Lời nói đầu
Trên thế giới này mỗi quốc gia đều muốn phát triển, đều muốn khẳng định thế mạnh của mình. Quốc gia này có thế mạnh về lao động, tài nguyên, văn hoá xã hội, thị trường; quốc gia khác lại có thế mạnh về vốn, công nghệ...Nó đều có thế mạnh riêng của mình, không có quốc gia nào là hoàn toàn mạnh cũng như không có quốc gia nào là hoàn toàn yếu. Những quốc gia hiện nay chưa phát triển, nguyên nhân chính là do chưa biết cách khai thác thế mạnh của mình, chưa đề ra được hướng đi cho mục ti
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu phát triển của mình, hay nói cách khác chưa tạo ra được tính hợp lý cho quá trình khai thác và sử dụng thế mạnh của mình.
Để hoà nhập với xu hướng chung của thế giới, mỗi quốc gia đều vạch ra cho mình chiến lược phát triển kinh tế riêng. Với điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đây cũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đảng và Chính phủ đã đưa ra mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhằm đưa đất nước đi lên thoát khỏi tình trạng ngèo nàn lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu đó yêu cầu vê vốn là một trong những thách thức lớn nhất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Do đó Việt Nam đã tính đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế.
Nhận thức được vị trí và vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài nên tháng 12 năm 1987 Chính phủ đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tưc nước ngoài vào Việt Nam.
Do vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam không thể phủ nhận vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để góp phần giải quyết những vướng mắc nói trên, trong phạm vi bài đề án này em xin được đề cập đến vấn đề: “Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Kết cấu của bài đề án này bao gồm ba phần:
Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân.
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua.
Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Phần I
Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực
tiếp nước ngoài và vai trò đối với
nền kinh tế quốc dân
I – Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1 – Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn Quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối trọng mà họ bỏ vốn.
2 – Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên đây được áp dụng khác nhau.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế hoặc là áp dụng các hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT) hay xây dựng – chuyển giao (BT) hay xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO)
3 – Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1 - Tác động của FDI đối với nước chủ đầu tư.
Đối với nước chủ đầu tư , FDI mang lại cho họ những lợi ích sau:
Thứ nhất: Phần lớn các nước này là những nước công nghiệp phát triển mà tỷ suất lợi nhuận ngày càng có xu hướng giảm và kèm theo là hiện tượng thừa tương đối tư bản ở trong nước. Cho nên, bằng hình thức đầu tư trực tiếp quốc tế, các nước này đã sử dụng những thế của nơi tiếp nhận sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư.
Thứ hai: FDI khắc phục được tình trạng lão hoá sản phẩm tức là thông qua hoạt động FDI, các nước tư bản đã di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp, phần lớn là máy móc ở giai đoạn lão hoá sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kỳ sống của sản phẩm.
Thứ ba: FDI giúp các nước này xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng, Nhiều nước nhận đầu tư có tài nguyên dồi dào nhưng do hạn chế về tiền vốn, kỹ thuật, công nghệ cho nên những tài nguyên đó chưa được khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả.
Thông qua viẹc đầu tư khai thác vào những ngành tài nguyên, các nước chủ đầu tư đã tận dụng được những nguồn nguyên liệu đó, nhập khẩu để phục vụ cho ngành sản xuất ở nước mình. Ví dụ nhờ đầu tư ra nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ Phốtphát, Đồng, Thiếc, Quặng sắt, Manggan.
Thứ tư: FDI giúp các nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế: Thông qua xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, mà các nước xuất khẩu vốn mở rộng được thị trường tiêu thụ. tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước. Ngoài ra, nhiều nước qua hình thức viện trợ và cho vay vốn với quy mô lơn, lãi suất hạ mà ra điều kiện về chính trị, kinh tế trói buộc các nước đang phát triển vào quỹ đạo điều khiển của họ.
3.2 - Tác động đầu tư quốc tế đối với các nước nhận đầu tư
Hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế vào cả hai khu vực: các nước công nghiệp phát triển và các nước chậm phát triển.
