Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2003-2010

Tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2003-2010: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI I. Nguồn gốc, vai trò của cây cà phê trên thị trường thế giới 1 1.Nguồn gốc, đặc điểm của cây cà phê 1 2. Vai trò cây cà phê trên thị trường cà phê thế giới 2 3. Vai trò các tổ chức xuất khẩu cà phê quốc tế 3 II. Tình hình sản xuất cà phê thế giới 4 1.Diện tích trồng cà phê 4 2. Năng suất 5 3. Sản lượng 5 4. Các nước sản xuất cà phê chính trên thế giới. 7 III. Tình hình tiêu thụ và dự trữ cà phê thế giới. ... Ebook Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2003-2010

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2003-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 Tình hình tiêu thụ cà phê thế giới. 9 2. Tình hình dự trữ cà phê thế giới. 13 IV. Tình hình xuất nhập khẩu cà phê thế giới. 17 1. Tình hình xuất khẩu 17 2. Tình hình nhập khẩu 22 3. Diễn biến giá cả 27 V. Kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu cà phê thế giới 30 1. Giải pháp về kỹ thuật, chế biến cà phê xuất khẩu 30 2. Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu cà phê 32 3. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Braxin 34 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM I. Vài nét về ngành cà phê Việt Nam 36 1. Sơ lược lịch sử trồng cà phê Việt Nam 36 2. Vai trò của cà phê xuất khẩu trong nền kinh tế 37 II. Thực trạng sản xuất cà phê 38 1. Diện tích năng suất sản lượng 38 2. Công nghiệp chế biến 41 III. Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam 43 1. Khối lượng kim ngạch xuất khẩu 43 2. Giá cà phê xuất khẩu 45 3. Cơ cấu cà phê xuất khẩu 46 4. Chất lượng cà phê xuất khẩu 47 5. Thị trường cà phê xuất khẩu 50 IV Đánh giá chung tình hình xuất khẩu Việt Nam 57 1. Thành tựu 57 2. Hạn chế 60 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ GIAI ĐOAN 2003-2010 I. Xu hướng phát triển của thị trường cà phê. 67 1. Xu hướng phát triển thị trường cà phê thế giới 67 2. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam 72 II. Định hướng phát triển xuất khẩu cà phê của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010 74 III. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam thời kỳ đến năm 2010 80 1. Nghiên cứu đầu tư khoa học công nghệ trong lai tạo và chọn giống 80 2.Tăng cường thâm canh tăng năng suất và hoàn chỉnh quy hoạch 81 3.Phát triển công nghiệp chế biến 82 4. Thực hiện tốt công tác tiêu chuẩn hóa và kiểm tra chất lượng 83 5.Nghiên cứu phát triển đa dạng chủng loại chế phẩm 84 6. Quan tâm xây dựng thương hiệu và quảng cáo sản phẩm 85 7. Đẩy mạnh liên kết trong kinh doanh và củng cố vai trò của Hiệp hội 86 8. Tổ chức tốt công tác thông tin ttr và xúc tiến thương mại 87 9.Tổ chức tốt hệ thống vận tải bảo đảm chất lượng cho cà phê xuất khẩu 88 10. Các biện pháp về chính sách 89 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU Cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong thương mại thế giới với giá trị trao đổi toàn cầu đạt 5,26 tỷ USD trong năm 2002. Cà phê cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển. Có khoảng 70 nước sản xuất cà phê trên thế giới, trong số đó 45 nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế chiếm tới 97% tổng nguồn cung cà phê toàn cầu. Theo hệ thống mã HS của Việt Nam, cà phê theo mã số HS 090100 “Cà phê các loại rang hoặc chưa rang, đã khử hoặc chưa khử cafein” - thuộc nhóm hàng nông sản được khuyến khích xuất khẩu với mức thuế suất xuất khẩu 0% . Trong những năm gần đây, cà phê đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chiến lược của Việt Nam. Nếu như năm 1980, cả nước mới có 22,5 ngàn ha cà phê với sản lượng 8,4 ngàn tấn thì đến năm 2000, diện tích cà phê đã tăng lên tới 255 ngàn ha, sản lượng 554 ngàn tấn. Với các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp cho trồng cây cà phê tại nhiều địa phương trong cả nước, Việt Nam có nhiều lợi thế để sản xuất và xuất khẩu cà phê: năng suất thấp, giá thành rẻ và chất lượng cà phê tương đối tốt...Xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã tăng liên tục trong những năm đầu của thập niên 90, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Cà phê cũng là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996- 2000. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Khả năng dự trữ, chế biến còn rất hạn chế; chất lượng cà phê không cao; giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn ở mức thua thiệt trên thị trường thế giới; xuất khẩu cà phê nhân thô vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng xuất khẩu; thị trường xuất khẩu đã có những bước phát triển nhưng chủ yếu vẫn xuất khẩu qua trung gian...Thêm vào đó, tình hình thị trường cà phê quốc tế trở nên không thuận lợi trong những năm gần đây đã làm xuất khẩu cà phê của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Giá cà phê trên thị trường thế giới giảm liên tục, đặc biệt là từ năm 1998 tới nay, đã làm hiệu quả xuất khẩu cà phê giảm mạnh, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh cà phê của Việt Nam. Để khắc phục những khó khăn đang hạn chế sự phát triển của ngành cà phê, nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, cần đánh giá được những yếu tố tác động tới khả năng phát triển của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới và tìm ra những giải pháp thích hợp cho sự phát triển bền vững của ngành cà phê. Mục tiêu của luận văn này tập trung mô tả các đặc điểm, cơ cấu và xu hướng phát triển thị trường cà phê thế giới trong những năm tới, triển vọng phát triển sản xuất cà phê của Việt Nam và khả năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam, phân tích các nhân tố cản trở sự phát triển của xuất khẩu cà phê của Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu chủ yếu...từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp cho sự phát triển của ngành cà phê, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu, khẳng định vị trí của cây cà phê trong chiến lược phát triển xuất khẩu của cả nước. Trên cơ sở đó, em đã chia luận văn thành 3 chương: Chương I: Thực trạng tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê thế giới Chương II: Thực trạng tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn đến 2010 Em xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh cùng các thầy cô giáo trong khoa, công ty VINACAFE đã tạo điều kiện hướng dẫn tận tình giúp em hoàn thành khóa luận này. CHƯƠNG I TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI I-GIỚI THIỆU VỀ CÂY CÀ PHÊ TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI. Nguồn gốc và đặc điểm chung của cây cà phê Cây cà phê được một người du mục Yemen (Châu Phi) tình cờ phát hiện ra. Hiện nay vẫn còn 200 000 ha cà phê mọc hoang dại dưới tán rừng Yemen.Từ một loài cây mọc hoang dại trong những cánh rừng ở Etiopia và arabica, cây cà phê đã dần dần được biết đến rộng rãi tại nhều nước trên thế giới. Lúc đầu, người ta nướng lá cà phê sau nấu thành nước uống. Sau đó dùng vỏ quả chế thành nước uống và lên men quả chín thành rượu vang. Từ thế kỷ XV, hạt cà phê đã được sử dụng làm nước uống ở Ai Cập. Không những thế, nó đã trở thành thứ đồ uống thời thượng. Phong trào này sau đó lan mạnh sang Châu Âu và các châu lục khác. Nhu cầu về cà phê như một thứ đồ uống ngày càng phát triển. Chính vì thế cây cà phê đã được trồng với diện tích ngày càng rộng lớn. Từ vùng đất Arabica cà phê đã được đem đến trồng ở Java năm 1690, đến Hà Lan năm 1706, sang Trung Mỹ năm 1724.. Cà phê vối được đưa từ Tây Phi và Madagascar sang Nam Mỹ và Hà Lan năm 1899, rồi sang Java 1900…Cho đến nay , diện tích trồng cây cà phê đã lên đến hơn 10 triệu ha, có mặt ở khắp các châu lục với khoảng 15 tỉ cây cà phê đã cho thu hoạch. Khu vực trồng cà phê lớn nhất là Nam Mỹ với 4,8 triệu ha; Châu Phi khoảng 3,8 triệu ha; tại Bắc và Trung Mỹ là 1,5 triệu ha và tại Châu Á khoảng 1,2 triệu ha. Cà phê thuộc vào họ thực vật Rubiazeen. Theo phân loại thực vật học loại này có khoảng 500 loài nhưng chỉ có 2 chủng loại cà phê là có ý nghĩa kinh tế: cà phê chè Arabica, chiếm gần 70% sản phẩm cà phê thế giới và cà phê Canephora (còn được gọi là cà phê vối, Robusta) chiếm khoảng 30% tổng sản lượng. Các loại cà phê Liberica và Exelsa cũng có mặt trên thị trường nhưng chiếm một lượng không đáng kể. Theo cách phân loại của Hiệp định cà phê quốc tế (ICA), cà phê được chia làm hai loại chủ yếu : cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối, và cà phê Arabica hay còn gọi là cà phê chè với 3 phân nhóm Arabica chính: Arabica Côlômbia dịu, các loại cà phê dịu khác và cà phê Arabica khác. Cà phê chè được trồng hầu hết tại các vùng 230 vĩ độ Bắc tới 250 vĩ độ Nam, tại các vùng có điều kiện phù hợp như Mỹ, châu Phi, châu á, châu Đại Dương, tập trung chủ yếu tại Braxin, Côlômbia, Mêhicô và các nước Trung Phi. Cà phê vối không chịu được lạnh như cà phê chè vì vậy việc gieo trồng chỉ hạn chế tại các vùng nằm ở 100 vĩ độ Bắc và Nam xích đạo, tập trung chủ yếu tại Indonexia, bờ biển Ngà, Uganda và Việt Nam. Vai trò của cà phê trên thị trường thế giới Cà phê là một trong những đồ uống phổ biến trên thế giới, mức tiêu thụ cà phê trên thế giới ngày càng cao.Cà phê ngày nay không những tiêu thụ nhiều ở những nước phát triển mà ở cả những nước đang phát triển xu hướng uống cà phê cũng dần xuất hiện. Cà phê còn được sử dụng trong y học để chữa một số bệnh như: huyết áp cao, suy nhược thần kinh... Nhật bản còn áp dụng phương pháp ngâm mình trong bột cà phê để chữa bệnh và làm tăng thể lực.Ngoài ra cà phê cũng được dùng trong một số ngành công nghiệp thực phẩm và là mặt hàng buôn bán lớn thứ hai thế giới đang phát triển sau dầu mỏ. Sản phẩm đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế của các nước trên thế giới.Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu cà phê so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nước như sau: Brazil 8-10% Ruanda 65% Burundi 90% Colombia 90-95% Etiopia 60% Tandania 30-33% Uganda 95% Trung Phi 65% Trên thế giới có hơn 80 quốc gia sản xuất cà phê và hơn 25 triệu người tham gia lao động trong ngành cà phê. Nền kinh tế của một số nước nghèo phụ thuộc rất nhiều vào cà phê, đặc biệt là một số nước Châu Phi. ở Uganda, cuộc sống của khoảng một phần tư dân chúng phụ thuộc vào mua bán cà phê ở mức này hay mức khác. Tại Etiopia, cà phê chiếm hơn 50% thu nhập xuất khẩu, trong lúc ở Burundi tỉ lệ đó là 80%. ở Goatamela, hơn 7% dân số lấy cà phê làm kế sinh nhai, ở Ônđurat, 10%, ở Nicaragoa, nước nghèo áp chót của Trung Mỹ, cà phê chiếm 7 % thu nhập quốc dân.