về công tác kinh doanh điện năng: Công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh, doanh nghiệp nhà nước hoạt động với chức năng kinh doanh điện năng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh với pưhơng châm "Chất lượng ngày càng cao, dịch vụ ngày càng hoàn hảo" trong những năm qua, công ty đã không ngừng đầu tư đổi mới nhiều mặt: từ cơ sở vật chất đến nâng cao trình độ của người làm công tác kinh doanh - dịch vụ khách hàng nhằm đáp ứng được yêu cầu của khách hàng ngày càng tốt hơn. Công ty không ngừng cải tiến đơn giản hoá các loại thủ tục trong khi giải quyết các yêu cầu dịch vụ khách hàng. Đồng thời để mở rộng khách hàng CTĐLHCM đầu tư hằng năm đến trên 500 tỉ đồng để cải tạo, nâng cấp, phát triển lưới điện, phủ kín các vùng chưa có điện. Đồng thời sự tác động tốt của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư không ngừng gia tăng đã làm cho số khách hàng của công ty tăng về cả số lượng lẫn chất lượng, nếu như năm 1995 điện thương phẩm chỉ đạt 2815 triệu KWH thì đến năm 2002 đạt 7498 triệu KWH, năm 2003 đạt: 8363 triệu KWH. 17 Tính trung bình mỗi năm số khách hàng tăng khoảng 10% và điện thương phẩm tăng 11,54%. Các biểu đồ ở hình 1.3.1 và hình 1.3.2 cho thấy sự phát triển của lượng khách hàng và điện thương phẩm trong giai đoạn 1995 đến 2003. 1.196.000 1.063.000 955.000 861.000 760.469 674.411 604.096 504.347 546.700 0 (Năm) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 SỐ LƯỢNG KHÁCH HÀNG (Số khách hàng) 0 Hình 1.3.1 Số lượng khách hàng phát triển qua thời kỳ 1995 đến 2003. 18 (Tr.KWh) ĐIỆN THƯƠNG PHẨM 2,815 3,891 4,522 4,942 5,550 6,480 7,498 8,363 1 2 3 4 5 95 97 98 99 00 01 02 03 (Năm) Hình 1.3.2 Sự phát triển của điện thương phẩm qua thời kỳ 1995 - 2003. Tổn thất điện năng là một thành phần chi phí chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng chi phí hằng năm. Công tác giảm tổn thất điện năng là một công tác quan trọng xuyên suốt, liên tục trong nhiều năm qua với sự nỗ lực phấn đấu trong toàn công ty từ khâu quản lý kỹ thuật đến quản lý kinh doanh. Công ty đã và đang tập trung đầu tư, từ việc nâng cao khả năng truyền tải và phân phối điện, thực hiện đầu tư cải tạo lưới điện trong toàn hệ thống điện Thành phố Hồ Chí Minh, vận hành tối ưu hệ thống điện đén việc tăng cường các nghiệp vụ chống tổn thất trong kinh doanh như kiểm tra; kiểm chứng điện kế, chống lấy cắp điện, thực hiện tốt công tác đo hiệu suất từng khu vực hạ thế để xác định các khu vực có tổn thất cao để thực hiện các giải pháp nhằm giảm tổn thất. Trong 8 năm liên tục vừa qua, công ty đã phấn đấu giảm tỉ lệ tổn thất điện năng, trung bình mỗi năm giảm được 1%, từ một lưới điện có tổn thất gần 18%, đến nay tổn thất còn 8,91% (năm 2003). Dự kiến từ đây đến 2010 sẽ giảm tỉ lệ tổn thất còn lại dưới 7,5%. Biểu đồ trong hình 1.3.3 cho thấy công tác giảm tổn thất điện năng từ 1995 – 2003. 19 TỈ LỆ TỔN THẤT ĐIỆN NĂNG Năm Hình 1.3.3. Biểu đồ biểu diễn giảm tổn thất giai đoạn 1995 – 2003 Bên cạnh việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng lưới điện để nâng cao khả năng mang tải của lưới điện, đáp ứng đủ nhu cầu và chất lượng cung cấp điện cho khách hàng, công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc đầu tư để cải tiến công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng như: đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chánh, rút ngắn thời gian mắc điện, sửa chữa điện. Đa dạng hoá các hình thức thu ngân, cải tiến nâng cao chất lượng các phương tiện hỗ trợ trong công tác kinh doanh điện năng... tạo thuận lợi cho khách hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng điện. Nổi bật trong công tác cải tiến quản lý kinh doanh là việc sử dụng công nghệ máy tính cầm tay trong công tác ghi chỉ số điện kế và lập hoá đơn tiền điện. Công nghệ này không những tăng cường quản lý trong việc điều hành sản xuất kinh doanh của công ty, tăng năng suất lao động mà còn mang lại những lợi ích thiết thực cho khách hàng sử dụng điện: hạn chế sai sót trong ghi điện và trong nhập liệu giảm phiền hà đối với khách hàng. Đồng thời máy tính cầm tay này có thể in giấy báo tiền điện ngay cho khách hàng ngay sau khi ghi điệp viên nhập chỉ số. Việc in giấy báo tiền điện ngay sau khi ghi điện làm cho khách hàng biết trước được lượng điện năng tiêu thụ đã tiêu thụ trong tháng, tiền phải trả để chuẩn bị thanh toán theo lịch trình ghi điện và thu tiền của công ty. Ngoài ra trong giai đoạn 2000 đến 2003, CTĐLHCM còn đầu tư cải tiến công tác kinh doanh. Hệ thống xếp hàng tự động QMS thu tại quầy để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng; đa dạng hoá hình thức thu, giúp khách hàng được thuận lợi, nhanh chóng kịp thời trong thanh toán tiền điện dù khách hàng đang ở bất kỳ trên địa bàn thành phố. 20 Theo lộ trình tăng giá điện của nhà nước vào các năm: 1995, 1996, 1997, 1999 và năm 2002 giá bán điện bình quân của công ty gia tăng đều qua các năm, tốc độ tăng giá bán điện bình quân của công ty tăng nhanh hơn so với mức tăng giá của chính phủ do các thành phần phụ tải có giá điện cao như kinh doanh dịch vụ, du lịch, thương nghiệp và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn các thành phần khác. Về mặt chủ quan yếu tố quan trọng làm nâng cao giá bán điện bình quân chính là việc thực hiện đúng các mức giá điện do nhà nước qui định cho từng đối tượng khách hàng sử dụng điện, khiến giá bán điện bình quân của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh luôn ở mức cao nhất trong toàn tổng công ty điện lực Việt Nam. Ưu thế này dẫn đến lợi nhuận của CTĐLHCM hằng năm đứng hàng đầu trong các công ty phân phối của EVN. GIÁ BÁN ĐIỆN BÌNH QUÂN (Đ/KWH) Đồng/KWH Năm Hình 1.3.4. Biểu đồ tăng trưởng giá bán điện bình quân của CTĐLHCM trong giai đoạn 1995 – 2003. 1.3.2.3. Về công tác quản lý kỹ thuật và vận hành lưới . Từ năm 2000 đến nay , cùng với sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã có những bước tiến vượt bậc cả về chất lượng lẫn năng lực quản lý điều hành lưới điện. Nhờ sự năng động trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn khác nhau như: Vốn tín dụng, vốn ngân sách cấp của tổng công ty, vốn tự huy động, vốn phụ thu tiền điện của thành phố, vốn khấu hao cơ bản để lại... Công ty đã có điều kiện triển khai thi công hàng loạt các dự án cải tạo và phát triển lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh với tổng mức đầu tư hằng năm bình quân từ 35 đến 40 triệu USD. Xem bảng 1.3.5. 