Trước hết, đối với các nước tư bản phát triển như Mỹ và Tây Âu FDI có ý nghĩa quan trọng. Như các chuyên gia kinh tế Mỹ sau khi nghiên cứu hiện tượng Nhật ồ ạt đầt tư vào Mỹ (từ 1951 đến 1991 là 48,6 tỷ USD, chiếm 42,2% tổng số vốn đầu tư của Nhật ra nước ngoài) đã đưa ra nhận định việc đầu tư của Nhật mang lại nhiều cái lợi cho nền kinh tế Mỹ hơn là mặt hại. Những cái lợi đó là:
- Giúp Mỹ giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế và xã hội trong đất nước như thất nghiệp, lạm phát.
- Cứu nguy cho một số xí nghiệp trên bờ vực phá sản thông qua việc các chủ đầu tư Nhật mua lại các xí nghiệp đó.
- Tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tìh hìh bội chi ngân sách của Mỹ.
- Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại.
- Giúp các nhà doanh nghiệp Mỹ học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của Nhật.
Đối với các nước còn chậm phát triển, đầu tư quốc tế có vai trò quan trọng đặc biệt. Vai trò đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất: FDI giải quyết vấn đề thiếu vốn cho các nước này. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước chậm và dang phát triển đều gặp phải vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nôi bộ thấp hoặc không có tích luỹ. Điều đó đã hạn chế đến quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên bị thiếu hụt, đất nước thiếu ngoại tệ. Việc thu hút nguồn vốn nước ngoài có thể giải quyết được khó khăn về khả năng tích luỹ vốn thấp và bù đắp các khoản thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán.
Thứ hai: FDI giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp ở các nước này. Thông qua việc tạo ra các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế, đầu tư quốc tế đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn người lao động.
Thứ ba: FDI giúp các nước chậm và đang phát triển tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài. ở các nước này, công nghệ trong nước thường là công nghệ cổ truyền, lạc hậu, năng suất thấp. Do trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học ở trong nước kém, các nước đang phát triển có rất ít khả năng phát triển công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến. Mặt khác, khả năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước này cũng rất hạn chế, thường dưới 1% so với GDP (trừ Singapore năm nào cũng trên !%) năm 1980 thường dưới 2% trong điều kiện đó phần lớn công nghệ mới, hiện đại có được ở các nước đang phát triển là công nghệ đưa từ ngoài vào qua các kênh như viện trợ, trao đổi khoa học công nghệ và đặc biệt là qua việc hợp tác đầu tư quốc tế.
Thứ tư: FDI góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. Trước hết, FDI giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc cải tiến cơ cấu kinh tế. Mặc dù tỷ trọng của đầu tư trực tiếp trong tổng số vốn đầu tư ở một số nước có thể không cao nhưng nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư tài sản cố định trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế.
Bên cạnh những tác động tích cực FDI còn có một số tác động tiêu cực sau:
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẩn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiểm môi trường
II – Các xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1 - Xu hướng tự do hoá đầu tư
Xu hướng tự do hoá đầu tư được thể hiện trên ba bình diện là quốc gia, khu vực và quốc tế. Trên bình diện quốc gia, đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, về vốn góp, thuê mướn nhân công, đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu,... Bên cạnh đó, các quốc gia cũng đang đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các khuyến khích về tài chính, ... Trên bình diện khu vực, đó là sự thành lập các khu vực đầu tư, việc ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương.
2 - Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư Quốc tế
Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nhiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế. Nếu như năm 1990 có hoảng 37000 tập đoàn loại này với khoảng 170000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài thì đến 1995 đã có khoảng 39000 tập đoàn với khoảng 270000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài nắm gũ khoảng 2700 tỷ USD FDI, tương ứng với 10% GDP thế giới. Điều đặc biệt lưu ý là đa số các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển hầu hết tập trung ở Châu á.
Bên cạnh đó, với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các tập đoàn xuyên quốc gia giờ đây đang chịu sự cạnh tranh đáng kể của các hãng có quy mô vừa và nhỏ trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ mà biểu hiện rõ nhất là các dịch vụ thông tin.
