Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc

Lời mở đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì thế mà ngay từ khi mới giành được độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đặc biệt coi trọng đến vấn đề phát triển giáo dục với chủ trương xây dựng một nền giáo dục tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc thông qua việc mở các lớp xoá mù chữ, bình dân học vụ, mở trường dạy chữ quốc ngữ cho người dân. Ngày nay, Đảng và Nhà nước cũng rất chú trọng đến phát triển giáo dục. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã xác đ

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh vị trí, vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo, khẳng định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển ... Để phát triển nguồn nhân lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở có ý nghĩa chiến lược rất căn bản. Nhất là trong điều kiện hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế, để có đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh, chất lượng nhân lực đóng vai trò quyết định và học vấn trung học cơ sở phải là trình độ tối thiểu, cần thiết của hầu hết những người lao động. Tuy nhiên, với một quốc gia đang phát triển và còn nghèo như nước ta hiện nay thì vấn đề đầu tư cho phổ cập giáo dục trung học cơ sở là một vấn đề hết sức khó khăn bởi nguồn ngân sách Nhà nước còn rất eo hẹp. Do đó cần phải đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng cường huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu do Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đề ra là : “Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010”. Nhận thức được ý nghĩa chiến lược và tác động sâu sắc của công tác phổ cập trung học cơ sở đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc” Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Vai trò của vốn đầu tư trong phát triển giáo dục. Chương II: Thực trạng phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc trong thời gian qua. Chương III: Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc. Với sự hướng dẫn tận tình của TS Lê Huy Đức và các cán bộ của Vụ Kế hoạch – Tài chính – Bộ giáo dục và đào tạo, em đã hoàn thành chuyên đề này. Song do kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp của thầy. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực tập Trần Thị Thu Huyền Chương I Vai trò của vốn đầu tư trong phát triển giáo dục. I. Khái quát chung về giáo dục. 1. Giáo dục và phân loại hoạt động giáo dục: 1.1. Khái niệm: Hoạt động giáo dục đã tồn tại trong nhiều xã hội với nhiều thành phần tham gia do đó quá trình giáo dục bao giờ cũng có quy mô, thành phần, chất lượng khác nhau tuỳ từng thời kỳ lịch sử và được một tập hợp người thực hiện gồm người dạy, người học, các gia đình, cộng đồng, người sử dụng nhân lực, người quản lý quá trình giáo dục, người kinh doanh giáo dục ... Có những nhận thức khác nhau về hoạt động giáo dục và chúng tuỳ thuộc vào những quan điểm tiếp cận và những mục tiêu đề cập của đối tượng tham gia vào quá trình giáo dục. Trên quan điểm lợi ích chung của toàn xã hội, giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả đào tạo) là hoạt động mà xã hội thiết lập để tạo điều kiện cho các thành viên của mình nâng cao phẩm chất, đạo đức, kiến thức, kỹ năng và khả năng hành động thông qua tất cả các dạng học tập. Có thể nói giáo dục là một trong những quá trình chủ yếu hình thành và phát triển các đặc trưng nội tại của cá nhân trong mối quan hệ tương tác, hài hoá với môi trường kinh tế - xã hội, hình thành và phát triển chất lượng nguồn nhân lực, từ đó tạo nên sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Xã hội càng phát triển về kinh tế - văn hoá - khoa học - công nghệ thì càng có điều kiện để tổ chức nền giáo dục tiến bộ, toàn diện và đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy sự phát triển của bản thân giáo dục. Mặt khác, giáo dục phát triển là một trong những điều kiện tiên quyết cho tiến bộ kinh tế - xã hội. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ hai chiều này cũng chính là sự xác định đúng vai trò, tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, hầu như đứng trên trường phái nào, người ta cũng đều nhất trí cho rằng một chính sách phát triển kinh tế - xã hội hiện đại là chính sách phát triển "bằng con người và vì con người". Giáo dục là một trong những công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách này và do vậy một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục là phát triển chất lượng nguồn nhân lực và giải pháp quan trọng để thực hiện thành công chiến lược đó là thực hiện xã hội hoá giáo dục. 1.2. Phân loại hoạt động giáo dục: Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được tổ chức liên tục, gắn khả năng và nhu cầu hiện tại cũng như xu hướng phát triển tương lai của nền kinh tế và xã hội Việt Nam, đồng thời phù hợp với đặc điểm của truyền thống của văn hoá dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay bao gồm: - Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non là bậc học đặc biệt, nơi nuôi dưỡng và dạy trẻ em trước 6 tuổi đến trường. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1. - Giáo dục phổ thông: Giáo dục phổ thông VN với hệ thống 12 năm, tiếp nhận học sinh từ 6 đến 18 tuổi. Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông là cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông vững chắc, toàn diện, đồng thời giáo dục thái độ và chuẩn bị cho học sinh kỹ năng lao động để bước vào cuộc sống lao động hoặc tiếp tục học tập tiếp. - Giáo dục nghề nghiệp: Giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức kỷ luật .... cần thiết để người học có khả năng làm việc đáp ứng yêu cầu của xã hội. - Giáo dục đại học và sau đại học: Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là: trình độ cao đẳng và trình độ đại học. Giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ, cấp độ này đào tạo chuyên gia có trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học và nghiệp vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. 