21 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Giá trị đầu tư xây dựng (tỉ đồng) 426 582 603 928 674 657 678 492 505 Bảng 1.3.5 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của CTĐLHCM từ năm 1995 đến 2003. Tính đến cuối năm 2003, lưới điện cao thế truyền tải thuộc công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh quản lý, cung cấp cho khu vực Thành phố Hồ Chí Minh quản lý bao gồm 278,13km đường dây 110KV, và 24 trạm trung gian 110KV, với 38 máy biến thế với tổng dung lượng lắp đặt là 1757MVA, tăng 16% so với năm 2002 và tăng gần 200% so với thời điểm năm 1997. Lưới điện phân phối trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm 3029 km đường dây trung thế 15KV trong đó có 840 km cáp ngầm 15KV, 6652km lưới hạ thế và 16225 trạm biến áp phân phối với tổng dung lượng là 5073KVA. Với cơ sở vật chất nêu trên cùng với sự vận hành kinh tế lưới điện Thành phố Hồ Chí Minh có khả năng tiếp nhận và phân phối công suất đạt 1700MW, đáp ứng được điện nhận tối đa là 28 triệu KWH/ngày, sản lượng điện nhận lưới năm 2003 đạt 9.181 triệu KWH, tăng 10,07% so với năm 2002 và tăng 352% so với năm 1995. Công suất đỉnh cao nhất đạt 1506,3 MW, tăng 9,67% so với 2002 và tăng 415% so với 1995. Hình1.3.6 Biểu đồ phát triển lưới trung thế từ năm 1997 đến nay. 250.0 0.0 0.0 50.0 0.0 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 LƯỚI ĐIỆN CAO THẾ 66Kv (km) 110Kv (km) Km 278 20 15 Năm 300.0 22 LƯỚI ĐIỆN TRUNG THẾ Cáp ngầm (km) Dây nổi (km) 1997 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Km Năm Hình 1.3.7. Biểu đồ phát triển lưới trung thế từ 1997 đến 2003. Đánh giá chung về công tác quản lý kỹ thuật và vận hành lưới điện đến cuối năm 2003 công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được các thành quả như sau: - Từ năm 2002 đã chấm dứt được tình trạng quá tải các máy biến thế tại các trạm trung gian 110KV. Từ tháng 06/2003, hệ thống điện áp 66KV đã được nâng cấp hoàn toàn lên 110KV làm tăng khả năng truyền tải cũng như đảm bảo chất lượng 110KV cung cấp cho lưới điện. - Từ cuối năm 2003, sau khi đóng điện nâng cấp từ điện áp 66KV lên 110KV cho đường dây xa lộ Bến Thành và tiến hành thử kết nối các mạch vòng đường dây 110KV liên kết các trạm 220KV Thủ Đức 3 x 250MVA. Nhà Bè 2 x 250, Phú Lâm 2 x 250 MVA đã giải quyết cơ bản tình trạng vận hành quá tải cho đường dây 110KV Nhà Bè - Phú Định, đảm bảo tính an toàn, độ tin cậy của lưới điện 110KV cấp nguồn cho các trạm biến áp khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh như các trạm Hùng Vương, Bến Thành, Phú Định, Chánh Hưng, Phú Định. Đồng thời tất cả hệ thống tự đóng lại trên các đường dây 110KV thuộc công ty quản lý cũng đã được đưa vào vận hành làm tăng mức độ vận hành ổn định cho lưới điện truyền tải 110KV khu vực TP.HCM 23 - Thiết bị điện từng bước được công ty tiêu chuẩn hóa theo hướng hiện đại hợp lý: sử dụng công nghệ GIS cho các trạm trung gian 110KV khu vực nội thành ngày càng nhiều. Chú trọng nhiều hơn và thực hiện tốt công tác đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, mỹ quan cho lưới điện trung hạ thế. Các đường dây phân phối khu vực nội thành được cải tạo tăng cường tính mỹ quan phù hợp với đô thị hiện đại. - Liên tục trong các năm qua đã thực hiện tốt chỉ tiêu tổng công ty giao, đặc biệt là chỉ tiêu giảm tổn thất điện năng, chỉ tiêu suất sứ cố MBA hạ thế và suất sứ cố lưới điện hạ thế. Độ tin cậy của lưới điện dần dần được nâng lên đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng khi vận hành các qui trình công nghệ hiện đại. - Các qui trình, qui định phục vụ cho công tác quản lý vận hành được biên soạn, phát hành và áp dụng khá đầy đủ. Đưa các tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng thống nhất trong toàn công ty. Các đơn vị trực thuộc công ty đã chú trọng biên soạn và ban hành các qui định vận hành và sửa chữa cho từng hiệu, từng loại thiết bị điện, quy trình xử lý sự cố cho từng tuyến dây trung thế, hạ thế. - Công tác kiểm tra và xử lý các điểm bất thường, mất an tòan trên lưới điện dần dần được đưa vào nề nếp. Quản lý được kết quả xử lý các tồn tại sau kiểm tra ở các cấp quản lý. Từng bước tạo ý thức trách nhiệm đến từng cặp công nhân quản lý lưới điện. Chất lượng quản lý lưới điện ngày một nâng cao hơn. - Để phù hợp với tình hình lưới điện ngày càng phát triển và đáp ứng nhu cầu đòi hỏi đảm bảo cung ứng điện chất lượng ngày càng cao hơn, cũng như nâng cao tính chủ động, trách nhiệm trong công tác quản lý vận hành ở cơ sở, năm 2003 CTĐLHCM đã triển khai áp dụng mô hình thống nhất về công tác quản lý vận hành hệ thống điện trung, hạ áp của các điện lực. Việc áp dụng mô hình thống nhất này tạo sự chuẩn hóa, tương thích trong quản lý và nhất là trong vận hành, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra trong khâu quản lý kỹ thuật và vận hành lưới điện của công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh cũng còn một số yếu điểm và tồn tại, chúng ta sẽ phân tích trong phần 1.4. 1.3.2.4. Về công tác hiện đại hóa cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngành điện. Thực hiện tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo chủ trương của Đảng và chính phủ, công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư vốn để xây 24 dựng và đang đưa vào ứng dụng một số giải pháp công nghệ nhằm hiện đại hóa sản xuất kinh doanh của công ty như sau: - Áp dụng công nghệ GIS (gas Insulated Swithgear) cách điện bằng khí trong hệ thống truyền tải, các trạm cấp nguồn mới, công nghệ này đã được áp dụng thí điểm ở dự án xây dựng trạm truyền tải 220/110/15-22KV Nhà Bè và ngầm hóa lưới điện 220KV Nhà Bè – Tao Đàn. Đây là công trình trạm và đường dây 220KV hiện đại nhất từ trước tới nay ở Việt Nam để đưa nguồn điện 220KV từ trạm biến áp Nhà Bè ở ngoại ô vào tận trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần giải quyết nhanh chóng quá tải và có dự phòng nguồn điện cung ứng cho khu vực trung tâm thành phố trong giai đoạn 2005 và năm 2010. Sự xuất hiện của trạm biến áp 220KV Tao Đàn nói trên là cơ sở để phân bố tối ưu lại cấu trúc lưới điện truyền tải khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời qua công tác quản lý dự án lực lượng kỹ sư, cán bộ kỹ thuật của công ty điện lực học tập và tích lũy kinh nghiệm để triển khai thực hiện GIS hóa các trạm 110KV khu vực nội thành. - Đã triển khai dự án NIMS/GIS (Network information system/ geography in formation system) dùng công nghệ thông tin địa lý để hỗ trợ cho công tác cập nhật, quản lý vận hành, quản lý kinh doanh và công tác thiết kế công trình điện. - Triển khai chương trình quản lý phía nhu cầu DSM (Demand side Management) để điều hòa đồ thị phụ tải của hệ thống điện thành phố, tạo sự cân bằng phụ tải giữa giờ cao điểm và giờ thấp điểm nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là tiết kiệm chi phí đầu tư nguồn điện để huy động phát vào giờ cao điểm (chi phí đầu tư 1MW là khoảng 1 triệu USD). - CTĐLHCM đang triển khai thí điểm dự án CIS/MIS (Customer information system/Management information system) dùng công nghệ quản lý thông tin khách hàng để giúp giải quyết toàn diện các vấn đề trong quản lý kinh doanh điện năng. - Từ năm 1998 đến nay, CTĐLHCM đã thực hiện chương trình ngầm hóa lưới điện phân phối cho khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh công nghệ ngầm hóa này hạn chế đến mức thấp nhất khả năng sự cố và nâng cao chất lượng cung ứng điện năng cho hộ tiêu thụ, đồng thời thu gọn lưới điện ngoài trời làm tăng mỹ quan đô thị. Ngầm hóa lưới điện đi song song với việc đầu tư trang bị hệ thống đào dẫn đường bằng Robot, hạn chế ô nhiễm môi trường, kẹt xe... 25 - CTĐLHCM đã và đang thực hiện chương trình kiện