Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, bắt kịp dần với các nước trên thế giới. Để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng đó cần coi hoạt động đầu tư là ưu tiên hàng đầu bởi lẽ chỉ có đầu tư mới chuyển hóa được các nguồn lực thành kết quả tăng trưởng. Đầu tư không chỉ trực tiếp tạo ra của cải vật chất, thúc đẩy tăng trưởng về số lượng mà còn là cơ sở để nâng cao trình độ khoa họ

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c công nghệ, chuyển dịch cơ cấu sản suất, tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội, qua đó tạo ra mặt chất của tăng trưởng. Đầu tư cũng là công cụ tăng cường hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, bổ sung vốn cho nhu cầu đầu tư của các nước đang phát triển. Đối với một nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam thì hoạt động đầu tư càng trở nên quan trọng vì nó đóng vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng ban đầu. Bài toán về vốn đầu tư luôn là một vấn đề quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.Trong giai đoạn hiện nay không chỉ nguồn vốn trong nước mà cả nguồn vốn bên ngoài đều là yếu tố quyết định cho sự thành công của Việt Nam. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây đó là lấy vốn ở đâu, thu hút nó như thế nào và làm sao để sử dụng nó có hiệu quả? Đây cũng chính là mục tiêu hàng đầu của Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội - đơn vị trực thuộc Sở Kế Hoạch – Đầu tư Hà Nội. Là sinh viên năm cuối Khoa Đầu tư - trường Đại học Kinh tế quốc dân, tôi quyết định chọn Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội – thuộc Sở Kế hoạch – Đầu tư Hà Nội làm nơi thực tập để lấy kinh nghiệm thực tế trước khi ra trường và tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi trên. Trong quá trình thực tập tổng hợp ở đây, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo cũng như cán bộ công nhân viên Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS Nguyễn Hồng Minh và ban giám đốc cũng như tập thể cán bộ công nhân viên Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội” cũng như trong thời gian thực tập tổng hợp tại đây. CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÚC TIẾN ĐẦU TƯ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1 Khái quát tình hình thu hút đầu tư vào Hà Nội 1.1.1 Giới thiệu khái quát về địa phương: Hà nội thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não chính trị, văn hóa khoa học kỹ thuật; đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế lớn của cả nước. Trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước, Hà Nội có sức thu hút các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước, có ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ nền kinh tế, trước hết là đồng bằng Bắc Bộ (tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). Hà nội có vị trí địa lý rất thuận lợi, nằm trung tâm đồng bằng sông Hồng, giáp các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc. Với diện tích 920.97km2, cơ cấu sử dụng đất: đất nông nghiệp 44392ha; lâm nghiệp 6.782ha; đất công trình xây dựng 20.272 ha; đất dân cư 9.326 ha; đất chưa sử dụng 11.285 ha. Ngoài 2 sông lớn là sông Hồng và sông Đuống chảy qua, Hà Nội còn có các con sông nhỏ như: sông Cà Lồ, sông Nhuệ, Kim Ngưu...Hà Nội có 17 hồ lớn nhỏ. Nguồn nước mặt nước ngầm Hà Nội khá dồi dào, chất lượng tốt đảm bảo sinh hoạt và sản xuất công nghiệp. Hệ thống điện ổn định, gần nhà máy điện Hòa Bình và nhà máy điện Phả Lại, mạng lưới điện rộng khắp, nâng cấp và bảo dưỡng thường xuyên, cung cấp điện liên tục và ổn định.mạng lưới viễn thông được trang bị hiện đại, hòa mạng với hệ thống viễn thông toàn cầu. Hà Nội có hệ thống cơ sở giao thông khá phát triển, các loại hình giao thông như đường sắt, đường bộ, đường thủy, đường hàng không đồng bộ đã hình thành nên mạng lưới giao thông vận tải rộng khắp ở vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, nối liền các tỉnh, các địa phương trong cả nước và tới các nước trên thế giới. Quốc lộ qua Hà Nội có: Quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 3, quốc lộ 2, quốc lộ 4 và quốc lộ 32. Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế và có một lợi thế rất lớn trong hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế đối ngoại. Hà Nội còn là nơi có đội ngũ nhân lực đông đảo, tay nghề khá cao. Trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay có 49 trường Đại học và Cao đẳng, 38 trường trung học chuyên nghiệp, 21 trường dạy nghề cung cấp lực lượng đứng đầu cả nước với trên 6050 người có trình độ trên Đại học, 20000 người tốt nghiệp Đại học, 110000 người tốt nghiệp trung cấp, điều này giúp các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm bớt chi phí đào tạo khi đầu tư vào Hà Nội. Tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của Hà Nội trên 11%, cao hơn 3 % tốc độ tăng trung bình của cả nước, mức thu nhập của người dân cao, GDP bình quân đầu người là 18,2 triệu VNĐ/người. Thị trường rộng lớn với dân số 3.118 nghìn người tạo điều kiện thuận lợi tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Các dịch vụ tài chính ngân hàng cũng khá phát triển cung cấp các dịch vụ nhanh chóng thuận tiện cho các nhà đầu tư như mở tín dụng, dịch vụ thanh toán quốc tế... Bên cạnh đó do yếu tố lịch sử để lại và sự phân công lao động xã hội, Hà Nội còn là nơi tập trung nhiều trung tâm doanh nghiệp, các làng tiểu thủ công nghiệp truyền thống có khả năng mở rộng phát triển trên cơ sở tăng cường đầu tư và hiện đại háo trang thiết bị. Có thể nói các lợi thế trên tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cả đầu vào lẫn đầu ra khi đầu tư vào Hà Nội. Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đòi hỏi Hà Nội cần có một khối lượng lớn vốn, nếu chỉ huy động các nguồn vốn trong nước thì chưa đủ cho nên Hà Nội cần khai thác triệt để các nguồn vốn bên ngoài cho phát triển kinh tế trong đó FDI là ngồn vốn rất quan trọng. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tạo ra động lực phát triển kinh tế thủ đô. Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ giúp Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế ngày càng có uy tín trong khu vực nhanh chóng đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra. 1.1.2 Khái quát về tình hình thu hút đầu tư vào Hà Nội hiện nay Hiện nay trên phạm vi cả nước Hà Nội thuộc nhóm thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nhất. Đó không chỉ là các nguồn vốn từ trong nước mà còn có lượng vốn từ bên ngoài đổ vào, lượng vốn này ngày càng gia tăng và đóng vai trò quan trọng trong sự phát ttrieenr của Thành phố Hà Nội. Xét trên khía cạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đến hết năm 2007, Thành phố đã thiết lập mối quan hệ hợp tác đầu tư với 42 quốc gia và vùng lãnh thổ. Có 1118 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng kí 12.587 tỷ USD. Vốn đầu tư thực hiện đạt 5.138 tỷ USD (chiếm 40.8% tổng vốn đăng kí). Kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 1997, đặc biệt là sau năm 2006, Thành phố đã có nhiều biện pháp đồng bộ, kịp thời để cải thiện môi trường đầu tư, cải tiến quy trình, thủ tục cấp phép đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, chủ động giải quyết nhanh những khó khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư…do đó tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố được cải thiện đáng kể: năm 2001 lượng vốn đăng kí đạt 200 triệu USD với 44 dự án thì đến năm 2006 là 1,12 tỷ USD với 194 dự án và đến năm 2007 thì cấp phép đầu tư cho 344 dự án với số vốn đăng kí là 2.535 tỷ USD. Đến nay nhiều dự án có quy mô vốn đầu tư lớn đã được đưa vào sử dụng thuộc các lĩnh vực: công nghiệp viễn thông, công nghiệp điện, điện tử, công nghiệp sản xuất thép, vật liệu… ví dụ như Công ty TNHH dèn hình Orion – Hanel (sản xuất, lắp ráp đèn hình) với tổng vốn đầu tư 178 triệu USD; Công ty Yamaha Motor Việt Nam ( sản xuất lắp ráp xe máy ) với tổng vốn đầu tư 127 triệu USD; Công ty Canon Việt Nam ( sản xuất lắp ráp máy in màu ) có tổng vốn đầu tư là 76,7 triệu USD… Các dự án này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới công nghệ, thiết bị tiên tiến, nâng cao trình độ quản lý và sản xuất, góp phần thay đổi cơ bản bộ mặt công nghiệp Thủ đô. Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ (70%) và công nghiệp (29,5%). Cơ cấu đầu tư như vậy đã góp phần không nhỏ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng phát triển ngành dịch vụ, công nghiệp. Công nghệ và các thiết bị sử dụng trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là công nghệ tiên tiến và thiết bị mới, năng suất lao động cao, sản phẩm sản xuất có chất lượng quốc tế, nhiều sản phẩm đã xuất khẩu sang các thị trường lớn trên thế giới (tivi màu, đèn hình, linh kiện máy ảnh, tủ lạnh, máy giặt..). Loại hình đầu tư chủ yếu là liên doanh (59%) và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp rất lớn vào tăng trưởng GDP, tạo việc làm, hội nhập kinh tế của thủ đô. Năm 2007, khu vực này đóng góp hơn 16% GDP, 15% tổng đầu tư xã hội, 40% gia trị sản xuất công nghiệp, 38% kim ngạch xuất khẩu, 10% ngân sách và giải quyết cho hơn 71000 lao động Thành phố Thu hút đầu tư nước ngoài của Hà Nội thời gian qua được đánh giá là rất tích cực và triển vọng của những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên, so sánh với tình hình cả nước thì về dự án đầu tư thì tỷ trọng của Hà Nội so với cả nước tăng lên ( từ 6% giai đoạn 1988 – 1990 lên 22,3% năm 2007 ) nhưng về vốn đầu tư thì lại giảm xuống từ 21% còn 11% ). Điều đó chứng tỏ quy mô vốn trung bình của các dự án đầu tư vào Hà Nội giảm. Hiện nay có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Hà Nội trên các lĩnh vực: Khách sạn, căn hộ cho thuê, tài chính, bảo hiểm, sản xuất công nghiệp…Song thiếu thồng tin chi tiết về dự án kêu gọi đầu tư như: địa điểm, diện tích, quy hoạch, giá thuê đất… Ngoài ra các nhà đầu tư còn lo ngại về điều kiện hạ tầng giao thông, bến bãi, cầu cảng và thiếu lao động có tay nghề cao…Nếu Hà Nội khắc phục tốt các hạn chế này thì việc thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài là rất khả quan. 1.2. Tổng quan về trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội 1.2.