Đối với nông dân các nước đang phát triển, cà phê đem lại cho họ một hy vọng về tương lai tươi sáng Sản xuất cà phê góp phần tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế, thương mại được củng cố và phát triển. Mặt khác, trồng cây cà phê cũng là việc phủ xanh đất trống đồi trọc, tăng cường bảo vệ môi trường sinh thái. 3. Vai trò của các tổ chức xuất khẩu cà phê quốc tế: Từ trên 50 năm nay giữa các nước sản xuất cà phê đã có các thoả thuận hạn chế xuất nhập khẩu cà phê. Các thoả thuận quốc tế về khống chế lượng cà phê đưa ra thị trường của các nước sản xuất như Liên đoàn cà phê quốc tế, Hiệp hội cà phê Mỹ La tinh, Tổ chức cà phê châu Phi... với mục tiêu là phối hợp các lợi ích của những nước trồng cà phê đã được ký kết nhằm củng cố giá cà phê trên thị trường, hạn chế ảnh hưởng của các chu kỳ giảm giá, phối hợp xuất khẩu, giải quyết lượng cà phê tồn kho và can thiệp vào thị trường định hạn để đẩy giá cà phê lên. Các hiệp định về hạn ngạch xuất khẩu cà phê dưới sự kiểm soát của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) được ký kết định kỳ để duy trì giá cà phê trên thị trường. Trong những thời điểm nhất định, tới 99% sản lượng cà phê và 90% nhu cầu của thế giới đối với cà phê nằm trong phạm vi quản lý của ICO. Tuy nhiên, do hệ thống xuất khẩu theo hạn ngạch thiếu năng động và cứng nhắc, không tạo nên một cơ cấu sản xuất thích ứng với nhu cầu và cản trở sự thích nghi giữa sản xuất cà phê với nhu cầu về cà phê và sự chia rẽ thị trường theo các nước thành viên và các nước không thành viên, dẫn đến sự thiệt hại của các nước thành viên, nhất là khi vị trí của các nước ngoài ICO trên thị trường cà phê ngày càng tăng lên, đã dẫn đến sự thất bại của các hiệp định cà phê. Tuy ICO vẫn được duy trì như một diễn đàn đối thoại có tổ chức về cà phê nhưng đến năm 1993, 28 quốc gia sản xuất cà phê ở châu Phi, Mỹ La tinh và Inđonêxia, kiểm soát 85% lượng cà phê thế giới, đã thành lập “Hiệp hội các quốc gia sản xuất cà phê” (ACPC) với hy vọng sẽ ổn định được giá cà phê trên thị trường bằng cách hạn chế lượng cà phê xuất khẩu, cân đối cung cầu để tránh những dao động quá lớn về số lượng cũng như về giá cả, bảo đảm việc làm và thu nhập của các nước sản xuất, có nguồn thu ngoại tệ thích hợp để tăng sức mua của các nước xuất khẩu. II-TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ TRÊN THẾ GIỚI Theo thống kê của tổ chức nông lương Liên hiệp quốc, trên thế giới có khoảng hơn 80 nước trồng cà phê phân bố ở Châu Phi, châu Mỹ, Châu Á và Châu Đại Dương với tổng diện tích trên 10 triệu ha, sản lượng hàng năm biến động khoảng 5,5-6 triệu tấn cà phê nhân. 1.Diện tích trồng cà phê thế giới. Sản xuất cà phê thế giới tuy tăng giảm thất thường song xu hướng chung vẫn tăng lên. Về diện tích, trong 20 năm từ 1959-1988 diện tích cà phê thế giới đã tăng 2,2 triệu ha (từ 9,1 lên 11,3 triệu ha). Trong đó riêng Châu Phi tăng 2 triệu ha (từ 1,8 lên 3,8 triệu ha), khu vực Châu Á Thái Bình Dương tăng 0,8 triệu ha (từ 0,4 lên 1,2 triệu ha). Từ năm 1988 cho đến 1995 diện tích trồng cà phê thế giới hàng năm tăng ở mức 0,1% đạt 10.493.940 ha vào năm 1995.ở các khu vực khác nhau trên thế giới mức tăng giảm cũng không đồng đều. Nếu như ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương mức tăng trung bình là 2,8% thì diện tích trồng cà phê của những nước khác lại giảm với tốc độ trung bình là 0,3%/ năm. Hiện nay như đã biết diện tích trồng cà phê ở Nam Mỹ với 4,8 triệu ha; Châu Phi đã lên đến 3,8 triệu ha; tại Bắc và Trung Mỹ là 1,5 triệu ha và tại Châu Á khoảng 1,2 triệu ha Tại hầu hết các nước cung cấp chính, cà phê chủ yếu được trồng ở những đồn điền lớn và được bán trực tiếp cho các thương nhân quốc tế. Do phân công lao động trong nền kinh tế quốc tế ngày càng thâm nhập sâu hơn cũng như do vai trò của cà phê ngày càng quan trọng hơn với tư cách là một nguồn thu ngoại tệ lớn nên đã hình thành các hệ thống tổng hợp về tiếp thị và kinh doanh cà phê trên phạm vi toàn cầu.Tuy nhiên cà phê vẫn là một trong số ít những mặt hàng nông sản giao dịch quốc tế mà vẫn được canh tác chủ yếu trên những đơn vị diện tích nhỏ của gia đình nông dân. Vẫn còn đến gần 70%cà phê thế giới được trồng tại các trang trại có qui mô dưới 10 ha, và trong số đó, đại bộ phận được canh tác tại các hộ gia đình trên những đơn vị diện tích từ một đến năm ha. 2. Năng suất Năng suất cà phê bình quân toàn thế giới năm 1985 là 5,7 tạ/ha, năm 1995 giảm còn 5,34 tạ/ha, năm 1998 là 6 tạ/ha, hiện nay chưa quá 7 tạ nhân/ha, trong đó Châu Phi trên dưới 4 tạ nhân/ha, Nam Mỹ và Châu Á trên 7 tạ nhân/ha, Trung Mỹ xấp xỉ 6 tạ nhân/ha.Như vậy là năng suất cà phê toàn thế giới không phải lúc nào cũng tăng một cách đồng biến theo thời gian. Mấy năm gần đây, do áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật mới như giống, kỹ thuật canh tác… nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt trên 1 tấn/ha, điển hình là Costarica (Trung Mỹ) với diện tích cà phê là 85.000 ha, năng suất bình quân trên 1,4 tấn/ha, Philipine 1,27 tấn/ha. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương có mức năng suất tăng nhanh, trung bình 0,4%/năm. Ta cũng có thể thấy là việc tăng giảm năng suất cũng không đồng đều ở các khu vực trên thế giới. Hiện Việt Nam đang là nước có năng suất cao trên thế giới. Nhìn chung, hiện nay cà phê được sản xuất với trình độ thâm canh cao. Việc trồng những loại cà phê có năng suất cao, sử dụng lao động tối đa trên một diện tích trồng trọt, tăng chi phí bảo vệ thực vật và đẩy mạnh chăm sóc đem lại năng suất cao trên một đơn vị diện tích. Tuy nhiên, năng suất cà phê thường thay đổi theo chu kỳ bốn năm, ảnh hưởng tới sản lượng và giá cà phê trên thị trường thế giới. 3. Sản lượng Sản lượng cà phê thế giới cũng có những nét biến động riêng biệt, tuy nhiên xu hướng chung là tăng theo từng thời kỳ. Trong vòng 38 năm kể từ năm 1960 đến năm 1997 sản lượng cà phê thế giới tăng lên 25 triệu bao, tương đương với 37,9% với mức tăng trung bình 1,25%/năm. Mức tăng giảm sản lượng cà phê thất thường và không đều ở các năm. Thấp nhất là năm 1964/1965 sản lượng xuống còn 53 triệu bao/năm. Sản lượng thời gian này thấp là do sương muối. Sự xuất hiện, gây tác hại rất lớn của bệnh rỉ sắt đã gây thêm khó khăn và tốn kém cho ngành cà phê ở nhiều nước Trung và Nam Mỹ từ năm 1970 . Đến thời kỳ từ năm 1976/1977 đến 1987/1988 sản lượng tăng mạnh và ổn định, gần 40 triệu bao trong vòng hơn 10 năm. Giai đoạn sau đó, sản lượng cà phê thế giới tăng giảm thất thường, không ổn định. Tổng sản lượng cà phê toàn cầu tăng mạnh trong niên vụ 1991/92 nhưng lại giảm đi và chỉ tăng trở lại sau niên vụ 1995/96 và duy trì ở mức cao trong giai đoạn 1995/96 tới 2000/01. Sáu năm gần đây (từ năm 1997 đến nay), tổng sản lượng cà phê thế giới tăng 4% hàng năm, từ 94 triệu bao năm 1990 lên hơn 122 triệu bao vào năm 2002. Trong niên vụ 2001/02, sản lượng cà phê có giảm đôi chút nhưng có xu hướng tăng trở lại trong niên vụ 2002/03. Bảng1: Tình hình sản xuất cà phê thế giới Đơn vị: 1000 bao Niên vụ 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 2002/03 2003/04 Toàn cầu 108.453 113.433 116.581 110.104 122.759 107.129 Nguồn: FAS/USDA, tháng 6/2003. Tuy nhiên sản lượng cà phê không đồng đều giữa các quốc gia, khu vực. Khoảng 90% cà phê thế giới được sản xuất ở các nước đang phát triển, trong đó phần lớn là từ hai nước Braxin và Việt Nam. Khu vực sản xuất cà phê lớn nhất thế giới là Châu Mỹ La Tinh. Các nước phát triển sản xuất với khối lượng rất nhỏ, để phục vụ nhu cầu tiêu dùng là chủ yếu. Trong cơ cấu sản lượng cà phê thế giới thì cà phê chè luôn chiếm ưu thế và nói chung thường giữ ở mức 65-70%, trong đó Braxin đóng góp một phần đáng kể vì nước này vốn là nước sản xuất chủ yếu cà phê chè. Tuy nhiên những năm gần đây, tỷ lệ sản lượng cà phê vối tăng lên một cách mạnh mẽ với sự nhập cuộc của Việt Nam, quốc gia có sản lượng cà phê tăng lên 10 lần trong vòng hơn 10 năm gần đây. Cà phê vối là loại cây trồng phổ biến ở Việt nam. Trong khi đó, Braxin, tuy vẫn chủ yếu là quốc gia Arabica , nhưng cũng đã tăng hơn gấp đôi sản lượng Robusta trong mười năm qua, lên tới 11 triệu bao. Trên thị trường cà phê tràn ngập Robusta Bảng 2: Đánh giá sản lượng cà phê trên thế giới theo từng loại Đơn vị: Triệu bao Niên vụ 1996/97 1997/98 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 2002/03 Toàn cầu 99,4 103,6 104,0 115,0 111,7 110,2 119,1 Trong đó: Arabica 64,8 69,5 73,4 75,4 68,8 72,6 79,5 Robusta 34,6 34,1 30,6 39,6 42,9 37,6 39,6 Tỷ trọng (%) Arabica 65,2 67,1 70,6 65,6 67,6 65,9 66,7 Robusta 34,8 32,9 29,4 34,4 38,4 34,1 33,3 Nguồn: ICO và USDA. Coffee – An Export’s guide. International Trade Centre, Geneva, 2002. 4. Các nước sản xuất cà phê chính Căn cứ vào loại cà phê xuất khẩu người ta chia các nước sản xuất cà phê thành các nhóm: nhóm sản xuất cà phê Arabica và nhóm sản xuất cà phê Robusta. Tuy nhiên cũng có nước thuộc nhóm Arabica cũng sản xuất cà phê Robusta và ngược lại. Trong thống kê thì người ta chia các nước sản xuất theo khu vực , vùng lãnh thổ như cà phê vùng Bắc và Trung Mỹ, vùng Nam Mỹ, khu vực Châu Á Thái Bình Dương…Tuy nhiên, những nước sản xuất cà phê chính là Braxin, Colombia, Indonexia, Mexico, Cốtđivoa chiếm 52% sản lượng cà phê thế giới. Trong thập kỷ 90, cơ cấu sản xuất cà phê Arabica ít thay đổi. Nhìn chung, cà phê Arabica được trồng nhiều ở các nước Mỹ La tinh, Trung Mỹ và Caribê trong khi cà phê Robusta được trồng nhiều tại châu Phi và châu Á. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất cà phê Robusta đã biến đổi về cơ bản. Côtđivoa, Uganda và các nước sản xuất cà phê Robusta khác ở châu Phi đã nhường vị trí hàng đầu cho các nước châu Á (Thái Lan, Inđônêxia, Việt Nam) và các nước Mỹ La tinh (Braxin). Sản lượng cà phê Robusta của Việt Nam đã tăng mạnh so với thập niên 80 và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong suốt thập kỷ 90, đưa Việt Nam trở thành một nước sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Sản lượng cà phê Robusta của Inđônêxia đã giảm đi trong những năm gần đây và từ nước đứng đầu về sản xuất loại cà phê này, Inđônêxia đã trở thành nước đứng thứ hai, sau Việt Nam Từ một nước hầu như chỉ sản xuất cà phê Arabica, sản lượng Robusta của Braxin đã chiếm tới 25 -30% sản lượng cà phê Robusta và 15 - 17% xuất khẩu cà phê Robusta toàn cầu. Tuy nhiên, Braxin vẫn là nước sản xuất cà phê Arabica lớn nhất thế giới mặc dù sản lượng có xu hướng giảm đi do mức giá cà phê thấp trong thập niên 90 không khuyến khích nông dân đầu tư cho các vườn trồng cà phê, chưa nói tới độ suy giảm theo chu kỳ của giống cây trồng này. Côlômbia là nước đứng thứ hai về cung cấp cà phê với loại cà phê Arabica dịu chiếm vị trí riêng biệt trên thị trường thế giới. Khoảng 500.000 gia đình Colombia sống bằng nghề trồng cà phê.hầu hết cà phê sản xuất ra được đem xuất khẩu. Cà phê chiếm 10,6% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá Colombia. Tuy nhiên, sản lượng cà phê của Côlômbia trong giai đoạn 1995/96-2000/01 đã giảm mạnh so với giai đoạn 1991/92-1995/96 do tác động của mức giá thấp trên thị trường thế giới. Hiện Colombia đang giữ chức chủ tịch ICO, tích cực trong việc tuyên truyền về việc nâng cao chất lượng cà phê. Nếu như một số nước chỉ sản xuất thuần tuý cà phê Arabica hay cà phê Robusta thì Ấn Độ sản xuất cả cà phê Arabica và Robusta với tỷ lệ gần như tương đương ( tương ứng 43% và 57%). Indonesia hiện nay là nước xuất khẩu cà phê thứ hai Châu Á. Khoảng 80% sản lượng cà phê Indonesia được đem đi xuất khẩu. Khoảng 87% sản lượng cà phê của nước này là loại Robusta và 13% là Arabica (chủ yếu trồng ở trên đất cao nguyên). Sản lượng cà phê Indonesia gần đây liên tiếp giảm do giá không hấp dẫn và Elnino gây biến đổi thời tiết. Thu nhập thấp khiến người trồng cà phê từ bỏ dần loại cây trồng này và năng suất giảm từ 437 kg/ha năm 2000/01 còn 420 kg/ha năm 2001/02 và còn 397 kg/ha năm 2002/02. Chính phủ Indonesia hiện nay đang khuyến khích nông dân trồng cà phê năng suất cao (Robusta) và tiếp tục mở rộng diện tích trồng cà phê Arabica ở cao nguyên. Sản lượng năm 2001/02 đạt gần 6,61 triệu bao và dự kiến sẽ còn giảm trong niên vụ tới. III. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ VÀ DỰ TRỮ CÀ PHÊ THẾ GIỚI 1.Tình hình tiêu thụ cà phê trên thế giới Cà phê là một trong những đồ uống phổ biến trên thế giới. Nếu như năm 1947 tổng lượng cà phê tiêu thụ của các nước là 27,6 triệu bao thì năm1997 là 99,4 triệu bao. Sự tăng trưởng của lượng tiêu thụ cà phê khá ổn định. Trong những năm gần đây nhu cầu tiêu thụ cà phê trên thế giới tăng bình quân 0,6 %/năm , từ 91,2 triệu bao năm 1990 lên đến 104,5 triệu bao vào năm 2001. Năm 2002 đã tăng lên 105,8 triệu bao. Tuy cà phê được sản xuất ra ở các nước đang phát triển nhưng lại được tiêu thụ phần lớn ở các nước công nghiệp phát triển, chiếm khoảng 75% lượng tiêu thụ cà phê thế giới.Tiêu thụ cà phê trên thế giới trong niên lịch 1999 khoảng 103,1 triệu bao, trong đó có 25,8 triệu bao tiêu thụ tại các nước sản xuất và 77,3 triệu bao tại các nước nhập khẩu. Những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ ở các nước sản xuất có xu hướng tăng lên là do đời sống kinh tế ở những nước đang phát triển này được cải thiện. Năm 1995/1996 lượng tiêu thụ tại các nước sản xuất là 23,2 triệu bao thì năm 200/2001 đã tăng lên 26,0 triệu bao, năm 20001/2002 lại tăng lên 700.000 bao so với vụ trước. Hai nước Brazil và Indonexia và có mức tiêu thụ nội địa cao, thường chiếm trên 30% sản lượng hàng năm.Thị trường nội địa của Braxin năm 2002 tiêu thụ 13,3 triệu bao tăng gần 3 triệu bao so với năm 1995/1996, chiếm đến 1/2 sản lượng tiêu thụ của tất cả các nước sản xuất và chiếm 12,8% so với lượng tiêu thụ toàn thế giới năm 2002. Các số liệu của ngành cho thấy thu nhập tại Braxin và một chính sách khuyến khích tiêu dùng cà phê có chất lượng cao cho thị trường nội địa là một thực tế khách quan đứng sau sự tăng trưởng này. Tại Châu Á, tổng lượng cà phê tiêu thụ ở Ấn Độ, Indonesia, và Philipine là cao mặc dù mức tiêu thụ bình quân đầu người ở đây thấp. Ở những nước Mỹ La Tinh khác, có thu nhập thành thị thấp và có mức tiêu thụ nội địa thấp mặc dù trong hơn ba năm qua một vài nơi ở Mexico đã trồng nhiều cà phê hơn và mức tiêu thụ tại Colombia vẫn được coi là đáng kể. Sức tiêu thụ ở Châu Phi vẫn không đáng kể, trừ Ethiopia, nước đã có truyền thống uống cà phê từ lâu đời, tiêu thụ tới 48% sản lượng cà phê sản xuất. Bảng 3: Tình hình tiêu thụ cà phê thế giới Đơn vị: 1000 bao 1996/97 1997/98 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 Toàn cầu 100,906 101,319 103,953 103,045 104,501 105,855 Các nước NK 76,606 76,219 78,949 77,177 78,100 78,600 Mỹ 17,847 18,194 19,057 18,681 19,164 19,500 Tây Âu 36,382 35,125 36,652 34,709 34,924 34,800 trg đó: Pháp 5,623 5,317 5,311 5,316 5,469 Đức 9,773 8,990 10,508 9,456 9,675 Italia 4,857 4,843 4,977 5,122 5,346 Đông Âu 6,461 7,457 7,057 7,076 7,600 Châu á - TBD 9,951 9,592 10,292 19,757 10,985 trg đó: Nhật Bản 6,369 5,900 6,261 6,733 6,743 7,000 Các nước nk khác 3,684 3,596 3,583 3,647 3,827 Các nước XK 24,300 25,100 25,003 25,868 26,401 27,255 Braxin 11,000 11,500 12,100 12,750 13,100 13,410 Côlômbia 1,600 1,600 1,600 1,400 1,400 1,400 Inđônêxia 1,500 1,600 1,600 1,610 1,630 1,675 Nguồn: ICO. Coffee Exports Guide. International Trade Centre, Geneva, 2002. Trong khi đó, ở các nước tiêu thụ cà phê truyền thống nhu cầu cà phê đã bão hoà và thậm chí có xu hướng giảm.Mức tiêu thụ bình quân đầu người tại các nước nhập khẩu cà phê năm 2002 đạt mức 81,75 triệu bao, thấp hơn mức 82,0 triệu bao năm 2001, giảm đi 3,3% so với thập kỷ 90. Trong đó năm 2002, tiêu thụ cà phê bình quân đầu người ở Mỹ, EU, hai khu vực tiêu thụ lớn nhất nhì thế giới đã giảm 6,6% và 3,6% so với thập niên 90.Tuy thế phần lớn cà phê vẫn được tiêu thụ tại các nước như Mỹ, Phần Lan, Đức, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, Nhật Bản. Mỹ là nước tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới với mức tiêu thụ khoảng 18,5 triệu bao/năm. Tiêu thụ bình quân đầu người của Mỹ gần tương đương với mức tiêu thụ bình quân toàn cầu - khoảng 4,1 - 4,2 kg/người/năm, trong khi mức tiêu thụ bình quân đầu người của EU khá cao, khoảng 5,2 - 5,5 kg/người/năm, trong đó tiêu thụ bình quân đầu người cao nhất là Phần Lan - trên 11 kg/người/năm, Đan Mạch và Thụy Điển - trên 8 kg/người/năm và thấp nhất là Anh- chỉ trên 2 kg/người/năm. Mức tiêu thụ bình quân đầu người của Nhật Bản khá thấp, chỉ khoảng 3 kg/người/năm nhưng tăng ổn định trong suốt thập niên 90.(Phụ lục ) Bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, một xu hướng quan trọng của các nước phát triển là chuyển từ tiêu thụ cà phê Robusta sang cà phê Arabica . Nhu cầu này tăng từ 39% năm 1986 lên 45% năm 1990. Loại cà phê Arabica ngày càng được ưa chuộng và ngày càng có nhu cầu tiêu thụ nhiều hơn bởi chất lượng cũng như hương vị thơm ngon của nó. Do vậy giá cà phê Arabica thường cao gấp 2-2.5 lần giá cà phê Robusta. Xu thế này thấy rất rõ ở Anh và Bồ Đào Nha mặc dù mức tiêu thụ bình quân đầu người giảm xuống 2%/năm. Những loại cà phê hảo hạng và đặc biệt phù hợp với thị hiếu đang ngày càng được ưa thích tại Mỹ và Nhật Bản cùng với sự phát triển của các quán cà phê “sành điệu và sang trọng”. . Do những khác biệt về tập quán tiêu dùng, sản phẩm cà phê rất khác nhau giữa các nước, các khu vực. Người tiêu dùng ở Tây và Tây nam Châu Âu thường ưa chuộng cà phê thành phẩm có pha trộn lượng cà phê Robusta tương đối lớn trong khi người tiêu dùng Bắc Âu và Italia lại ưa chuộng cà phê thành phẩm có hàm lượng Arabica cao. Các nước Trung Âu chủ yếu sử dụng các loại cà phê dịu (Côlômbian Milds và các loại cà phê dịu khác) trong cà phê thành phẩm của họ. Các loại cà phê thành phẩm không chỉ khác nhau do thành phần và tỷ trọng các loại cà phê nhân dùng trong chế biến mà còn khác nhau do kỹ thuật và các bí quyết trong khâu rang xay. Các bí quyết và các chất phụ gia dùng trong rang xay tạo nên các loại cà phê thành phẩm có hương vị đặc biệt, có các đối tượng khách hàng và thị phần riêng biệt trên thị trường tiêu thụ. Về cơ cấu sản phẩm tiêu thụ, cùng với sự phát triển của công nghệ chế biến, sản phẩm cà phê đã có những thay đổi đáng kể với sự xuất hiện của các loại cà phê được pha chế đặc biệt nhằm đáp ứng các nhu cầu rất khác nhau của người tiêu dùng. Nhờ công nghệ tách caffein và các chất kích thích khác trong cà phê mà không làm mất hương vị cà phê, tỷ lệ cà phê kiêng tăng nhanh trên thị trường các nước phát triển. Cà phê kiêng là loại cà phê được xử lý đặc biệt để tách các chất kích thích khỏi cà phê, cho phép một số người tiêu dùng dị ứng với các chất kích thích có thể sử dụng. Bên cạnh cà phê kiêng, một hình thức rất được ưa chuộng là các loại cà phê dịu tự nhiên - loại cà phê sau khi rang có vị dịu nhẹ, không phải nhờ các công nghệ xử lý và giảm các chất kích thích mà nhờ công thức pha trộn các loại cà phê có nguồn gốc khác nhau, đó giảm được hàm lượng các loại axít có vị gắt, chủ yếu là các loại cà phê có nguồn gốc từ Braxin và Côlumbia. Cà phê hòa tan xuất hiện trên thị trường từ những năm 30 và đã lan rộng từ thị trường các nước phát triển sang thị trường các nước đang phát triển trong những năm gần đây. Cà phê hòa tan - với nhiều chủng loại phong phú, đa dạng - đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu tiêu dùng cà phê, phổ biến nhất là các loại cà phê espresso, cappuccino hay moka ở châu Âu và cà phê percolator ở Bắc Mỹ. Các loại cà phê đặc biệt được sản xuất từ các hỗn hợp giữa cà phê chiết xuất với sữa bột và các phụ liệu khác bắt đầu được sản xuất từ những năm 80 nhưng đã nhanh chóng chiếm được thị phần lớn trên thị trường với mức doanh thu trong năm 1992 đạt xấp xỉ một nửa doanh thu các loại cà phê chiết xuất truyền thống, phổ biến nhất là các loại cà phê lạnh, cappuccino, cafe au Lait và các hỗn hợp cà phê tẩm hương vị khác. 2.Tình hình dự trữ cà phê thế giới Lượng cà phê dự trữ hàng năm bao gồm lượng tồn kho ở các nước sản xuất và lượng dự trữ ở các nước tiêu thụ. Lượng tồn kho thay đổi thất thường qua các năm. Từ năm 1993 lượng dự trữ trong kho các nước trên thế giới có xu hướng giảm đi từ 66,1 triệu bao xuống 37,9 triệu bao năm 1998. Theo ICO, lượng tồn kho được các nhà sản xuất dự trữ khi bắt đầu vào vụ cà phê 2000/2001 vào khoảng 21,63 triệu bao. Đây là lượng dự trữ thấp nhất kể từ năm 1980. .Theo giám đốc điều hành ICO, do cắt giảm sản lượng nên lượng cà phê dự trữ của các nước sản xuất chính cũng thấp hơn mức bình thường và có thể xu hướng này sẽ còn tái diễn trong năm tới. Thường thì lượng cà phê dự trữ của các nước sản xuất vào khoảng 24 triệu bao. Thời gian qua, lượng cà phê tồn kho lớn và nguồn cung dư thừa khiến giá cà phê trên thị trường thế giớ._.i giảm mạnh. Lượng cà phê tồn kho đầu niên vụ 2002/03 của các nước xuất khẩu khoảng 20,35 triệu bao, mức thấp nhất trong vòng hơn 10 năm qua, so với 21,09 triệu bao niên vụ 2001/02 và 21,63 triệu bao niên vụ 2000/2001. Do những cải tiến về vận chuyển và kỹ thuật, lượng cà phê giữa niên vụ của các nước nhập khẩu cũng có chiều hướng giảm. Bảng 4: Lượng tồn kho đầu vụ ước tính theo loại niên vụ 96/97-2000/2001 Đơn vị: 1000 bao Niên vụ 1996/97 1997/98 1998/99 1999/00 2000/01 THẾ GIỚI 33.035 29.574 25.804 23.462 21.630 Cà phê Arabica 28.202 22.285 20.434 18.397 16.299 Braxin 14.939 13.791 10.510 10.279 80589 Colombia 6.022 4.300 4.000 3.200 2.100 Các nước Châu Mỹ La Tinh khác 2.172 1.421 2.057 1.629 2.186 Châu Á Thái Bình Dương 261 222 349 491 363 Cà phê Robusta 4.833 5.289 5.370 5.065 5.459 Braxin 611 564 1.711 1.536 1.636 Các nước Châu Mỹ La Tinh khác 82 152 113 40 53 Việt nam 167 200 250 283 667 Indonesia 723 253 412 1.080 555 Các nước Châu Á TháI Bình Dương khác 1.204 1.153 1.331 1.302 1.229 Bờ biển Ngà 469 1.373 438 115 552 Uganda 1.320 1.305 801 396 450 Các nước Châu Phi khác 257 289 314 313 317 Thị phần(%) Cà phê Arabica 85.4 82.1 79.2 78.4 74.9 Cà phê Robusta 14.6 17.9 20.8 21.6 25.1 Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới Mức độ tồn kho dự tính của một số quốc gia sản xuất cà phê tại đầu mỗi niên vụ trong vòng 5 năm từ 1996/1997 cho đến 2000/2001 được trình bày trong bảng 4. Ta có thể thấy trong những năm này, lượng dự trữ cà phê thế giới đối với từng loại cà phê khác nhau thì tình hình cũng khác nhau. Nếu như cà phê Arabica có chiều hướng dự trữ giảm thì cà phê Robusta lại tăng lên. Có tình hình này là do sự gia tăng mạnh sản lượng Robusta ở một số nước như Việt nam Braxin làm cho sản lượng Robusta những năm gần đây tăng nhanh, khiến cho lượng cung vượt quá cầu nhiều trong khi cầu về cà phê Robusta lại không cao, nên khó tiêu thụ. Lượng cà phê Robusta vẫn nằm trong kho của các nước sản xuất lớn.Trong số đó Braxin vẫn là nước có lượng dự trữ cao nhất với hơn 10 triệu bao nhưng cần lưu ý rằng thị phần cà phê Robusta xét trên tổng thể của Braxin đã tăng lên hàng năm và hiện nay đang chiếm một phần tư trên tổng số tồn kho tại các quốc gia sản xuất cà phê. Lượng dự trữ của các nước tiêu thụ chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng lượng tồn kho của thế giới. Theo ICO, lượng dự trữ ở các nước nhập khẩu thuộc thành viên ICO chỉ chiếm khoảng 15% lượng dự trữ ở các nước thuộc thành viên ICO.Tuy nhiên những năm gần đây tỷ lệ này tăng cao Bảng 5: Dự trữ cà phê ở các nước tiêu thụ chính( cuối niên vụ bằng tháng 9) Đơn vị: 1000 bao loại 60kg Mỹ Châu Âu Nhật Bản Các nước khác Tổng cộng 1994/95 2608 7000 1340 100 11.048 1995/96 2611 6400 1089 100 9200 1996/97 2294 7390 1239 100 11.023 1997/98 1680 5820 1090 100 8690 1998/99 2824 7200 1420 160 11.604 1999/00 6259 10.400 1522 170 18.351 2000/01 5793 13.370 1710 200 21.630 2001/02 5488 13.270 1840 190 21.092 Nguồn: Báo cáo của Bộ nông nghiệp Mỹ ( USDA) tháng 2/2002 Tuy nhiên những đánh giá và nhận định liên quan đến các số liệu tồn kho có độ chính xác không cao do các số liệu bên trong không phản ánh đúng lượng tồn kho thực sự. Trong một số trường hợp, các số liệu chính thức sẽ dự đoán thấp lượng cà phê được dự trữ do không thể ghi nhận tổng sản lượng hiện có đang nằm trong sự kiểm soát tư nhân taị mỗi quốc gia, trong khi ở các trường hợp khác các số liệu sẽ làm tăng mức lượng tồn kho hiện có. Đây là một trường hợp đã từng xảy ra trong thời gian khi mà mức tồn kho đóng giữ một vai trò quan trọng trong việc xác định hạn ngạch của mỗi quốc gia sản xuất cà phê tại tổ chức ICO, vì đây là một lợi thế của quốc gia khi ghi nhận số liệu tồn kho có thể có cao nhất. Do đó lượng cà phê chất lượng thấp, khó bán và thực tế có giá trị thấp đã thương xuyên được tính vào nhằm thổi phồng số liệu tồn kho của một quốc gia. Ngoài ra số liệu tồn kho cũng không thể phản ánh đúng tình hình dự trữ cà phê bởi sự can thiệp của các nhà đầu cơ theo giá cà phê để ăn chênh lệch giá. Hơn thế nữa, việc xác định tồn kho đã dừng lại vào năm 1989 cùng với việc ngưng hệ thống hạn ngạch. Mặc dù vậy những số liệu được lập một cách chính xác vẫn rất cần và nhiều cuộc thảo luận đã đề cập đến việc phải bắt đầu kiểm tra lại tồn kho một cách độc lập theo kế hoạch của ACPC nhưng việc này chưa được thực hiện. IV.TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CÀ PHÊ THẾ GIỚI. 1.Tình hình xuất khẩu Hầu hết các nước sản xuất cà phê chủ yếu là để xuất khẩu, đặc biệt là những nước nghèo đang phát triển. Hàng năm khoảng 25-30% sản lượng sản xuất ra để tiêu thụ nội địa, số còn lại xuất khẩu. nhưng tỷ trọng này khá khác biệt tại các nước sản xuất. Với các nước có mức tiêu thụ nội địa cao như Braxin, Etiopia hay Inđônêxia, sản lượng cà phê dành cho xuất khẩu chỉ vào khoảng trên dưới 70% tổng sản lượng cà phê nhưng với các nước chủ yếu trồng cà phê cho xuất khẩu như Côtđivoa, Camơrun, Guatemala hay Việt Nam, tỷ lệ này có thể lên tới 92-95% ( xem phụ lục 2) Những nước xuất khẩu cà phê chủ yếu là Braxin và Columbia, chiếm 45% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới. Hai nước này cùng với Inđônesia, Guatemala, Uganda, Mêhico, Việt Nam, Bờ Biển Ngà, Costa Rica, El Salvado, Ethiopia và Kenia, 12 nước chiếm 80% lượng cà phê xuất khẩu trên toàn thế giới. Xuất khẩu cà phê của các nước sản xuất chủ yếu tăng mạnh trong năm 1992 nhờ sản lượng cao của niên vụ 1991/92 nhưng lại giảm xuống trong những năm sau và tăng trở lại vào năm 1996, nhờ sản lượng cao của vụ cà phê 1995/96. Lượng xuất khẩu của các nước sản xuất cà phê phụ thuộc vào nhu cầu nhập khẩu của các nước tiêu thụ và những chính sách điều tiết xuất khẩu của tổ chức các nước sản xuất cà phê (ACPC). Trong lúc đó nhu cầu tiêu thụ lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố làm cho cán cân xuất khẩu và nhập khẩu luôn thay đổi. Khối lượng cà phê xuất khẩu trung bình những năm 70 là 50 triệu bao/năm thì đến những năm 80 đã tăng lên 66 triệu bao/năm, nửa đầu những năm 1990 là 75 triệu bao. Nếu tính tốc độ tăng xuất khẩu cà phê thế giới năm 80 so với năm 70 tăng 12%, năm 95 so với năm 1985 giảm 0,4%. Xuất khẩu cà phê từ những năm 1990 đến 1999 cũng tăng giảm thất thường, trung bình là 73,1 triệu bao. Riêng niên vụ 1994/1995 có sự sụt giảm bất ngờ từ 73,9 triệu bao xuống còn 67,2 triệu bao, là niên vụ có sản lượng thấp nhất trong thập kỷ 90. Những năm còn lại sản lượng xuất khẩu luôn lớn hơn 71 triệu bao. Con số này là khá cao không thực sự phản ánh cầu của thị trường mà có phần do sự can thiệp của các nhà đầu cơ. Trước tình hình giá giảm mạnh năm 1996 đã mua vào với khối lượng lớn tạo cầu giả. Năm 2000, Hiệp hội các quốc gia sản xuất cà phê ACPC kêu gọi 14 nước thành viên giữ lại 20 phần trăm lượng cà phê xuất khẩu, tức là chỉ nên duy trì ở mức 52,75 triệu bao.Từ năm 1999 cho đến năm 2002 sản lượng xuất khẩu cà phê tăng đều. Bảng 6: Tình hình xuất khẩu cà phê thế giới từ 1975- 1994 Đơn vị: (triệu bao) Niên vụ Số lượng Niên vụ Số lượng 1975-1976 57.961 1994-1995 67.200 1980-1981 65.609 1995-1996 73.300 1985-1986 69.204 1996-1997 71.600 1990-1991 74.200 1999-2000 88.391 1992-1993 77.600 2000-2001 91.071 1993-1994 73.900 2001-2002 91.302 Nguồn: ICO, F.O Tuy nhiên tùy theo từng loại cà phê mà sản lượng xuất khẩu tăng hay giảm khác nhau. Lưọng cà phê Arabica, nhất là cà phê nhóm hương vị dịu ở Braxin và cà phê Arabica tự nhiên có xu hương giảm. Chỉ duy nhất có nhóm cà phê Arabica của Colombia là nhóm có phát triển, đây là cà phê nguyên thuỷ được phục hồi trồng lại ở Colombia, sản lượng xuất khẩu của nó tăng từ 7,9 triệu bao năm 1999/2000 lên 10,5 triệu bao năm 2000/2001, tuy nhiên con số này vẫn thấp hơn con số 16,8 triệu bao của năm 1991/1992. Mặt khác, nhóm Robusta đã có sự tăng trưởng đột biến trong 5 năm qua cả về sản lượng và xuất khẩu. Năm 1995/1996, Robusta chiếm 31%, đến năm 2000/2001 nó đã lên đến 38% sản lượng xuất khẩu được. Mức tăng này có đóng góp đáng kể sản lượng của Việt Nam, ngoài ra sự tăng trưởng ở Braxin và Ấn Độ cũng đóng vai trò quan trọng. Ta có thể thấy rõ điều dó qua bảng sau: Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê thế giới theo loại Đơn vị: 1000 bao Niên vụ 1996/97 1997/98 1998199 1999/00 2000/01 2002/03 Arabica 52.643 49.090 55.070 54.362 53.451 58,000 Robustas 24.846 25.205 24.933 29.887 30.739 29.890 Cà phê rang xay 52 72 157 102 54 Cà phê hoà tan, 4.535 4.192 3.685 4.229 5.005 Tỷ trọng (%) Arabica 64,14 B2,49 55,68 61,37 59,89 Robusta 30,,27 32,08 29,73 33,74 34,44 Cà phê rang xay 0,06 0,09 0,19 0,12 0,06 Cà phê hoà tan 5,53 5,34 4,40 4,77 5,61 Nguồn: ICO và USDA. Coffee – An Export’s guide. International Trade Centre, Geneva, 2002. Kể từ tháng 7/02 đến tháng 6/03, nhờ sự tăng lên về khối lượng xuất khẩu Arabica 6,52% nên tổng khối lượng xuất khẩu của cả niên vụ đã tăng lên mặc dù xuất khẩu robusta giảm 1,62%. Theo báo cáo của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO), niên vụ 2002/03, xuất khẩu cà phê của toàn thế giới sẽ tăng từ 85,45 triệu bao niên vụ 2001/02 lên 87,98 triệu bao nhưng kim ngạch xuất khẩu của năm 2002 chưa bằng một nửa so với tổng kim ngạch năm 1998. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng tuy sản lượng trong những năm gần đây có thể tăng những không phải giá trị xuất khẩu cũng tăng theo đó bởi vì ngành cà phê là ngành kinh doanh đầy rủi ro với sự biến động mạnh mẽ của giá cả. Mà giá cả lại được điều tiết theo sự thay đổi của cung cầu cà phê đã được ICO thả nổi. Ta hãy xem xét và so sánh giữa kim ngạch và số lượng xuất khẩu trong thời gian qua. Bảng 8: Lượng và trị giá xuất khẩu cà phê Đơn vị: triệu bao, tỷ USD 1998 1999 2000 2001 2002 Côlômbia dịu Lượng 12,56 11,49 11,16 11,70 11,37 Trị giá 2,35 1,67 1,42 1,02 0,98 Cà phê dịu khác Lượng 21,94 24,57 27,06 22,92 20,98 Trị giá 3,74 3,17 3,20 1,83 1,69 Arabica Braxin Lượng 18,29 21,67 27,06 22,92 20,98 Trị giá 2,75 2,42 1,88 1,42 1,32 Robusta Lượng 27,13 27,73 32,62 33,44 30,22 Trị giá 2,59 2,20 1,68 1,12 1,10 Tổng cộng Lượng 79,92 85,46 89,16 90,15 87,09 Trị giá 11,43 9,47 8,17 5,39 5,09 Nguồn: Coffee Market Report, tháng 7/2003. ICO. Những năm 1990-1993 mặc dù sản lượng xuất khẩu tăng nhưng giá trị đạt thấp 5,3-6,9 tỷ USD. Đây là thời kỳ khủng hoảng về giá cà phê thế giới. Giá thấp nhất vào năm 1992-1993 chỉ còn 1.130-1.266 USD/tấn) đã tác động rất lớn đến sản xuất cà phê trên thế giới cũng như sản xuất cà phê ở Việt Nam. Năm 1995 lượng cà phê xuất khẩu thấp 67,6 triệu bao, nhưng kim ngạch đạt trên 11 tỷ USD, nên chỉ số giá 2.620 USD/tấn. Đến năm 2001, đây là thời kỳ giá xuống thấp nhất trong gần 100 năm qua vì thế tuy sản lượng xuất khẩu của một số quốc gia có tăng mạnh nhưng kim ngạch xuất khẩu lại giảm đi. Theo Giám đốc điều hành ICO, sự thiếu vắng một chính sách chung trong quản lý xuất khẩu và ngăn chặn sự sụt giá trong năm qua là nguyên nhân chính dẫn tới sự suy giảm về kim ngạch. Từ đó đến nay, tình hình giá cả có chiều hướng được cải thiện nên hy vọng thời gian tới giá trị xuất khẩu cà phê sẽ tăng lên. Dẫu sao, ở nhiều nước đang phát triển, cà phê là một ngành sản xuất rất quan trọng, giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê ở một số nước chiếm 1 tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước đó. Sản xuất cà phê có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển nông thôn, cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của các nước trồng cà phê cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của ngành cà phê, khả năng đầu tư cho công nghệ chế biến cũng như tập quán kinh doanh. Nếu như Braxin, Côlômbia, Côtđivoa, Ấn Độ và Inđônêxia đã có công nghiệp sản xuất cà phê hoà tan khá phát triển thì ở hầu hết các nước xuất khẩu cà phê còn lại, cà phê chủ yếu vẫn được xuất khẩu dưới dạng cà phê rang xay và nhiều nước hầu như chỉ xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân thô. Các nước xuất khẩu cà phê hoà tan chủ yếu là Braxin, chiếm hai phần ba lượng cà phê xuất khẩu thế giới, tiếp đó là Côlômbia, Ecuador, Ấn Độ và Bờ Biển Ngà. Côlômbia là nước sản xuất và xuất khẩu nhiều cà phê rang xay nhất, chiếm 50% tổng lượng cà phê rang xay toàn cầu, tiếp theo là Ecuador, Braxin, Peru, Costa Rica và Venezuela. Lượng cà phê tái xuất đạt khoảng 10 triệu bao mỗi năm, chủ yếu là giao dịch giữa các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu. Nguyên nhân buộc các nước trồng cà phê xuất khẩu cà phê chủ yếu ở dạng cà phê nhân là do không thể cạnh tranh với ngành công nghiệp chế biến cà phê ở các nước tiêu thụ. Họ thiếu những công nghệ hiện đại và một chiến lược tiếp thị hiệu quả cho phép sản xuất các loại sản phẩm đặc biệt phù hợp với từng thị trường tiêu thụ. Trong thập niên 90, sản xuất cà phê sạch trở thành một xu hướng mới, phát triển mạnh trong ngành sản xuất cà phê. Sản lượng các loại cà phê đặc biệt như cà phê hữu cơ (organic coffee) và cà phê trồng trong bóng râm (shade coffee) tăng nhanh trong những năm qua, đặc biệt là ở khu vực Nam Mỹ. Các loại cà phê này chủ yếu được phân phối qua các kênh tiêu thụ dược phẩm và thức ăn kiêng, lượng tiêu thụ qua kênh phân phối cà phê nhânng thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Trong niên vụ 1999/2000, xuất khẩu cà phê sạch đạt khoảng 40 triệu pount, trong đó khoảng 18 triệu pound có giấy chứng nhận cà phê sạch của các tổ chức quốc tế. Sản lượng cà phê trồng trong bóng râm với hương vị đặc trưng đạt 6,6 triệu pound trong vụ 2000/2001, được trồng tại Guatemala và El Sanvado, chủ yếu được dùng để xuất khẩu sang Bắc Mỹ, Nhật Bản và EU. Cơ cấu xuất khẩu cà phê thành phẩm cũng đã có những thay đổi đáng kể. Trước đây, các nước trồng cà phê chủ yếu chỉ xuất khẩu cà phê nhân, cà phê rang xay và cà phê hoà tan chủ yếu do các nước phát triển nhập khẩu cà phê nhân để chế biến và xuất khẩu. Nước xuất khẩu cà phê rang xay và hoà tan lớn nhất không phải là