toàn hệ thống mạng kết nối tất cả các máy tính trong tòan công ty cụ thể là chương trình CMIS và FMIS. Mục tiêu bước đầu của chương trình này là tăng cường khả năng cập nhật trao đổi, khai thác số liệu thông tin giữa các đơn vị trong công ty, tiến tới cải tiến, từng bước ứng dụng nâng cao hiệu quả trong công tác kinh doanh và cung ứng các dịch vụ cho khách hàng. 1.3.2.5.Về công tác hợp tác quốc tế và xuất nhập khẩu. Với mục tiêu tiếp cận và nhập khẩu công nghệ mới trong những năm qua quan hệ hợp tác của công ty với các tổ chức tín dụng và các công ty nước ngoài đã phát triển khá tốt đẹp. Công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư phát triển công nghệ tự động hóa quản lý mạng điện bằng công nghệ tiên tiến. Để giải quyết vấn đề tìm kiếm nguồn vốn để tại trợ các dự án nói trên, công ty đã duy trì mối quan hệ hợp tác tốt với các tổ chức tín dụng quốc tế như sau: - Chính phủ Thụy Điển (SIDA) tài trợ cho dự án SCADA giai đoạn 2 và khóa huấn luyện bổ sung về hệ thống SCADA do ABB thực hiện, tổng giá trị của dự án là 12 triệu USD hiện đã hoàn tất đưa vào vận hành. - Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ cho dự án trạm biến áp 220KV GIS Tao Đàn và đường dây truyền tải 220KV Nhà Bè- Tao Đàn, tổng giá trị 46 triệu USD. - Chính phủ Thụy Sĩ tài trợ cho dự án trạm biến áp 110KV GIS Sở Thú và dự án điều khiển phụ tải bằng sóng (Ripple Control). - Chính phủ Bỉ tài trợ cho dự án trạm biến áp di động 25MVA giải quyết cho nhu cầu xử lý sự cố tái lập điện nhanh cho các khu vực trọng điểm. Thực hiện chủ trương của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành thành phố hiện đại, trong việc cải tạo và phát triển lưới điện thành phố không những phải chú ý đến việc nâng cao khả năng mang tải của lưới điện, nâng cao độ tin cậy cung cấp điện còn phải chú trọng tiêu chuẩn mỹ quan. Công ty đang áp dụng công nghệ GIS để xây dựng các trạm truyền tải trong trung tâm thành phố nơi gặp nhiều khó khăn trong việc giải tỏa và chi phí đền bù rất cao, các tuyến dây cần phải dùng công nghệ GIS để ngầm hóa thu hẹp được không gian chiếm chỗ, hạn chế khó khăn trong giải tỏa mặt bằng. Để giải quyết cho việc cung ứng vốn cho các công trình, CTĐLHCM đang kêu gọi sự hợp 26 tác đầu tư của các tổ chức tín dụng và các hãng nước ngoài để tài trợ cho các dự án truyền tải sau đây: - Dự án trạm biến áp Tân Định 110/15KV, 2x63 MVA, tổng dự toán 3,86 triệu USD. - Dự án cáp ngầm 110KV Tao Đàn - Tân Định 2 x 1,8km tổng dự toán 2,4 triệu USD. - Dự án cáp ngầm 110KV Tao Đàn - Sở Thú 2 x 2,32km tổng dự toán 2,90 triệu USD. - Dự án cáp ngầm 110KV, Tao Đàn - Bến Thành 2,10km tổng dự toán 2,7 triệu USD. Trong năm 2002-2003, CTĐLHCM thực hiện đầu tư chiều sâu để phát triển lưới điện , đáp ứng nhu cầu phát triển của thành phố. Công ty đã tổ chức được 21 đợt đấu thầu và chào hàng cạnh tranh quốc tế mua sắm vật tư thiết bị cho các công trình. CTĐLHCM đã ký được 68 hợp đồng với các tập đoàn và các công ty lớn trên thế giới với tổng giá trị hợp đồng đạt được 40,8 triệu USD. BIỂU ĐỒ GIÁ TRỊ VẬT TƯ THIẾT BỊ NHẬP KHẨU 0 10 20 30 40 50 60 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Triệu USD Năm Hình 1.3.8 Biểu đồ giá trị vật tư thiết bị nhập khẩu. 1.3.2.6. Về công tác đầu tư xây dựng. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và các giải pháp điều hành của chính phủ đặc biệt là của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nền kinh tế của thành phố luôn tăng trưởng phát triển với tốc độ khá cao với tốc độ tăng GDP 27 bình quân trên 9% /năm. Thực trạng cơ cấu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng chuyển dịch đúng định hướng CNH-HĐH, tăng tỉ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ trong GDP, giảm tương đối tỉ trọng nông nghiệp. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã được xác lập trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trên nhiều lĩnh vực, chiếm ưu thế đóng góp vào GDP. Với tình hình phát triển kinh tế thành phố đòi hỏi, ngành điện lực phải thực hiện việc đầu tư xây dựng phát triển nguồn và lưới điện nâng cao khả năng cung cấp điện cho thành phố để đáp ứng nhu cầu điện năng gia tăng. Kinh nghiệm cho thấy tại nhiều nước trên thế giới, để GDP tăng 1% thì sản lượng điện phải tăng 1,5%. Thực tế trong những năm qua công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đã làm công tác đầu tư xây dựng khá tốt, đáp ứng được tốc độ gia tăng phụ tải từ 13 đến 15% /năm. Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 5 do thủ tướng phê duyệt (TSD-V) giai đoạn 2001-2010 có xét triển vọng đến năm 2020 đã đặt ra các mục tiêu chính cho CTĐLHCM phải hoàn thành trong đó: (1) Nguồn trạm 500KV nâng cao nguồn cấp cho Thành phố Hồ Chí Minh: + Xây dựng trạm 500KV Nhà Bè, 2 x 600 MVA + Xây dựng mạch 2 đường dây 500KV Plâycu-Phú Lâm + Xây dựng đường dây 500Vk Phú Lâm - Nhà Bè + Xây dựng đường dây 500KV Nhà Bè + Phú Mỹ + Xây dựng đường dây 500KV Nhà Bè - Ô Môn. (2) Lưới điện 220KV: trong giai đoạn 2001 đến nay CTĐLHCM đã được Tổng Công ty Điện lực Việt Nam cho phép đầu tư các công trình đường dây và trạm 220KV đáp ứng kịp thời nhu cầu phụ tải tăng hằng năm từ 12 đến 15% như sau: + Cải tạo trạm 220KV Thủ Đức 220/66KV thành 2 x 175 MVA, điện áp 220/110KV. + Xây dựng đường dây 220KV dài 3,5km đây nổi và 6km cáp ngầm Nhà Bè- Tao Đàn và trạm 220KV GIS Tao Đàn, công suất 2 x 250MVA. + Xây dựng trạm 220KV Nam Sài Gòn, 3 x 250MVA nếu tính đến cuối 2005 thì tổng công suất trạm 220KV sẽ là 3475MVA, kết hợp với nguồn phát Thủ Đức và Hiệp Phước sẽ cân đối được phụ tải năm 2005 là gần 2390 MW và có dự phòng. 28 (3) Lưới điện 110KV: từ cuối năm 2000, CTĐLHCM đã bắt đầu công tác cải tạo lưới điện từ 66KV lên 110KV và xây dựng mới trạm 110KV nhằm cân bằng công suất và khai thác công suất các trạm 500KV. (4) Lưới điện phân phối: lưới điện phân phối là công cụ trực tiếp để CTĐLHCM kinh doanh điện năng, để đảm bảo khả năng mang tải và đáp ứng được nhu cầu phụ tải ngày càng tăng của Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2000- 2004 CTĐLHCM đã đầu tư 1052 tỉ đồng để xây dựng lưới phân phối. Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Vốn (tỷ) Đường dây Trung hạ thế 148,865 193,658 239,753 252,198 253,394 Bảng 1.3.9 Vốn đầu tư xây dựng lưới phân phối 2000 – 2004 (tỷ đồng) Thực trạng công tác đầu tư xây dựng của CTĐLHCM trong những năm qua có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có nhiều thách thức cản ngại. Thuận lợi là có định hướng phát triển cụ thể do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (sơ đồ V), được sự thường xuyên quan tâm, chỉ đạo của Tổng công ty Điện lực Việt Nam và Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Những thách thức lớn là nhu cầu vốn đầu tư hằng năm khá lớn đòi hỏi CTĐLHCM phải năng động, nhạy bén trong huy động vốn. Ngoài ra các thủ tục đầu tư xây dựng, chính sách giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn do cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và chưa được sửa đổi kịp thời, nhu cầu về điện vẫn tiếp tục có những biến động với xu hướng tăng trưởng cao hơn dự báo; số lượng cán bộ công nhân viên trực tiếp thực hiện công tác đầu tư xây dựng chưa đáp ứng được nhu cầu công tác. Trong những năm qua CTĐLHCM có nhiều cố gắng trong công tác đầu tư xây dựng lưới điện, trung bình mỗi năm đầu tư trên 500 tỉ đồng để xây dựng lưới truyền tải và lưới điện phân phối. Số công trình đưa vào vận hành đúng tiến độ tăng nhiều và giảm số công trình chậm tiến độ. Tổ chức tốt bộ máy làm công tác đền bù, phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác đền bù, kịp thời tháo gỡ khó khăn để khắc phục tình trạng kéo dài một số dự án. Nhờ đó thực hiện tốt các công trình chống quá tải lưới điện góp phần tích cực vào việc cung cấp điện kịp thời và cải thiện đáng kể chất lượng điện cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng khu vực trong Thành phố Hồ Chí Minh. 29 Nhìn chung các công trình được đầu tư đáp ứng kịp thời và phù hợp với nhu cầu tăng trưởng phụ tải . Việc huy động vốn để thực hiện công tác đầu tư xây dựng được thực hiện khá linh hoạt trong đó có các nguồn vốn đầu tư phát triển trích từ lợi nhuận sau thuế, vốn khấu hao cơ bản để lại, vốn vay các tổ chức tài chính quốc tế với lãi suất thấp (WB, ADB), vốn phụ thu tiền điện của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Công tác thanh quyết toán ngày càng tiến bộ, đáp ứng được tiến độ giải ngân hàng năm, nhờ đó CTĐLHCM ngày càng tạo được uy tín trên thị trường vốn. 1.4. Phân tích các tồn tại trong sản xuất kinh doanh tại công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh 1.4.1. Các tồn tại từ phương thức tổ chức và phân cấp cho các đơn vị trực thuộc. Một là độc quyền ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế : xây dựng kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đồng thời để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong nước và ngoài nước vào phát triển ngành điện, chúng ta cần nghiêm túc xem xét vấn đề độc quyền trong sản xuất kinh doanh điện năng ở nước ta hiện nay. Như đã nói ở trên điện năng rất cần thiết và có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội và có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đó chính là lý do mà nhà nước ta trước đây thực hiện chính sách độc quyền quản lý và kinh doanh điện năng hay nói cách khác thị trường điện năng là thị trường độc quyền. Cơ chế độc quyền đã mang lại thuận lợi cho công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh , song nó đã tạo ra những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh . Trong cơ chế độc quyền một người bán đã tạo cho nhà kinh doanh mất đi tư duy sáng tạo, tìm kiếm thị trường , cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm dẫn tới hiệu quả kinh doanh thấp. Đặc biệt là các vấn đề liên quan đến dịch vụ, chất lượng các dịch vụ cấp cho khách hàng chưa được chú trọng nâng cao do thị trường thiếu sự cạnh tranh. Mô hình tổ chức của ngành điện trước đây dựa trên quan niệm điện lực là một ngành kinh tế có tính chất độc quyền tự nhiên. Trong những phân tích ngày nay cho thấy ở từng công đoạn từ sản xuất, truyền tải đến phân phối thì tính độc quyền này thể hiện hoàn tòan khác nhau. Về phương diện kỹ thuật thì hai khâu truyền tải và phân phối mang rõ nét của tính chất độc quyền tự nhiên. Về mặt thương mại, có thể tạo ra môi trường cạnh tranh ở khâu phân phối, bán điện khi chuyển nhượng quyền tổ chức phân 30 phối, bán điện trên một vùng lãnh thổ cho một công ty, một tổ chức hoặc cá nhân theo các tiêu chuẩn cạnh tranh về giá cả và chất lượng phục vụ. Chính vì thế người ta đưa ra mô hình tổ chức ngành điện trong đó khâu sản xuất điện được tách khỏi các khâu truyền tải và phân phối bằng cách cho phép nhiều công ty sản xuất độc lập tham gia xây dựng nhà máy điện, tham gia vào quá trình cung ứng điện năng. Ở khâu phân phối và bán điện, cạnh tranh thương mại cũng được hình thành bằng cách chuyển nhượng hoặc cho phép các công ty phân phối tư nhân tham gia phân phối điện năng ở từng vùng nhất định (tỉnh, quận, huyện). Riêng khâu truyền tải điện để đảm bảo an ninh năng lượng, nhà nước vẫn giữ độc quyền. Nhìn chung trên thế giới quá trình cải cách ngành điện có điểm chung là tìm cách bãi bỏ cơ chế độc quyền của các công ty điện lực quốc gia và tạo môi trường khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân tham gia vào quá trình phát triển. Ngành điện lực có xu hướng áp dụng cạnh tranh vào lĩnh vực phát điện và lĩnh vực phân phối điện để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên tại nước ta việc chuyển đổi phải tính đến các yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành thận trọng với một lộ trình thích hợp để tránh các ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển các ngành kinh tế và đời sống nhân dân. Hai là, CTĐLHCM chưa có cơ chế phù hợp để khuyến khích tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí, nâng cao lợi nhuận: Bất kỳ doanh nghiệp nào thì các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận luôn là các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đó. Đối với công ty điện lực Thành phố Hồ Chí Minh doanh thu có xu hướng tăng lên vì sản lượng điện thương phẩm cung cấp cho nền kinh tế và xã hội ngày càng tăng, bình quân 15%/năm. Đồng thời giá điện cũng luôn tăng ._.dự báo phụ tải, điều khiển điện áp, công suất vô 54 công tính toán ngắn mạch. Hệ thống này sẽ cải thiện độ tin cậy và chất lượng cáp điện, và do việc cung cấp thông tin về lưới điện và thông tin về khách hàng rất kịp thời mà cho phép người vận hành ra được các quyết định nhanh chóng giảm thời gian phục hồi cấp điện, phối hợp nguồn một cách có hiệu quả. Và như vậy sẽ cải thiện đáng kể dịch vụ khách hàng, nâng cao hiệu suất mạng lưới điện như mục tiêu vận hành của CTĐLHCM đặt ra. 2.3.3. Nhóm giải pháp cải cách chính sách giá bán điện. (1) Như đã phân tích trong phần dự báo phụ tải (2.1), nhu cầu vốn để đầu tư phát triển hệ thống điện đến năm 2010 và 2020 cho công ty điện lực Tp.Hồ Chí Minh là rất lớn. Để có đủ vốn đầu tư cần có các biện pháp nội lực về tài chính gắn chặt với chính sách giá điện theo tính toán của EVN, để có đủ vốn đầu tư cần phải nâng giá điện lên từng bước để sớm đạt mức chi phí biên dài hạn, khoảng 7USCents/KWH. Khi tăng giá điện sẽ giúp cho CTĐLHCM tăng doanh thu và lợi nhuận làm cho các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế gia tăng, tuy nhiên, việc tăng giá điện cũng sẽ gây ảnh hưởng tới các ngành kinh tế và đời sống của nhân dân, nhất là trong điều kiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta còn yếu, mức sống của nhân dân còn thấp. Do đó kiến nghị với chính phủ thực hiện lộ trình tăng giá điện tiến tới chi phí biên dài hạn, vừa phải tiến hành cải cách chính sách giá điện, vừa phải tìm mọi biện pháp giảm sức ép tăng giá điện và giản tiến độ tăng giá điện. (2) Mục đích và yêu cầu của chính sách giá điện: Chính sách giá điện phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây: - Đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện và người sử dụng điện. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng sử dụng điện và các doanh nghiệp kinh doanh điện năng. - Bù đắp đủ chi phí sản xuất, truyền tải và phân phối điện, đảm bảo cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện bù đắp được chi phí, thu hồi được vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện thực hiện cơ chế cạnh tranh, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế. Khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực đầu tư, kinh doanh điện năng. 55 - Cân đối giữa việc đầu tư phát triển hệ thống điện với nhu cầu có khả năng thanh toán của khách hàng, dùng điện; giữa việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện. - Tính đến khả năng thay thế lẫn nhau giữa các dạng năng lượng, khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả, khuyến khích sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên trong lĩnh vực điện lực và bảo vệ môi trường. - Biểu giá điện cần thiết phải được điều chỉnh tăng, giảm theo sự biến động của các yếu tố: tỷ lệ lạm phát, lãi suất vay, giá nhiên liệu, thuế, tỷ giá hối đoái. (3) So sánh chính sách giá điện của Việt Nam và các nước. Qua nghiên cứu tìm hiểu chính sách giá điện của các nước, tác giả có một số nhận xét và so sánh giữa chính sách giá điện của nước ta và các nước khác như sau: - Mỗi nước đều có chính sách giá điện riêng, phù hợp với đặc điểm cụ thể của nền kinh tế xã hội của quốc gia mình và đặc điểm cụ thể của cơ cấu nguồn điện, tình trạng hệ thống điện, tình hình đầu tư và chính sách khuyến khích hay hạn chế sử dụng điện đối với ngành lĩnh vực, tầng lớp dân cư khác nhau. - Đặc điểm chung là các nước đều có giá bán điện cho mục đích sinh hoạt bậc thang. Để khuyến khích tiết kiệm điện trong sinh hoạt, biểu giá bán điện cho sinh hoạt có giá thấp ở nấc thang đầu tiên nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện tối thiểu của những người có thu nhập thấp. Và hộ tiêu thụ càng nhiều thì các nấc thang sau có giá càng cao. Như vậy, hiện nay nước ta qui định giá sinh hoạt bậc thang là hợp lý. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét lại số bậc thang, mức giá và khoảng cách giữa các bậc cho hợp lý. - Nếu các nước đều qui định giá điện dùng cho sản xuất kinh doanh thấp hơn giá điện dùng cho sinh hoạt thì ngược lại, nước ta lại qui định giá điện cho sản xuất kinh doanh cao hơn giá điện cho sinh hoạt. Đây là điều cần xem xét trong cải cách giá điện. Cần phải có sự cân đối giữa việc trợ cấp cho người nghèo, thu nhập thấp, việc thực hiện các chính sách xã hội với việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vốn, công nghệ, chi phí sản xuất cao. Cần phải giảm bớt đi đến chấm dứt việc bù chéo giữa giá điện sản xuất cho giá điện sinh hoạt. 56 - Ở các nước đều có qui định số tiền tối thiểu khách hàng phải trả cho doanh nghiệp bán điện hằng tháng để bù đắp định phí của doanh nghiệp bán điện phải bỏ ra hằng tháng (mặc dù có thể trong tháng đó khách hàng không có sử dụng điện). - Các nước đều thực hiện chính sách giá điện hai thành phần: giá bán công suất và giá bán điện năng. Đồng thời giá bán khá linh hoạt điều chỉnh theo giá nhiên liệu, điều chỉnh theo các thời điểm trong ngày, điều chỉnh theo mùa. Trong khi đó ở nước ta giá điện chỉ mới qui định khác nhau giữa giờ bình thường, giờ cao điểm, giờ thấp điểm trong ngày chưa qui định giá điện hai thành phần; chưa qui định giá thay đổi theo mùa và thay đổi theo giá nhiên liệu. (4) Các vấn đề chính cần thực hiện để cải cách chính sách giá điện: - Phương pháp tính giá: Hiện nay, giá điện ở nước ta dùng phương pháp tính tổng chi phí bình quân, nhưng giá điện chưa được tính đúng và đủ các chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh điện, biểu giá còn bị áp đặt thấp hơn giá thành sản xuất ở một số mục đích sử dụng điện. Do đó, hiệu quả kinh tế trong kinh doanh điện năng vẫn còn thấp và không thực tế. Để đảm bảo cho CTĐLHCM có đủ khả năng cân đối tài chính, tạo được uy tín tài chính trên thị trường trong và ngoài nước, tiến tới tự vay, tự trả không cần có sự bảo lãnh của nhà nước, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động điện lực, nhà nước cần qui định cơ chế cải cách việc tính giá điện hợp lý. Việc xác định giá điện không nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận hay chỉ để nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành điện mà phải dựa trên cơ sở tối ưu hoá lợi ích xã hội. Do đó, việc tính giá bán điện phải dựa trên cơ sở chi phí biên dài hạn, tức là chi phí mà cả hệ thống phải bỏ ra để tạo thêm 1 KWH điện trong điều kiện phải đầu tư phát triển hệ thống điện để đáp ứng sự tăng trưởng nhu cầu về điện cho nền kinh tế phát triển cao như hiện nay. Chi phí biên dài hạn trong phân phối điện bao gồm chi phí công suất, chi phí điện năng và chi phí khách hàng. Chi phí công suất bao gồm chi phí vận hành, bảo dưỡng, đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu tăng lên của phụ tải, chi phí biên điện năng là giá trị tổn thất điện năng trên lưới điện phân phối; chi phí khách hàng là những chi phí trực tiếp phục vụ khách hàng như lắp đặt công tơ, ghi chỉ số công tơ; phát hành hoá đơn; thu tiền điện; dịch vụ khách hàng... 57 - Thực hiện biểu giá bán điện hai thành phần các nước trên thế giới đều áp dụng biểu giá bán điện hai thành phần gồm giá bán công suất và giá bán điện năng đối với điện dùng cho sản xuất kinh doanh. Trong khi hiện nay nước ta chỉ qui định biểu giá 1 thành phần là giá doanh nghiệp bán điện cung cấp. Việc áp dụng giá bán điện hai thành phần không những khuyến khích khách hàng tiết kiệm điện năng sử dụng mà còn khuyến khích khách hàng sử dụng hợp lý công suất để nâng cao hiệu quả hệ thống điện. Khi công suất sử dụng lớn nhưng lượng điện năng tiêu thụ nhỏ sẽ dẫn đến lãng phí trong đầu tư và giảm hiệu quả kinh tế hệ thống điện. Biểu giá điện 2 thành phần bao gồm giá công suất và giá điện năng. Giá công suất được tính trên cơ sở những chi phí cố định của hệ thống và đơn vị tính là đ/Kw/tháng; giá điện năng được tính trên cơ sở những chi phí biến đổi của hệ thống và đơn vị tính là đ/KWH. - Giảm dần sự bù chéo giữa giá điện sản xuất kinh doanh và sinh hoạt: Để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống điện, đáp ứng nhu cầu về điện của nền kinh tế quốc dân và sinh hoạt của nhân dân cần phải thực hiện lộ trình tăng giá điện trong những năm tới. Cùng với việc tăng giá điện phải từng bước xử lý những điểm bất hợp lý trong chính sách giá điện hiện nay. Cụ thể là giảm dần sự bù chéo giữa giá điện sản xuất kinh doanh và giá điện sinh hoạt, trong lộ trình tăng giá điện phải tăng giá điện sinh hoạt nhiều hơn giá điện sản xuất kinh doanh. Có như thế các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mới có điều kiện cạnh tranh được nhất là trong môi trường hội nhập thế giới của nền kinh tế. Trong thời gian tới, cùng với các chính sách khác như cải tiến chế độ tiền lương và thu nhập cho người lao động, trợ cấp trực tiếp cho người nghèo, dần dần phải đưa giá điện sinh hoạt bằng hoặc cao hơn giá điện sản xuất kinh doanh. Song song đó CTĐLHCM phải tiếp tục phấn đấu tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng phục vụ, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng, hạ giá thành để tăng tích luỹ, tăng nguồn vốn tự đầu tư. - Xây dựng cơ chế điều chỉnh giá tự động mỗi khi có biến động lớn về giá nhiên liệu, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá tiêu dùng. Vấn đề này phải được thực hiện một cách công khai, minh bạch thì sẽ được sự đồng tình ủng hộ của khách hàng. Lúc đó, khắc phục được tình trạng sau nhiều lần điều chỉnh giá điện, nhưng do biến động lớn của tỉ giá hối đoái nên thực chất giá điện tăng chậm hơn nhiều so với đồng USD, không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh điện năng. 58 - Bên cạnh việc áp dụng giá điện theo 3 thời điểm trong ngày như hiện nay đã làm, cần phải xây dựng giá bán điện theo mùa trong năm: Mùa mưa giá bán điện thấp hơn mùa khô do việc phát huy vận hành thủy điện với chi phí thấp. Chính sách này có lợi cả đôi bên giúp khách hàng giảm chi phí điện năng nếu họ bố trí kế hoạch sản xuất hợp lý trong năm, đồng thời ngành điện sẽ thu thêm lợi nhuận khi phát huy, tối đa công suất thủy điện vào mùa mưa, chi phí đầu vào thấp. - Để tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thuần tuý và nhiệm vụ công ích cho xã hội, chính phủ cần xoá bỏ việc trợ giá trong biểu giá điện áp dụng cho mục đích sinh hoạt của đối tượng có thu nhập thấp. Phúc lợi xã hội nên có giải pháp trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng này. - Để thực hiện tốt chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trong việc cải cách chính sách giá điện cần thống nhất giá điện bán cho người nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với giá bán điện cho người Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam. 2.3.4. Giải pháp giảm tổn thất điện năng: Như đã nói trong chương I, vấn đề giảm tổn thất điện năng là vấn đề rất quan trọng trong khâu phân phối điện. Tổn thất điện năng chiếm tỉ trọng cao trong tổng chi phí: Với sản lượng điện thương phẩm của CTĐLHCM năm 2005 là 11,34 tỉ KWH thì cứ 1% tỷ lệ tổn thất điện năng sẽ làm thiệt hại 113,4 tỉ đồng. Như vậy tổn thất điện năng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh tế trong khâu phân phối điện của CTĐLHCM. Trong thời gian sắp tới, việc đề ra và thực hiện các biện pháp nhằm giảm tỷ lệ tổn thất điện năng trong kinh doanh là hết sức cần thiết và cấp bách. Theo số liệu thống kê vào cuối 2003, tỉ lệ tổn thất điện năng của CTĐLHCM là 8,91%, nếu so với các nước trong khu vực Singapore 5,65%, Malaysia 6,2%; Trung Quốc 7,98%; Thái Lan 7,1% thì đây là một tỉ lệ cao. Theo lộ trình phấn đấu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam giao cho CTĐLHCM thực hiện thì cần có các biện pháp trước mặt và lâu dài để năm 2010 tỉ lệ tổn thất điện năng giảm xuống thấp hơn 7%, đâylà một chỉ tiêu khó thực hiện cần phải vạch ra các biện pháp cụ thể trong hai khâu: giảm tổn thất kỹ thuật và giảm tổn thất trong kinh doanh. Cụ thể là: 59 Nâng cao ý thức cho cán bộ công nhân viên vận hành sửa chữa, quản lý lưới điện, kinh doanh trong việc giảm tổn thất điện năng, xem đây là công việc quan trọng xuyên suốt quá trình sản xuất và kinh doanh, gắn chặt với hiệu quả và sự phát triển của CTĐLHCM. Mở rộng tuyên truyền qui định sử dụng điện cho khách hàng, hướng dẫn khách hàng sử dụng điện hiệu quả và tiết kiệm, đồng thời phối hợp chặt với cơ quan quản lý nhà nước về điện là sở công nghiệp để kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán điện hoặc hành vi cố tình câu trộm điện. Hằng năm cần có chương trình đào tạo nguồn nhân lực làm công tác kiểm tra theo tiêu chuẩn Bộ công nghiệp qui định. Giải pháp vận hành tối ưu hệ thống điện để giảm tổn thất điện năng trong khâu kỹ thuật là giải pháp quan trọng cần thiết phải đầu tư: Trung tâm điều độ hệ thống điện và điều độ các Điện lực khu vực cần được trang bị và sử dụng các phần mềm trong quản lý vận hành lưới điện, phân tích và xây dựng phương thức vận hành tối ưu từng thời điểm để chỉ đạo các giải pháp kết lưới sao cho đạt mục tiêu an toàn và tiết kiệm nhất. Thực hiện chương trình quảnlý từ phía nhu cầu (DSM) và thay đổi công nghệ trong việc đo đếm điện năng để điều hoà công suất vào giờ cao điểm và giờ thấp điểm sang bằng biểu đồ phụ tải để giảm bớt vốn đầu tư cho việc xây dựng nguồn và lưới để phủ định phụ tải vào giờ cao điểm. Đồng thời tăng cường kiểm tra việc thực hiện biểu đồ phụ tải đã ký kết trong hợp đồng mua bán điện. Tập trung vốn để đầu tư các công trình cải tạo và phát triển lưới điện theo tổng sơ đồ V đã được chính phủ phê duyệt trong đầu tư phải ưu tiên các công trình trọng điểm có hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là bám sát các vùng qui hoạch phụ tải với mật độ cao để tăng sản lượng điện thương phẩm. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình để đóng điện đúng theo tiến độ kế hoạch, coi trọng công tác đầu tư cải tạo, rút ngắn bán kính cấp điện, nâng cao chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện. Đầu tư lắp đặt tụ bù công suất phản kháng trên lưới 110KV, các trạm truyền tải, lưới trung kế 15KV, lưới hạ thế 380V để nâng cao hệ số công suất cosϕ. Việc lắp đặt cần tính toán chính xác dung lượng và vị trí đặt sao cho tác dụng tối ưu nhất. Việc cải tiến công nghệ đo đếm điện năng bằng điện kế điện tử, đo được và thu được tiền bán công suất phản kháng là động cơ thúc đẩy khách hàng đầu tư lắp 60 tụ bù cho phụ tải của họ. Các giải pháp này đều mang tác dụng tích cực cho việc giảm tổn thất điện năng. 2.3.5. Nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng: Đầu tư xây dựng để cải tạo, mở rộng và nâng cao chất lượng lưới điện là công tác có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của CTĐLHCM. Đây là công tác cần thiết phải được thực hiện một cách chủ động đáp ứng được nhu cầu điện năng của thành phố trong từng giai đoạn của dự báo. Một khó khăn lớn của CTĐLHCM trong thời gian tới là thiếu vốn đầu tư xây dựng phát triển hệ thống điện để đáp ứng nhu cầu về điện của nền kinh tế quốc dân và sinh hoạt của người dân đã đang và sẽ càng tăng với tốc độ cao. Trong khi đó thì công tác quản lý đầu tư xây dựng của CTĐLHCM vẫn còn những nhược điểm cần phải khắc phục đã nêu ở chương 1, việc nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng là một yêu cầu hết sức khách quan và cấp bách. Giải quyết vấn đề này ngoài việc khắc phục những nhược điểm hiện nay, CTĐLHCM còn phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển lưới điện. (1) Mục tiêu của công tác đầu tư xây dựng lưới điện đến năm 2010 và 2020. Xây dựng được một hệ thống lưới truyền tải đủ mạnh để liên kết giữa các khu vực tập trung phụ tải trong Tp.Hồ Chí Minh và vùng lân cận, có khả năng truyền tải công suất lớn, đảm bảo an toàn và ổn định của hệ thống điện. Hệ thống lưới truyền tải phải đáp ứng những tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến của các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Cải tạo, nâng cấp và phát triển lưới phân phối để vận hành an toàn, giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cậy cung cấp điện. (2) Các biện pháp