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội được thành lập theo quyết định số 4676/QĐ-UBND ngày 22-11-2007 cuẩ UBND thành phố. - Ngày 17/11/2008 UBND thành phố có quyết định 2101/QĐ-UBND thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư thành phố Hà Nội trên cơ Sở Kế hoach và đầu tư (KH&ĐT) hợp nhất trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội thuộc Sở KH&ĐT Hà Nội (cũ) và trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở KH&ĐT Hà Tây (cũ) thành trung tâm xúc tiến đầu tư thành phố Hà Nội thuộc Sở KH&ĐT Hà Nội. - Trước đây hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố không được quy về một mối như hiện nay mà là tất cả các phòng ban trong Sở KH&ĐT đêù có bộ phận này để đi thu hút vốn đầu tư cho ngành và lĩnh vực của mình. Các phòng ban hoạt động độc lập, riêng rẽ không liên kết với nhau tạo ra một sự lãng phí rất lớn, đồng thời các cấp lãnh đạo của thành phố đã nhận ra lợi ích nếu có hẳn một bộ phận chuyên trách về xúc tiến đầu tư, chính vì thế mà trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã ra đời. Hiện nay trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội có ba phòng ban chính là phòng xúc tiến đầu tư, phòng dịch vụ, phòng tổ chức dưới sự chỉ đạo của một giám đốc và một phó giám đốc cùng các trưởng phòng tương ứng. Giám đốc trung tâm xúc tiến đầu tư HN Phó giám đốc trung tâm Phòng tổ chức Phòng dịch vụ Phòng xúc tiến đầu tư 1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội . Chức năng hoạt động: Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội là đơn vị có chức năng tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội nhằm huy động các nguồn vốn trong nước và nước ngoài thực hiện các dự án đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội. . Nhiệm vụ, quyền hạn chính: - Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách, thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Thành phố Hà Nội. -Thực hiện chương trình tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu, cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư của Thành phố Hà Nội. - Xây dựng các danh mục dự án thu hút vốn đầu tư của Thành phố phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố trong từng thời kì. Giúp giám đốc Sở thực hiện việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án do UBND Thành phố giao. - Tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để vận động hỗ trợ, hướng dẫn các nhà đầu tư tìm hiểu chính sách, quy định pháp luật về đầu tư và lựa chọn lĩnh vực, địa điểm thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố Hà Nội. - Phát triển hợp tác quốc tế với các tổ chức xúc tiến đầu tư trong nước và nước ngòai, nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư của Thành phố. - Phối hợp với cơ quan có chức năng tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ giúp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực trong các hoạt động có liên quan đến chức năng và nhiệm vụ được giao. - Trung tâm được cung cấp các dịch vụ có thu, bao gồm: Cung cấp thông tin liên quan đến dự án đầu tư, tổ chức đón tiếp, tư vấn pháp luật, lập hồ sơ dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp, phiên dịch và các dịch vụ khác theo yêu cầu của nhà đầu tư và các cơ quan liên quan. - Quản lý cán bộ, viên chức; quản lý tài sản và chi tiêu các nguồn vốn được giao theo đúng chế độ, chính sách quy định của Nhà nước và Thành phố. - Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được UBND Thành phố giao và Giám đốc Sở kế hoạch và Đầu tư phân công. .Thực trạng xúc tiến đầu tư vào Hà Nội hiện nay 1.3.1 Khái niệm về xúc tiến đầu tư Vốn đầu tư FDI không tự nhiên đến với bất kì thành phố, quốc gia nào. Trong bối cảnh các thành phố đều thực hiện tự do hoá đầu tư, các công ty đa quốc gia chỉ bị hấp dẫn bởi nơi nào có điều kiện phù hợp nhất. Bởi vậy sự cạnh tranh giữa các thành phố để thu hút nguồn vốn FDI ngày càng gay gắt, nhất là trong điều kiện đầu tư quốc tế có xu hướng suy giảm trong những năm sắp tới. Cũng vì lẽ đó, thay vì đưa ra các quy tắc, luật lệ đối với các nhà đầu tư, các địa phương giờ đây lại tìm đến giải pháp xúc tiến để thu hút họ. Trọng tâm của giải pháp này là khái niệm xúc tiến đầu tư và các kĩ thuật xúc tiến đầu tư cũng như việc đưa ra các chiến lược phù hợp với các yêu cầu và điều kiện đầu tư. Vai trò ngày càng quan trọng của vốn FDI đã khiến hoạt động xúc tiến đầu tư trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, không chỉ đối với các nước phát triển mà đối với cả các nước đang phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư ngày càng trở nên phức tạp, nó không chỉ đơn thuần là mở cửa thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tiến hành vận động chung chung. Không có một cách định nghĩa nhất quán cho khái niệm xúc tiến đầu tư, song theo nghĩa hẹp, xúc tiến đầu tư được coi là một loạt các biện pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua một chiến lược marketing hỗn hợp bao gồm chiến lược sản phẩm (Product strategy), chiến lược giá cả (Pricing strategy) và chiến lược xúc tiến (Promotional strategy). Hay nói một cách cụ thể hơn xúc tiến đầu tư là các biện pháp để giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư với bên ngoài, các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương thường tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát ở các địa phương khác và nước ngoài; tham gia, tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, kinh tế ở khu vực và quốc tế. Đồng thời, họ tích cực sử dụng các phương tiện truyền thông, xây dựng mạng lưới các văn phòng đại diện ở các địa phương khác và nước ngoài để cung cấp các thông tin nhanh chóng và giúp đỡ kịp thời các nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu cơ hội đầu tư ở địa phương mình. Mặ khác,còn có quan niệm xúc tiến đầu tư không chỉ là việc quảng bá hình ảnh địa phương để thu hút đầu tư nước ngoài mà còn thu hút ngay thêm các nguồn vốn trong nước như nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, vốn đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước và của cả các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước như các Doanh nghiệp tư nhân và nguồn vốn dân cư… và trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đi theo quan niệm này. Khái quát về chương trình xúc tiến đầu tư của Quốc gia và Hà Nội giai đoạn 2008-2015 1.3.2.1. Khái quát chương trình xúc tiến đầu tư của Quốc gia: Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới. Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI - đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI. Theo các chuyên gia của UNDP : Việt Nam đang tạo được một môi trường đầu tư rất tốt, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư mong muốn đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư để tránh rủi ro. Với trên 80 triệu dân, Việt Nam là một thị trường lớn hấp dẫn nhà đầu tư. Vào WTO, Việt Nam trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư hơn bao giờ hết vì nó mở ra khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu cho các nhà đầu tư. Đặc biệt việc trở thành thành viên không thường trực của hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc đã nâng cao uy tín và vị thế của Việt nam trên trường quốc tế. Việc tăng cường phân cấp trong khâu quản lí cũng như có nhiều cải thiện tích cực về môi trường đầu tư đã và đang là tín hiệu tốt mời gọi các nhà đầu tư. Các chính sách thể hiện sự đổi mới và những cố gắng của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã được thể hiện trong Chương trình xúc tiến đầu tư Quốc gia với mười điểm chính sau : Thứ nhất : Tạo dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam; thông tin, tuyên truyền về môi trường đầu tư, chủ trương và chính sách pháp luật về đầu tư, hiệu quả đầu tư tại Việt Nam; Thứ hai : Xây dựng, duy trì cơ sở dữ liệu của một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm cần thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; Thứ ba : Thu thập dữ liệu, nghiên cứu xây dựng Danh mục dự án trọng điểm quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, quy hoạch phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật; Thứ tư : Nâng cấp, duy trì hoạt động có hiệu quả website giới thiệu đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, kết nối với các địa chỉ website có uy tín trên thế giới và các địa chỉ website của các Bộ, ngành, địa phương trong nước; Thứ năm : Hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu, lựa chọn đối tác và địa bàn đầu tư tiềm năng nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và thúc đẩy đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài; Thứ sáu : Đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng xúc tiến đầu tư cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp; Thứ bảy : Tổ chức các chương trình vận động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm ở nước ngoài, các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư ở trong nước, nhằm thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế trọng điểm, cũng như khuyến khích đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài; Thứ tám : Hỗ trợ, tư vấn pháp lý, xúc tiến, quảng bá việc triển khai các dự án có quy mô lớn, có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền và đất nước; Thứ chín : Tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và ngoài nước nhằm giới thiệu môi trường đầu tư và kết quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Thứ mười : Các hoạt động xúc tiến đầu tư khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 1.3.2.2  Trọng tâm hoạt động xúc tiến đầu tư của Hà Nội hiện nay Theo đánh giá của các nhà đầu tư, ngoài các yếu tố hấp dẫn về thị trường, nhân lực, hạ tầng, trong thời gian gần đây, Hà Nội đã có một bước chuyển biến mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, nhất là thủ tục đất đai, kết nối hạ tầng với các tỉnh miền Bắc đang được hoàn chỉnh. Nguồn vốn đầu tư vào Hà Nội dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên, hiện đang có rất nhiều nhà đầu tư lớn đang trình dự án đầu tư tại Hà Nội. Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc đang đua tranh quyết liệt để được đầu tư vào các khu đất của tại Hà Nội để dựng khách sạn 5 sao, xây dựng tổ hợp văn phòng - nhà ở cao cấp. Hướng tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, kế thừa những thành tựu phát triển đã đạt được, thành phố Hà Nội đang hướng tới mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Hà Nội đang xây dựng phương án cao phấn đấu tăng trưởng GDP giai đoạn 2008-2010 phải đạt 12-13%. Theo đó, tổng đầu tư xã hội phải tăng bình quân 25-30%/ năm, trong đó, vốn FDI cần huy động từ 2 đến 2,5 tỷ USD vốn đầu tư thực hiện trên tổng vốn đăng ký đầu tư từ 4 đến 5 tỷ USD. Để đạt được những con số trên thì Hà Nội đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm : - Rà soát và xây dựng các cơ chế, chính sách cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện thủ tục đăng kí kinh doanh, giám sát doanh nghiệp sau đầu tư. - Tổng kết thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư hàng năm, xây dựng kế hoạch xúc tiến đầu tư cho năm kế tiếp, - Xây dựng cơ sở dữ liệu về đầu tư. Cập nhật, tổng hợp, cung cấp thông tin liên quan đến công tác quản lý đầu tư và xây dựng (văn bản pháp luật của nhà nước, quy định hướng dẫn về quản lý đầu tư, xây dựng; các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành). Tổ chức đào tạo, tập huấn đầu tư, in và phát hành các ấn phẩm quảng bá hình ảnh Hà Nội; - Tổ chức khảo sát, diến đàn xúc tiến đầu tư ở trong nước và nước ngoài; Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các diễn đàn đầu tư trong và ngoài nước, tìm hiểu môi trường đầu tư, hố trợ nhà đầu tư mở văn phòng giao dịch, văn phòng đại diện, - Các chương trình hợp tác trong Vùng kinh tế, hợp tác phát triển với các tỉnh thành phố trong và ngoài nước; Tổng kết tình hình thực hiện hợp tác phát triển với các Tỉnh, Thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và lân cận, - Tổng hợp danh mục đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất theo quyết định 15/2007/QĐ – UBND. - Hướng dẫn thực hiện “Quy chế xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia”; Hướng dẫn các sở, ban, ngành xây dựng và thực hiện kế họach xúc tiến đầu tư, - Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; xác định các ngành nghề, lĩnh vực và đối tác cần tập trung kêu gọi đầu tư mang lại hiệu quả cao, - Đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư đạt tính chuyên nghiệp. . Phân tích thực trạng xúc tiến đầu tư của Hà Nội hiện nay Trước đây các hoạt động xúc tiến đầu tư thường do các công ty, phòng ban, cơ quan tự làm lấy, không có một đầu mối thống nhất nào cho hoạt động này. Và dù mới được thành lập hơn một năm nhưng trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã và đang làm hết sức mình để chứng minh vai trò đầu mối các hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn Hà Nội. Nhận thức rất rõ về vai trò của nguồn vốn đầu tư đối với việc phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội hiện nay thì hoạt động xúc tiến đầu tư của trung