3 - Địa bàn thu hút đầu tư
Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển và tác động của quá trình toàn cầu hoá khu vực hoá, vốn FDI trên thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển, trong đó các nước đang phát triển ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nổi lên là khu vực thu hút nhiều vốn đầu tư vào nhất. Trong giai đoạn 1990 – 1995, các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển đã tăng khoảng 7,5 lần. Các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 62% năm 1995 (so với 46% năm 1990) trong tổng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Khu vực Đông và Đông Nam á là khu vực thu hút nhiều đầu tư nước ngoài nhất những năm 90. Từ 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn nhất trên Thế giới.
4 - Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư mới trên thế giới
Thực tiễn FDI thời gian qua trên thế giới cho thấy nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển đã tăng từ 6% trong tổng FDI của thế giới trong giai đoạn 1985-1989 lên tới 10% ở giai đoạn 1990-1994. Các quốc gia Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuộc Trung Quốc đã chuyển sang thành các quốc gia xuất khẩu vốn. Hồng Kông trong 3 năm qua đã xuất khẩu khoảng 20 tỷ USD/năm (Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan xuất khẩu khoảng 3 tỷ). Kể từ năm 1992, Trung Quốc và Malaysia cũng đã trở thành những nhà xuất khẩu vốn. Trong năm 1995, Trung Quốc, Hồng Kông thuộc Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore và Thái Lan chiếm khoảng 100% vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương và 88% của các nước đang phát triển trên toàn thế giới. Tốc độ tăng vốn đầu tư ra nước ngoài khoảng 238% trong đoạn 1990-1995.
5 - Lĩnh vực đầu tư
Xu hướng chung của thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ việc đầu tư khai thác các nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất, có sự chuyển dịch các ngành có hàm lượnglao động cao từ những nước có nền kinh tế phát triển kinh tế cao hơn sang những nước khác (mà mô hình”đàn ngỗng bay” ở Châu á là một ví dụ điển hình). Những nước ở nhóm trên bắt đầu thu hút FDI vào những ngành đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ cao. ở các nước như Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan thì ngành chế tạo chiếm trên 50% vốn đầu tư thu hút được và các ngành dịch vụ cũng chiếm gần 50% trong giai đoạn 1989 – 1994.
6 - Đầu tư với hiệu quả xã hội
Vấn đề FDI hiện nay thường được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế-xã hội. Khi xem xét hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận đầu tư thường gắn với việc xem xét các chỉ tiêu như tạo vốn, tạo việc làm, thu hút công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội...
III - Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
1 - Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN
- Kinh nghiệm thu hút FDI của Malaysia
Qua số liệu cho thấy sự tăng đáng kể về số lượng FDI vào Malaysia. Nếu tính chung toàn bộ FDI vào Malaysia thì trong giai đoạn 1960 – 1970 trung bình mỗi năm 200 – 300 triệu ringgit (tiền Malaysia). Từ 1970 – 1980 trung bình mỗi năm 1 tỷ ringgit chủ yếu tập trung vào các ngành dầu, khí đốt và điện tử, năm 1982 là 3,3 tỷ ringgit, năm 1989:4,5 tỷ ringgit, năm 1990: 6,3 tỷ ringgit và năm 1991 là 9,6 tỷ ringgit. Nguyên nhân thành công này là do:
Về luật pháp: Luật công ty được ban hành năm 1965 và luật bảo đảm công nghiệp năm 1978 nhằm tạo ra trước hết một nền kinh tế và thị trường vốn lành mạnh sau nữa là bảo hộ cho các nhà đầu tư. Luật công ty năm 1965 bảo đảm đối xử công bằng và hấp dẫn mạnh người đầu tư. Luật bảo đảm công nghiệp được sửa đổi và bổ sung nhiều điều khoản mới năm 1983. Luật khuyến khích đầu tư được ban hành năm 1968 và dược sửa đổi bổ sung thay 1986. Luật thuế thu nhập cũng được thông qua năm 1867. Để triển khai các nguyên tắc của các bộ luật trên, Malaysia lập ra 5 cơ quan cấp Chính phủ: Uỷ ban các vấn đề vốn, Cơ quan đăng ký cho các công ty, Cơ quan tiếp quản và phối hợp nhằm hướng dẫn đầu tư và bảo về quyền lợi của bên đối tác có vốn pháp định ít, Uỷ ban đầu tư nước ngoài và Sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur.