2. Mục đích, tính chất và đặc điểm của hoạt động giáo dục: 2.1. Mục đích của giáo dục: Với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, với mỗi quốc gia giáo dục có những mục đích khác nhau. Đối với giáo dục Việt Nam, mục đích của giáo dục có thể xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau, trong đó có hai cấp độ cơ bản: cấp độ xã hội và cấp độ nhà trường. Xét ở cấp độ xã hội: Mục đích giáo dục xã hội là hướng tới phát triển tối đa năng lực của từng cá nhân trong xã hội, giúp cho con người hoà nhập vào cuộc sống xã hội, để đóng góp nhiều nhất sức lực và trí tuệ thúc đẩy sự phát triển xã hội. - Đối với toàn xã hội: Mục đích của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm bồi dưỡng cho nhân dân có trình độ học vấn cao, đào tạo đủ nhân lực lao động, có tri thức và kỹ năng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, biến giáo dục thành động lực thúc đẩy tiến bộ kinh tế - xã hội. - Đối với thế hệ trẻ: Mục đích của giáo dục nhằm phát triển nhân cách toàn diện cho thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và của thời đại. Xét ở cấp độ nhà trường: Mục đích của giáo dục ở cấp độ nhà trường nhằm cung cấp cho người học có kiến thức, kỹ năng và thái độ tốt mà người học phải có được khi ra trường. Kiến thức là một hệ thống những hiểu biết theo từng nội dung môn học cụ thể trong nhà trường. Kỹ năng là khả năng thực hiện thành công các công việc đã được học tập, chất lượng của kỹ năng được đánh giá bằng chính sản phẩm học tập của người học trong mối quan hệ với bản thân, đối với xã hội và với nhiệm vụ được giao. Kiến thức, kỹ năng và thái độ tốt chính là mục đích cuối cùng của tất cả các trường học, các cấp học ... mà giáo dục ở cấp độ nhà trường hướng tới. 2.2. Tính chất của hoạt động giáo dục: 2.2.1. Hoạt động giáo dục có tính chất vượt lên trước hoạt động kinh tế. Tính chất vượt lên trước của sự phát triển giáo dục có liên quan với nhu cầu của hoạt động kinh tế và các hoạt động xã hội khác. Giáo dục là hoạt động bồi dưỡng tố chất của con người. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển các hoạt động kinh tế. Để có nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai thì phải có sự đào tạo, bồi dưỡng và học tập từ trước, song học tập và đào tạo là cả một quá trình lâu dài, không thể một sớm một chiều mà có được. Do vậy để phát triển kinh tế - xã hội cần phải phát triển giáo dục từ trước. Đây là một đặc điểm riêng có và đặc trưng của hoạt động giáo dục. 2.2.2. Hoạt động giáo dục có tính chất liên tục và lâu dài. Do đặc thù của hoạt động giáo dục là truyền đạt tri thức do việc đào tạo, dạy người học phải được tiến hành một cách có hệ thống, trải qua các bước tuần tự từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Quá trình này được tiến hành thường xuyên và đòi hỏi phải mất một thời gian lâu dài. Ví dụ như để hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông thì học sinh phải trải qua các lớp học từ lớp 1 đến lớp 12 với giả định mỗi năm một lớp thì mất tới 12 năm mới hoàn thành chương trình học phổ thông. 2.2.3. Hoạt động giáo dục có tính chất phục vụ hoạt động kinh tế. Ngày nay, khoa học - kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất quan trọng, đầu tư nhân lực có ý nghĩa quyết định tới tăng trưởng kinh tế. Còn việc đầu tư nhân lực có hiệu quả lớn hay nhỏ, mấu chốt là ở trình độ và sự phát triển của giáo dục. Vì vậy, mặc dù xếp giáo dục vào phạm trù xã hội nhưng tính kinh tế của giáo dục là có thể nhìn thấy được. Thông qua giáo dục, các loại nhân tài nắm được tri thức văn hoá và kỹ thuật chuyên môn phù hợp với đòi hỏi phát triển kinh tế. Từ đó, hình thành được năng lực sản xuất to lớn, thúc đẩy kinh tế phát triển. 2.3. Đặc điểm của hoạt động giáo dục: Dưới giác độ kinh tế học và trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động giáo dục - đào tạo được coi là một trong những lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng cho xã hội. Bởi vì sản phẩm của giáo dục là cung cấp các kiến thức và kỹ năng cho người học, đây là sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng có tính chất xã hội. Khi người học được học tập chính là lúc họ đang được thụ hưởng các hàng hoá công cộng do hoạt động giáo dục cung cấp, kiến thức của họ được tích luỹ, kỹ năng của họ được từng bước trau dồi trong quá trình học tập, để cuối cùng họ có được một năng lực nhất định, trở thành người lao động có ích cho xã hội sau khi được học tập. Các dịch vụ do hoạt động giáo dục cung cấp có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, dịch vụ của hoạt động giáo dục chủ yếu là các dịch vụ công cộng, chúng phục vụ đồng thời cho nhiều người cùng sử dụng. Chúng vừa mang tính chất hàng hoá dịch vụ công cộng đại chúng - cho toàn xã hội, vừa mang tính chất hàng hoá dịch vụ công cộng của nhóm, cho từng nhóm người nhất định. Điều này có nghĩa là dịch vụ của hoạt động giáo dục là hàng hoá công cộng không thuần tuý và có tính chất loại trừ. Qua đặc điểm này, chúng ta có thể thấy các kiến thức, kỹ năng ... đã được tích luỹ, hệ thống lại và được biên soạn lại thành giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo ... là sản phẩm mang tính chất công cộng chung của toàn xã hội (thậm chí của toàn nhân loại), tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận, khai thác và sử dụng chúng. Với góc độ này thì sản phẩm của lĩnh vực giáo dục là hàng hoá dịch vụ công cộng mang tính chất đại chúng, không thể loại trừ bất cứ một ai muốn sử dụng chúng. Song con người nói chúng không thể tự mình tiếp thu được tất cả các kiến thức, kỹ năng ... mà về cơ bản, muốn có những kiến thức, kỹ năng ... nhất định phải trải qua quá trình học tập. Nhà trường, thầy cô giáo... sẽ truyền thụ kỹ năng cho người học. Trong điều kiện như vậy, các kiến thức, kỹ năng ... sẽ không được truyền thụ một cách đồng loạt cho tất cả mọi người, mà chỉ có một lượng (nhóm) người nhất định nào đó được truyền đạt những kiến thức, kỹ năng. Vì vậy, với góc độ này thì sản phẩm của hoạt động giáo dục mang tính chất là hàng hoá dịch vụ công cộng nhóm, chúng bị giới hạn trong những mức độ, điều kiện nhất định và dành cho một lượng, một nhóm người nhất định được hưởng thụ chúng. Với đặc điểm là dịch vụ công cộng nhóm cho phép người ta hạn chế, loại trừ bớt số lượng người tham gia hưởng thụ các dịch vụ giáo dục với những biện pháp khác nhau như: thi tuyển chọn, chế độ học phí .... Với đặc điểm này cho phép hoạt động giáo dục không chỉ được cung cấp bởi Nhà nước mà còn có thể được cung cấp bởi khu vực tư nhân. Thứ hai, dưới giác độ tiêu dùng, sản phẩm của hoạt động giáo dục không những không bị tiêu dùng mất đi mà ngược lại chúng luôn được đổi mới, bổ sung. Tri thức kỹ năng của con người ngày càng được tích luỹ, kế thừa, phát huy, đổi mới và bổ sung thêm từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm cho sản phẩm của hoạt động giáo dục ngày càng thêm phong phú. Với người được truyền thụ các kiến thức và các kỹ năng đó, mà