huy động vốn đầu tư: Từ đây đến 2010 theo dự báo ở phần 2.1 CTĐLHCM cần mỗi năm trên 900 tỉ đồng để đầu tư xây dựng lưới điện. Nguồn vốn đầu tư phát triển trích từ lợi nhuận sau thuế hằng năm chỉ có khoảng 200 tỉ đồng. Chính vì thế cần có cơ chế đa dạng hoá hình thức đầu tư để giảm gánh nặng về vốn đầu tư và khả năng trả nợ của CTĐLHCM. Do đó phải công khai danh mục các công trình và khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư. Tăng cường quan hệ với các tổ chức tài chính để vay vốn đầu tư. Đặc biệt phải hết sức tranh thủ nguồn vốn 61 ODA lãi suất thấp và thời gian trả nợ lâu, sau đó là các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước. Trong thẩm định cho vay, các tổ chức tài chính quốc tế thường thẩm định khả năng trả nợ và thực tế họ yêu cầu chính phủ phải thực hiện lộ trình tăng giá điện như là một điều kiện cần. Do đó, cần phải tiếp tục thực hiện lộ trình tăng giá điện đã được chính phủ thông qua và chuyển số tiền chênh lệch do tăng giá điện sang đầu tư. Đồng thời, để giảm sức ép tăng giá điện, kiến nghị chính phủ giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% còn 5%; cho để lại toàn bộ nguồn thu sử dụng vốn nhà nước. Ngoài ra, cần phải xây dựng các biện pháp huy động vốn khác như cổ phần hoá, liên doanh, liên kết, nghiên cứu tham gia thị trường chứng khoán. (3) Các biện pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng lưới điện: Cải tiến thủ tục, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, đặc biệt là công tác tập, trình duyệt, phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, kết quả xét thầu, mua sắm vật tư thiết bị. Phối hợp tốt với các địa phương để giải quyết các vướng mắc trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng. Đầu tư chiều sâu, cải tạo nâng cấp và hiện đại hoá đối với lưới điện hiện có, đồng thời phát triển lưới điện mới để đảm bảo yêu cầu cung cấp điện ổn định cho các ngành kinh tế phát triển với nhịp độ cao. Tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ và quản lý nhằm giảm tổn thất điện năng bình quân 0,5%/năm (tương đương với việc tiết kiệm được 65 tỉ đồng/năm). Đầu tư công nghệ thông tin hiện đại nhằm đảm bảo vận hành tối ưu hệ thống điện, thực hiện chương trình quản lý nhu cầu để cắt giảm công suất đỉnh, tiết kiệm đầu tư và nâng cao khả năng cung cấp điện, ổn định. Tận dụng khai thác các công trình, vật tư thiết bị vẫn còn tuổi thọ kinh tế hoặc đã hết khấu hao nhưng vẫn còn sử dụng được nhằm làm giảm giá thành của hệ thống và giảm sức ép tăng giá điện. Đối với các vật tư, thiết bị lưới điện 110KV trong nước đã sản xuất được, để tiết kiệm chi phí đầu tư chỉ nên vay vốn nước ngoài để mua những vật tư mà trong nước chưa sản xuất được. Có như thế mới khuyến khích và phát huy khả năng sản xuất vật tư thiết bị thay thế nhập khẩu. Đầu tư trang bị các dây chuyền công nghệ tiên tiến cho các đơn vị sản xuất thiết bịi điện đặc biệt là sản xuất các thiết bị thí nghiệm kỹ thuật cao. 62 Trong triển khai đầu tư xây dựng cần áp dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến vào các công trình. Song song với việc trang bị thiết bị công nghệ mới, tiên tiến cần phải cải tiến các thiết bị cũ cho phù hợp với công nghệ mới. Quan điểm này sẽ mang tới hiệu quả tăng độ tin cậy cung cấp, đảm bảo tiêu chuẩn về môi trường. Tổ chức tốt hệ thống quản lý, kiểm tra chất lượng và công nghệ để vừa phát huy hiệu quả đồng vốn vừa tiết kiệm chi phí đầu tư cho công trình. Trong điều hành về quản lý đầu tư xây dựng cần giải quyết vốn đầu tư cho các công trình điện trên cơ sở cân đối một cách hợp lý giữa nguồn vốn ngân sách (chủ yếu cho mục tiêu công ích), vốn tự tích luỹ của CTĐLHCM thông qua việc điều tiết theo chi phí biên dài hạn, vốn vay ưu đãi trong nước và ngoài nước, đầu tư từ nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia các hoạt động trong lĩnh vực này. CTĐLHCM cần xây dựng cơ chế tài chính theo hướng tự tạo uy tín tài chính, tự vay, tự trả, tiến tới giảm bớt gánh nặng cho nhà nước về đầu tư vốn đối với ngành điện, dành vốn hỗ trợ các ngành kinh tế khác. 2.3.6. Giải pháp tách hoạt động công ích ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM. Hiện nay sản xuất, truyền tải và phân phối điện theo kế hoạch và bán theo giá do Chính phủ qui định trong đó có nhiều đối tượng có giá thấp hơn chi phí sản xuất làm cho ngành điện không có lợi nhuận như bán buôn sinh hoạt nông thôn, khu vực khu tập thể, điện phục vụ sinh hoạt..., nhưng CTĐLHCM không được hưởng các quyền lợi mà doanh nghiệp công ích được hưởng. Việc bù chéo thông qua giá điện từ các khách hàng công nghiệp, dịch vụ cho các hộ tập thể hoặc hộ ở nông thôn làm cho giá bán điện cao làm cho khả năng cạnh tranh khi tham gia thị trường điện của CTĐLHCM với các doanh nghiệp khác kém vì giá bán điện cao. Do đó để đảm bảo khả năng cân đối tài chính, giảm dần bù chéo và đánh giá đúng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của CTĐLHCM đòi hỏi phải có cơ chế tài chính và hạch toán đối với hoạt động công ích bán buôn cho khu tập thể, điện kế tổng dùng cho sinh hoạt nông thôn. Hơn nữa, vấn đề tách hoạt động công ích ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện đã được Bộ chính trị và chính phủ chỉ đạo và giao cho Bộ công nghiệp và Bộ tài chính nghiên cứu thực hiện, theo đó xây dựng giá điện phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu tư cho phát triển ngành điện, 63 tăng sức cạnh tranh về giá điện nhất là giá điện phục vụ sản xuất so với các nước trong khu vực, tách phần chính trị ra khỏi giá điện (kết luận số 26/KL/TW ngày 26/10/2003). Các biện pháp tách hoạt động công ích ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh điện: CTĐLHCM sẽ không thành lập doanh nghiệp công ích riêng mà chỉ tổ chức hạch toán tách phần hoạt động công ích ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh thuần tuý. Với cơ chế quản lý kế toán phù hợp, tổng hợp được riêng phần điện năng thương phẩm cấp cho hoạt động công ích qua sự bù chéo giá điện, từ đó xác định được phần giá trị mà ngành điện đã chi cho hoạt động công ích, Chính phủ sẽ cấp bù cho CTĐLHCM qua ngân sách thành phố. Có như thế hoạt động sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM mới được đánh giá đúng với bản chất và cơ chế này tạo điều kiện cho CTĐLHCM tích luỹ được vốn cho đầu tư xây dựng lưới điện cho các năm sắp tới. Với cơ cấu phụ tải thành phố hiện nay, nếu giải quyết được vấn đề tách hoạt động công ích ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi năm CTĐLHCM có thể tích luỹ được trên 300 tỉ đồng để giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng. Đồng thời giải pháp này sẽ mang lại hiệu quả tài chính lành mạnh cho CTĐLHCM, một điều kiện mà các tổ chức tài chính quốc tế WB, ADB, IMF đòi hỏi khi giải quyết chấp thuận cho vay các khoản ưu đãi. 64 KẾT LUẬN Điện năng là một loại sản phẩm hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đời sống con người. Đặc điểm sản xuất kinh doanh và quản lý của ngành điện cũng có nhiều đặc thù. Để đáp ứng nhu cầu điện năng cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá TP.Hồ Chí Minh, vấn đề cấp thiết và quan trọng là nghiên cứu các giải pháp để phát triển công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020. Công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh từ khi thành lập đến nay đã đáp ứng tốt nhu cầu điện năng của nhân dân và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành phố. Tuy nhiên với những bất cập của cơ chế quản lý và hành lang pháp lý của xã hội, hoạt động của công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đã bộc lộ nhiều nhược điểm, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Để đáp ứng được chiến lược phát triển của Tp.Hồ Chí Minh trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc vạch ra một số giải pháp để phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh là một việc làm hết sức cần thiết, mang tính cấp bách đồng thời mang tính lâu dài; vừa là trách nhiệm của CTĐLHCM, đồng thời cũng là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về điện. Luận văn "Một số biện pháp để phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020” đã thực hiện một số vấn đề thực tiễn trong sự phát triển của CTĐLHCM. Các vấn đề luận văn đã giải quyết là: 1. Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh, phân tích các tồn tại. Nêu lên những đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện lực nói chung đồng thời cũng nên lên những đặc điểm trong sản xuất kinh doanh của Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh nói riêng. Phân tích đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM về kế hoạch sản xuất kinh doanh, về công tác kinh doanh điện năng; về công tác quản lý kỹ thuật và vận hành lưới điện; về công tác hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của ngành điện; về công tác đầu tư xây dựng. Song song đó luận văn cũng đã phân tích các tồn tại trong sản xuất kinh doanh của CTĐLHCM, trong đó tồn tại từ phương thức tổ chức và phân cấp cho các đơn vị là nguồn gốc đưa đến các tồn tại trong khâu lập kế hoạch, khâu quản lý kỹ 65 thuật và vận hành lưới điện, khâu đầu tư xây dựng... Việc phân tích các tồn tại và làm sáng tỏ các nguyên nhân đưa đến các tồn tại đó là cơ sở để đưa ra các giải pháp để phát triển CTĐLHCM . 2. Các giải pháp để phát triển Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020. Từ sự phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và phân tích nguyên nhân dẫn đến các vấn đề tồn tại, từ kết quả dự báo nhu cầu điện năng của Tp.Hồ Chí Minh đến năm 2010 và 2020 luận văn đã đưa ra một số giải pháp để phát triển công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đưa ra trong chương 2 sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của CTĐLHCM. Tác giả của luận văn rất mong được đóng góp một phần công sức của mình vào sự phát triển của CTĐLHCM. Tuy nhiên luận văn này được viết trong thời kỳ ngành điện Việt Nam cũng như Tổng công ty Điện lực Việt Nam đang có nhiều thay đổi quan trọng: thực hiện cải cách giá điện; đa dạng hoá các hình thức đầu tư; xây dựng tập đoàn điện lực Việt Nam... Do đó, bản luận văn này khó có thể tránh khỏi những khiếm khuyến. Tác giả rất mong Hội đồng, các Thầy Cô giáo và các độc giả thông cảm và cho những ý kiến quí báu về bản luận văn này. 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (2001), Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. [2] Ban vật giá chính phủ (1989 - 2000), Quyết định giá điện từ năm 1989 đến 2000. [3] Bộ công nghiệp (8/2003), Dự thảo luật Điện lực Việt Nam (bản thảo lần thứ 19), Hà Nội. [4] Chính phủ (1995), Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Hà Nội. [5] Đàm Xuân Hiệp (2001), "Định giá theo chi phí biên", Tạp chí quản lý ngành điện. [6] Trần Đình Long (2000), "Xu thế mới trong hoạt động điện lực", Tạp chí Điện và Đời sống, Tr 23 - 24. [7] Tổng cục thống kê (1999, 2000, 2001, 2002), Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội. [8] Tổng công ty Điện lực Việt Nam (1995 đến 2003), Báo cáo thực hiện lao động - Thu nhập của EVN (các năm từ 1995 đến 2003), Hà Nội. [9] Tổng công ty Điện lực Việt Nam (4/2002), Chiến lược phát triển của Tổng công ty Điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội. [10] Tổng công ty Điện lực Việt Nam (8/2003), Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học công nghệ Điện lực Việt Nam - 2003. [11] Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Báo cáo tổng kết và báo cáo kế hoạch sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Điện lực Việt Nam từ 1996 đến 2003. [12] Tổng công ty Điện lực Việt Nam (2002), Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 có xét đến triển vọng 2020, đề án chính thức (2001) và đề án hiệu chỉnh (2002). [13] Nguyễn Anh Tuấn (2001), Đổi mới các hoạt động điện lực trong điều kiện cạnh tranh - Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 11/2001. 67 [14] Nguyễn Thị Liên Diệp (1993), Quản trị học, Trường Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh. [15] Nguyễn Thị Liên Diệp - Phạm Văn Nam (1994), Chiến lược và Chính sách kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh. [16] Ngô Đình Giao (1997), Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [17] Hoàng Trung Hải 91997), Chương trình quản lý phía nhu cầu, Tạp chí Điện lực, tháng 11 - 1996. [18] Hoàng Trúng Hải (1999), Định hướng phát triển đến năm 2010 của ngành Điện lực Việt Nam, Tạp chí Điện và Đời sống, tháng 2 - 1999. [19] Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh, Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh từ 1995 đến năm 2003, Tp. Hồ Chí Minh. [20] Phan Đăng Tường (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong truyền tải và phân phối điện của Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVW). [21] Nguyễn Anh Tuấn (2003), Hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Điện lực Việt Nam . 68 Phụ lục 13: GIẢI THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN Thuật ngữ Giải thích 1. Bù chéo Cross Subsidization 1. Là việc một nhóm khách hàng mua điện (ví dụ khách hàng công nghiệp) phải chịu mua giá điện cao hơn để bù cho một nhóm khách hàng mua điện khác (ví dụ hộ tiêu thụ điện cho sinh hoạt). 2. Nhà sản xuất điện độc lập Independent Power Producers 2. Là các doanh nghiệp (không thuộc Công ty Điện lực) sở hữu, quản lý và vận hành các nhà máy điện. 3. Thị trường bán buôn 3. Là nơi buôn bán điện năng giữa các công ty phát điện với các công ty kinh doanh điện và các khách hàng mua điện với sản lượng lớn từ lưới cao thế. 4. Giá bán điện bình quân 4. Là giá bán điện của công ty kinh doanh điện được tính bằng: tổng doanh thu bán điện chia cho tổng sản lượng điện thương phẩm. 5. Giá bán điện bình quân lý thuyết 5. Chính là giá bán điện bình quân trong trường hợp tổng doanh thu có được từ sự áp giá đúng 100% theo biểu giá điện của chính phủ. 6. Điện lực khu vực` 6. Là các đơn vị được phân cấp kinh doanh điện năng trực thuộc Công ty Điện lực, quản lý kinh doanh điện theo khu vực địa lý như Quận, Huyện. 69 70 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1535.pdf
Tài liệu liên quan