Braxin, Colômbia, Inđônêxia hay Việt Nam - những nước trồng cà phê lớn nhất thế giới - mà là Đức và các nước EU khác. Tuy nhiên, từ giữa những năm 90, các nước trồng cà phê, đặc biệt là các nước trong khu vực Mỹ Latinh, đã tăng cường đầu tư cho công nghệ chế biến cà phê rang xay và cà phê hoà tan nhằm làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu, cứu vãn ngành cà phê trong điều kiện khó khăn của thị trường cà phê thế giới. Các nước trồng cà phê Arabica cũng thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng phát triển công nghệ cà phê rửa sơ (cà phê nhân được xát vỏ và rửa trước khi phơi sấy) để tạo ra loại cà phê có hương vị tương tự như cà phê dịu Côlômbia, nhằm giảm vai trò độc tôn của Côlômbia trên thị trường cà phê dịu quốc tế. 2. Tình hình nhập khẩu cà phê thế giới Nhu cầu nhập khẩu cà phê thế giới từ năm 1980 đến những năm gần đây, tăng bình quân 1,4%/năm. Những năm đầu thập kỷ 90, nhập khẩu cà phê thế giới biến động không ngừng, trung bình từ 1990-1994 giữ mức khoảng 90 triệu bao/năm. Nhưng từ năm 1995 có xu hướng giảm sút một phần là do dự trữ của các nước nhập khẩu ở những năm trước vẫn còn, phần khác là do sự thay đổi về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm cà phê đã chế biến trên thế giới. Bảng 9: Tình hình nhập khẩu cà phê tại một số khu vực/nước Đơn vị: 1000 bao Các nước nhập khẩu/khu vực 1996/97 1997/98 1998/99 1999/00 2000/01 Thế giới 76.606 76.219 78.949 77.177 78.936 Bắc Mỹ(Trong đó) 20.128 20.449 21.365 20.988 21.600 Mỹ 17.847 18.194 19.057 18.681 19.164 Tây Âu(Trong đó:) 36.382 35.125 36.652 34.709 34.924 Pháp 5.623 5.317 5.311 5.316 5.469 Đức 9.773 8.990 10.508 9.456 9.675 Italy 4.857 4.843 4.977 5.122 5.346 Đông Âu 6.461 7.457 7.057 7.076 7.600 Châu á và Thái Bình Dương(trong đó) 9.951 9.592 10.292 10.757 10.985 Nhật 6.369 5.900 6.261 6.733 6.743 Các nước khác 3.684 3.596 3.583 3.647 3.827 Nguồn: Tổ chức Cà phê Thế giới Nếu như 90% sản lượng cà phê sản xuất ra trên thế giới là ở các nước đang phát triển thì 75% sản lượng cà phê nhập khẩu thuộc về các nước công nghiệp phát triển.Có thể kể tên ra đây một số nước nhập khẩu cà phê hàng đầu thế giới:Mỹ, Phần Lan, Đức, Pháp Italia, Thuỵ Điển, Nhật Bản… Bên cạnh các nước phát triển, các nước đang phát triển tuy chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong tổng lượng cà phê nhập khẩu nhưng cùng với việc nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, con số này cũng ngày càng được tăng, nếu trong những năm 80, nhập khẩu của những nước đang phát triển chỉ tăng khoảng 3,5%/năm, thì sang đầu những năm 90 mức tăng này là 4,1%/năm. Ngay cả những nước sản xuất cà phê lớn cũng có nhu cầu nhập khẩu cà phê, tuy nhiên là cà phê đã qua chế biến. *Nhập khẩu cà phê phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu sau: + Giá cả và thu nhập: Các thị trường nhập khẩu có phản ứng rất khác nhau đối với biến động giá cả. Tuy nhiên, nhìn chung, giá cà phê nhân có ảnh hưởng khá rõ rệt đối với lượng nhập khẩu trong khi giá cà phê chế biến ít biến động hơn và cũng ít ảnh hưởng hơn đến động thái nhập khẩu. Thu nhập là yếu tố quan trọng đến nhập khẩu cà phê, nhất là đối với các loại sản phẩm cà phê cao cấp. Tại các nước có thu nhập cao và có truyền thống tiêu thụ cà phê như các nước Scanđinavia hay Hà Lan, mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người cũng như tỷ trọng tiêu thụ các loại cà phê ít biến động trong những năm qua trong khi đối với các nước có thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu có quan hệ trực tiếp đối với tốc độ tăng thu nhập dân cư. + Thị hiếu tiêu dùng và xu hướng cạnh tranh từ các loại đồ uống khác: Mặc dù khó định lượng, sức ép cạnh tranh từ các loại đồ uống khác là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiêu thụ và nhập khẩu cà phê. Ngoài các yếu tố về giá cả, những mối quan tâm về sức khoẻ cũng là yếu tố có tác động tới mức tiêu thụ và cơ cấu tiêu thụ cà phê cũng như quyết định lựa chọn loại đồ uống của người tiêu dùng. Tại nhiều thị trường, trong đó có Mỹ, sự phát triển của những loại đồ uống không cồn khác như trà thảo dược, nước trái cây và nước khoáng cùng với những chương trình quảng cáo về tác dụng của những loại đồ uống này tới sức khoẻ, đã ảnh hưởng lớn đến mức tiêu thụ cà phê. Vì vậy, những chương trình của ICO nhằm khuyến khích tiêu thụ cà phê như giới thiệu các loại cà phê tách cafein hay giới thiệu các tác động tích cực cà phê đối với sức khoẻ như giảm stress, kháng khuẩn và các tác động trong điều trị các bệnh viêm họng, sởi...có khả năng tác động tốt tới xu hướng tiêu thụ cà phê trên thị trường. Sự khác biệt về thị hiếu tiêu dùng cà phê và những xu hướng thay đổi thị hiếu tiêu dùng trên mỗi thị trường cũng tạo ra nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu trong chiến lược phát triển sản phẩm xuất khẩu nhằm vào các thị trường mục tiêu. Trong những năm gần đây, thị phần của cà phê dịu đã giảm đi trên thị trường Mỹ, nhường chỗ cho các loại cà phê có độ axit thấp như cà phê Arabica Braxin và cà phê Robusta. Xu hướng tiêu thụ trên thị trường Mỹ thường ảnh hưởng tới thị hiếu của nhiều nước châu Á - TBD như Australia, Hồng Công hay Singapo. Trong khi đó, thị trường Nhật Bản lại ưa chuộng các loại cà phê đặc biệt với chất lượng cao và mang những thương hiệu “huyền bí” như Blue Mountain hay Hawaiina Kona...Nhu cầu về các sản phẩm sạch (cà phê hữu cơ) cũng tăng nhanh trên thị trường nhiều nước phát triển trong khi mức giá cao của các sản phẩm này vẫn là trở ngại cho việc tăng tiêu thụ tại nhiều nước đang phát triển. Các nước phát triển chiếm tới 680 ngàn bao trong tổng số 700 ngàn bao cà phê hữu cơ ước tính tiêu thụ trong niên vụ 2002/03. + Chính sách thuế: Chính sách thuế cũng như các rào cản hành chính về nhập khẩu và tiêu thụ cà phê của các nước có ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiêu thụ và lượng cà phê nhập khẩu. Mặc dù những thoả thuận về cắt giảm thuế nhập khẩu cà phê trong khuôn khổ GATT và WTO đã giảm nhẹ đáng kể những rào cản này nhưng việc cắt giảm thuế nhập khẩu chủ yếu được áp dụng đối với cà phê nhân. Một số nước vẫn áp dụng mức thuế khá cao với cà phê chế biến và tạo ra những rào cản đáng kể đối với xuất khẩu cà phê chế biến. Những chính sách ưu đãi theo những thoả thuận song phương và đa phương với những khu vực nhất định cũng tạo ra sức ép cạnh tranh không công bằng đối với những nước xuất khẩu không thuộc phạm vi điều chỉnh của những thoả thuận này.. Bên cạnh đó, nhiều nước vẫn áp đặt các rào cản phi thuế quan đối với nhập khẩu cà phê như hạn ngạch nhập khẩu, đánh thuế tiêu thụ cao nhằm hạn chế tiêu dùng cà phê hay áp dụng các tiêu chuẩn, quy định rất khác nhau giữa các nước về nhãn sản phẩm hữu cơ và tiêu chuẩn môi trường... Cà phê được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng chưa chế biến. Trong năm 2001, cà phê nhân thô chiếm tỷ trọng 82,7% tổng lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu trong khi cà phê rang và cà phê hoà tan chiếm tỷ trọng tương ứng 6,6% và 10,7%. Tuy nhiên, nhập khẩu cà phê chế biến có xu hướng tăng nhanh hơn trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 1995 – 2001, nhập khẩu cà phê chưa chế biến chỉ tăng bình quân 1,5%/năm trong khi nhập khẩu cà phê rang và cà phê hoà tan đạt tốc độ tăng bình quân 7%/năm và 8%/năm. Bảng 10: Nhập khẩu cà phê toàn cầu 1995- 2001 Đơn vị: (triệu bao) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng nhập khẩu 83,3 90,1 94,5 95,6 99,4 101,1 101,2 - Cà phê nhân 71,5 78,0 80,1 81,2 83,5 83,9 83,7 - Cà phê rang 4,6 4,9 5,2 5,6 6,4 6,8 6,7 - Cà phê hoà tan 7,2 7,2 9,2 9,8 9,5 10,4 10,8 Tái xuất 14,6 15,8 18,1 19,6 19,7 21,4 21,1 - Cà phê nhân 7,2 6,7 8,2 9,7 8,8 9,0 8,6 - Cà phê rang 4,1 4,9 5,2 5,1 5,6 5,8 5,7 - Cà phê hoà tan 3,3 4,2 4,7 4,8 5,3 6,6 6,8 Nhập khẩu ròng 68,7 75,3 76,4 76,0 79,7 79,7 80,1 - Cà phê nhân 64,3 71,3 71,9 71,5 74,7 74,9 75,1 - Cà phê rang 0,5 0,0 0,0 0,5 0,8 1,0 1,0 - Cà phê hoà tan 3,9 3,0 4,5 5,0 4,2 3,8 4,0 Nguồn: ICO và USDA. Coffee – An Export’s guide. International Trade Centre, Geneva, 2002. Nếu như 90% sản lượng cà phê sản xuất ra trên thế giới là ở các nước đang phát triển thì 75% sản lượng cà phê nhập khẩu thuộc về các nước công nghiệp phát triển.Có thể kể tên ra đây một số nước nhập khẩu cà phê hàng đầu thế giới:Mỹ, Phần Lan, Đức, Pháp Italia, Thuỵ Điển, Nhật Bản… Các nước nhập khẩu chủ yếu chiếm trên 90% tổng lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu, trong đó, Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm tới 29% tổng lượng cà phê nhập khẩu. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trọng khoảng 18% tổng lượng nhập khẩu. Nhập khẩu cà phê của Nhật Bản tăng nhanh, đưa Nhật Bản trở thành nước đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu cà phê trong những năm qua với tỷ trọng khoảng 9% tổng lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu (Nhập khẩu cà phê của các nước nhập khẩu chủ yếu tham khảo tại phụ lục 3). Các nước nhập khẩu tiêu thụ khoảng 75% tổng lượng cà phê rang xay toàn cầu, trong đó 88% được rang xay trong nước. Buôn bán nội EU chiếm khoảng 60% tổng giao dịch cà phê rang xay, khoảng 12% cà phê rang xay được nhập khẩu từ các nước trồng cà phê và 28% giao dịch còn lại thuộc về các nước khác, chủ yếu là Mỹ. Nhập khẩu cà phê hoà tan cũng chiếm một tỷ trọng không lớn trong tổng lượng nhập khẩu ròng do cà phê hoà tan thường được chế biến ngay tại nước tiêu thụ. Trong những năm gần đây, nhập khẩu cà phê hoà tan tăng rất chậm ở các nước tiêu thụ lớn như Mỹ và EU. Mức tăng nhập khẩu cà phê hoà tan toàn cầu chủ yếu do xu hướng tăng nhập khẩu và tiêu thụ của các nước Đông Âu, đặc biệt là Nga và các nước Viễn Đông với sự phát triển của các loại cà phê chế biến sẵn “3 trong 1”. Mỹ chủ yếu nhập khẩu cà phê từ các nước Mỹ Latinh - Braxin, Côlômbia và Mêhicô. Cà phê đã qua chế biến chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng cà phê nhập khẩu của Mỹ. Trong khi đó, EU, trong đó có Đức, nhập khẩu nhiều cà phê nhân từ các nước ACPC (Châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương), để rang xay và chế biến cho nhu cầu tiêu thụ nội địa cũng như tái xuất. Nhật Bản nhập khẩu cà phê chủ yếu từ Braxin, Côlômbia và Inđônê xia. Cà phê nhân cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lượng cà phê nhập khẩu của Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản còn nhập khẩu một lượng khá lớn cà phê chiết xuất dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất đồ uống và công nghiệp chế biến thực phẩm. Phương thức nhập khẩu của Mỹ, EU và Nhật Bản có rất nhiều điểm tương đồng. Cà phê chủ yếu được nhập khẩu từ các nước xuất khẩu qua các thương gia quốc tế. Nhiều nhà rang xay lớn của Tây Âu có các trung tâm mua gom riêng, quan hệ trực tiếp với nước xuất khẩu. Tuy nhiên, hầu hết các nhà rang xay vẫn mua cà phê qua các trung tâm giao dịch quốc tế hoặc các nhà nhập khẩu trung gian. Tại nước nhập khẩu, cà phê nhân được các thương gia nhập khẩu và phân phối cho các nhà chế biến, nhà kinh doanh và các nhà sản xuất thực phẩm công nghệ. Cà phê rang xay dùng cho hộ gia đình thường được phân phối qua hệ thống bán buôn, từ các nhà rang xay tới các nhà bán buôn hàng thực phẩm chế biến và sau đó đưa vào hệ thống bán lẻ - cửa hàng, cửa hiệu, quán cà phê…Các nhà kinh