ngược lại chúng được vận dụng, ứng dụng ... lâu dài trong quá trình lao động sau này của người được đào tạo. Thậm chí các kiến thức, các kỹ năng ban đầu được trau dồi, bổ sung, đổi mới từng bước được hoàn thiện hơn để người lao động ngày càng phát huy năng lực tốt trong công việc của họ. Từ những đặc điểm của hoạt động giáo dục trên đây, có thể rút ra một số nhận xét sau: Một là, kho tàng kiến thức và kỹ năng của nhân loại là vô tận, mỗi người chỉ có thể tiếp thu một lượng nhất định các kiến thức, kỹ năng thích hợp nào đó tương ứng với khả năng, tâm sinh lý học của bản thân, các điều kiện kinh tế - xã hội cho phép và đòi hỏi những năng lực khác mà xã hội đặt ra cho từng người. Chính vì vậy, xã hội phải có trách nhiệm tổ chức các cơ sở giáo dục đào tạo tương ứng với nhiều loại bậc học, ngành nghề khác nhau. Mỗi người căn cứ vào khả năng, điều kiện của bản thân và nhu cầu của xã hội để lựa chọn bậc học, ngành nghề thích hợp nhằm mục đích có được năng lực lao động tốt nhất phục vụ cho xã hội sau khi được học tập. Hai là, hoạt động giáo dục vừa đặt cơ sở nền tảng để người học tiếp thu các kiến thức, kỹ năng ... vừa giúp người học hoàn thiện và phát huy năng lực của mình lâu dài trong quá trình lao động sản xuất. Đó là quá trình "đào tạo - tự đào tạo và đào tạo lại" diễn ra một cách thường xuyên và suốt đời đối với người lao động. Ba là, đầu tư các điều kiện cần thiết cho hoạt động giáo dục có thể nói là trách nhiệm chung của toàn xã hội, nhưng vai trò chủ đạo phải thuộc về Nhà nước. Việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục là trách nhiệm của xã hội, vì hoạt động giáo dục tạo ra năng lực cho mỗi thành viên của xã hội. Do đó, "xã hội hoá giáo dục - đào tạo" là vấn đề không có gì mới mẻ, đã tồn tại lâu đời từ trước tới nay. Song ở đây cần nhận thức rằng Nhà nước phải giữ vai trò là người chủ đạo vì: - Hoạt động giáo dục - đào tạo đòi hỏi nhiều tiềm lực lớn về cả con người và về cả vật chất, chỉ có Nhà nước mới có khả năng và điều kiện tốt nhất để giải quyết vần đề này. - Vai trò chủ đạo của Nhà nước giúp cho hoạt động giáo dục đào tạo đi đúng định hướng ở tầm vĩ mô mà xã hội mong muốn. - Nhờ có cơ chế thuế mà Nhà nước có thể thu hồi được chi phí đầu tư cho hoạt động giáo dục - đào tạo. Thật vậy, với những hàng hoá dịch vụ công cộng mang tính đại chúng, việc loại trừ "người ăn không" là hầu như không thể nếu như họ không có nghĩa vụ nộp thuế. Còn đối với việc cung cấp các hàng hoá dịch vụ công cộng nhóm có thể loại trừ được "người ăn không", thì tư nhân cũng có thể làm được. Song nếu như vậy sẽ là quá nặng cho người học vì phải nộp học phí cao nhằm trang trải đầy đủ chi phí cho việc học tập, trong khi người học chưa đi làm nên chưa có thu nhập. Chính vì vậy, giải pháp tốt nhất ở đây là người học nộp học phí chỉ trang trải một phần chi phí cho giáo dục, phần còn lại họ "mắc nợ" và trả sau khi đã đi làm, có thu nhập thông qua nộp thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng lao động...) cho Nhà nước. Nhà nước là chủ đạo, nhưng không thể phó mặc tất cả cho Nhà nước, vì nguồn lực của Nhà nước tuy lớn nhưng cũng rất có hạn và phải đáp ứng cho mọi lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội, nên không thể kham nổi tất cả. Hơn nữa tính công bằng, hiệu quả sẽ bị vi phạm, nhiều người sẽ được "ăn không" và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Bốn là, nghĩa vụ của người học. Khi người học được học tập là đang được hưởng các hàng hoá dịch vụ công cộng do hoạt động giáo dục - đào tạo cung cấp. Được hưởng lợi phải trả tiền là nguyên lý thông thường của kinh tế học thị trường. Song ở đây người học không thể hiện sự trả tiền thông qua việc trả học phí, nhưng học phí chỉ bù đắp một phần chi phí cho giáo dục - đào tạo, và cũng không nên có chế độ học phí quá cao vì người học hiện tại chưa tạo ra thu nhập. Sau quá trình học tập, người học có năng lực làm việc, tạo ra thu nhập, sẽ trích một phần thu nhập để trả chi phí cho giáo dục - đào tạo (nộp thuế cho Nhà nước, phụng dưỡng "bố mẹ già yếu" đã có công nuôi ăn học...) Năm là, các cơ sở sử dụng lao động đã được đào tạo phải có nghĩa vụ trả chi phí cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Xã hội đào tạo năng lực cho người lao động, các cơ sở sử dụng lao động khai thác các năng lực đó và thu được các nguồn lợi cho mình. Vậy thì họ cũng phải có nghĩa vụ trích một phần nguồn lợi (lợi nhuận) để trang trải chi phí cho hoạt động giáo dục - đào tạo mà xã hội đã bỏ ra trước đây. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường. Cơ chế tốt nhất để các cơ sở sử dụng lao động hoàn trả chi phí cho hoạt động giáo dục - đào tạo là nộp thuế cho Nhà nước (thuế quỹ lương, thuế thu nhập doanh nghiệp...) Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động giáo dục về mặt kinh tế học cũng là một lĩnh vực cung cấp các hàng hoá dịch vụ công cộng cho xã hội. Do đó, cần phải có những nhận thức và đối xử đúng đắn để lĩnh vực này cung cấp các hàng hoá dịch vụ công cộng với chất lượng ngày càng tốt hơn, thoả mãn nhu cầu của xã hội và đảm bảo phát triển một cách bền vững. 3. Vai trò của hoạt động giáo dục trong phát triển kinh tế - xã hội. 3.1. Giáo dục với tái sản xuất dân số và việc làm: 3.1.1. Giáo dục với tái sản xuất dân số: Tái sản xuất dân số bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Tốc độ tăng dân số và chất lượng dân số chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong đó tác động của giáo dục là vô cùng quan trọng. Khi nhận thức của con người được nâng cao, tuổi lập gia đình tăng lên. Đó là một nguyên nhân làm mức sinh giảm xuống và là một yếu tố làm tỷ lệ tăng dân số giảm. Ví dụ: tuổi lập gia đình ở các nước Nam Phi tăng mạnh chủ yếu nhờ kết quả của việc đi học. Giáo dục có ảnh hưởng đến nhiều mặt của tính cách, trong trường hợp đối với phụ nữ thì bao gồm cả thái độ với việc sinh đẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn của phụ nữ có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với sự sinh đẻ của họ (phụ nữ càng học nhiều càng có xu hướng đẻ ít con), họ muốn đẻ ít con hơn để có điều kiện tham gia vào các hoạt động xã hội và phát huy được khả năng của mình. Khi trình độ được nâng cao, quan niệm về con cái cũng khác đi, con người mất dần quan niệm có con cái để nhờ vả sau này, đó cũng là một nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sinh. Nếu muốn nâng cao chất lượng dân số mà không có giáo dục thì không thể làm được. Giáo dục là then chốt bảo đảm chất lượng của dân số, giáo dục