Chính phủ Malaysia rất coi trọng vai trò tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán trong việc bảo đảm thị trường vốn và thu hút FDI. Đầu năm 1993 này, Hội đồng bảo đảm giao dịch được thành lập cũng nhằm để phát triển hơn nữa thị trường vốn. Malaysia đã thành công trong tạo ra thế tổng hợp của hàng loạt chính sách và biện pháp để thu hút FDI bao gồm tài chính, thương mại, tổ chức đầu tư, xây dựng hạ tầng cơ sở, ổn định chính trị, giáo dục và đào tạo...
Một biện pháp hữu hiệu được Chính phủ thi hành là sửa đổi luật thuế thu nhập năm 1967. Từ 1986, các ngành công nghiệp, nông nghiệp và du lịch được hưởng nhiều khuyến khích về thuế như ngày nghỉ thuế, trợ cấp thuế đầu tư ... Nhà nước hủi bỏ 2% thuế phát triển và giảm 35% thuế hợp tác liên doanh cho các công ty, giảm gấp đôi mức thuế cho lĩnh vực đào tạo nhất là các chương trình nghiên cứu phát triển: giảm 50 đến 100% thuế quan cho việc nhập nguyên liệu và máy móc không có trên thị trường nội địa. Các ngành mới thành lập hoặc ít vốn không phải nộp thuế. Hàng loạt khuyến khích thuế khác được áp dụng cho việc nhận tín dụng, xây dựng, quản lý và bảo đảm nhiều khoản trợ cấp khác. Các nhà đầu tư tự do vay vốn nội địa và nước ngoài. Các nhà đầu tư tự do chuyển vốn và lợi nhuận về nước.
Việc thuê nhân công cũng được khuyến khích gắn với đào tạo. Các công ty có vốn FDI có quyền đào tạo người bản xứ và thuê họ 10 năm. Nhà nước cố gắng giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết và tạo ra không khí hợp tác lành mạnh, tin cậy lẫn nhau.
Để thu hút vốn đầu tư, Nhà nước chủ động xây dựng hạ tầng cơ sở. Hạ tầng cơ sở của Malaysia rất phát triển. Chính phủ khuyến khích sở hữu đối với người ngoại quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu 100% cổ phần nếu xuất khẩu được 80% sản phẩm của họ hoặc họ thực hiện các dự án mà người địa phương không có khả năng bỏ vốn. Nhà nước bảo đảm bằng luật pháp các hình thức sở hữu của người nước ngoài
1.2 - Kinh nghiệm thu hút FDI của Thái Lan
Suốt 30 năm qua Thái Lan đã đạt được những thành tựu nổi bật về kinh tế. Các mục tiêu đặt ra cho từng giai đoạn đều đạt và vượt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức 7,1% đến 10,5%. Thành tựu được đáng khích lệ và nhờ vào hàng loạt yếu tố trong cũng như ngoài nước trong đó có vai trò của FDI. Để triển khai và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan có nhiều biện pháp hữu hiệu. Các chính sách của chính phủ được thể chế hoá trong luật khuyến khích đầu tư năm 1962 và đã được bổ sung năm 1977 và năm 1991. Tuy nhiên mọi hoạt động đầu tư đều do Uỷ Ban đầu tư quản lý. Sau đây chúng ta xem xét một cách ngắn gọn nhất các khuyến khích FDI được ghi trong luật khuyến khích đầu tư.
a - Bảo đảm của chính phủ: không quốc hữu hoá, cạnh tranh của các xí nghiệp mới thành lập của Nhà nước; sự độc của nhà nước đối với việc bán các sản phẩm cùng loại nhưng do các nhà sản xuất được nhận khuyến khích chế tạo ra; cho phép kiểm tra xuất khẩu và miễn thuế nhập khẩu cho các cơ quan Chính phủ và các xí nghiệp Nhà nước.
b - Các biện pháp bảo hộ: cấm nhập các mặt hàng có tính cạnh tranh mạnh; cho phép chủ tịch Uỷ Ban đầu tư có quyền quyết định các hoạt động trợ giúp hoặc các biện pháp giảm thuế lợi tức cho các dự án khuyến khích.
c - Cho phép kiều dân Thái: tiến hành các hoạt động nghiên cứu khảo sát đầu tư và các nhà kỹ thuật ngoại quốc làm trong các dự án được khuyến khích; được sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động được khuyến khích; nhận hoặc chuyển ngoại tệ nước ngoài.
d - Khuyến khích thuế: thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%. Giảm thu nhập thuế của bên đối tác nước ngoài trong thời hạn từ 3 đến 8 năm; và nhiều hình thức khuyến khích khác.
e - Các khuyến khích thêm cho xí nghiệp xuất khẩu: giảm thuế cho việc nhập khẩu các mặt hàng tái xuất, giảm thuế xuất khẩu...