doanh cà phê hoà tan chủ yếu là nhập khẩu cà phê bột với khối lượng lớn và đóng gói tại nước nhập khẩu hoặc nhập khẩu cà phê hoà tan đã đóng gói sẵn. Cà phê hoà tan dùng cho hộ gia đình thường được kinh doanh qua các đại lý tới các nhà bán buôn cấp 2, sau đó đưa vào mạng lưới bán lẻ . Diễn biến giá cả Có lẽ ít có loại hàng hoá nào lại có diễn biến giá cả phức tạp như cà phê. Người tiêu dùng cà phê đều biết đến sự thăng trầm của giá cà phê trên thị trường. Những nhân tố cơ bản cho việc định giá cà phê nhân trên thế giới là quan hệ cung - cầu trên thị trường, mức độ cũng như cách xử lý đối với cà phê trong kho tại nước sản xuất và tiêu thụ. Thêm vào đó còn có những ảnh hưởng như biến động năng suất mang tính chu kỳ của cà phê, hoạt động đầu cơ trên thị trường cà phê định hạn, biến động về giá thành sản phẩm trong sản xuất cũng như tiêu thụ, các yếu tố về mùa vụ đối với việc tiêu dùng cà phê. Ngoài ra, sự hình thành giá cà phê còn phụ thuộc vào sự phân bố thời vụ thu hoạch tại các nước sản xuất, vào những đổi mới công nghệ, kỹ thuật trong canh tác, thu hoạch và chế biến, vào sự khác nhau về chất lượng giữa các loại cà phê cũng như các biện pháp can thiệp của các tổ chức cà phê quốc tế như ICO hay ACPC. Theo các nhà phân tích giá cà phê biến động theo chu kỳ từ 4-5 năm.Ta hãy theo dõi tình hình biến động của giá cả cà phê thế giới. Giá cà phê tương đối ổn định cho tới năm 1989, tuy cũng có những đỉnh cao vào năm 1976-1977 và năm 1985-1986, chủ yếu do sương giá ở Braxin.Sau năm 1989, thị trường cà phê khồn còn sự điều tiết mà vận động theo quy luật cung cầu. Ngay lập tức, các nước tung ra thị trường lượng cà phê dự trữ trong kho của họ mấy năm trước, vì thế giá cà phê tụt xưống mức lịch sử dưới nửa đô la/kg, mức giá của những năm 1930. Giá cà phê chỉ được phục hồi sau khi các nước trong tổ chức ACPC quyết định hạn chế xuất khẩu. Biến động giá cả trên thị trường cà phê thế giới trong thập niên 90 có thể chia làm hai thời kỳ chủ yếu, trước 1995/1996 và sau 1995/1996. Trước niên vụ 1995/1996, sản xuất tăng chậm hơn nhu cầu tiêu thụ với tốc độ tăng sản xuất đạt 0.3%/năm và tốc độ tăng tiêu thụ 1,5%/năm. Dự trữ giảm và cán cân cung cầu nghiêng về phía nhu cầu đã đẩy giá cà phê tăng lên 133% trong giai đoạn 1992/1992 - 1995/1996 từ 83 cent/lb lên 95 cent/lb. Sự tăng giá cà phê đã khuyến khích tăng sản xuất ở các nước sản xuất trên thế giới vì vậy, trong giai đoạn 1995/1996 - 1999/2000 sản xuất tăng nhanh hơn tiêu dùng với tốc độ tăng sản lượng là 2,7%/năm và tốc độ tăng tiêu thụ là 1,6%/năm, đẩy giá cà phê hạ xuống nhanh chóng. Từ sau mức giá cao kỷ lục của năm 1996/97, giá cà phê các loại trên thị trường thế giới luôn ở xu hướng giảm, tuy có biến động trong những thời điểm nhất định do tác động chủ yếu của các yếu tố sau: Tháng 1-6/1997: Dự trữ của các nước nhập khẩu quá ít dẫn đến giá tăng mạnh; Tháng 6/1997-7/1998: Giá giảm do cuộc khủng hoảng tài chính châu á dẫn tới việc bán ồ ạt từ các nước sản xuất cà phê Robusta; Tháng 11/1998: Giá tăng do trận bão Mitch ở Trung Mỹ và dự trữ cà phê Robusta không đủ ở các nước nhập khẩu; Tháng10-2/99: Thời tiết khô ở Brazil và sản lượng không ổn định ở Brazil làm giá cà phê tăng lên; Tháng 1/2001 tới nay: Giá giảm do lượng cung cà phê thế giới tăng Tuy vậy giá cà phê là khác nhau giữa các loại cà phê và ngay cùng một loại cũng còn tuỳ thuộc vào chất lượng. Giá cà phê chè bao giờ cũng cao hơn giá cà phê vối khoảng 30%, và xu hướng này ngày càng rõ ràng khi cầu về cà phê chè luôn tăng nhanh hơn, ở mức cao hơn cầu về cà phê vối trong khi cung về cà phê vối trong mấy năm trở lại đây lại tăng nhanh hơn cà phê chè. Giá cà phê Robusta đã giảm xuống chỉ bằng khoảng 50% giá cà phê Arabica như trong năm 2001. NgoàI ra có khi cùng một loạI cà phê chè thì giá cũng chia thành nhiều bậc, căn cứ vào phẩm chất, cách chế biến. Hiện nay đang tồn tại tình trạng giá bán của người nông dân thì thấp mà giá mua vào của người tiêu dùng vẫn cao, không hề giảm trước sự tụt giá của thị trưòng cà phê??? Như vậy có thể thấy, chất lượng càng thấp thì nguy cơ tụt giá càng cao. Cà phê thô là loại hàng tụt giá mạnh nhất. Không những thế, giá cả cũng biến động liên tục ngay trong năm, tuỳ từng thời điểm đầu vụ, cuối vụ mà giá cà phê tăng giảm nhiều khi ở biên độ lớn. Ví dụ: trong năm 1997, biến động giá chia làm hai thời kỳ: Nửa đầu năm, giá cà phê tăng cao từ 100 xu Mỹ/pound đầu năm lên 311 xu Mỹ/pound giữa năm. Trong thời gian này, giá cà phê Arabica tăng mạnh, đã có thời đIúm tăng gấp đôI giá cà phê Robusta. Giá cà phê Robusta chỉ tăng nhẹ. Nửa cuối năm 1997, giá lạI xuống rõ rệt( xuống 150 xu Mỹ/pound). Giá tham khảo cà phê các loại theo tháng và bình quân các năm 1997 - 2003 được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 11: Chỉ số giá cà phê tham khảo của ICO Giá tk của ICO Côlômbia dịu Cà phê dịu khác Arabica Braxin Rôbusta London NewYork Thg7/97 135,04 190,57 190,41 158,52 79,65 156,27 75,90 Thg7/98 97,32 125,03 117,60 96,22 77,04 111,16 70,96 Thg7/99 78,21 107,05 94,85 78,13 61,56 96,74 59,37 Thg7/00 64,09 101,67 87,35 79,89 40,82 96,48 39,87 Thg7/01 43,07 69,70 58,72 46,43 27,43 57,43 24,28 Thg7/02 44,70 60,60 56,48 43,31 28,60 5._. nhân Việt Nam sử dụng Form D còn quá ít; mới chỉ có một số lượng không đáng kể các thương nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thương nhân Việt Nam lâu nay thường quan tâm đến thuế hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam hơn là thuế suất hàng ta nhập vào các nước, do đó nhiều khi không tận dụng hết, thậm chí bỏ qua các cơ hội pháp lý có từ các nước giành cho ta, làm giảm lợi thế vốn có của mình trong giao dịch, đàm phán. Bên cạnh việc tìm hiểu thị trường thì một điều vô cùng quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu là phải hiểu biết thấu đáo đối thủ cạnh tranh để đối sách kinh doanh hợp lý. Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 về chuyển dịch cơ cấu cây trồng giai đoạn 2001 - 2010 đã định hướng chuyển dịch cơ cấu nông sản trong 10 năm tới, yêu cầu các "cây con" nằm trong diện quy hoạch phải triển khai dần (trong đó có cây cà phê). Tuy nhiên, do tính chất sản phẩm nông nghiệp đòi hỏi phải có thời gian đầu tư nhất định mới phát huy được hiệu quả, nên trong quá trình đó cần có bước đi và cách đi phù hợp để thâm nhập thị trường cho từng giai đoạn. Trong quá trình cạnh tranh trên thương trường cần tránh "chạy đuổi" một cách rập khuôn theo đối thủ, vừa lãng phí thời gian công sức, vừa mệt mỏi mà vẫn khó đạt được hiệu quả. Đối với mặt hàng cà phê không thể không kể đến Braxin, Columbia. Cần lưu ý là, nghiên cứu đối thủ của ta về xuất khẩu cà phê nên chú trọng trước hết đến các đối thủ trên những thị trường mà họ đã xuất khẩu đáng kể. Chẳng hạn nghiên cứu các nhà xuất khẩu cà phê của Braxin nên chú trọng nghiên cứu cách kinh doanh của họ tại thị trường Đức, vì Braxin là nhà cung cấp cà phê đứng đầu của Đức (trước đây các nguồn cà phê truyền thống của Đức là Trung Mỹ, nhưng sau vì giá đắt nên Đức đã quay lưng lại để sử dụng cà phê hạt giá rẻ của Braxin). 9. Tổ chức lại hệ thống vận tải đảm bảo chất lượng cho cà phê xuất khẩu Trong quá trình sản xuất va lưu thông tiêu thụ đạ biệt là xuất khẩu, vận tải là khâu quan trọng vì chính khâu này hay gây nên hư hỏng, giảm số lượng và chất lượng hàng hóa nhất. Tình trạng thừa thiếu giả cà phê ở Việt Nam là thừờng xuyên, nhiều năm miền Trung và miền Nam thừa cà phê không xuất được trong khi miền Bắc vẫ kkhông đủ cung cấp cho nội địa, nguyên nhân chính là không đủ phương tiện vận tải. Nhiều lô hàng cà phê khi ra đến cảng xuất khẩu kiểm tra thấy thiếu số lượng hoặc do phương tiện vận tải không đảm bảo gây nên tình trạng chất lượng giảm sút. Cần phải tổ chức lại hệ thống vận tải, kể cả đào tạo về kiến thức về thương phẩm cho lái xe và người giao nhận. Khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng nhà kho bến bãi cầu đường và các thiết bị phương tiện vận tải cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chât lượng cà phê xuất khẩu. Trang bị các phương tiện vận tải có đủ khả năng vận chuyển và đảm bảo chất lượng hàng hóa khi vận chuyển là nhu cầu cấp thiết không chỉ trong xuất khẩu cà phê mà còn trong quá trình xuất khẩu bất cứ loại hàng hóa nào khác. 10.Các biện pháp về chính sách Để thực hiện tốt các giải pháp về thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cà phê, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp, ngành cà phê và Nhà nước. Tuy nhiên Nhà nước có vai tròn to lớn trong việc định hướng, hỗ trợ vốn và đặc biệt là ban hành các chính sách có liên quan nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của ngành cà phê nói chung và của các doanh nghiệp *Chính sách thuế nông nghiệp - Nên thu thuế theo hạng đất và theo sự biến động của giá cả thị trường với mục đích điều tiết để xây dựng giá bảo hiểm cho sản xuất khi giá cà phê thế giới giảm xuống thấp. Vừa qua hàng vạn ha cà phê bị chặt, nguyên nhân cơ bản là do sự quản lý vĩ mô yếu kém, không có hệ thống giá bảo hiểm (trên cơ sở nguồn lợi của ngành để ổn định ngành). - Đối với vùng đất trống, đồi trọc được đưa vào sản xuất nông nghiệp nên có thời gian miễn giảm thuế dài hơn để khuyến khích người sản xuất mở rộng diện tích trên đất này, nhằm nâng cao sản lượng và chất lương cà phê xuất khẩu. Cụ thể là: sau 3 năm đến 5 năm kể từ khi vườn cây đưa vào khai thác thì mới được thu thuế. 3.2 Chính sách hỗ trợ về mặt tài chính Cà phê là cây lâu niên (20-25 năm), (20-25 năm), để tránh tình trạng rủi Robusta tín dụng cần được cho vay trung hạn và dài hạn (10-15 năm) với lãi suất ưu đãi không quá 5%/năm, góp phần giảm sức giá thành tăng sức cạnh tranh * Chính sách cho vay : Do cây Ca fe là cây công nghiệp thu hoạch chỉ tập chung vào tháng 10 - 11, do đó nhu cầu về vốn vay để tạp chung đầu vào cho xuất khẩu thời kỳ này rất lớn và khả năng vốn tự có của các doanh nghiệp là rất hạn chế nếu mà nhà nước không thay đổi việc xem xét các điều kiện cho vay thủ tục vay, lãi xuất thì dẫn đến tình trạng các công ty sẽ mất cơ hội trong kinh doanh. Nhà nước cũng thất thu hàng triệu USD cho giá cà fê rất biến động nếu không có đủ vốn hoặc lãi xuất ngân hàng lớn thì các công ty xuất khẩu sẽ bằng mọi cách giải phóng vốn nhanh và khi giá lên thì hết hàng bán. * Chính sách tín dụng xuất khẩu : Trong hoạt kinh doanh xuất khẩu nông sản nói chung và cà fê nói riêng, có rất nhiều trường hợp để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài . Các đơn vị kinh doanh phải bán chịu, trả chậm hoặc tín dụng ưu đãi đối với khách hàng. Trong trường hợp này nhà nước nên đứng ra bảo hiểm xuất khẩu đền bù và khuyến khích các đơn đẩy mạnh xuất khẩu. Thông thường tỷ lệ đền bù là 60 - 70% nhưng có trường hợp là 100%. Như vậy các nhà sản xuất sẽ phải quan tâm đến việc thu tiền bán hàng trước khi hết hạn tín dụng. Khi nhà nước đứng ra đảm bảo tín dụng xuất khẩu sẽ giúp cho nhà xuất khẩu yên tâm hơn trong kinh doanh đồng thời còn nâng được hàng bán chịu gồm cả giá bán tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của nhiều nước nhằm chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu và mở rộng thi trường. Cần áp dụng biện pháp cấp tín dụng cho người sản xuất cà fê xuất khẩu vì trước và sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu rất cần vốn