có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trí lực của con người. Đồng thời giáo dục còn có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người. Trình độ học vấn làm thay đổi trong việc vệ sinh phòng bệnh của gia đình như rửa tay, uống nước sôi.... và việc sử dụng các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh. Trình độ học vấn của cha mẹ có liên quan mật thiết đến sức khoẻ của trẻ em, đặc biệt là người mẹ càng có học thì tỷ lệ trẻ em sơ sinh chết càng giảm và đứa trẻ càng khỏe mạnh. 3.1.2. Giáo dục với vấn đề việc làm: Vấn đề việc làm là mối quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển. Sức lao động có đầy đủ việc làm vừa là tiêu chí của một quốc gia phát triển cao, vừa là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề này được quyết định bởi sự tác động tổng hợp của rất nhiều nhân tố, trong đó ảnh hưởng của giáo dục là vô cùng mạnh mẽ. Đào tạo nhân tài về chuyên môn ở các cấp để thoả mãn nhu cầu của xã hội là nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp giáo dục, cũng là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sức lao động có đầy đủ việc làm. Vì rằng xã hội cần có nhân tài ở nhiều tầng, nhiều bậc, vừa cần có cán bộ quản lý cao cấp, vừa cần có nhân viên kỹ thuật có trình độ kỹ thuật trung cấp, sơ cấp. Nếu sự nghiệp giáo dục chỉ theo đuổi việc đào tạo nhân tài chuyên nghiệp đại học hoặc nhân tài ở một vài chuyên môn nào đó, coi nhẹ việc đào tạo nhân tài trung, sơ cấp thì sẽ gây ra sự thất nghiệp giả tạo theo cơ cấu hoặc là hạ thấp nhân tài xuống để sử dụng gây lãng phí chi phí đào tạo. Đồng thời sự nghiệp giáo dục còn có một vai trò nữa không kém phần quan trọng là đổi mới tri thức cho những người lao động, nếu những người lao động không được đổi mới tri thức, kỹ năng làm việc thì sẽ gây ra một tình thế "hao mòn vô hình" của đội ngũ lao động, khó thích ứng với yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế. Với tư cách là biện pháp làm cho người ta có được kỹ năng chuyên môn, đổi mới tri thức, giáo dục là một trong những điều kiện cần thiết khiến sức lao động có đầy đủ việc làm. 3.2. Giáo dục gắn bó chặt chẽ với thu nhập và tiêu dùng: Nói chung mức độ cao, thấp của trình độ học vấn tỷ lệ thuận với thu nhập tiền bạc của cá nhân. Thu nhập của người lao động trí óc tương đối cao hơn thu nhập của người lao động chân tay. Đối với những người lao động có khả năng học hết bậc trung học và đại học thì họ có cơ hội tìm kiếm những công việc tốt với mức thu nhập cao hơn những người lao động mới học hết một phần hoặc hết bậc tiểu học, và mức chênh lệch về tiền lương giữa hai nhóm người lao động này có thể đạt cỡ 300 đến 800%. ở Việt Nam, trong thời gian vừa qua có sự đảo lộn tình tương quan trên, xuất hiện hiện tượng "học càng nhiều, càng nghèo". Hiện tượng này chẳng những bất lợi cho sự phát triển của giáo dục mà còn có thể trở thành trở ngại chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội, ngăn cản, làm chậm sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật nước ta. Thường xuyên so sánh mức thu nhập của các nghề nghiệp, kịp thời uốn nắn những sai lệch mới có thể kích thích sự nhiệt tình không ngừng học tập của mỗi công dân, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục nhanh chóng phát triển. Tỷ trọng chi phí giáo dục trong tổng chi phí tiêu dùng của mọi người có thể được thể hiện ở trình độ nhận thức và mức độ khát khao được giáo dục của mọi người ở các lứa tuổi khác nhau và ở các lĩnh vực, nghề nghiệp khác nhau. Chi tiêu cho giáo dục thuộc chi tiêu cho đời sống văn hoá, tinh thần, mức chi tiêu này tăng theo mức thu nhập của dân cư. Nói chung, khi thu nhập thấp, tỷ trọng chi tiêu cho đời sống vật chất tương đối lớn. Theo đà nâng cao mức thu nhập, tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục tăng nhanh nhất. Như vậy, giáo dục là nội dung quan trọng làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của mọi người, nhất là trong xã hội phát triển, việc coi trọng giáo dục sẽ làm cho mọi người sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào sự nghiệp giáo dục. 3.3. Giáo dục có tác động tích cực đến sự nghiệp y tế, văn hoá, thể dục thể thao: Giáo dục thông qua đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên y tế chuyên nghiệp, vừa có thể làm cho họ mau chóng nắm vững các phương pháp trị bệnh, nâng cao tỷ lệ chữa bệnh. Giáo dục lại có thể làm cho tố chất tu dưỡng của đông đảo cán bộ nhân viên y tế được nâng cao rộng rãi, có được đạo đức nghề nghiệp tốt đẹp, cung cấp những nhân tài chuyên môn có trình độ cao để đẩy mạnh sự phát triển của sự nghiệp y tế, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Sự nghiệp giáo dục cũng có tác động tương tự như vậy đối với sự phát triển của thể dục thể thao. Giáo dục sẽ bồi dưỡng cho thể thao các huấn luyện viên, vận động viên có chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt. Giáo dục ngoài vai trò phân tích ở trên còn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa.... Giáo dục không chỉ tác động tới việc hoàn thiện con người, mà còn có tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có học thức, có kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân. Vì vậy đầu tư cho giáo dục không chỉ là đầu tư để xoá đói giảm nghèo mà còn là đầu tư cho sự phát triển kinh tế - xã hội và mang lại hiệu quả kinh tế cao. II. Phổ cập trung học cơ sở và sự cần thiết phải phổ cập trung học cơ sở: 1. Những nội dung liên quan đến phổ cập trung học cơ sở: 1.1. Khái niệm: Phổ cập được hiểu là hoạt động giáo dục có tổ chức của toàn xã hội nhằm làm cho mọi người trong độ tuổi quy định đều đạt được một trình độ nhất định, nhờ đó mọi người đều có cơ hội tham gia đóng góp vào sự phát triển xã hội và cộng đồng, phát triển cá nhân. 1.2. Đối tượng phổ cập trung học cơ sở: Đối tượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở là thanh niên, thiếu niên Việt Nam trong độ tuổi từ 11 đến hết 18, đã tốt nghiệp tiểu học, chưa tốt nghiệp trung học cơ sở. 1.3. Mục đích phổ cập giáo dục trung học cơ sở: - Nhằm nâng cao trình độ dân trí nói chung và cho thanh thiếu niên nói riêng. - Nhằm tạo điều kiện cho các thế hệ lao động trẻ có trình độ văn hoá tối thiểu nhất định có thể đi vào các nghề kỹ thuật phổ thông… có thể chuyển đổi nghề khi cần thiết để đảm bảo đời sống và hạnh phúc bản thân và gia đình. - Sự nâng cao trình độ dân trí lên trung học cơ sở là điều kiện quan trọng để xây dựng một xã hội có văn hoá, có kỷ cương đảm bảo công bằng xã hội và hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời đây cũng là điều kiện quan trọng để nước ta phát triển một cách toàn diện về kinh tế và xã hội tiến kịp, hoà nhập với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. 