Để thực thi các khuyến khích trên và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan đã dùng biện pháp tài trính và tiền tệ là chủ yếu và nhất quán. Thái Lan đã tạo ra một môi trường tài chính hấp dẫn đặc biệt có khả năng hỗ trợ mạnh mẽ các luồng đầu tư từ bên ngoài. Chính phủ Thái Lan cho rằng tiền tệ và tài chính là một công cụ hữu hiệu nhất.
Thứ nhất, phải ổn định tiền tệ, chống lạm phát đảm bảo cho sự phát triển và cán cân thanh toán. Điều đó vừa bảo đảm cho sự phát triển kinh tế vừa làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn ra. Chính phủ Thái Lan đã sử dụng bốn chính sách cơ bản để bảo đảm giá trị đồng Bạt: đồng Bạt có giá trị chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Giá trị đồng Bạt được kiểm soát rất chặt chẽ, có tính ổn định cao. Thiếu hụt nhân sách hàng năm của Chính phủ được luật pháp quy định; cuối cùng là luôn có sự điều chỉnh việc vay mượn của bộ phật kinh tế công cộng trách nhiệm quá dựa vào ngoại tệ và giảm mức nợ của dịch vụ.
Chính phủ Thái Lan tạo ra dự trữ ngoại tệ ở mức 22 tỷ đô la Mỹ bảo đảm chi trả đủ cho nhu cầu đầu tư thương mại trong vòng 6 tháng trong trường hợp bất trắc xảy ra. Ngoài ra Thái Lan còn một hệ thống tiền tệ nội địa tự do nhưng có mối liên kết chặt chẽ. Hệ thống ngân hàng tiền tệ rất nhạy bén với tính chất thị trường của nền kinh tế.
Thứ hai, đó là chính sách thuế. Chính phủ Thái Lan đã có chính sách thuế rất ưu đãi và mềm dẻo và nhanh chóng tham gia vào khu mậu dịch của ASEAN và tổ chức thuế quan đã điều chỉnh tốt thuận lợi của người đầu tư.
Dĩ nhiên Chính phủ Thái Lan thực hiện nhiều biện pháp trên nhiều lĩnh vực khá nữa nhằm thu hút FDI nhưng biện pháp tiền tệ và tài chính là quan trọng và hữu hiệu nhất. Nếu xét tổng thể thì nền kinh tế Thái Lan có sáu yếu tố đã đạt được tạo ra có tác dụng thu hút FDI mạnh mẽ nhất.
- Tính ổn định của nền kinh tế có vai trò quan trọng nhất.
- Với dân số 56 triệu, giá công nhân còn thấp và đang di chuyển mạnh sang bộ phận kinh tế công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư.
- Chính sách đối nội, đối ngoại ổn định kể cả khi chính phủ cầm quyền thay đổi đặc biệt là chính sách tư nhân hoá và ủng hộ kinh tế tư nhân và gần đây là việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Campuchia và Lào.
- Sự thay đổi nhanh chóng về chính trị và kinh tế trên bán đảo Đông Dương tạo ra cho Thái Lan một cơ hội mới và một vị trí đặc biệt như cửa ngõ khu vực.
- Xã hội Thái Lan mang đặc tính bình yên chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng phật giáo đã có sức hút mạnh các nhà đầu tư Nhật, Đài Loan, HK.
- Các công ty hoạt động ở Thái Lan luôn được hỗ trợ ở các địa phương và các ngành công nghiệp khác.