để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Loại tín dụng này rất cần cho người sản xuất để đảm bảo thanh toán hết các khoản chi phí trong việc thu mua ( Bán nông sản cà fê xuất khẩu, đóng gói vận chuyển hàng ra sân bay, bến cảng...) lãi suất tín dụng xuất khẩu là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu nói chung và của cà fê xuất khẩu nói riêng. Vì vậy nhà nước nên áp dụng tín dụng theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thương mại để nguồn hàng cà fê xuất khẩu có thể bán với giá thấp hơn, góp phần tăng sức cạnh tranh của cà fê Việt Nam trên thị trường thế giới. * Chính sách trợ cấp xuất khẩu : Ngoài biện pháp tín dụng xuất khẩu nhà nước cần áp dụng chính sách trợ cấp xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu là một hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách dành ưu đãi về mặt tài chính cho nhà xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp khi họ đã bán được hàng ra nước ngoài. Có thể trợ cấp bằng thuế suất ưu đãi, hoặc áp dụng giá ưu đãi tính cho các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như điện nước, vận chuyển... Mục đích trợ cấp là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế từ đó có phương hướng gia tăng lượng cà fê xuất khẩu trong tương lai theo quyết định số 151/TTG ngày 12/4/1993 nhà nước thành lập “ Quỹ bình ổn giá “ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp được chỉ định điều hoà cung cầu, giá cả chủ động can thiệp vào thị trường. Nhà nước nên tập chung hỗ trợ lãi xuất vay Ngân hàng cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu để có thể thu mua nhanh nông sản hàng hoá lúc đương vụ trong tâm lý “ có cần “ đồng thời tránh giá xuống thấp gây thiệt hại cho người sản xuất. Mặt khác, Nhà nước cũng nên tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách tổ chức các hội chợ triển lãm, đào tạo chuyên môn kỹ thuật hay quản lý…. Thời gian tới nên áp dụng mức giá sàn để tránh tình trạng ép giá, có những biện pháp khen thưởng khuyến khích các doanh gnhiệp xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến sâu như cà phê hoà tan, cà phê rang xay… Những biện pháp này là rất cần thiết vì nó đảm bảo lợi ích cho người sản xuất và nhà xuất khẩu , đồng thời có tác dụng khuyến khích phát triển kinh doanh. Vì vậy nhà nước nên tiếp tục thực hiện biện pháp trợ giá xuất khẩu đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu nói chung và Càfe xuất khẩu nói riêng để tăng cường xuất khẩu có hiệu quả. *Chính sách trợ giá xuất khẩu Biện pháp trợ giá xuất khẩu đã được sử dụng ở nhiều nước như EU và Mỹ và có vai trò mạnh mẽ trong việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản. Ơr Việt Nam, một vài năm gần đây đã áp dụng biện pháp này đối với giá lương thực, giúp sản xuất lương thực không ngừng phát triển.Nên áp dụng biện pháp này trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, vì cà phê là sản phẩm có xu hương biến động giá cả mạnh mẽ. Thị trường cà phê trong thời gian gần đây đang có những diễn biến bất lợi về giá.Tuy nhiên khi áp dụng cũng cần thận trọng và khéo léo tránh tạo ra phản ứng không tốt cho quá trình hội nhập quốc tế. *Chính sách áp dụng tỷ giá linh hoạt Từ khi chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đã điều chỉnh linh hoạt hơn phần nào đã khép dần khoảng cách giữa tỷ giá quy định và tỷ giá trê thị trường tự do. Song cần linh hoạt hơn nữa tuy nhiên không áp dụng đột ngột tạo cú xốc mà cần sát với thị trường, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu mà vẫn bảo đảm ổn định và phát triển. Trên cơ sở đó, chủ động hoàn thiện chế độ tỷ giá hối đoái, áp dụng linh hoạt đối với từng đối tượng xuất khẩu, nhập khẩu và khu vực thị trường đẻ có lợi khi nhập khẩu các nguyên liệu máy móc côngn ghiệp phục vụ sản xuất, chế biến cà phê và khi xuất khẩu cà phê đã chế biến.Điều này có thể thực hiện vì chúng ta có lợi thế khi thời gin thu hoạch và thời gian sản xuất không trùng, thời gian đầu tư xây dựng cơ bản khá dài. * Chính sách đầu tư Như đã nói ở trên, trong thời gian tới 2010, chúng ta cần nhiều nguồn vốn đầu tư để nâng cấp công nghiệp chế biến, thực hiện chủ trương côngnghiệp hoá hiện đại hoá trong ngành cà phê. Để làm được điều này, một nhân tố quan trọng là sự can thiệp của Nhà nước trong việc thực thi các chính sách đầu tư và thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài tới quá trình sản xuất , chế biến xuất khẩu cà phê: - Khuyến khích các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân có vốn đầu tư xây dựng cơ sở chế biến cà phê - Đối với công nghệ chế biến, khuyến khích các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư công nghệ mới. Ưu tiên các cơ sở có hợp đồng bao tiêu - Chính sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công tác khuyến nông, trước mắt tập trung vào lĩnh vực chế biến bảo quản. - Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng các phương thức: Mở rộng quan hệ quốc tế, khuyến khích Việt kiều, các tổ chức quốc tê, các nước nhập khẩu đầu tư * Chính sách đất đai Đây là vấn đề lớn tác động trực tiếp đến thúc đẩy nông nghiệp nói chung và ngành cà phê nói riêng. Trước những yêu cầu của sự phát triển cần xác định và quy hoạch theo các vung sản xuất nguyên liệu xuất khẩu một cách đồng bộ bao gồm : cơ sở hạ tần, giao thôngm điện, thông tin, chế biến… Xử lý tốt quan hệ giữa đát đai và sản xuất cà phê để có những biện pháp xử lý phù hợp. Cà phê là cây tồng lâu năm, do đó tạo đựoc Chính sách đất đai phù hợp là một vấn đề rất quan trọng, tránh tình trạng lãng phí khi nông dân chặt bỏ cây cà phê trông cây khác. * Chính sách khoa học công nghệ và đào tạo cán bộ KHCN tác động trực tiếp tới sản xuất và chất lượng cà phê xuất khẩu.Trong thời gian tới, Chính sách KHCN cần tạo ra bước tiến mới, đáp ứng yêu cầu chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê trên thị trường.: -Tập trung đầu tư nghiên cứu cơ bản và ứng dung, thực hiện các chương trình nghiên cứu cho giống, tạo ra giống năng suất cao, chất lượng tốt, công nghệ chế biến phát triển… Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KHCN vào các lĩnh vực trên Đổi mới công tác quản ký khoa học, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu trong các đề tài nghiên cứu. - Tăng cường kinh phí đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học và những lớp nâng cao nghiệp vụ sản xuất và kinh doanh cho ngành cà phê. KẾT LUẬN Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, là sản phẩm quan trọng thu nhiều ngoại tệ góp phần cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù cây cà phê trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng nó luôn là cây công nghiệp mũi nhọn, chiến lược, gắn liền với cuộc sống và sự đổi đời của hàng vạn người sản xuất, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc ít người. Việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê luôn là mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của chúng ta. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu cà phê trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ đầu tư tăng diện tích và sản lượng cà phê sang đầu tư cho phát triển cà phê chất lượng cao, cà phê chế biến sâu, cà phê sạch...có nhiều tiềm năng xuất khẩu hơn cũng như khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới, đưa ngành cà phê Việt Nam thực sự trở thành một ngành hàng kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Triển vọng thị trường thế giới trung và dài hạn của một số nông lâm sản. Thông tin chuyên đề. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Số 6/2001. 2. Những vấn đề nông nghiệp, nông thôn và việc đảm bảo thông tin công nghệ, các tiến bộ kỹ thuật phuc vụ phát triển. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thông tin chuyên đề, số 3/2002. 3. Khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam trong khối ASEAN. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- FAO TCP/VIE/8821. 4. Chiến lược xuất khẩu cà phê thời kỳ 2001-2010. Hiệp hội Cà phê-Cacao Việt Nam. Tháng 6/2000. 5. Báo cáo tổng kết niên vụ cà phê 2001/02 và phương hướng, nhiệm vụ 2002/03. VICOFA, tháng 1/2003. 6. Báo cáo dự thảo tình hình sản xuất 6 tháng đầu năm 2003 vvà phương hướng nhiêm vụ 6 tháng cuối năm. 7. Cây cà phê Việt Nam- Đoàn Triệu Nhạn, Phan Quốc Sủng, Hoàng Thanh Tiệm 8. Số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tổng cục Hải quan, 2003. 9. Dự báo thị trường một số mặt hàng chủ yếu. Coffee, Commodity projects, FAO, Tháng 12/2001. 10. Thị trường đồ uống và trái cây nhiệt đới. Tropical Beverage and Fruits. FAO, Commodity Notes, 2002. 11. Số liệu thống kê của Tổ chức cà phê quốc tế. ICO, Database, 2002 12. Thị trường các sản phẩm nhiệt đới. Horticultural and Tropical Products. FAS, USDA, Tháng 6/2003. 13 Tổ chức Cà phê thế giới. ICO, Database 2002. 14. ICO. Coffee Market Report, tháng 7/2003 15. Coffee - An Export’s guide. International Trade Centre, Geneva, 2002 16. Dự án thí điêm tái cơ cấu Tổng công ty Vinacafe 17. Kỷ yếu khoa học nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn (1996-2002)- Bộ nông nghiệp vàphát triển nông thôn- Viện kinh tế nông nghiệp- Nhà xuất bản nông nghiệp 2002 18.Báo cáo thường niên của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 19. Niên giám thống kê năm 2002 20. Nông nghiệp nông thôn Việt Nam bước vào thế kỷ XXI- Nhà xuất bản nông nghiệp năm 2001 Các tạp chí: 21. Ngoại thương 22. Kinh tế và dự báo 23. Kinh tế và phát triển 24. Con số và sự kiện 25. Thời báo kinh tế Việt Nam 26. Nghiên cứu Châu Âu số 2/2003 27. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 28. Những vấn đề kinh tế thế giới số 3/2003 Các trang web: www. vitranet.vn www.mpi.vn www. agroviet.gov.vn PHỤ LỤC 1A: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ THẾ GIỚI Nước/ khu vực Niên vụ bắt đầu 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 2002/03 2003/04 Bắc Mỹ Costa Rica Tháng 10 2.459 2.688 2.502 2.338 2.188 2.220 Cu ba Tháng 7 280 328 313 249 250 250 CH Đôminica Tháng 7 422 694 437 432 650 600 En Xanvađo Tháng 10 1.860 2.612 1.624 1.610 1.302 1.300 Guatemala Tháng 10 4.300 4.364 4.564 3.530 3.802 3.802 Haiti Tháng 7 442 402 497 425 425 425 Hônđurat Tháng 10 2.494 3.067 2.821 3.098 2.600 2.800 Jamaica Tháng 10 29 39 37 30 42 40 Mêhicô Tháng 10 5.010 6.193 4.800 4.200 4.350 4.650 Nicaragua Tháng 10 1.079 1.514 1.610 895 830 623 Panama Tháng 10 192 167 170 160 150 150 Trinidat&Tobago Tháng 10 17 16 14 14 15 15 Mỹ Tháng 10 163 185 183 163 169 174 Cộng 18.747 22.269 19.572 17.144 16.773 17.049 Nam Mỹ: Bolivia Tháng 4 150 184 173 124 180 160 Braxin Tháng 7 35.600 30.800 34.100 35.100 51.600 33.600 Côlômbia Tháng 10 10.868 9.512 10.500 11.950 10.900 11.800 Ecuađor Tháng 4 1.322 1.295 1.005 910 780 880 Guyana Tháng 10 10 10 10 10 10 10 Paragoay Tháng 4 34 28 31 31 35 35 Pe ru Tháng 4 1.980 2.571 2.824 2.550 2.750 2.850 Vênêzuela Tháng 10 1.250 880 1.027 1.065 920 897 Cộng 51.214 45.280 49.670 51.740 67.175 50.232 Châu Phi: Angôla Tháng 4 85 55 60 31 125 100 Bêning Tháng 10 0 0 0 0 1 1 Burunđi Tháng 4 356 501 337 257 597 335 Camơrun Tháng 10 1.114 1.370 1.113 1.200 1.100 1.195 Trung Phi Tháng 10 214 241 122 75 117 125 Côngô Tháng 7 3 3 3 3 4 4 Côtđivoa Tháng 10 644 457 433 430 735 700 Ghinê xích đạo Tháng 10 2.217 5.700 4.333 3.033 2.500 2.400 Etiopia Tháng 10 1 0 0 0 2 