tâm đang được diễn ra theo các bước: + Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư + Xây dựng các mối quan hệ đối tác + Xây dựng hình ảnh Hà Nội trong con mắt của các nhà đầu tư và trên thế giới + Cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư Các bước trên hiện đang được trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội chia đều cho ba phòng ban chính trong trung tâm là phòng tổ chức, phòng xúc tiến đầu tư và phòng dịch vụ với nhiệm vụ và nghĩa vụ cụ thể như sau: - Phòng Hành chính – Tổ chức: + Xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động hàng năm, hàng quý và tổ chức việc thực hiện kế hoạch. + Tham mưu công tác quản lý cán bộ viên chức, quản lý tài sản và chi tiêu các nguồn vốn được giao của trung tâm theo đúng chế độ, chính sách quy định của Nhà nước, Thành phố và Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội. Phòng xúc tiến đầu tư: + Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài của thành phố Hà Nội. + Thực hiện chương trình tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu, cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư của thành phố Hà Nội/ + Xây dựng danh mục dự án thu hút vốn đầu tư trong thành phố phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì. Giúp Giám đốc Sở KH&ĐT thực hiện việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối vơi các dự án do UBND thành phố giao. + Tổ chức xúc tiến đầu tư ở trong nước và nước ngoài để vận động, hỗ trợ, hướng dẫn các nhà đầu tư tìm hiêủ chính sách pháp luật về đầu tư và lựa chọn lĩnh vực, địa điểm thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội. + Phát triển hợp tác quốc tế với các tổ chức xúc tiến đầu tư trong nước vừ nước ngoài, nhằm đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư của thành phố. Phòng dich vụ: + Phối hợp với các cơ quan có chức năng tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ giúp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực trong các hoạt động có lien quan đến chức năng và nhiệm vụ được giao. + Thực hiện viêc cung cấp các dịch vụ, bao gồm: Cung cấp thông tin lien quan đến dự án đầu tư, tổ chức đón tiếp, tư vẫn pháp luật, lập hồ sơ dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp, phiên dịch và các dịch vụ khác theo yêu cầu của nhà đầu tư và các cơ quan liên quan. Trên cơ sở phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cho các phòng ban thì các bước mà trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đang thực hiện để trở thành một cơ quan xúc tiến đầu tư hiệu quả cao được các tổ chức khác thừa nhận đang được tiến hành một cách cụ thể như sau: Trước hết về “Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư” Chiến lược xúc tiến đầu tư là bản đồ chỉ dẫn để các cơ quan xúc tiến đạt được mục tiêu, vì vậy các hoạt động như chuẩn bị tài liệu, tổ chức hội thảo đầu tư, tổ chức các chuyến tham quan thực địa cần được sắp xếp trong một kế hoạch tổng thể để đạt được hiệu quả. Kế hoạch này cần bắt đầu bằng việc tìm hiểu những điểm gì mà chúng ta có thể đem lại cho các nhà đầu tư nước ngoài và chúng có lợi thế cạnh tranh gì so với các địa phương khác trong nước và trong khu vực… Sau đó là phải xác định ngành, lĩnh vực cũng như các nhà đầu tư tiềm năng có nhiều khả năng đầu tư và các lĩnh vực này. Khi đã xác định được các ngành nghề, lĩnh vực được nhiều nhà đầu tư quan tâm chúng ta cần xác định các khu vực trọng điểm của hoạt động xúc tiến đầu tư này. Vì các đặc tính thường xuyên thay đổi do sự phát triển của môi trường bên trong và những yếu tố bên ngoài nên cơ quan xúc tiến đầu tư cần phải thấy trước ảnh hưởng của những sự thay đổi nảy ví dụ những tiến bộ trong giáo dục, cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút đẩu tư trong tương lai nên sẽ cần đưa các lĩnh vực này vào mục tiêu hướng tới. Một chiến lược xúc tiến đầu tư không chỉ tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề cần hướng tới trong tương lai gần mà còn phải thể hiện được những lĩnh vực, ngành nghề cần hướng tới trong trung hạn và dài hạn. Đồng thời các cơ quan xúc tiến đầu tư phải đóng vai trò trong việc cải thiện môi trường đầu tư của đất nước để các ngành có trình độ phát triển cao hơn sẽ xem đây là một điểm đến của đầu tư. Bước cuối cùng của quá trình xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư là lập được một kế hoạch rõ rang. Trong đó đã lượng hóa các nguồn lực, thời gian thực hiện chiến lược, và xác định các hoạt động cần thiết để thu hút được các ngành công nghiệp có trình độ phát triển cao hơn. Dựa trên những yêu cầu trên trong thời gian qua trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã xây dựng Chương trình xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội gia đoạn 2008 -2010, định hướng đến 2015 ( Chương trình 34 của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ) trong đó đã nêu rõ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và thu hút đầu tư gia doạn 2008 – 2010, định hướng đến 2015, các quan điểm và mục tiêu xúc tiến đầu tư cũng như một số giải pháp chính xúc tiến đầu tư giai đoạn 2008 – 2010. Cụ thể trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã đưa ra danh mục một số ngành, lĩnh vực kêu gọi đầu tư: + Phát triển trung tâm tài chính ngân hàng. + Đầu tư phát triển các khu đô thị mới, trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê, khu triển lãm. + Phát triển trung tâm đào tạo – nghiên cứu – phát triển. + Đầu tư và hợp tác phát triển khu công nghệ cao tại Hà Nội + Cải tạo và phát triển các khu tập thể cũ thành các khu đô thị mới, hiện đại với hạ tầng hoàn chỉnh. + Phát triển các ngành công nghiệp điện tử, tin học, thiết bị điện, cơ – kim khí, vật liệu xây dựng cao cấp, trang phục thời trang và thể thao… + Hình thành và phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao + Phát triển các dự án khu du lịch – dịch vụ, khu nghỉ dưỡng cao cấp. + Đầu tư phát triển một số lĩnh vực y tế chuyên sâu và một số bệnh viện hiện đại đạt tiêu chuản quốc tế. + Đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. + Đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng. Bên cạnh đó còn có danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và đặc biệt ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư như: Danh mục dự án khuyến khích đầu tư + Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên; + Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 30% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí sản xuất); + Sử dụng nhiều lao động và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam; + Chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản; + Bảo quản thực phẩm; bảo quản nông sản sau thu hoạch; + Thăm dò; khai thác và chế biến sâu khoáng sản; + Phát triển công nghiệp hoá dầu; xây dựng, vận hành đường ống dẫn dầu, dẫn khí, kho, cảng dầu; + Sản xuất thiết bị, cụm chi tiết trong khai thác dầu khí, mỏ, năng lượng; sản xuất thiết bị nâng hạ cỡ lớn; + Sản xuất hộp cao cấp, hợp kim, kim loại mầu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp dùng trong công nghiệp; + Sản xuất các máy công cụ gia công kim loại, thiết bị luyện kim; Chế tạo thiết bị cơ khí chính xác, thiết bị kiểm tra, kiểm soát an toàn, sản xuất khuôn mẫu cho các sản phẩm kim loại và phi kim loại; + Sản xuất khí cụ điện trung, cao thế; + Sản xuất các loại động cơ diezen có công nghệ, kỹ thuật tiên tiến; sản xuất máy, phụ tùng ngành động lực, thủy lực, máy áp lực; + Sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp thiết bị, xe máy thi công xây dựng; sản xuất thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải; + Đóng tàu thủy; sản xuất thiết bị phụ tùng cho các tàu vận tải, tàu đnh cá; + Sản xuất thiết bị thông tin, viễn thông; + Sản xuất linh kiện, thiết bị điện tử, công nghệ tin học; + Sản xuất thiết bị,._. phụ tùng, máy nông nghiệp, thiết bị tưới tiêu; + Sản xuất các loại nguyên liệu thuốc trừ sâu bệnh; + Sản xuất các loại hoá chất cơ bản, hoá chất tinh khiết, thuốc nhuộm, các loại hoá chất chuyên dụng; + Sản xuất nguyên liệu chất tẩy rửa, phụ gia cho ngành hóa chất; + Sản xuất xi măng đặc chủng, vật liệu composit, vật liệu cách âm, cách điện, … Tuy nhiên, do sự mở rộng địa giới hành chính kết hợp Hà Nội (cũ) và Hà Tây (cũ) thành Hà Nội (mói hiện nay) thì Chương trình 34 đang được rà soát và điều chỉnh lại cho phù hợp với sự thay đổi này. Bên cạnh đó để có được một chiến lược hoàn chỉnh trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội cũng đã xác định rõ cơ hội và thách thức đối với Hà Nội trong công tác xúc tiến đầu tư giai đoạn 2009 – 2015 để từ đó chọn hướng đi sao cho phát huy được những thuận lợi đang có và khắc phục những nhược điểm còn thiếu sót: *Tiềm năng và thế mạnh của Hà Nội + Thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam + Có lịch sử văn hoá lâu đời + Trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước + Chính trị ổn định, an ninh và trật tự xã hội đảm bảo + Nguồn nhân lực dồi dào chất lượng cao, giá rẻ + Thị trường lớn, hạ tầng kỹ thuật đô thị phát triển + Chi phí hợp lý + Diện tích lớn, quy mô dân số lớn và trẻ, lao động có trình độ cao *Điểm yếu: + Mật độ dân số lớn. + Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư + Các ngành công nghiệp phụ trợ bổ sung cho hoạt động sản xuất còn yếu + Mức sống chưa cao so với một số địa phương khác trong nước cũng như trong khu vực + Thị trường hiện tại chưa xứng đáng với tiềm năng thế mạnh của Thủ đô *Cơ hội: + Việt Nam gia nhập WTO, xu hướng đầu tư vào VIỆT NAM tăng mạnh tạo điều kiện cho Hà Nội được biết đến nhiều hơn với vai trò là trung tâm giao lưu kinh tế - văn hóa – chính trị của Việt Nam + Cơ chế đầu tư ngày càng được cải thiện, hấp dẫn các nhà đầu tư hơn *Thách thức: + Cạnh tranh thu hút đầu tư của các địa phương khác và các nước trong khu vực. + Làn sóng di dân dẫn đến thiếu hụt lao động có kỹ năng Hai là “Xây dựng các mối quan hệ đối tác hiệu quả” Để hoạt động xúc tiến đầu tư thành công đòi hỏi sự hợp tác hiệu quả giữa cơ quan xúc tiến đầu tư với các tổ chức khác trong nước cũng như nước ngoài.Trong quá trình xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư, quan hệ với các cơ quan Nhà nước và tư nhân có thể hỗ trợ trong việc xây dựng và truyển bá hình ảnh, tạo ra đầu tư, và phục vụ nhà đầu tư cũng được xem là các mối quan hệ đối tác tiềm năng. Không phải tất cả hoạt động đều có thể thu được lợi ích từ các mối quan hệ này, do đó chúng ta cần xác định hoạt động nào thì nên phối hợp với cơ quan nào là tốt nhất, từ đó ta có thể tối đa hóa hiệu quả sử dụng các nguồn lực sẵn có và đảm bảo rằng các bên liên quan đang hoạt động vì một mục đích chung. Xây dựng ma trận quản lý đối tác Các lĩnh vực xúc tiến đầu tư Đối tác Vai trò Tác động Mức độ quan tâm Chiến lược quản lý xxx A m Cao Cao yyy B n Thấp Thấp zzz C p Trung bình Trung bình Trước hết cơ quan xúc tiến đàu tư cần xác định các loại quan hệ đối tác cần thiết. Không một cơ quan, đơn vị, các nhân nào có thể nói rằng họ đủ tiền, năng lực để thực hiện được tất cả các hoạt động chức năng của mình. Do đó các đối tác bên ngoài được mời cùng đi trên một con thuyền để cung cấp tài chính hay thực hiện các nhiệm vụ khác vượt quá khả năng của ta. Bên cạnh đó, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan xúc tiến đầu tư thường chồng chéo với các Bộ, các cơ quan tư nhân hoặc các phòng thương mại.Chính bởi sự hạn chế về quyền lực như vậy mà các cơ quan nên liên kết lại với nhau để làm rõ vai trò và nhiệm vụ cũng như ngĩa vụ của các bên. Thêm vào đó các thông tin mà ta lấy được thường chỉ ở dạng sơ khai và được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau đòi hỏi ta phải xác minh và tổng hợp lại nhưng nếu có qun hệ với các nhà cung cấp thông tin chuyên nghiệp cũng như các trung tâm tổng hợp, thống kê thì ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí. Đặc biệt, để tiếp xúc với các nhà đàu tư tiềm năng thì trước tiên ta phải tiếp xúc với các nhà đầu tư trước đó. Các cơ quan xúc tiến đầu tư cần duy trì mối quan hệ tốt với các nhà đầu tư đang hoạt động và bất kì thực thể nào vì đó sẽ là cầu nối cho các nhà đầu tư khác đến với địa phương. Chính vì những lí do trên mà hiện nay trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã, đang và sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ với các cơ quan xúc tiến đầu tư, các Bộ, Sở ban ngành khác trong Hà Nội cũng như ở các địa phương khác và Trung ương. Ví dụ như phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Công Thương tổ chức các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch. Không chỉ có vậy, trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội còn duy trì mối quan hệ với các Đại sứ quán; chi nhánh, văn phòng đại diện của các Tập đoàn, công ty lớn đặt tại Hà Nội. Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội là đầu mối cung cấp thông tin đầu tư, giúp nhà đầu tư có thể hiểu rõ hơn về môi trường đầu tư kinh doanh tại Hà Nội, tổ chức các chuyến đi thăm thực địa, chỉ ra các ưu đãi mà nhà đầu tư được hưởng.. Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội còn có mối quan hệ với các văn phòng đặt tại nước bạn để cung cấp thông tin đầu tư tại Hà Nội, quảng bá về Hà Nội với các nhà đầu tư như văn phòng tại Nhật. Đặc biệt khi thiết lập một quan hệ đối tác cần tránh: + Thiếu mục tiêu thống nhất, tiềm ẩn sự nhầm lẫn + Vai trò, trách nhiệm không rõ ràng. + Không có thoả thuận về quy chế hoạt động. + Không nêu rõ về khung thời gian. + Thiếu rõ ràng về sự đóng góp của các bên Ba là “Xây dựng hình ảnh Hà Nội nổi bật hơn, điểm đến lý tưởng của các nhà dầu tư” Có thể nói nền tảng của công tác xúc tiến đầu tư chính là các hoạt động xây dựng nhận thức và hình ảnh về địa phương cũng như quốc gia. Nếu nhà đầu tư có nhận thức tiêu cực hoặc thiếu hiểu biết về đất nước và các lợi thế so sánh của Hà Nội thì các cố gắng của cơ quan xúc tiến đầu tư sẽ không đem lại hiệu quả cao. Trong quá trình ra quyết định của nhà đầu tư, sự nhận thức của họ là quá trình gắn với thực tế. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư thường không có đủ thông tin cần thiết do đó họ đưa ra các giả định và suy luận dựa trên những thông tin đã có và lời khuyên của những người đi trước. Với một thông tin không đầy đủ hoặc sai lệch nhà đầu tư có thể đưa ra một kết luận không chính xác về địa điểm đầu tư. Do đó các trung tâm xúc tiến đầu tư phải làm sao để luồng thông tin tới các nhà đàu tư được nhanh nhất và chính xác nhất, đó cũng là lý do tại sao ta phải duy trì tốt và luôn mở rông các mối quan hệ. Nắm bắt được tâm lý trên, trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã phối hợp cùng các Ban, ngành có liên quan đang từng bước đẩy mạnh hình ảnh của Hà Nội, để các nhà đầu tư không chỉ biết rằng Hà Nội là thành phố hòa bình, có môi trường đầu tư tương đối ổn định mà còn là điểm đến lý tưởng với rất nhiều chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư mới. Để có được một chiến lược xây dựng hình ảnh về Hà Nội trước hết ta phải cho các nhà đầu tư thấy rõ những lợi thế của Hà Nội, về môi trường đầu tư tại Hà Nội được đánh giá như thế nào thông qua các báo cáo của các Tổ chức phi chính phủ và chính phủ như báo cáo của Ngân hàng thế giới, của các công ty tư vấn tư nhân như Price Waterhouse Coopers, KPMG… Bên cạnh đó trung tâm xúc tiến đầu tư không những chỉ ra được lợi ích mà Hà Nội mang lại cho các nhà đầu tư mà còn phải gây ấn tượng rằng ta đang có những thứ mà họ cần. Ví dụ khi ta nhấn mạnh vào chi phí lao động rẻ thì vẫn phải nhắc tới là lực lượng lao động lành nghề… Đồng thời ta cũng phải chỉ rõ các thế mạnh, không chỉ là những thế mạnh chung của Hà Nội như: có tốc độ cải cách nhanh chóng, các vấn đề về môi trường đàu tư đang được hoàn thiện, có lực lượng lao động trình độ cao với chi phí vừa phải, mạng lưới cơ sở hạ tầng và viễn thông đã và đang được xây dựng cho phù hợp với mong muốn của các nhà đầu tư…mà chúng ta còn phải chỉ rõ những thế mạnh của Hà Nội trong một số ngành nghề, lĩnh vực ví dụ tiềm năng về du lịch của Hà Nội vẫn chưa được khai thác một cách đúng mức nên khi các nhà đầu tư muốn đầu tư vào đây thì không chỉ tận dụng được nguồn lao động trình độ cao với chi phí hợp lý mà còn có thể tạo được vị thế trong ngành du lịch một cáh dễ dàng hơn… Để đưa được những vấn đề, thông tin trên tới các nhà đầu tư, các trung tâm xúc tiến đầu tư cần lựa chọn những công cụ marketing phù hợp nhất để truyền thông điệp. Việc lựa chọn công cụ phù hợp có vai trò quan trọng trong việc tối đa hóa khả năng tác động của các hoạt động xúc tiến. Hiện nay trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đang sử dụng các công cụ như công cụ truyền tin: bao gồm các cuốn sách mỏng giới thiệu, báo cáo nghiên cứu từng ngành, CD-Rom…Các buổi triển lãm hội thảo phối hợp với các ban ngành, đoàn thể khác; và trang web đưa thông tin, các đoạn video giải thích tại sao nên đầu tư vào nước bạn đang được triển khai. Cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư Một chiến dịch thu hút đầu tư thành công sẽ mang lại kết quả thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư vào địa phương này, dẫn đến họ sẽ muốn tham quan địa điểm đầu tư. Đây chính là thời điểm thực hiện các hoạt động hỗ trợ nhà đầu tư. Có thể nói rằng đây là thời điểm quan trọng đối với các cơ quan xúc tiến đầu tư vì nếu không muốn các nhà đầu tư sẽ không mất thời gian, chi phí đến nơi tiếp nhận đầu tư làm gì. Nếu chăm sóc tốt thì khả năng biến chuyến tham quan thực địa thành đầu tư thật là một điều dễ dàng. Để đạt được vậy cơ quan xúc tiến đầu tư cần chuẩn bị cho chuyến thăm thực địa một cách chu đáo bằng cách lên kế hoạch chuẩn bị và tổ chức chương trình cho chuyến đi. Sau đó là các công việc sau chuyến thăm thực địa và khi họ đã muốn đâu tư thì phải theo dõi và hỗ trợ họ khi cần. Hiện nay trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội đã phối hợp với các cơ quan có liên quan để có thể tiếp cận nhà đầu tư một cách sớm nhất, đồng thời tư vấn hỗ trợ các nhà đầu tư miến phí như đi thăm thực địa, các công tác xin cấp giấy phép kinh doanh, giải phóng mặt bằng… Trong thời gian tới khi đã tự chủ về mặt tài chính, thì trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội sẽ có thêm các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư có thu phí. 1.5 Đánh giá thực trạng xúc tiến đầu tư nước ngoài của Hà Nội 1.5.1 Kết quả công tác xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay: Họat động xúc tiến đầu tư trên địa bàn Thành phố đã được tiến hành từ lâu với sự tham gia của các Bộ, ngành, Doanh nghiệp TW cũng như doanh nghiệp Thành phố. Tuy nhiên trước năm 2001 các hoạt động xúc tiến đầu tư chủ yếu do các doanh nghiệp tự thực hiện hoặc theo các chương trình của TW, Thành phố chưa thực hiện xúc tiến đầu tư một cách chủ động, chưa có chương trình riêng theo định hướng thu hút đầu tư trong chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hộ nhập quốc tế sâu rộng. Tình hình chính trị, kinh tế thế giới có nhiều biến động. Các quốc gia, địa phương cạnh tranh gay gắt nhằm thu được nguồn vốn lớn nhất, them vào đó là các bí quyết công nghệ và kinh nghiệm quản lý điều hành để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam chưa ổn định do môi trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng và kém cạnh tranh so với một số nước trong khu vực. Từ năm 2001, Thành phố đã xây dựng và triển khai tích cực hoạt động xúc tiến đầu tư, du lịch và thương mại. Ngân sách thành phố chi cho xúc tiến đầu tư trong giai đoạn 2001-2007 là 5 tỉ đồng/năm. Công tác vận động, thu hút đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài đã được tiến hành đồng bộ hơn, chủ động hơn và hiệu quả hơn. Thành phố đã tổ chức được nhiều đoàn đi xúc tiến đầu tư, du lịch; trao đổi, học tập kinh nghiệm với các tổ chức, đơn vị, thành phố trong và ngoài nước… 1.5.1.1 Một số thành tựu trong công tác của trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội - Trên quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của thủ đô Hà Nội đã xây dựng và công bố Danh mục các dự án kêu gọi FDI, tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên như phát triển các nghành công nghiệp chủ lực, phát triển hệ thống dịch vụ hiện đại, phát triển xây dựng kỹ thuật hạ tầng đô thị. Đồng thời đã thực hiện in ấn, đóng quyển các danh mục các dự án kêu gọi đầu tư bằng các thứ tiếng: Anh, Nhật, Trung, Nga… để thực hiện công tác xúc tiến phù hợp với thị trường các nước. Tổng hợp, rà soát và đề xuất điều chỉnh sửa đổi, bổ sung chương trình 34 của UBND Thành phố về xúc tiến đầu tư của Thành phố giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến 2015 cho phù hợp với tình hình hiện tại sau khi Hà Nội được mở rộng. - Hoàn thành xây dựng và chỉnh sửa, bổ sung đĩa CD-ROM giới thiệu về tiềm năng và cơ hội đầu tư của thành phố phục vụ các đoàn đi xúc tiến, kêu goi đầu tư; biên soạn và in sách “Hà Nội, tiềm năng và cơ hội đầu tư”; in tờ giấy giới thiệu về tình hình và danh mục các dự án kêu gọi vốn ODA ... - Quảng bá và kêu gọi đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng (Đài truyền hình, Báo Vietnam Investment Review…) Các nội dung quảng bá trên đã được nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm tìm hiểu và xúc tiến trao đổi, làm việc trực tiếp với các cơ quan chức năng của Thành phố . Duy trì thông tin liên lạc với các Đại sứ quán của Việt Nam tại nước ngoài, lãnh sự quán của Việt Nam tại Trung Quóc, các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán nước ngoài tại Hà Nội cung cấp các thông tin liên quan về chính sách, cơ hội đầu tư. Phối hợp với trung tâm xúc tiến đầu tư phía Bắc tham gia tiếp đón các đoàn khách, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như việc thiết lập mối quan hệ liên kết trong việc cung cấp thông tin và trao đổi về các chương trình xúc tiến đầu tư. Thiết lập mối quan hệ với một số tổ chức, tập đoàn nước ngoài trong việc phối hợp thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư như cung cấp thông tin đầu tư cho doanh nghiệp, hỗ trợ tổ chức hội thảo đầu tư. Phối hợp chặt chẽ với các công ty tư vấn đầu tư trong nước, các công ty tư vấn đầu tư nước ngoài, các văn phòng tư vấn luật nước ngoài, văn phòng đại diện các tập đoàn đặt tại Hà Nội trong việc trao đổi thông tin về cơ hội môi trường đầu tư, cơ chế chính sách, thị trường quốc tế, xu hướng đầu tư quốc tế. - Tổ chức thành công nhiều hội nghị, diễn đàn, hội thảo giới thiệu tiềm năng, kêu gọi đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và tại các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng về vốn, công nghệ, trình độ quản lý (Thụy Sỹ, Hàn Quốc,Nhật Bản ,Trung Quốc…) Phối hợp với Lãnh sự quán Việt Nam tại Côn Minh, Sở Ngoại vụ, Sở Công Thương, trung tâm xúc tiến Thương Mại Hà Nội tổ chức Hội thảo giới thiệu về tiềm năng hợp tác xúc tiến đầu tư, Thương mại Côn Minh tháng 6/2008 trong khuôn khổ chương trình GMS – Những thành phố tiểu vùng sông Mekong và vùng biên. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của trên 150 doanh nghiệp Côn Minh và vùng Vân Nam, thuyết trình và trao đổi hỏi đáp tại hội thảo đã đáp ứng được một số vấn đề mà nhà đầu tư và các đối tác thương mại quan tâm, đặc biệt lĩnh vực đầu tư sản xuất, lĩnh vực đầu tư bất động sản và hợp tác trao đổi thương mại. Tham gia công tác chuẩn bị và lên kế hoạch triển khai chương trình Những ngày văn hóa Hà Nội tại Matxcova vào tháng 7, trong đó có Hội thảo xúc tiến đàu tư – thương mại – du lịch. Hội thảo đã thu hút 200 đại biểu đại diện cho hơn 100 doanh nghiệp, các hiệp hội, các đơn vị liên quan và chính quyền 2 thành phố tham dự. Hội thảo xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch Hà Nội đã thành công tốt đẹp, kết thúc hội nghị đã có 9 văn bản hợp tác được kí kết giữa Sở KH&ĐT Hà Nội, các doanh nghiệp thành phố Hà Nội và các doanh nghiệp Thành phố Matxcova và Liên bang Nga mở ra bước phát triển mới trong hợp tác đầu tư, thương mại, du lịch giữa Thành phố Hà Nội và Thành phố Matxcova nói riêng hay giữa Việt Nam – Liên bang Nga nói chung, đồng thời góp phần vun đắp tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước. - Thực hiện Thỏa thuận hợp tác, nhiều chương trình xúc tiến đầu tư có sự phối hợp với các tỉnh, Thành phố được triển khai, nhiều buổi trao đổi kinh nghiệm xây dựng quy hoạch, quản lý đô thị, xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị…được tổ chức. Giới thiệu một số Doanh nghiệp của Hà Nội và một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài về đầu tư tại các địa phương lân cận. Các tỉnh, Thành phố cùng cam kết hợp tác phát triển trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, du lịch, y tế, giáo dục, trọng tâm là phát triển kết cấu hạ tầng để xây dựng hành lang giao thông hướng biển Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh – và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. - Phối hợp với các Bộ, Sở, Ngành triển khai thực hiện các dự án hỗ trợ kĩ thuật “ Phát triển đô thị gắn kết với phát triển UMRT ở Hà Nội “, sử dụng nguồn tài trợ không hoàn lại của JICA. Tháng 9/2008 đã phối hợp với các Sở Tìa nguyên môi trường, Giao thông vận tải, các Bộ, ngành lien quan hỗ trợ đoàn chuyên gia nghiên cứu của JICA sang làm việc để đi đến kí kết” bản phạm vi công việc của dự án “ vào tháng 12/2008. - Tổ chức nhiều hội thảo trong nước để kêu gọi đầu tư, tổ chức các đoàn công tác để trao đổi kinh nghiệm kêu gọi đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, quản lý Nhà Nước, triển khai Luật Doanh nghiệp.. Phối hợp với trung tâm Xúc tiến thương mại – Sở công thương triển khai tổ chức hội thảo xúc tiến đầu tư tại hội chợ Quốc tế Hà Nội tháng 10/2008. Hội chợ đã thu hút trên 250 doanh nghiệp, các Đại sứ quán, các Tổ chức xúc tiến đầu tư, thương mại đặt tại Hà Nội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tại hội thảo nhiều vấn đề mà các nhà đầu tư, doanh nghiệp nêu ra như vấn đề về định hướng phát triển kinh tế xã hội của Thành phố sau khi sáp nhập, chủ trương thu hút đầu tư,chính sách hỗ trợ của thành phố trong việc giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư… đã được Phó chủ tịch Thành phố trực tiếp trả lời. Ngoài ra, Hội thảo cũng tạo cơ hội để một số doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, kinh doanh Bất động sản, trung tâm thương mại giới thiệu, thuyết trình một số đự án kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia.. Phối hợp với Sở ngoại vụ, các Sở KH&ĐT Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai ttor chức thành công tọa đàm doanh nghiệp về triển khai Xúc tiến hợp tác đầu tư – Thương mại với Vân Nam trong khuôn khổ hội nghị hợp tác kinh tế 5 tỉnh, thành phố Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh lần thứ IV tổ chức tại Quảng Ninh từ ngày 18 đến 20/11/2008. - Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã phối hợp với Bộ ngoại giao tổ chức báo cáo giới thiệu về tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đô, đồng thời tăng cường hợp tác với các đại diện ngoại giao của nước ta ở nước ngoài để quảng bá kêu gọi đầu tư… Tiếp đón và tham gia cùng lãnh đạo Thành phố, lãnh đạo Sở khoảng 50 đoàn khách, nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu về cơ hội hợp tác đầu tư, thương mại tại Hà Nội, chủ yếu các nhà đầu tư năm 2008 quan tâm đến lĩnh vực đầu tư bất động sản, dịch vụ công nghiệp và một số lĩnh vực khác về dịch vụ tài chính, ngân hàng… 1.5.1.2. Một số hạn chế chính trong công tác xúc tiến đầu tư hiện nay: Công tác xúc tiến đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: Thứ nhất: Môi trường đầu tư Hà Nội vẫn còn một số hạn chế như chi phí đầu tư, giá thuê hạ tầng ở Hà Nội còn cao so với một số thành phố khác trong khu vực. Thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư dù đã được cải thiện nhưng chưa thật sự thông thoáng. Công tác giải phòng mặt bằng và giải quyết các thủ tục sau cấp phép chậm, chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng cao hơn so với các tỉnh khác. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của các vùng xung quanh chưa đồng bộ đáp ứng yêu cầu của các dự án đầu tư nhất là các dự án đầu tư nước ngoài. Hầu hết các ngành công nghiệp bổ trợ ở Hà Nội không thể cung cấp cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài các nguyên liệu thô phục vụ sản xuất đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư. Do đó các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài phải nhập nguyên vật liệu sản xuất của họ từ bên ngoài vào Việt Nam, điều đó làm tăng thêm chi phí vận tải dẫn đến tăng giá thành sản phẩm, làm giảm tính hấp dẫn đầu tư ở Hà Nội. Thứ hai: Hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài hạn; còn dàn trải, chưa tập trung vào một số ngành, lĩnh vực và đối tác tiềm năng. Thứ ba: Các chương trình xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, xúc tiến du lich của thành phố chưa thực sự gắn kêt, công tác trao đổi thông tin giữa các chương trình thiếu thường xuyên. Sự phối hợp hoạt động giữa các Bộ, ngành, cơ quan TW và giữa các Sở, ngành, đơn vị của thành phố chưa đồng bộ, chặt chẽ. Thứ tư: Viêc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xúc tiến đầu tư của thành phố còn hạn chế. Thứ năm: Xét trên bình diện chung chưa có một chương trình xúc tiến đầu tư thống nhất trên cả nước nên hoạt động này nhiêu năm qua Hà Nội cũng như các địa phương thực hiện phân tán rời rạc, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài hạn. Thứ sáu: Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội mới được thành lập nên chưa phát huy hết khả năng, đồng thời điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ. Thêm vào đó hoạt động xúc tiến đầu tư mới chỉ chú trọng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài chưa tập trung xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đẩu tư trong nước. Công tác xúc tiến đầu tư thường tiến hành riêng rẽ, thiếu sự chỉ đạo thống nhất làm giảm hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư… 1.5.2 Đánh giá hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư ở Hà Nội hiện nay Để có một Hà Nội như ngày hôm nay phải kể đến lượng vốn mà Hà Nội thu hút được trong các năm qua, không chỉ có nguồn vốn đầu tư xã hội mà còn có đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn hỗ trợ đầu tư phát triển (ODA) hay nói cách khác gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Đóng góp nhiều nhất phải kể đến nguồn vốn đầu tư trong nước luôn chiếm trên 80% trong tổng số nguồn vốn Hà Nội có được: Bảng1: Vốn đầu tư xã hội chia theo nguồn vốn giai đoạn 2001 – 2008 TT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số 18.120 22.185 24.957 29.027 35.418 56.953 62.947 70.000 I Vốn trong nước 15.870 19.010 21.457 25.247 28.974 49.164 54.639 60.800 1 Vốn đầu tư của Nhà nước 3.270 4.661 5.357 6.015 6.233 6.402 6.189 6.880 2 Vốn doanh nghiệp Nhà nước 8.180 8.469 8.800 9.388 11.144 15.817 17000 18.900 3 Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước 4.420 5.880 7.300 9.844 11.597 26.945 31.450 350020 -DN ngoài NN 3.120 4.450 5.750 8.125 9.697 24.840 29.000 32.170 -Dân tự đầu tư 1.300 1.430 1.550 1.719 1.900 2.105 2.450 2.850 II Vốnnướcngoài 2.250 3.175 3.500 3.780 6.444 7.789 9.380 9.200 1 Vốn FDI 1.925 2.556 2.800 3.280 5.423 7.453 7.877 8.760 2 Vốn ODA 325 619 700 500 1.021 336 431 440 Tỷ trọng 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Vốn trong nước 87,58 85,69 85,98 86,98 81,81 86,32 86,8 86,86 I Vốn đầu tư của Nhà nước 18,05 21,01 21,46 20,72 17,6 11,24 9,83 9,83 1 Vốn doanh nghiệp Nhà nước 45,14 38,17 35,26 32,34 31,46 27,77 27 27 2 Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước 24,39 26,5 29,25 33,91 32,74 47,31 50,03 50,03 3 -DN ngoài NN 17,22 20,06 23,04 27,99 27,38 43,61 45,96 45,96 -Dân tự đầu tư 7,17 6,45 6,21 5,92 5,36 3,7 4,07 4,07 II Vốn nước ngoài 12,42 14,31 14,02 13,02 18,19 13,68 13,14 13,14 1 Vốn FDI 10,62 11,52 11,22 11,3 15,31 13,09 12,51 12,51 2 Vốn ODA 1,79 2,79 2.80 1,72 2,88 0,59 0,63 0,63 (Đơn vị: tỷ đồng) Giai đoạn 2001 – 2007 tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Hà Nội đạt 246,607 tỷ đồng (bình quân 35,658 tỷ đồng/năm), với tốc độ tăng trung bình đạt 22,25%. Vốn đầu tư xã hội tăng từ 18,120 tỷ đồng năm 2001 lên 62,947 tỷ đông fnawm 2007. Tỷ trọng của tổng đàu tư xã hội trên tổng sản phẩm trong nước ở Hà Nội luôn giữ ở mức cao. Năm 2007, Thành phố cấp đăng kí kinh doanh cho 10.900 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng kí khoảng117.000 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo ngành phản ứng từ mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Thủ đô theo hướng dịch vụ- công nghiệp – nông nghiệp. Tính chung cả giai đoạn 2001 – 2007, cơ cấu vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Thành phố là: công nghiệp, xây dựng 35,74%, dịch vụ 62,62%, nông lâm thủy sản 1,64%. Có thể thấy trong các năm qua nguồn vốn từ các doanh nghiệp Nhà nước đang có tỷ trọng giảm dần trong khi các thành phần kinh tế ngoài nhà nước lại có tỷ trọng vốn tăng dần từ 24,39% năm 2001 lên 49,96 % năm 2007 và còn có xu hướng tăng thêm, điều đó xảy ra do các doanh nghiệp Nhà nước đang tiến hành cổ phần hóa để nâng cao chất lượng phục vụ cho người dân, đảm bảo cuộc sống người dân ngày càng tốt lên Bên cạnh đó, từ bảng trên ta còn thấy khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển và đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội Hà Nội. Là một trong những địa phương đứng đầu cả nước về thu hút vốn FDI, Hà Nội tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư để các nhà đầu tư có thể thực hiện các dự án một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Bảng2 :Một số số liệu về các dự án FDI trên địa bàn Hà Nội (đến hết 2007) Tổng số dự án được cấp giấy phép 1088 Quan hệ hợp tác đầu tư với quốc gia và vùng lãnh thổ 41 nước và vùng lãnh thổ Số dự án còn hiệu lực 770 Tổng vốn đăng kí đầu tư 13 tỷ USD Doanh thu hàng năm đạt được 2.8 tỷ USD Tổng vốn đầu tư đăng kí còn hiệu lực 9.65 tỷ USD Kim ngạch xuất khẩu hàng năm 1.3 tỷ USD Tổng vốn đầu tư thực hiện 4.4 tỷ USD Tổng số việc làm tạo ra 71000 Tính từ năm 1989 đến 2005, HN là địa phương đứng đầu cả nước về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 11 tỷ USD, 4.3 tỷ USD vốn thực hiện. Với các yếu tố hấp dẫn về thị trường, nhân lực, hạ tầng, thì trong thời gian gần đây, Hà Nội đã có một bước chuyển biến mạnh mẽ về thủ tục đầu tư, nhất là về đất đai, kết nối hạ tầng với các tỉnh miền Bắc. Tính đến ngày 30/9/2006, Thủ đô Hà nội thu hút được 137 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 894 triệu USD. Dự kiến đây là năm thứ 2 liên tiếp Hà Nội tiếp tục giữ vị trí là một trong những địa phương đi đầu trong thu hút vốn FDI. Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 9 tháng tăng 31,8% so với cùng kỳ năm ngoái và dẫn đầu so với các thành phần kinh tế khác, nhờ tăng mạnh xuất khẩu được sản phẩm ra thị trường nước ngoài; tiêu biểu như thiết bị văn phòng, thiết bị điện, phương tiện vận tải... Tính đến hết tháng 9, trên địa bàn Hà Nội có 700 dự án FDI có hiệu lực, với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,9 tỷ USD; số vốn đầu tư thực hiện đạt 300 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ 2005. Theo thống kê của phòng đầu tư nước ngoài, sở kế hoạch đầu tư Hà Nội, trong quý I và quý II/2007, Hà Nội thu hút được 125 dự án FDI, với tổng số vốn đăng ký khoảng 930 triệu USD, trong đó có một số dự án lớn như xây dựng và phát triển khu đô thị mới Thạch Bàn của công ty TNHH Berjaya – Handico 12 với tổng số vốn là 50 triệu USD; dự án xây dựng khách sạn 5 sao của tập đoàn Charmvit, tổng vốn 80 triệu USD; dự án tổ hợp khách sạn – thương mại – văn phòng – căn hộ công viên thiên niên kỷ Kiengnam – Hà Nội với tổng số vốn 500 triệu USD. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội trong năm 2007, một số dự án FDI với quy mô lớn đã được cấp phép hoạt động như: Dự án Cổng Tây Hà Nội - Liên doanh của Tổng Công ty Vigracera và đối tác Nhật Bản với tổng vốn 233 triệu USD, khách sạn 5 sao Riviera (500 triệu USD); Dự án Công viên Yên Sở của Tập đoàn Gamuda Land (Malaixia); Dự án khu công nghệ cao… Các dự án lớn trên đi vào thực hiện, Hà Nội sẽ hoàn thành vượt mức kế hoạch thu hút vốn FDI trong năm 2007 với tổng số vốn sẽ đạt trên 1,5 tỷ USD. Tính đến hết tháng 9, có 26 dự án tăng vốn đầu tư với tổng số vốn đăng ký 188 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2006, số dự án đầu tư tại thành phố tăng 80% (236/131 dự án); tổng số vốn đầu tư tăng 40% (1128/801 triệu USD). Như vậy Hà Nội đã vượt 12% về số dự án và đạt 87% tổng số vốn đầu tư so với kế hoạch năm 2007. Việc hàng loạt các dự án điều chỉnh tăng vốn cho thấy các nhà đầu tư rất tin tưởng vào tương lai hoạt động ở Hà Nội. Hầu hết các dự án FDI trên địa bàn Hà Nội làm ăn hiệu qủa và không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh. Đến cuối năm 2007 một số dự án FDI với quy mô lớn đã hoàn chỉnh hồ sơ để được cấp phép đầu tư hoạt động như: dự án cổng tây Hà Nội ( liên doanh của công ty Vigracera và đối tác Nhật Bản với tổng vốn 233 triệu USD), khách sạn 5 sao Riviera( 500 triệu USD), dự án công viên Yên Sở của tập đoàn Gamuda Land (Malaixia), dự án khu công nghệ cao… Bảng 3: Số dự án, vốn đầu tư đăng kí và vốn thực hiện qua các năm: Năm Số dự án Vốn Đầu tư Đăng kí Đã thực hiện 2000 41 100,000,000 80,000,000 2001 44 200,000,000 85,000,000 2002 60 362,000,000 185,000,000 2003 66 162,000,000 195,000,000 2004 74 293,000,000 270,000,000 2005 110 1,585,000,000 350,000,000 2006 194 1,120,000,000 350,000,000 2007 344 2,353,000,000 400,000,000 6 tháng 2008 160 1,200,000,000 250,000,000 Hiện nay, tại Hà Nội nhu cầu thuê văn phòng, khách sạn cao cấp tăng nhanh, các nhà đầu tư nước ngoài đã nhìn thấy được tiềm năng và một hướng đầu tư đầy hứa hẹn và đang tập trung đổ nhiều vốn vào lĩnh vực này. Trong mấy tháng đầu năm 2007, đã có nhiều nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc đua tranh quyết liệt để được đầu tư vào các khu đất của tại Hà Nội để xây dựng khách sạn 5 sao, xây dựng tổ hợp văn phòng - nhà ở cao cấp, tổ hợp sân golf- khu vui chơi giải trí với tổng số vốn lên tới hàng tỷ USD trong giai đoạn từ 2007-2010. Quý I/2008, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội tăng mạnh, với 72 dự án cả cấp mới và tăng vốn, tổng vốn đăng ký là 574.8 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào thủ đô tăng gấp 2.6 lần. Bảng 4: Một số số liệu về các dự án FDI trên địa bàn Hà Nội (đến hết 2007) Tổng số dự án được cấp giấy phép 1088 Quan hệ hợp tác đầu tư với quốc gia và vùng lãnh thổ 41 nước và vùng lãnh thổ Số dự án còn hiệu lực 770 Tổng vốn đăng kí đầu tư 13 tỷ USD Doanh thu hàng năm đạt được 2.8 tỷ USD Tổng vốn đầu tư đăng kí còn hiệu lực 9.65 tỷ USD Kim ngạch xuất khẩu hàng năm 1.3 tỷ USD Tổng vốn đầu tư thực hiện 4.4 tỷ USD Tổng số việc làm tạo ra 71000 Trong số 67 dự án cấp mới, có một số dự án lớn nư: cồn tư đầu tư xây dựng hạ tầng khu công ng._.và sáng tạo. Một nhà kinh tế học phải có ít nhất các điều kiện sau: Có bằng Tiến sĩ kinh tế Có khả năng phân tích Thông thạo tiếng Anh và có thể giao tiếp tốt bằng ngoại ngữ thứ 2 Sử dụng tốt các phần mềm về phân tích tài chính và kinh doanh Có thể làm việc độc lập. Việc tuyển dụng có thể do cơ quan tự tiến hành hoặc có sự giúp đỡ của những cơ sở tuyển dụng chuyên nghiệp. Chế độ đãi ngộ Chúng ta đều biết rằng cơ cấu lương dành cho các nhân viên Nhà nước dựa trên bảng lương cố định và rõ ràng là thấp hơn nhiều so với thị trường. Nhằm thu hút và nâng cao chất lượng của nhân viên, mức lương dành cho các nhân viên của cơ quan xúc tiến đầu tư cần cạnh tranh so với thị trường. Cơ cấu phụ cấp cũng cần dựa trên nền tảng công việc và hệ thống trả lương. Điều đó có nghĩa là tiền lương cho mỗi cá nhân phải dựa trên công việc thực hiện, trách nhiệm của họ gắn liền với công việc và sự đóng góp của mỗi cá nhân vào hoạt động chung. Việc tăng lương cần thực hiện theo các tiêu chí sau: Mức độ khó khăn và yêu cầu công việc Trách nhiệm gắn liền với công việc cụ thể Mức lương theo thị trường với công việc và trách nhiệm tương tự Khối lượng của công việc. Kế hoạch phát triển và đào tạo: Theo ý kiến đánh giá của một số nhà đầu tư tại Việt Nam thì đội ngũ cán bộ nhân viên còn chưa đáp ứng được các yêu cầu về các kỹ năng quản lý, ngoại ngữ, khả năng maketing. Đó là những trở ngại rõ ràng, cản trở việc tiến hành một chiến dịch thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả. Tình trạng này nhất thiết cần được cải thiện ngay. Một chương trình đào tạo và phát triển cần tập trung vào hai lĩnh vực: - Đào tạo phần cứng: bao gồm đào tạo kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật cho nhân viên, các kiến thức về luật, kinh doanh, ngoại ngữ, công tác nghiên cứu, công nghệ thông tin, kỹ năng maketing. - Đào tạo phần mềm: bao gồm khả năng thuyết trình và đàm phán, bán hàng và thuyết phục, quan hệ công chúng và sử dụng phương tiện truyền thông, lãnh đạo, quản trị… Có rất nhiều hình thức đào tạo như: - Đào tạo tại nơi làm việc - hình thức này bao gồm cả việc phối hợp với những nhà tư vấn bên ngoài. - Đào tạo bên ngoài - tham gia các lớp đào tạo tại các viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Đó có thể là các khoá học ngắn hạn (vài ngày hoặc vài tuần) hoặc một chương trình đào tạo hoàn chỉnh. Một số tổ chức nước ngoài tại Việt Nam cũng cung cấp rất nhiều các khoá học ngắn hạn tại những lĩnh vực cụ thể như bán hàng và maketing, thuyết trình, thiết kế website… - Tham quan các hoạt động của đối tác tại các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương - gửi nhân viên tới làm việc tại các cơ quan xúc tiến đầu tư khác. Các chương trình đào tạo cần nhằm vào những nhu cầu cụ thể của từng nhóm nhân sự và cung cấp cho đội ngũ nhân viên những kỹ năng và kiến thức thiết thực giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đối với nhân viên cấp thấp cần ưu tiên cho việc đào tạo kỹ thuật nhằm xây dựng cho họ những kỹ năng và kiến thức cơ bản. Một chương trình đào tạo dài hạn hoặc một chương trình toàn diện như các khoá học Diploma hay Master là rất thích hợp. Đối với nhân viên cấp cao hơn cần có những khoá đào tạo ngắn hạn về những lĩnh vực cụ thể. Một trong những phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đội ngũ nhân viên là mượn thêm những nhân viên từ các công ty dịch vụ chuyên nghiệp trong các lĩnh vực. Chi phí cho công việc này có thể kêu gọi tài trợ từ các tổ chức phát triển của những khu vực nước ngoài đang quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có thể cử các nhân viên tới làm việc tại các cơ quan hoặc tổ chức xúc tiến đầu tư của nước ngoài trong một thời gian nhất định. Các kỹ năng cùng kiến thức có được từ kinh nghiệm làm việc tại nước ngoài có thể được truyền đạt lại cho các nhân viên khác. 2.3.5 Cải tạo nguồn quỹ và ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư Hiệu quả hoạt động của bất cứ cơ quan xúc tiến đầu tư nào đều chịu ảnh hưởng bởi các nguồn lực dành cho công tác xúc tiến. Một mặt, ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư của mỗi cơ quan phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu, chiến lược xúc tiến và các chương trình xúc tiến cụ thể. Ngược lại, các chương trình và chiến lược xúc tiến đầu tư lại phụ thuộc vào nguồn lực của mỗi cơ quan xúc tiến đầu tư Do xúc tiến đầu tư là hoạt động vì mục tiêu lợi ích của cộng đồng nên nguồn tài chính của các cơ quan xúc tiến đầu tư nên lấy từ ngân sách quốc gia. Ngoài ra, có thể lấy từ những nguồn viện trợ nước ngoài, đóng góp từ những khu vực tư nhân hay các khoản phí dịch vụ thu trước của các nhà đầu tư. Các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng nên tìm kiếm thêm những nguồn quỹ khác để tận dụng những nguồn lực của mình. Viện trợ quốc tế: Thường có một số tổ chức quốc tế chuyên cung cấp tài chính hoặc hỗ trợ cho việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước, các chương trình xúc tiến đầu tư tư nhân, chương trình nâng cấp, mở rộng hoạt động, nâng cao khả năng quản trị kinh doanh... Cơ quan xúc tiến đầu tư nên thảo luận với những tổ chức này để có được sự hỗ trợ tài chính cho hoạt động xúc tiến FDI. Những lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các tổ chức quốc tế có thể là: - Hỗ trợ kỹ thuật trong giai đoạn đầu, đặc biệt trong việc xác định quyền hạn và nghĩa vụ của từng phòng ban cụ thể. - Nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên - công tác phát triển đội ngũ nhân viên gồm nhiều hoạt động đa dạng như cung cấp các khoá đào tạo ngắn hạn về những chủ đề đã được cơ quan xúc tiến lựa chọn, tư vấn về các kỹ năng cụ thể trong xúc tiến đầu tư để làm việc tại cơ quan. Một số cơ quan cũng có thể cung cấp học bổng cho những khóa đào tạo dài hạn. - Công nghệ thông tin quản trị - cơ quan xúc tiến đầu tư cần tìm hiểu những nguồn hỗ trợ tài chính từ những tổ chức quốc tế nhằm phát triển Website hiện tại và xây dựng các trung tâm thông tin cùng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư. Khu vực tư nhân: Cũng như rất nhiều hình thức hỗ trợ đến từ khu vực tư nhân. Nói chung, khu vực tư nhân thường không cung cấp nguồn tài chính nhưng lại sẵn sàng hợp tác trong các hoạt động xúc tiến đa dạng khác. Những đóng góp có thể có được từ khu vực tư nhân là: - Hợp tác trong việc phát hành những bản giới thiệu hướng dẫn kinh doanh và gửi chúng tới các nhà đầu tư tiềm năng. - Hỗ trợ duy trì trang web bằng việc cung cấp những thông tin cập nhật nhất. Chẳng hạn một công ty luật có thể cung cấp cho cơ quan xúc tiến đầu tư bản dịch tiếng Anh về những luật lệ và quy chế mới ban hành để đưa lên các trang web. - Hỗ trợ tổ chức những buổi hội thảo đầu tư như chuẩn bị nguyên vật liệu, cung cấp nguồn tài chính… Hạn chế về nguồn lực đang là vấn đề chung của bất cứ cơ quan xúc tiến đầu tư nào, đặc biệt là các cơ quan xúc tiến đầu tư tại các nước đang và chậm phát triển. Tuy nhiên nếu thiếu nguồn tài chính đảm bảo thì thành công của chương trình rất khó đạt được nên vấn đề cải tạo ngân quỹ cho hoạt động xúc tiến đầu tư cần được quan tâm hơn nữa trong quá trình lập dự thảo sử dụng ngân sách quỗc gia hàng năm.Đồng thời các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng phải tự nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ để bổ sung cho ngân quỹ hoạt động của mình. 2.3.6. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm Kết quả từ những cuộc phỏng vấn, điều tra cho thấy nhu cầu có một cơ quan tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng và thực hiện những chiến lược xúc tiến FDI có hiệu quả là vô cùng cần thiết. ở cấp quốc gia chiến lược xúc tiến đầu tư cần được chỉ đạo tập trung bởi Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia HIPC. Tại các cơ quan xúc tiến đầu tư cấp tỉnh và địa phương cũng cần xây dựng và thực hiện chiến lược và hoạt động xúc tiến nhưng ở mức độ hẹp hơn. Trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội cùng các văn phòng đại diện cần đóng một vai trò quan trọng cả trong phối hợp và hỗ trợ các hoạt động của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý Khu công nghiệp, Khu chế xuất địa phương. Chính vì vậy những chiến lược xúc tiến đầu tư đề xuất tại đây có thể áp dụng cho trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội và cả các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Một chiến lược xúc tiến đầu tư phải bao gồm những công đoạn sau: - Xác định ngành nào sẽ là ngành mũi nhọn trong ngắn hạn (1 - 2 năm) và trung hạn (3 - 5 năm)? - Cần tập trung chính vào khu vực địa lý nào? - Những hình thức xúc tiến nào có thể được lựa chọn để thu hút các công ty? * Sự cần thiết phải có chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm Xu hướng xúc tiến đầu tư hiện nay là nhằm có được những chiến lược tập trung hơn - chẳng hạn tập trung mọi nguồn lực xúc tiến vào việc thu hút một dòng FDI nhất định đã xác định trước hơn là dòng FDI nói chung. Sự cần thiết cuả những chiến lược tập trung này xuất phát từ những lý do sau đây: Thứ nhất, việc xúc tiến đầu tư có trọng điểm có thể giúp quốc gia đó đạt được những mục tiêu chiến lược liên quan tới những khía cạnh như nhân sự, chuyển giao công nghệ , xuất khẩu và các lĩnh vực khác trong chiến lược phát triển chung. Thứ hai, hiện đang có một sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thế giới để có được nguồn FDI, đặc biệt là dòng FDI vào phương Đông. Các TNC kỳ vọng vào một thị trường rộng và nhiều tiềm năng hơn khi đầu tư FDI vào các nước Châu á và việc xúc tiến đầu tư có tập trung thực sự là rất quan trọng đối với nước nhỏ và chậm phát triển. Một nguyên nhân nữa là vấn đề hiệu quả chi phí, rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư đã nhận ra rằng các hoạt động tạo dựng hình ảnh chung và vận động đầu tư chung chung sẽ không đem lại hiệu quả trừ khi chúng được thực hiện với một chiến lược xác định nhằm thu hút một dòng FDI cụ thể. * Xác định ngành mũi nhọn và các nguồn tiềm năng. Một chiến lược xúc tiến đầu tư FDI có trọng điểm yêu cầu phải xác định được ngành nghề, hoạt động, quốc gia và cả các công ty cần tập trung vận động đầu tư. Đối với Hà Nội, việc đầu tiên là cần xác định vị trí của mình so với các đối thủ cạnh tranh như các địa phương khác trong cả nước nhằm xác định điểm mạnh cũng như điểm yếu của mình - có nghĩa là cần xác định khả năng và những lợi thế thu hút của Hà Nội. Dựa trên những phân tích về những lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Hà Nội, Hà Nội đang có rất nhiều lợi thế như: - Môi trường kinh tế - chính trị ổn định. - Vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam á với tiềm năng trở thành một thị trường chính của khu vực. - Lực lượng nhân công trẻ, đông đảo và chi phí thấp. Kết quả phân tích ngành nghề đã cho thấy trước tiên cần tập trung vào những ngành có các tiêu chuẩn cụ thể đang được cả Chính phủ và các nhà đầu tư đều đánh giá cao như: - Ngành dầu mỏ và khí đốt. - Công nghiệp điện tử. - Công nghiệp hoá chất. - Công nghiệp sợi. - Giầy dép. - Các sản phẩm bằng da. Những ngành sau đây được chính phủ đánh giá cao nhưng theo ý kiến các nhà đầu tư thì chỉ ở mức trung bình. Cũng có thể tập trung vào các ngành này, tuỳ theo mục tiêu và nguồn lực của các cơ quan xúc tiến đầu tư. Đó là: - Công nghiệp máy móc - Công nghệ thông tin - Công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cá - Công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp - Công nghiệp dệt - Xây dựng hạ tầng cơ sở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cũng cần phải chú ý rằng chất lượng xúc tiến đầu tư không phải là sự phân tích tĩnh và cố định. Nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế từng khu vực, từng quốc gia và từng địa phương luôn có sự thay đổi. Cần quan tâm tới những yếu tố này để tìm ra những nhà đầu tư tiềm năng. Trong bối cảnh của cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút FDI, trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội càng phải chú trọng xác định không chỉ các ngành mà cả những hoạt động, những khu vực kinh tế mới... để có thể nâng lợi thế của khu vực lên mức tối đa. Một quốc gia hay một khu vực chỉ có được những lợi thế cạnh tranh từ những lĩnh vực hay sản phẩm tự nhiên của mình. Việc xác định những sản phẩm và lĩnh vực đó để tập trung vào là rất cần thiết đối với từng địa phương. Khi đã xác định được các ngành mũi nhọn thì một điều quan trọng nữa là phải xác định những phân đoạn thị trường có tiềm năng đầu tư. Cách phân đoạn thị trường của marketing cũng có thể được áp dụng tại đây. Đó là phân đoạn theo kinh tế, địa lý, nhân khẩu học và tâm lý học. Đối với đầu tư nước ngoài thì, địa lý và kinh tế là hai yếu tố cần quan tâm nhất. Các chiến lược trọng điểm tập trung vào các ngành mũi nhọn cũng cần được xem xét về mặt cơ cấu cũng như các kỹ thuật sản xuất và dựa vào những phân tích đó để phát triển những chính sách, chiến lược marketing cho từng ngành cụ thể: 2.3.7. Cải thiện kỹ thuật xúc tiến đầu tư. Có rất nhiều kỹ thuật xúc tiến đầu tư khác nhau nhưng có thể phân làm 3 dạng chính: - Kỹ thuật tạo dựng hình ảnh - đây là những kỹ thuật nhằm xây dựng hình ảnh và thay đổi những ấn tượng đầu tư vào một quốc gia. - Kỹ thuật vận động các nhà đầu tư tiềm năng - Đây là những kỹ thuật tập trung xúc tiến đầu tư trực tiếp. - Dịch vụ đầu tư - Đây là những kỹ thuật nhằm nâng cấp dịch vụ dành cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Cơ quan xúc tiến đầu tư nhìn chung sẽ đảm nhiệm cả 3 hoạt động này. Tuy nhiên, xác định khâu nào cần ưu tiên hơn cả trong quá trình xúc tiến lại phụ thuộc vào từng địa phương, các yêu cầu đầu tư, nguồn lực, chính sách và thể chế của quốc gia đó cũng như các điều kiện thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ ưu tiên đó cũng thay đổi theo thời gian và tuỳ vào giai đoạn phát triển của quốc gia đó. * Chiến lược và kỹ thuật tạo dựng hình ảnh. Chiến dịch tạo dựng hình ảnh nhằm vào hai mục tiêu chính: - Nâng cao nhận thức về Hà Nội - Thay đổi quan điểm của các nhà đầu tư về Hà Nội . Một số phương pháp Marketing hiệu quả thường được áp dụng trong các chiến lược tạo dựng hình ảnh: Xây dựng một khẩu hiệu tập trung làm thông điệp gửi đến các nhà đầu tư. Để tránh lẫn lộn và đạt hiệu quả cao thì việc xây dựng một khẩu hiệu xúc tiến chung cho Hà Nội là hết sức cần thiết. Khẩu hiệu chung này sẽ được sử dụng nhằm nâng cao hình ảnh của Hà Nội trong giới đầu tư nói chung và cả trong những khu vực trọng điểm nói riêng. Các khẩu hiệu phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Phản ánh những gì các nhà đầu tư đang tìm kiếm. Nhu cầu của các nhà đầu tư nói chung thường nhằm nâng cao hiệu suất và lợi nhuận. Khẩu hiệu cần thể hiện cho các nhà đầu tư thấy Hà Nội sẽ giúp họ thoả mãn được những nhu cầu ấy bằng cách nào. Chẳng hạn có thể nhấn mạnh vào nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ với chi phí nhân công rất thấp tại Hà Nội. - Phản ánh những lợi thế riêng của Hà Nội. Để nhấn mạnh hình ảnh Hà Nội trong mắt người nước ngoài, cách thức này cần phải khẳng định những thế mạnh của địa phương như vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam Á, quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ và nhân dân trong công cuộc phát triển nền kinh tế. - Chính xác và chân thực. Việc quảng cáo không đúng sự thật sẽ gây một ấn tượng tiêu cực và làm phát sinh thêm những khó khăn khác. -Nhất quán - Khẩu hiệu cần phải được truyền bá rông rãi và được thể hiện qua thống nhất trong các hoạt động xúc tiến đầu tư. Các hoạt động Marketing của Chính phủ và địa phương phải có sự phù hợp ăn khớp với nhau để tránh sự hiều nhầm từ phía các nhà đầu tư. Sử dụng hiệu quả các công cụ tạo dựng hình ảnh : * Sách giới thiệu: Mặc dù hiện nay đã có một số công cụ hiện đại khác như CD-ROM, Internet nhưng một tập sách giới thiệu mỏng về những hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia có thể cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về tính chuyên nghiệp cũng như các dịch vụ có thể cung cấp. Ngược lại một bản giới thiệu nghèo nàn có thể đưa ra những thông tin không chính xác hoặc những tiêu chí yếu kém về dịch vụ đầu tư. Để có được hiệu quả cao nên thuê những công ty chuyên nghiệp để tư vấn và thiết kế bản giới thiệu này. * Tờ rơi: Chứa đựng một đến hai trang thông tin về địa điểm (nước hoặc tỉnh thành) gửi tới các nhà đầu tư tiềm năng. Những thông tin bao gồm: - Chính sách kinh tế và ngành nghề. - Các lĩnh vực và ngành nghề chính. - Vốn FDI hàng năm. - Tình hình thương mại bao gồm cả xuất nhập khẩu. - Thông tin về môi trường đầu tư như GDP, tốc độ tăng GDP, tỷ giá hối đoái…được đánh giá qua các tổ chức như Moody, Standard & Poor … - Luật lao động bao gồm cả chi phí nhân công chính sách và tiền lương, tổ chức thương mại… - Trình độ dân trí. - Thủ tục hải quan. - Thuế. - Hạ tầng cơ sở. - Các quy định cũng như dịch vụ của cơ quan xúc tiến đầu tư. * Bản tin thường kỳ: Nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin về sự phát triển của khu vực và cũng góp phần quảng cáo cho hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư. Để đạt được hiệu quả cao, những bản tin này nên có một chủ đề trọng tâm hoặc một vài điểm nhấn mạnh khác nhau chẳng hạn như về ngành may mặc, ngành dệt may về AFFA. Bản tin không chỉ là công cụ để tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Các nhà đầu tư thường xuyên phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin tại Hà Nội. Chính vì vậy, trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội cần đưa ra những tập sách giới thiệu, tơ rơi, bản tin thường xuyên để xây dựng hình ảnh và quảng cáo chất lượng dịch vụ của mình. * Website: Internet là một trong những công cụ xúc tiến hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất vì vậy cần ưu tiên cho việc thiết kế và duy trì một Webiste của cơ quan xúc tiến đầu tư với chất lượng cao. Việc cho đi vào hoạt động trang web của trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội cần được coi như là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu . Những việc cần làm để có thể trong Website có hiệu quả. - Đưa ra thiết kế hấp dẫn hơn: Một Website hấp dẫn có thể thu hút nhiều người truy nhập hơn. Vì vậy, nó có thể góp phần xây dựng hình ảnh của cơ quan xúc tiến đầu tư. - Nâng cao chất lượng thông tin: Một trang Website tốt có thể khuyến khích người xem truy nhập nhiêu lần hơn. Những nhà đầu tư tiềm năng có những nhu cầu cơ bản về thông tin khi muốn đầu tư vào bất cứ quốc gia nào. Những thông tin phải chính xác và luôn cập nhật tạo điều kiện cho người truy nhập hiểu rõ những lợi thế của quốc gia hay địa phương đó. - Duy trì Website: Đây là khâu yếu nhất của tất cả các Website tại Việt Nam. Chính vì thế cần có một đội ngũ chuyên nghiệp duy trì và phát triển Website với các công việc như: + Trả lời những yêu cầu, đề nghị, phàn nàn qua thư điện tử. Thời hạn trả lời tối đa là trong vòng 48 giờ đồng hồ chẳng hạn. + Duy trì hoạt động của Website. Điều tra cho thấy các Website Việt Nam còn có những thông tin rất cũ và lạc hậu. + Đảm bảo Website hoạt động bình thường – các nhà đầu tư sẽ cảm thấy rất thất vọng nếu Website không thể truy nhập. + Cung cấp các phương tiện để các nhà đầu tư có thể đề nghị hoặc phản hồi nhằm nâng cấp Website. Website này cũng cần: - Cung cấp thông tin bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, chẳng hạn tiếng Nhật. - Kết nối được tới các Website khác của Việt Nam. - Kết nối được tới các Website khác có thông tin về Hà Nội - Kết nối được tới các Website của mạng xúc tiến đầu tư. Các Website có thể được sử dụng như một công cụ nhằm đưa thông tin vào mạng để giảm thiểu các chi phí xuất bản liên quan vì cùng một lúc có thể cung cấp thông tin cho tất cả các nhà đầu tư. Website cũng có thể dùng để thu thập thông tin về các nhà đầu tư liên quan. * Chiến dịch quảng cáo và quan hệ công chúng. Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông nước ngoài (báo chí hay truyền hình) là một công cụ rất có hiệu quả nhằm nâng cao hình ảnh của khu vực, đặc biệt là đối với những giới đầu tư vốn không có được ấn tượng tốt đối với một số địa điểm đầu tư trên thị trường thế giới như Hà Nộ . Tuy nhiên chi phí cho quảng cáo rất cao, có thể chiếm một phần không nhỏ trong ngân sách của cơ quan xúc tiến đầu tư. Chẳng hạn, để quảng cáo trên trang màu của một tờ tạp chí của Mỹ có thể tiêu tốn tới 80.000 USD. Trong nhiều trường hợp khi các nhà đầu tư tiềm năng có những nhận thức sai lầm về địa điểm đầu tư thì việc cơ quan xúc tiến đầu tư sử dụng các phương tiện truyền thông là vô cùng quan trọng. Đặc biệt khi đó lại là những ấn tượng đó mang tính hết sức tiêu cực. Cơ quan xúc tiến cần thông qua các phương tiện truyền thông để thay đổi những suy nghĩ sai lầm đó và nhờ một tờ báo trong một truyền hình có uy tín còn có tác dụng hơn rất nhiều những bài quảng cáo đắt đỏ khác. Trong số những quốc gia có khả năng thu hút mạnh mẽ vốn FDI thì Thái Lan và Trung Quốc là hai quốc gia khai thác rất tốt quan hệ công chúng. Các cơ quan xúc tiến đầu tư ở những quốc gia này có quan hệ mật thiết với những tờ báo có uy tín. Sau nhiều lần các phóng viên tới thăm, thảo luận và đánh giá, chính phủ các nước này đã cải thiện được rất nhiều môi trường đầu tư của họ. Mặc dù những cuộc họp báo đó nhiều lúc cũng chỉ mang tính chất tư nhân, không chính thức nhưng đã có được bài báo cáo rất tốt và tích cực sau những lần gặp gỡ này. * Tổ chức những hội nghị, hội thảo về đầu tư cả ở trong và ngoài nước Những hội nghị, hội thảo về đầu tư cũng là những công cụ xúc tiến hết sức hiệu quả. Việc này có thể góp phần xây dựng hình ảnh và giúp tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Để có được hiệu quả cao thì những buổi hội thảo này cần được chuẩn bị kỹ càng và có sự tập trung tốt nhất. Một buổi hội thảo tổ chức yếu kém có thể đem lại những ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư tiềm năng. Để có được một cuộc hội thảo thành công thì cần phải có những điều kiện sau: - Trình độ tổ chức chuyên nghiệp của cơ quan xúc tiến hoặc các nhà tư vấn chuyên nghiệp. - Tài liệu và thuyết minh có chất lượng cao. - Lựa chọn được người thuyết minh phù hợp – có khả năng Marketing và kỹ năng thuyết trình tốt. - Đảm bảo tất cả các bài thuyết trình phải thống nhất với mục tiêu và chủ chương của hội nghị. - Có sụ tham gia của những nhà đầu tư tiềm năng. - Đảm bảo có được quan hệ cộng đồng tốt cả trước và sau một hội thảo. Cần mời thêm những đại diện của các phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế tới dự. - Tiếp tục cuộc hội thảo bằng những bản câu hỏi điều tra về chất lượng hội thảo và những lợi ích tương lai mà hội thảo có thể đem lại. 2.2.8. Nâng cấp các dịch vụ đầu tư Đa số các nhà đầu tư đều khẳng định rằng thỏa mãn yêu cầu của các nhà đầu tư chính là phương thức Marketting hữu hiệu nhất. Dịch vụ đầu tư bắt đầu từ thời điểm nhà đầu tư tiềm năng tới thăm địa điểm xúc tiến đầu tư và tiếp tục trong suốt thời gian thực hiện dự án. Dịch vụ đầu tư không dừng lại ở thởi điểm dự án được cấp phép. Dịch vụ trước cấp phép Các dịch vụ trước cấp phép chủ yếu liên quan tới việc tổ chức các cuộc viếng thăm tới các địa điểm đầu tư, cung cấp các thông tin cần thiết để lựa chọn địa điểm và giúp đỡ các nhà đầu tư chuẩn bị thủ tục đăng ký đầu tư. Ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng rất quan trọng nên việc các nhà đầu tư có trở lại lần thứ 2 hay không phụ thuộc rất nhiều vào cuộc viếng thăm lần đầu. Để tổ chức một cuộc tham quan thành công, cần phải lưu ý những điểm sau: - Cần cử một nhân viên của dự án trực tiếp hướng dân và đáp ứng những yêu cầu của nhà đầu tư tiềm năng.. - Giúp đỡ bên đầu tư các công việc hậu cần như đi lại, đặt khách sạn. - Lập sẵn một chương trình viếng thăm sao cho mọi thắc mắc quan tân của nhà đầu tư về địa điểm này đều được giải đáp qua chuyến đi - Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp mặt một số đối tác hiện đang hoạt động thành công hoặc những người có thể đưa ra những bình luận tích cực về địa điểm đầu tư này. - Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp gỡ các cán bộ cấp cao đang làm viẹc tại đây. Điều này sẽ khiến họ cảm thấy mình quan trọng và được chào đón. - Cung cấp càng nhiều dữ liệu và thông tin càng tốt vì nhà đầu tư có thể đang cùng một lúc đang quan tâm đến nhiều địa điểm để lựa chọn. Tại mỗi địa điểm họ sẽ cố gắng thu thập mọi thông tin và dữ liệu có thể để tiến hành tính toán và cân nhắc. Khối lượng và chất lượng thông tin cung cấp có thể tạo nên sự khác biệt. Để thực hiện tốt công việc trên đây, đôi khi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội với cục xúc tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Việc đào tạo và nâng cao các kỹ năng Marketing là rất quan trọng để có thể trang bị cho các cán bộ dự án đầy đủ kỹ năng cần thiết cho việc tổ chức một chương trình thành công. Dịch vụ cấp phép Đây là lĩnh vực mà các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đảm nhận là tốt nhất. Các văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ cấp phát giấy phép. Đối với những dự án lớn và phức tạp, có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng khác, quy trình có thể phức tạp hơn. Tuy nhiên, đây chủ yếu vẫn là vấn để phối hợp hoạt động cần ứng dụng các công cụ thông tin nhanh như Internet và Intranet. Dịch vụ sau cấp phép Đây là khâu quan trọng nhất của dịch vụ đầu tư, tuy nhiên lại ít được các cơ quan xúc tiến đầu tư quan tâm đến nhất. Dịch vụ sau cấp phép rất đa dạng về loại hình, song có thể được phân chia thành 2 nhóm chính - Giúp đỡ nhà đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. - Cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng. Theo ý kiến của các nhà đầu tư và dựa trên thực tiễn hoạt động xúc tiến đầu tư, các phương thức sau được coi là cần thiết cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ sau cấp phép: - Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với các nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ các khó khăn của họ. Đây cũng là cơ hội để Chính quyền TW và địa phương công bố rộng rãi chiến lược đầu tư của mình. - Các cơ quan xúc tiến đầu tư nên đóng vai trò là người phát ngôn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước để phản ánh những khó khăn của họ lên Chính phủ. Muốn thực hiện được chức năng này, các cơ quan xúc tiến cần tích cực tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề trở ngại của các nhà đầu tư và đề xuất cách giải quyết lên Chính phủ. - Thành lập một trung tâm thông tin để giúp đỡ các nhà đầu tư giải quyết các khó khăn trong việc thu thập những thông tin chính xác về luật pháp, các dự án được cấp phép, tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát, GDP… Về lâu dài các trung tâm này có thể phát triển các dự án nghiên cứu và điều tra. Mặc dù hiện nay đã có nhiều cải thiện đáng kể song chất lượng các dịch vụ vẫn là vấn đề cần phải quan tâm nâng cấp nhiều hơn nữa, đặc biệt là các dịch vụ sau cấp phép phục vụ quá trình triển khai và thực hiện dự án. Các đề xuất trên đây đều xuất phát từ những tồn tại trong thực trạng xúc tiến đầu tư tại Hà Nội, các yêu cầu khách quan của hoạt động xúc tiến đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế và trên cơ sở các định hướng, quan điểm chung của Nhà nước nhằm cải thiện, nâng cấp hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong tương lai. KẾT LUẬN Thực hiện những năm qua cho thấy để có được Hà Nội như hiện nay phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các nguồn vốn. Không chỉ góp phầ làm tăng GDP của Hà Nội nói riêng và của cả nước nói chung mà còn góp phần giải quyết nhiều vấn đề dân sinh, tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân Hà Nội; cải thiện hệ thống giao thông, cơ sở vật chất… mở ra cho Hà Nội nhiều cơ hội phát triển hơn nữa. Để Hà Nội trở thành một thành phố công nghiệp, phát triển mạnh hơn nữa và thực hiện được các mục tiêu đặt ra thì vấn đề quan trọng nhất là thu hút được càng nhiều nguồn vốn càng tốt. Thực tiễn các năm qua cho thấy chúng ta chỉ chú trọng vào thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong khi nguồn vốn đóng góp nhiều nhất lại là nguồn vốn trong nước. Do đó trong thời gian tới chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa tới nguồn vốn trong nước nhưng đồng thời cũng tăng cường thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát huy các thế mạnh mà nó đem lại như chuyển giao công nghệ, thị trường quố tế, kinh nghiệm quản lý…bằng cách tậptrung đổi mới công tác qui hoạch đầu tư nước ngoài gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lí nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, bên cạnh đó phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm thu hút đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước và làm tăng hiệu ứng tạo việc làm gián tiếp từ khu vực đầu tư nước ngoài…. Thực hiện chủ chương này, các cơ quan phụ trách công tác xúc tiến đầu tư Trung ương và địa phương bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp, đã không ngừng nỗ lực tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư, cải thiện các công cụ xúc tiến đầu tư, đề xuất những cải cách chính sách đầu tư, hướng tới thực hiện đồng nhất chiến lược xúc tiến đầu tư tầm cỡ quốc gia. Những nỗ lực này đã góp phần không nhỏ vào những thành tựu thu hút mọi nguồn vốn vào Hà Nội. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan, hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư còn bị hạn chế trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng lãnh thổ. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là phải tích cực hơn nữa trong việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư, vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các địa phương, thu hút và khai thác mạnh mẽ hơn nữa mọi nguồn vốn đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế - xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ _Ths Đinh Đào Ánh Thủy _ Khoa Đầu tư – trường ĐH Kinh tế quốc dân. Kỹ năng xúc tiến đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư. Trang web của Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội: www.hapi.gov.vn Vietnamnet: www.vnn.vn … Báo cáo hoạt động của Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội qua các năm từ 2005 đến 2008 Báo cáo hoạt động của trung tâm xúc tiến đầu tư Hà Nội 2008 Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2008 trên địa bàn Thành phố Hà Nội Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội Luật đầu tư Nghị định 108/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư Quyết định số 109/2007/QĐ-TTg ngày 17/7/2007 của Thủ Tướng Chính phủ ban hành quy chế xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia Chương trình xúc tiến đầu tư của Thành phố Hà Nội Giai đoạn 2008-2010, định hướng đến 2015 ban hành tại văn bản số 34/CTr-UBND ngày 28/3/2008 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010 Báo cáo về thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Thành phố Hà Nội năm 2007, 2008 và mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2008, 2009 Các tuyển tập Hà Nội – Đầu tư nước ngoài 2007, 2008 Niên giám thống kê 2006 đến 2008 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21600.doc
Tài liệu liên quan