2 - Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước NICs châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singarpore và Hồng Kông
Vào những năm 1950 - 1960 nền kinh tế của các nước NICs châu á rất lạc hậu, phát triển mất cân đối. GNP bình quân đầu người thấp 90 - 150USD/người/năm. Cả 4 nước trên đều nghèo về tài nguyên, đất hẹp, người đông, khí hậu kém thuận lợi. Lợi thế hầu như chỉ dựa vào biển và nguồn lao động rẻ tiền. Đến nay cả 4 nước NICs châu á đều trở thành các nước công nghiệp mới (Newly Industrial Countries) với tốc độ phát triển kinh tế cao. Một trong những nguyên nhân thành công là do mỗi nước tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mình mà có chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế thích hợp.
2.1 – Những tác động tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước NICs châu á đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, đồng thời thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp hoá (CNH) về hướng xuất khẩu được thực hiện trên cơ sở thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài làm chuyển biến cơ cấu công nghiệp từ sự tồn tại phổ biến các ngành công nghiệp kỹ thuật thấp, thu hút nhiều lao động sang sự phổ biến của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn. Thập kỷ 60, ở NICs châu á chưa xuất hiện CNH dầu, đóng tàu, công nghiệp chế tạo, công nghệ sinh học, điện tử cao cấp, laze, chế tạo ô tô... mà chủ yếu là các ngành dệt da và các sản phẩm da, quần áo may sẵn, lắp ráp đồ điện, dày dép, tóc giả... Hiện nay các ngành sử dụng nhiều lao động một bộ phận được di chuyển sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn NICs, phần còn lại nước sở tại được nâng cấp bằng cách áp dụng công nghệ mới để chế tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn về cả chất lượng và chủng loại.. Một tỷ lệ lớn những công nghệ mới này vẫn trông cậy trực tiếp vào FDI. FDI vẫn được các nước chủ nhà khuyến khích đi vào các ngành kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn mà các công ty địa phương không thể đảm nhiệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Một thực tế hiển nhiên là các nước áp dụng CNH hướng về xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các quốc gia thi hành chiến lược CNH thay thế nhập khẩu. Điều dễ hiểu là chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua chế độ thuế quan và quota đã gây tâm lý ỷ lại và đẫn đến tình trạng kém hiệu quả kinh tế của các hãng công nghiệp, khả năng cạnh tranh của hãng thấp. Ngược lại, dưới tác động của chiến lược khuyến khích xuất khẩu, các hãng đều bình đẳng trong khuôn khổ chế độ pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, họ phải đương đầu với thách thức cạnh tranh trên quy mô thế giới, vì vậy vấn đề hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Một điều tra cho thấy chỉ số hiệu quả của hàng thay thế nhập khẩu trong công nghiệp điện tử Đài Loan là 60,4%, trong khi chỉ số phi hiệu quả hàng xuất khẩu (0,3292) thấp hơn chỉ số này ở các hãng thay thế nhấp khẩu (0,5042). Nhờ vậy mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế với đầu ra tiềm năng thu hẹp lại mà về nguyên tắc, số chênh lệch này càng nhỏ, hiệu quả càng cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Những kỹ năng quản lý và các bí quyết kỹ thuật vào các nước sở tại. Trên thực tế, đây là vấn đề gây nên tranh cãi rất nhiều trong các nước đang phát triên. Vì rằng, khi nhìn vào nền kinh tế Thái Lan, người ta nhận thấy các công nghệ của Thái gần như sao chép công nghệ phương Tây, mức độ chuyển giao công nghệ của các hãng nước ngoài cho người địa phương (Thái) rất thấp và tiến hành chậm chạp (dường như có ý trì hoãn).
Ngoài những tác động tích cực nổi bật trên, FDI còn tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước sở tại và cải thiện thu nhập. FDI ở Hồng Kông đem lại gần 100.000 việc làm năm 1993. Các hãng công nghiệp có vốn FDI ở Singapore thu hút tới gần 50% số lượng công nhân, Điều đáng kể hơn nữa là nếu số lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài, nếu tỏ ra có triển vong, họ tiếp tục được đào tạo hoặc nâng cao nghiệp vụ nhờ vào những thu xếp của công ty khi cần thiết.