2 Gabông Tháng 10 3.867 3.833 3.683 3.756 3.000 3.250 Gana Tháng 10 4 2 0 1 2 2 Ghinê Tháng 10 45 44 38 17 45 40 Kênia Tháng 10 140 112 114 101 125 125 Liberia Tháng 10 1.148 1.685 864 869 920 1.052 Mađagasca Tháng 4 5 5 5 5 5 5 Malavi Tháng 4 992 427 366 147 417 470 Nigieria Tháng 10 64 59 63 60 67 65 Ruoanđa Tháng 4 46 43 45 41 45 45 Siera Lêon Tháng 10 222 308 273 307 366 325 Tanzania Tháng 7 24 76 28 15 45 35 Togo Tháng 10 739 837 821 624 800 850 Uganda Tháng 10 321 263 197 116 300 300 Zaire Tháng 10 3.640 3.097 3.205 3.507 3.100 3.200 Zambia Tháng 7 56 58 90 96 80 90 Zimbabuê Tháng 4 147 122 97 118 100 115 Cộng 16.094 19.298 16.290 14.809 14.598 14.831 Châu Á và châu Đạidương: Ấn Độ Tháng 10 4.415 4.870 5.020 5.010 4.588 4.660 Inđônêxia Tháng 10 6.950 6.660 6.495 6.160 6.000 6.050 Lào Tháng 10 230 260 300 230 170 180 Malaixia Tháng 10 217 250 300 335 335 335 New Calêđônia Tháng 10 10 10 10 10 10 10 Papua New Ghinê Tháng 4 1.351 1.387 1.041 1.041 1.147 1.160 Philippin Tháng 7 684 740 745 735 726 732 Sri Lanca Tháng 10 35 38 43 31 40 40 Thái Lan Tháng 10 916 1.271 1.692 559 907 1.050 Việt Nam Tháng 10 7.500 11.010 15.333 12.250 10.250 10.750 Yêmen Tháng 10 90 90 70 50 40 50 Cộng 22.398 26.586 31.049 26.411 24.213 25.017 Toàn cầu 108.453 113.433 116.581 110.104 122.759 107.129 Nguồn: FAS/USDA, tháng 6/2003. PHỤ LỤC 1B: SẢN LƯỢNG CÀ PHÊ DÀNH CHO XUẤT KHẨU CỦA CÁC NƯỚC SẢN XUẤT CHÍNH Nước/ khu vực 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 2002/03 2003/04 Bắc Mỹ Costa Rica 2.154 2.347 2.157 1.988 1.883 1.895 Cu ba 80 128 113 49 50 50 CH Đôminica 97 369 112 92 310 260 En Xanvađo 1.633 2.445 1.473 1.466 1.164 1.162 Guatemala 3.900 3.964 4.139 3.110 3.382 3.382 Haiti 112 62 157 85 85 85 Hônđurat 2.237 2.803 2.550 2.712 2.314 2.499 Jamaica 14 25 17 20 32 30 Mêhicô 4.050 5.138 3.822 3.200 3.400 3.700 Nicaragua 924 1.359 1.419 759 694 487 Panama 135 100 103 98 85 85 Trinidat&Tobago 4 2 0 0 1 1 Mỹ 0 0 0 0 0 0 Cộng 15.340 18.742 16.062 13.579 13.400 13.636 Nam Mỹ: Bolivia 105 134 123 74 130 110 Braxin 23.100 18.000 21.000 21.400 37.200 18.700 Côlômbia 9.418 7.982 8.970 10.360 9.305 10.195 Ecuađor 1.012 979 695 600 480 580 Guyana 10 10 10 10 10 10 Paragoay 14 8 9 9 12 12 Pe ru 1.780 2.341 2.560 2.360 2.565 2.665 Vênêzuela 395 170 292 320 200 197 Cộng 35.834 29.624 33.659 35.133 49.902 32.469 Châu Phi: Angôla 60 35 25 11 90 65 Bêning 0 0 0 0 0 0 Burunđi 354 499 335 255 595 333 Camơrun 1.014 1.270 1.098 1.095 995 1.090 Trung Phi 195 222 103 56 98 106 Côngô 0 0 0 0 0 0 Côtđivoa 444 257 233 230 535 500 Ghinê xích đạo 2.159 5.640 4.271 2.969 2.435 2.400 Etiopia 1 0 0 0 2 2 Gabông 2.234 2.200 2.016 2.056 1.300 1.550 Gana 3 1 0 1 2 2 Ghinê 44 42 36 15 43 38 Kênia 90 62 64 54 75 75 Liberia 1.125 1.662 841 846 897 1.029 Mađagasca 0 0 0 0 0 0 Malavi 825 371 276 19 287 340 Nigieria 62 58 61 58 65 63 Ruoanđa 0 0 0 0 0 0 Siera Lêon 219 306 271 305 364 323 Tanzania 19 71 23 10 40 30 Togo 722 823 806 607 783 833 Uganda 319 261 195 114 298 298 Zaire 3.580 3.017 3.124 3.427 3.020 3.120 Zambia 55 57 89 95 79 89 Zimbabuê 143 118 93 114 96 111 Cộng 13.667 16.972 13.960 12.337 12.099 12.397 Châu Á và châu Đại dương: Ấn Độ 3.615 4.070 4.045 3.910 3.433 3.490 Inđônêxia 5.350 5.305 5.160 4.695 4.495 4.525 Lào 229 259 299 229 169 179 Malaixia 9 190 240 175 175 175 New Calêđônia 10 10 10 10 10 10 Papua New Ghinê 1.349 1.385 1.040 1.040 1.146 1.159 Philippin 0 0 0 0 0 0 Sri Lanca 5 8 13 1 10 10 Thái Lan 483 838 1.192 49 387 530 Việt Nam 7.200 10.660 14.916 11.750 9.750 10.217 Yêmen 80 80 60 40 30 40 Tổng cộng 18.330 22.805 26.975 21.899 19.605 20.335 Nguồn: FAS/USDA, tháng 6/2003. PHỤ LỤC 2: XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA CÁC NƯỚC XUẤT KHẨU CHÍNH (Tháng 10-tháng 9) 1997/98 1998/99 1999/00 2000/01 2001/02 Cà phê dịu Côlômbia : 12.388 12.071 10.978 11.531 11.979 Côlômbia 10.911 10.292 9.035 9.437 10.625 Kenya 806 1.096 1.196 1.220 775 Tanzania 671 683 747 874 579 Cà phê dịukhác: 24.755 25.705 29.083 25.162 22.110 Bolivia 96 109 115 73 68 Burundi 371 391 463 314 250 Costa Rica 2.158 2.092 1.984 2.111 1.881 Cuba 129 80 127 90 87 Dominican Republic 418 161 189 102 114 Ecuador 1.146 901 834 763 567 El Salvador 1.885 1.812 2.490 1.714 1.473 Guatemala 3.890 4.593 4.901 4.414 3.330 Haiti 119 98 62 194 49 Honduras 2.299 2.086 2.857 2.470 2.617 India 3.685 3.426 4.500 3.715 3.421 Jamaica 20 21 30 29 28 Malawi 65 52 55 70 53 Mexico 3.883 4.136 5.164 3.637 2.893 Nicaragua 956 955 1.302 1.445 920 Panama 142 147 78 70 78 Papua New Guinea 1.200 1.374 1.050 1.060 1.026 Peru 1.785 2.204 2.311 2.418 2.686 Rwanda 249 282 304 267 274 Venezuela 80 582 96 26 85 Zambia 28 57 59 88 98 Zimbabwe 151 146 112 92 112 Cà phê Arabica: 18.436 24.701 20.830 23.041 27.927 Brazil 16.338 22.934 18.816 21.612 25.977 Ethiopia 2.090 1.757 2.005 1.418 1.939 Paraguay 8 10 9 11 11 Robustas: 23.463 21.365 28.204 30.104 24.626 Angola 50 58 30 17 10 Benin 0 0 0 0 0 Cameroon 787 1.027 1.272 1.145 617 Central African Rep. 107 194 188 104 100 Congo 0 0 0 0 0 Congo, Dem. Rep. of 589 448 333 222 171 Cote d'Ivoire 5.049 2.264 5.834 4.270 3.130 Equatorial Guinea 2 1 0 0 0 Gabon 2 3 0 2 1 Ghana 18 78 35 34 16 Guinea 122 74 28 64 48 Indonesia 5.411 5.430 5.063 5.149 5.071 Liberia 0 0 0 0 0 Madagascar 611 670 277 177 107 Nigeria 5 6 3 5 1 Philippines 30 9 4 3 6 Sierra Leone 45 19 64 13 10 Sri Lanka 20 16 1 3 1 Thailand 785 417 960 1.184 104 Togo 178 310 279 195 114 Trinidad and Tobago 5 4 2 0 0 Uganda 3.032 3.648 2.917 3.075 3.153 Vietnam 6.615 6.689 10.914 14.442 11.966 Tổng cộng 79.042 83.842 89.095 89.838 86.642 Nguồn: FAS/USDA, tháng 6/2003. PHỤ LỤC 3: NHẬP KHẨU CÀ PHÊ CỦA CÁC NƯỚC NHẬP KHẨU CHÍNH Cả năm Cả năm Cả năm Cả năm Cộng dồn từ đầu năm Cộng dồn từ đầu năm đến tháng Nước 1999 2000 2001 2002 2001 2002 2003 Áo 1.548.000 1.301.000 1.495.000 Tháng 8 983.000 Australia 970.545 924.164 891.400 1.120.000 Bỉ-Luxembourg 2.997.000 3.273.000 3.203.000 3.788.000 Canada 3.170.000 3.140.000 3.134.000 Tháng 11 2.694.000 Trung Quốc Tháng 2 30.433 Sip 48.600 CH Sec 799.015 865.500 937.500 918.800 Đan Mạch 1.083.000 1.028.000 1.079.000 1.078.000 Estonia 123.700 105.569 103.900 Tháng 8 61.500 73.500 Phần Lan 1.215.000 1.078.000 1.093.000 1.083.000 Pháp 6.659.000 6.506.000 6.709.000 6.908.000 Tháng 1 590.600 Đức 14.496.000 12.910.000 13.866.000 15.935.000 Tháng 1 1.263.000 1.373.000 Hy Lạp 692.000 812.400 860.500 893.700 Hong Kong 197.916 187.013 175.500 Tháng 11 139.300 Hungary 835.376 895.300 936.400 925.600 Tháng 1 66.800 71.900 Ireland 145.600 155.700 182.200 177.400 Italia 5.973.000 6.335.000 6.569.000 6.556.000 Nhật Bản 6.574.000 7.360.000 7.493.000 7.750.000 Hàn Quốc 1.138.000 1.316.000 1.331.000 1.395.000 Tháng 2 222.400 Lithuania Ma rốc 442.300 584.200 590.000 Tháng8 395.000 470.000 Hà Lan 2.559.000 2.824.000 2.785.000 Tháng 9 1.983.000 New Zealan 152.404 186.428 200.300 204.200 Na Uy 797.200 668.437 723.400 704.800 Philippin 124.674 94.150 Tháng 9 119.307 Ba Lan 2.304.000 2.439.000 2.732.000 Tháng 11 2.436.000 Bồ Đào Nha 810.200 804.600 818.300 820.100 Rumania Nga 1.563.000 2.354.000 2810000 Tháng 1 199.200 207.600 Singapor Slovakia 282.975 307.800 341.900 325.800 Tháng 1 22.800 20.000 Tây Ban Nha 4.028.000 3.819.000 4.126.000 4.080.000 Tháng 2 763.500 Thuỵ Điển 1.806.000 1.677.000 2.068.000 1.849.000 Thuỵ Sĩ 1.165.000 1.200.000 1.276.000 Tháng 10 1.070.000 1.061.000 Đài Loan 128.909 131.408 174.265 Tháng 9 133.000 139.300 Thổ Nhĩ Kỳ 159.500 Anh 2.886.000 3.000.000 3.075.000 3.120.000 Nguồn: FAS/USDA, tháng 6/2003. PHỤ LỤC 4: DIẾN BIẾN GIÁ CÀ PHÊ THEO THÁNG (UScent/lb) Th1 Th 2 Th3 Th4 Th5 Th6 Th7 Th8 Th9 Th10 Th11 Th12 Bq năm Arabica dịu Côlômbia 1994 85,85 93,04 93,23 97,53 133,90 151,85 222,75 210,57 231,52 206,07 186,96 173,94 157,27 1995 177,23 175,07 185,75 180,30 177,18 170,89 157,22 163,21 141,49 132,08 129,09 110,47 158,33 1996 119,08 134,94 130,60 134,31 142,56 133,25 135,39 137,68 123,30 127,77 129,41 126,41 131,23 1997 146,18 188,62 212,96 199,22 318,50 227,15 190,57 193,46 196,29 169,40 161,38 183,32 198,92 1998 184,21 190,59 166,07 158,17 146,33 135,83 125,03 129,45 117,56 115,01 121,74 123,96 142,83 1999 123,07 116,92 117,05 114,02 123,95 121,45 107,05 105,28 97,77 103,69 126,76 140,35 116,45 2000 130,13 124,73 119,51 112,67 110,31 100,30 101,67 91,87 89,98 90,25 84,01 75,81 102,60 2001 75,33 76,70 76,94 78,25 80,92 74,38 69,70 73,50 68,80 62,88 62,33 62,57 71,86 2002 62,51 62,67 68,27 69,76 65,95 62,94 60,60 58,10 64,15 67,92 70,70 65,38 64,91 2003 67,27 67,47 62,16 64,40 65,74 65,41 Arabicas dịu khác 1994 77,21 82,69 85,57 89,23 121,97 142,57 217,67 198,07 220,10 199,06 180,76 167,47 148,53 1995 171,74 168,71 178,22 172,81 168,83 151,56 143,83 151,41 131,87 125,38 123,23 103,99 149,30 1996 109,38 122,71 119,05 122,01 128,56 124,46 120,47 122,49 114,05 120,62 119,90 115,01 119,89 1997 131,83 167,20 193,82 204,43 264,50 212,55 186,52 185,17 184,38 161,45 154,15 174,25 185,02 1998 175,04 175,87 154,82 147,08 134,35 121,56 113,86 119,89 108,07 107,07 113,84 115,54 132,25 1999 110,99 103,24 103,23 99,69 109,10 104,21 90,85 87,64 81,06 92,22 112,74 123,56 101,54 2000 109,17 101,17 98,26 92,41 91,76 84,10 85,20 74,52 73,83 75,43 70,47 64,81 85,09 2001 64,98 67,00 65,88 65,68 68,94 63,79 58,47 59,68 57,71 56,53 58,96 55,63 61,94 2002 57,34 60,51 66,38 65,78 58,45 55,12 53,07 52,02 57,58 64,05 70,15 64,75 60,43 2003 65,22 67,60 61,66 65,35 66,47 65,26 Arabicas Braxin 1994 71,42 80,14 84,72 87,14 118,37 136,43 211,81 192,38 212,73 191,21 172,83 159,73 143,24 1995 162,81 161,07 171,48 166,54 161,72 145,22 139,68 149,54 130,26 127,23 125,33 110,46 145,95 1996 127,54 144,05 140,99 132,92 134,76 125,44 106,93 108,28 103,10 105,77 103,76 103,71 119,77 1997 127,28 160,21 179,75 183,73 209,62 184,21 158,52 158,25 167,77 152,12 149,07 171,12 166,80 1998 179,83 177,78 154,84 141,11 124,89 104,09 96,22 101,92 92,76 91,32 96,67 100,28 121,81 1999 99,43 91,72 88,90 86,14 96,29 91,69 78,13 76,67 70,43 78,74 98,41 109,47 88,84 2000 97,68 91,51 89,93 86,46 87,23 78,32 79,89 70,57 71,14 72,28 68,95 64,39 79,86 2001 62,38 62,50 60,35 55,11 57,19 51,86 46,43 46,49 42,42 38,63 42,82 42,21 50,70 2002 43,14 43,17 48,70 49,70 45,39 43,00 43,31 40,18 44,53 46,08 49,25 46,55 45,25 2003 49,31 48,97 43,77 48,55 51,12 48,34 Robustas: 1994 60,91 62,25 66,46 72,64 96,05 113,31 164,65 162,68 182,95 170,09 154,19 130,48 119,72 1995 132,26 135,22 146,83 145,47 141,89 129,53 120,89 131,28 116,41 114,15 112,79 94,72 126,79 1996 91,99 98,99 91,99 91,45 92,10 86,46 78,14 80,16 74,83 72,97 70,51 63,08 82,72 1997 67,66 76,65 81,31 78,48 95,74 91,94 82,52 76,92 77,43 76,90 78,20 84,65 80,70 1998 86,03 85,79 84,67 90,60 92,64 84,55 78,40 79,98 80,88 80,36 80,40 82,82 83,93 1999 81,65 77,68 72,70 68,89 68,28 66,20 62,28 63,80 60,44 59,25 64,10 66,40 67,64 2000 53,62 49,41 47,26 45,21 45,19 43,72 41,93 38,94 39,47 36,55 33,34 30,78 42,12 2001 32,97 31,96 30,96 28,59 29,71 29,33 27,59 25,86 23,79 21,26 22,03 23,57 27,30 2002 22,88 24,46 29,77 30,35 29,43 29,26 29,31 28,74 33,31 34,44 39,38 38,68 30,83 2003 42,75 42,35 38,36 38,68 38,90 40,21 Source: International Coffee Organization (ICO). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19110.doc
Tài liệu liên quan