2.2 – Những ảnh hưởng tiêu cực
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Phần II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua
I – Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Qua hơn mười năm thực hiện Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam (1989 – 1999), chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: số lượng vốn FDI ngày càng tăng, tốc độ trung bình hàng năm tăng 50%, quy mô các dự án FDI ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước lớn như Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Những kết quả trên đã phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và chính sách thu hút, sử dụng vốn FDI của Việt Nam là đúng và phù hợp. Sự gia tăng nhanh dòng vốn FDI có tác dụng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế trên tất cả các phương diện: ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà và thế cho những bước tiến lớn hơn của giai đoạn tiếp theo.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 366 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế.
Cuối năm 1995 có 1064 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký 18834 triệu USD. Trong quá trình thực hiện đã có 222 dự án được bổ sung thêm 2098 triệu USD vốn đầu tư nâng tổng số vốn đầu tư được cấp giấy phép lên 20932 triệu USD. Đến hết tháng 6 năm 1998 đã có hơn 2000 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký là 33,5 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện hơn 13,2 tỷ USD (không tính liên doanh dầu khí Việt-Xô). Như vậy tính trung bình mỗi năm Việt Nam thu hút được 2617 triệu USD. Nếu so sánh với một số nước: Malaysia giai đoạn 1970 – 1980 thu hút được trung bình 400 triệu USD/năm, giai đoạn 1981 – 1987 trung bình một năm thu hút được 840 triệu USD. Indonesia giai đoạn 1967 – 1990, tổng số vỗn FDI là 29,5 tỷ USD, trung bình thu hút được 1229 triệu USD thì mức độ thu hút FDI ở Việt Nam thời kỳ đầu như vậy là cao nhưng nếu số dòng vốn FDI đổ vào các nước khác trong khu vực trong những năm gần đây thì thấy rầng số vốn mà Việt Nam thu hút được là quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của một nước đi sau – cần tăng trưởng nhanh để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước.
Tính đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được 2937 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 29 dự án hết hạn (289 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
từ 01/01/2000 đến 31/05/2000
(Phân chia theo ngành)
Đ.vị tính: USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Công nghiệp
88
176.255.702
92.607.174
2
GDĐT-y tế-VHTT
6
56.450.000
20.610.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Dịch vụ
11
14.261.428
3.915.714
5
Tài chính, Nghân hàng
1
10.000.000
5.000.000
6
KS, VP, DL Lữ hành
1
7.800.000
7.681.632
7
GTVT và XD
1
4.994.500
2.520.000
8
Nông, Lâm nghiệp
3
2.550.583
1.857.976
9
Ngư nghiệp
1
500.000
600.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
(Phân theo địa phương)
Đ.vị tính: USD
STT
Địa điểm thực hiện
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
1
Bình Dương
39
106.115.621
48.127.093
2
TP.Hồ Chí Minh
30
84.448.000
44.031.000
3
Dầu khí
2
32.200.000
10.200.000
4
Hà Nội
13
20.820.000
11.889.000
5
Đồng Nai
6
19.580.000
13.590.000
6
Khánh Hoà
2
8.550.000
8.131.632
7
Quang Nam
2
5.065.928
2.555.714
8
Bình Phước
1
5.000.000
3.300.000
9
Nghệ An
1
4.511.626
3.961.626
10
Cần Thơ
1
2.700.000
1.120.000
11
Vĩnh Phúc
2
2.650.000
2.150.000
12
Bà Rịa-Vũng Tàu
2
2.545.455
2.545.455
13
Hải Phòng
1
1.500.000
1.200.000
14
Long An
1
1.500.000
1.000.000
15
Tây Ninh
2
1.325.000
418.000
16
Yên Bái
1
1.240.583
847.976
17
Đà Nẵng
1
1.000.000
365.000
18
Lao Cai
1
1.000.000
1.000.000
19
Thái Bình
1
900.000
700.000
20
Thanh Hoá
1
600.000
450.000
21
Lâm Đồng
1
560.000
560.000
22
Hoà Bình
1
500.000
150.000
23
Quảng Ninh
1
500.000
500.000
24
Thái Nguyên
1
200.000
100.000
Tổng
số
114
305.012.213
158.892.496
* Không tính các dự án địa phương cấp phép
* Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài
Cơ cấu đầu tư
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35020.doc