1.4. Các điều kiện đảm bảo phổ cập giáo dục trung học cơ sở: 1.4.1. Về tài chính: Các nguồn tài chính dùng để thực hiện phổ cập trung học cơ sở bao gồm: ngân sách Nhà nước; học phí, tiền đóng góp xây dựng trường, lớp; các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn thu hợp pháp khác (nếu có) theo quy định pháp luật, trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu. 1.4.2. Về giáo viên: Giáo viên các trường trung học cơ sở, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp và các cơ sở giáo dục khác tham gia giảng dạy tại các lớp phổ cập trung học cơ sở nếu chưa đạt trình độ chuẩn được đào tạo theo quy định điểm b khoản 1 điều 67 của luật giáo dục thì có trách nhiệm học tập và được cơ quan quản lý giáo dục trực tiếp tạo điều kiện học tập. Giáo viên khi tham gia giảng dạy ở các lớp bổ túc giáo dục trung học cơ sở dành cho đối tượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở không có điều kiện học tập theo phương thức chính quy được hưởng thù lao theo quy định của Bộ tài chính. 1.4.3. Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Các địa phương phải đảm bảo để các trường trung học cơ sở có đủ các điều kiện về phòng học, phòng thí nghiệm, phòng hoặc bãi tập luyện thể dục thể thao; tạo điều kiện để các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp có đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết nhằm tổ chức các hoạt động giáo dục không chính quy, giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp. 2. Điều kiện để được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở: 2.1. Đối với cấp xã: - Duy trì và củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học: số trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1 đạt tỷ lệ từ 90% trở lên; có ít nhất 80% số trẻ em ở độ tuổi 11 đến 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học, số trẻ em còn lại trong độ tuổi này đang học tiểu học. Đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn huy động số trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1 đạt tỷ lệ từ 80% trở lên và có ít nhất 70% số trẻ em ở độ tuổi 11 đến 14 tốt nghiệp tiểu học, số trẻ em còn lại trong độ tuổi này đang học tiểu học. - Hàng năm huy động số học sinh tốt nghiệp tiểu học vào trung học cơ sở đạt tỷ lệ từ 95% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 80% trở lên. - Bảo đảm tỷ lệ thanh, thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 18 tốt nghiệp trung học cơ sở từ 80% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 70% trở lên. - Hàng năm bảo đảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở từ 90% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 75% trở lên. 2.2. Đối với cấp huyện: ít nhất có 90% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. 2.3. Đối với cấp tỉnh: có tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. 3. Sự cần thiết phải phổ cập trung học cơ sở: Công tác phổ cập giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Song công tác phổ cập giáo dục tiểu học tập trung vào việc nâng cao dân trí còn phổ cập giáo trung học cơ sở ngoài việc nâng cao dân trí phải quan tâm xây dựng nền tảng học vấn cơ bản trung học cơ sở để dựa vào đó đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, cấp trung học cơ sở có vị trí và vai trò đặc biệt. Vì đây là cấp học nối tiếp bậc tiểu học với độ tuổi học sinh từ 11 đến 15 tuổi, lứa tuổi bắt đầu bước vào độ tuổi lao động, với mục tiêu trang bị cho học sinh vốn học vấn khá đầy đủ về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội, kỹ thuật làm cơ sở để phát triển và hoàn thiện nhân cách. Từ đó có thể tiếp tục học ở cấp trung học phổ thông, các ngành nghề thích hợp của trung học chuyên nghiệp hoặc có năng lực để tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ vận dụng vào sản xuất. Vì vậy, sau khi hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học cần triển khai ngay công tác phổ cập trung học cơ sở để củng cố và duy trì kết quả phổ cập tiểu học đã đạt được, tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, không tạo được mặt bằng dân trí tối thiểu là trình độ trung học cơ sở thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thể hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, đất nước không thể phát triển nhanh và bền vững. Do đó, việc thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục và đào tạo. Việc hoàn thành tốt công tác phổ cập giáo dục sẽ góp phần thiết thực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng và của cả nước. III. Vốn đầu tư và vai trò của vốn đầu tư trong phát triển giáo dục. 1. Khái niệm và phân loại vốn đầu tư: 1.1. Khái niệm: Trong tác phẩm "Tư bản", K.Marx đã dành phần quan trọng để n._.ghiên cứu về cân đối kinh tế, về mối quan hệ giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. Với những giả định về một nền kinh tế đóng, K.Marx đã chứng minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng bằng cách chia nền kinh tế thành hai khu vực: khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm C+V+M trong đó C là phần tiêu hao vật chất, V+M là phần giá trị mới sáng tạo ra. Để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng, nền sản xuất xã hội cần phải đảm bảo V+M của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất của khu vực II tức là: (V+M)I > CII Hay (C+V+M)I > CI +CII Có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao vật chất CI và CII ở cả hai khu vực của nền kinh tế, mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình tái sản xuất tiếp theo. Còn khu vực II thì: (C+V+M)II > (V+M)I +(V+M)II Có nghĩa là tư liệu tiêu dùng do khu vực II tạo ra không chỉ bù đắp tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực mà còn phải thừa để đảm bảo thoả mãn nhu cầu tư liệu tiêu dùng tăng thêm do quy mô của nền sản xuất xã hội được mở rộng. Để có dư thừa về tư liệu sản xuất, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Để có dư thừa về tư liệu tiêu dùng, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, mặt khác phải thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Từ đó có thể rút ra kết luận: con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Vấn đề này cũng được kinh tế học hiện đại chứng minh. Nếu gọi GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng (của cá nhân và của Chính Phủ), I là tiêu dùng của doang nghiệp để bổ sung vốn cố định và vốn lưu động (để đầu tư ) thì: GDP = C + I Phần tiêu dùng I của doanh nghiệp chính là phần thừa ra (hay tiết kiệm) không tiêu dùng đến từ GDP. Nếu gọi phần tiết kiệm này là S thì: GDP = C + S Từ đó suy ra: I = S Như vậy, tăng GDP cho phép tăng C+I hoặc C+S; trong đó S hoặc I càng lớn sản xuất càng được mở rộng; đến lượt mình sản xuất càng mở rộng, GDP càng tăng và càng có điều kiện để tăng tiêu dùng nâng cao đời sống của người lao động. Trong điều kiện nền kinh tế mở: GDP = C + I + X - M Trong đó: X- giá trị hàng hoá xuất khẩu M- giá trị hàng hoá nhập khẩu Mà: GDP = C + S Vậy: S = I + X + M Suy ra: I= S + M - X I - S > 0 M - X > 0 S: tiết kiệm trong nước M-X: tiền đầu tư từ nước ngoài Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế mở, nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài trong trường hợp tiết kiệm không đáp ứng nhu cầu đầu tư, thâm hụt tài khoản vãng lai. Vay nợ nước ngoài là hình thức chủ yếu để tài trợ cho đầu tư nhằm phát triển kinh tế trong trường hợp thâm hụt tài khoản vãng lai. Từ đây có thể rút ra định nghĩa của vốn đầu tư theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng như sau: "Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực sản xuất mới cho nền sản xuất xã hội". 1.2. Phân loại: Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau, song chủ yếu là từ các nguồn vốn mang tính chất hiệu quả không mang lại lợi nhuận. Nó có thể chia ra thành các nguồn vốn như sau: 1.2.1. Nguồn vốn trong nước: Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất - kinh doanh, được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động qua nhiều thế hệ trong mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp và cả quốc gia. 1.2.1.1. Vốn từ ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước được coi như "cái ví" đựng tiền của Nhà nước và để tồn tại thì Nhà nước phải thực hiện các khoản thu vào ngân sách. Nếu xét theo tác dụng của các khoản thu đối với quá trình cân đối ngân sách Nhà nước thì ngân sách Nhà nước sẽ bao gồm các khoản thu sau: - Thuế (bao gồm cả thuế trực tiếp và thuế gián tiếp): đó là các nguồn thu chủ yếu vào ngân sách, ngoài ra nó còn có tác dụng quản lý vĩ mô nền kinh tế. - Phí và lệ phí: đây là các khoản thu hết sức cần thiết như phí qua cầu, phà,.... - Thu từ lợi tức cổ phần của Nhà nước và các khoản thu khác theo luật định. - Các khoản thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản vay trong nước cho chi tiêu ngân sách Nhà nước khi các khoản chi ngân sách vượt quá các khoản thu trong cân đối ngân sách Nhà nước. Khi đã có các khoản thu, Nhà nước tiến hành chi tiêu để duy trì sự tồn tại và phát triển kinh tế, thường là vào các lĩnh vực chủ yếu sau: - Chi cho các dự án kết cấu hạ tầng, bao gồm có hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Hạ tầng kinh tế - kỹ thuật gắn liền với các ngành sản xuất dịch vụ, năng lượng, giao thông vận tải, cấp thoát và xử lý nước.... Hạ tầng xã hội gắn liền với các ngành giáo dục, văn hoá, y tế, kế hoạch hoá gia đình, an ninh quốc phòng,.... Thường thì các dự án này đòi hỏi số lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, khả năng sinh lời thấp, tư nhân ít đầu tư buộc Nhà nước phải đầu tư để đảm bảo sự ổn định cân đối của nền kinh tế. - Chi cho việc hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước. - Chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị nông thôn. Vốn đầu tư từ ngân sách tham gia trực tiếp, đồng thời hỗ trợ làm vốn "mồi" để thu hút nguồn vốn khác vào phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.1.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Đây là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách Nhà nước sang phương thức tín dụng đối với những dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay, nếu có lãi thì phải thanh toán lãi. Nguồn vốn này có tác dụng làm giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước sang hình thức hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội .... 1.2.1.3. Vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Nguồn vốn này được hình thành từ nhiều nguồn bao gồm: - Vốn chủ sở hữu và tiết kiệm của doanh nghiệp Nhà nước - Vốn đi vay - Vốn do phát hành cổ phiếu - Vốn tài trợ từ ngân sách của Chính Phủ - Vốn liên doanh, liên kết với các cá nhân và tổ chức trong nước và ngoài nước - Vốn có được từ các hình thức theo Luật doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam 1.2.1.4. Vốn của tư nhân: Nguồn vốn này bao gồm: tiết kiệm của dân cư, tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh và hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, lượng vốn này chiếm khoảng 80% lượng vốn lưu chuyển trong các ngân hàng và tiềm năng vẫn còn rất lớn. Nguồn vốn này được đầu tư gián tiếp vào nền kinh tế thông qua thị trường vốn và thường đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc vào các yếu tố: - Thu nhập của các hộ gia đình - Tập quán tiêu dùng của dân cư - Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội 1.2.1.5. Vốn huy động từ thị trường vốn trong nước: Cốt lõi của thị trường vốn là thị trường chứng khoán. Thông qua các hoạt động phát hành và mua bán chứng khoán thì các khoản vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế sẽ được huy động nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. So với các hình thức huy động vốn khác thì thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có thể huy động với quy mô rộng rãi hơn, phương thức tín dụng linh hoạt, đa dạng, có thể đáp ứng một cách nhanh chóng các nhu cầu khác nhau của người cần vốn, đảm bảo sự hiệu quả kịp thời của các quyết định đầu tư. 1.2.2. Vốn đầu tư nước ngoài: Hiện nay, có sự di chuyển vốn từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, tạo thành dòng lưu chuyển vốn quốc tế (biểu thị sự chuyển giao nguồn lực giữa các quốc gia trên thế giới). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự di chuyển vốn quốc tế này là sự chênh lệch tỷ suất lợi nhuận so sánh giữa các nước, có sự gặp gỡ nhau về lợi ích giữa nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có một đặc điểm, mục đích và điều kiện thực hiện riêng. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại nguồn vốn nước ngoài thành: 1.2.2.1. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, các Chính Phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính Phủ được thực hiện dưới các hính thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA - viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn này có một số đặc điểm sau: - Chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. - Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. - Thời hạn cho vay dài, lãi suất ưu đãi hơn so với các nguồn vốn khác (thường là 0,5% - 5%/ năm) - Có ít nhất 25% tổng số vốn vay là không phải hoàn lại, gọi là thành tố hỗ trợ. - Các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe, thường ràng buộc về cơ chế chính trị, cơ cấu chuyển đổi, cơ cấu vốn... Do đặc điểm như vậy mà vốn ODA thường được dùng cho các dự án có thời gian hoàn vốn lâu. Hiệu quả sử dụng vốn ODA gắn liền với tính khả thi của dự án. Nếu không tính toán kỹ, dự án không khả thi thì chính ODA và các khoản tín dụng ưu đãi sẽ dẫn tới nợ nần chồng chất. 1.2.2.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do nhà đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất khẩu theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Tuy nhiên, vốn FDI cũng có những mặt trái của nó. Đó là: - Nước nhận đầu tư phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với nhà đầu tư nước ngoài theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. Đồng thời, nước nhận đầu tư cũng sẽ phải trả giá về mặt kinh tế - xã hội cho việc thu hút nguồn vốn này. - Trong trường hợp dự án 100% vốn nước ngoài thì sẽ rất khó kiểm soát được sự hoạt động của nguồn vốn này. Nhiều khi, dự án sản xuất những ửan phẩm không thích hợp với các nước đang phát triển, hoặc cũng có thể sản xuất những sản phẩm có hại cho sức khoẻ con người, gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng.... - Đối với trường hợp hợp tác kinh doanh, nhà đầu tư thường tính giá đầu vào cao hơn so với mặt bằng giá quốc tế do nước nhận đầu tư thường thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm, thiếu khả năng kiểm soát, trình độ quản lý chuyên môn yếu, cơ chế chính sách có nhiều khe hở mà nhà đầu tư có thể lợi dụng được. - Các nước đi đầu tư thường chuyển giao công nghệ, kỹ thuật lạc hậu cho nước nhận đầu tư nên gây ô nhiễm môi trường lớn, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao, vì vậy khó có thể cạnh tranh trên thị trường. 1.2.2.3. Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: Đặc điểm của nguồn vốn này là lãi suất tương đối cao so với lãi suất trên thị trường vốn quốc tế, thủ tục vay vốn khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, thời gian vay ngắn hạn nhưng không gắn với sự ràng buộc về chính trị. Các nước đang phát triển cũng đã tiếp cận nguồn vốn này nhưng chủ yếu chỉ là các doanh nghiệp xuất khẩu và vẫn còn hạn chế. 2. Vai trò của vốn đầu tư trong phát triển giáo dục: 2.1. Nguồn ngân sách Nhà nước: Trong cơ chế thị trường, ngân sách Nhà nước không còn là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động giáo dục thì nguồn ngân sách Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Được thể hiện: Thứ nhất, chi phát triển văn hoá - xã hội trong đó có sự nghiệp giáo dục - đào tạo là một trong những nội dung cơ bản nhất của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Đảng và Nhà nước coi giáo dục - đào tạo là "quốc sách hàng đầu", vì vậy đầu tư cho hoạt động giáo dục - đào tạo cũng là ưu tiên hàng đầu và theo điều 89 của Luật giáo dục đã nêu rõ: "Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục". Bên cạnh đó, nền kinh tế đa thành phần ở nước ta mới được hình thành và phát triển, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh còn nhỏ bé nên sự đóng góp cho hoạt động giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế. Mặt khác, hệ thống trường công của nước ta còn chiếm tỷ lệ lớn, việc phát triển các trường bán công, dân lập chưa nhiều, vấn đề "xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo", đa dạng hoá các loại hình trường, lớp chưa được phổ biến rộng rãi, do đó chưa có khả năng thu hút được các nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy, nguồn đầu tư của ngân sách Nhà nước trong những năm vừa qua vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo theo định hướng của Đảng, Nhà nước trong chiến lược phát triển chung của quốc gia. Thứ hai, đầu tư của ngân sách Nhà nước như: xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu.... một mặt tạo điều kiện để tăng về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Mặt khác, đây cũng là cơ sở ban đầu để khuyến khích các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế đóng góp nhằm thực hiện phương châm: "Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo". Thứ ba, ngân sách Nhà nước còn có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn hệ thống. Thông qua định mức chi ngân sách hàng năm cho sự nghiệp giáo dục đã góp phần định hướng, sắp xếp cơ cấu mạng lưới trường, lớp trong hệ thống giáo dục quốc dân, cơ sở vật chất của mỗi trường và toàn hệ thống. Tập trung ngân sách Nhà nước cho những mục tiêu chương trình quốc gia như: chương trình xoá mù chữ, xác định hệ thống trường lớp, xây dựng trung tâm đào tạo có chất lượng cao... Ngoài ra, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo còn có quan hệ mật thiết với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. 2.2. Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước: Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, do dân và vì dân. Do đó, việc quan tâm đến sự nghiệp giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội với định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, thực hiện xã hội hoá trong giáo dục - đào tạo, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Khi sự nghiệp giáo dục - đào tạo có tính xã hội thì các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, gia đình, cộng đồng đều có trách nhiệm quan tâm góp sức lực, trí tuệ, tiền của để phát triển sự nghiệp giáo dục. Trong những năm vừa qua, chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo có xu hướng tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển của sự nghiệp này. Trên thực tế, việc tăng chi cho sự nghiệp này chủ yếu bằng nguồn ngân sách Nhà nước đã và đang tỏ ra không còn phù hợp với sự phát triển đa dạng của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập hiện nay. Chính vì lẽ đó, cần phải tích cực huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, những nguồn thu này tuy chưa nhiều, chưa triệt để nhưng cũng đã góp phần đáng kể vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nước ta. Các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo bao gồm: - Nguồn đầu tư của gia đình học sinh. Nguồn gốc của nguồn này là từ thu nhập của hộ gia đình, trích một phần để chi tiêu cho việc học tập của con em họ. Nguồn này bao gồm các khoản sau: + Tiền học phí, lệ phí tuyển sinh.... của học sinh do gia đình họ đóng góp (có ưu tiên miễn giảm cho những học sinh thuộc đối tượng chính sách). Đây là nguồn cơ bản, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ngoài ngân sách Nhà nước của các trường ở nước ta hiện nay. + Các khoản tiền mà các gia đình chu cấp cho con em họ để chi tiêu phục vụ việc học tập và sinh hoạt hàng ngày gồm: tiền mua sách vở, tài liệu, phương tiện, đồ dùng học tập, tiền ăn, ngoài ra còn tiền học thêm tin học, ngoại ngữ.... - Nguồn vốn của các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp tự bỏ ra để đào tạo cán bộ, công nhân viên của mình. - Tiền ủng hộ của các cơ quan đơn vị, các doanh nghiệp đầu tư cho các trường, lớp. - Tiền tài trợ của các tổ chức quốc tế thông qua các dự án đào tạo. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa không nhỏ trong phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nước ta trong những năm vừa qua. - Tiền ủng hộ của các tổ chức Việt kiều ở nước ngoài. Hàng năm đồng bào ta ở nước ngoài ủng hộ hàng trăm suất học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam trị giá hàng tỷ đồng. - Các khoản được tặng biếu cho các trường bằng hiện vật như: máy vi tính, đồ dùng thí nghiệm, giáo trình, giáo khoa.... của các tổ chức kinh tế, đoàn thể và các tổ chức xã hội. Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau, do đó nguồn vốn này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước góp phần làm tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, và làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Phần lớn ngân sách giáo dục dùng để chi trả lương cho cán bộ, giáo viên, phần chi cho cơ sở vật chất và các hoạt động sự nghiệp còn lại quá ít. Vì vậy, nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước do học sinh đóng góp và được các tổ chức tài trợ, đóng góp một phần không nhỏ trong việc nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục - đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giáo viên và học sinh nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Ngoài ra việc các thành phần, các tổ chức kinh tế và các cá nhân đầu tư vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo cũng sẽ tạo ra những cơ sở vật chất cho ngành giáo dục mà Nhà nước không phải bỏ tiền ra để đầu tư. Vì vậy, trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn rất nhỏ bé và phải chi cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội thì việc huy động mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức kinh tế - xã hội , doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục - đào tạo là một biện pháp quan trọng để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như sau này. Chương II Thực trạng phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc. I. Những nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc. Sự phát triển kinh tế, phát triển giáo dục nói chung và giáo dục cấp trung học cơ sở nói riêng của vùng Tây Bắc chịu sự tác động, ảnh hưởng thuận lợi và khó khăn từ nhân tố tự nhiên, kinh tế và xã hội riêng của vùng. 1. Nhân tố điều kiện tự nhiên: Đây là nhân tố khách quan tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Nhân tố tự nhiên bao gồm các nhân tố: 1.1. Vị trí địa lý: Tây Bắc là một phần của miền núi và trung du Bắc Bộ. Từ năm 2004, Tây Bắc gồm có 4 tỉnh là Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình và tỉnh Điện Biên (tỉnh Lai Châu cũ tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên). Giới hạn nghiên cứu của đề tài là 3 tỉnh Lai Châu cũ, Sơn La, Hoà Bình. Vùng Tây Bắc có diện tích 35.954,4 km2, chiếm 10,9% diện tích cả nước, dân số của vùng ước tính năm 2003 là 2.388.700 người, với mật độ 66 người/km2. Đây là vùng có mật độ dân số vào loại thấp nhất của cả nước. Vị trí Tây Bắc nước ta, phía Bắc của vùng giáp với Trung Quốc có đường biên giới dài 560 km, phía Đông giáp với vùng Đông Bắc và một phần của Đồng bằng sông Hồng, còn phía Nam tiếp giáp với Bắc Trung Bộ. Tây Bắc có ý nghĩa quan trọng trong việc giao lưu kinh tế dọc thung lũng sông Hồng và Đồng bằng sông Hồng, với các tỉnh phía Tây Nam Trung Quốc và Thượng Lào, vùng Tây Bắc còn có ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng. Vùng Tây Bắc được Nhà nước đặc biệt quan tâm để phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, nâng cao trình độ dân trí ở đây. 1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên: 1.2.1. Địa hình: Vùng Tây Bắc có đặc trưng nổi bật là địa hình núi cao, hiểm trở với dãy Hoàng Liên Sơn chạy dọc theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ biên giới Việt Trung về đồng bằng. Địa hình của vùng Tây Bắc bị chia cắt mạnh với độ dốc lớn, đại bộ phận lãnh thổ của vùng thuộc lưu vực sông Đà. Về địa thế, vùng Tây Bắc nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Bắc là những dãy núi cao với các đỉnh núi cao hơn 2000m như đỉnh Phu Tu Lum (2090m), Phu Sa Sin (2348m).... Phía Đông và Đông Bắc là dãy Hoàng Liên Sơn cao nhất Việt Nam với đỉnh Phan Xi Pan (3143m). Nối tiếp dãy Hoàng Liên Sơn là dãy Phu Luông.... có độ cao bình quân từ 1500-1800m, độ dốc trung bình trên 30 độ, có địa hình hiểm trở, chia cắt phức tạp với nhiều đỉnh núi cao. Phía Tây Bắc và Tây Nam là các dãy núi cao kế tiếp nhau như: đỉnh Khoang La Xan (1865 km), San Cho Cay ( 1934 km)..... Nằm giữa vùng Tây Bắc là dòng sông Đà chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, hai bên sông Đà là các sơn nguyên và cao nguyên đá vôi nối tiếp nhau. Lưu vực sông Đà và sông Mã, cùng với xung quanh là núi cao và cao nguyên hình thành cho vùng có cảnh tự nhiên độc đáo. Do Tây Bắc có địa hình núi cao, dốc chia cắt hết sức phức tạp và hiểm trở nên việc mở mang xây dựng và giao lưu với bên ngoài rất khó khăn. Trải qua nhiều thời kỳ, vùng Tây Bắc hầu như vẫn tách biệt với bên ngoài. Địa hình hiểm trở đã gây trở ngại rất lớn cho xây dựng đường xá để phát triển kinh tế - xã hội. Địa hình nhiều đồi núi, giao thông, đường xá kém phát triển đã gây khó khăn rất lớn cho học sinh đi học, trường học thường cách xa thôn bản, nhà học sinh ở. Do vậy thời gian đi học tới trường lâu và vất vả đã tạo cho học sinh tâm lý ngại đi học, muốn bỏ học. Từ đó cản trở việc thu hút trẻ em đến trường ảnh hưởng cản trở đến phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở của vùng. 1.2.2. Khí hậu: Vùng Tây Bắc có khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Vùng Tây Bắc có chế độ gió mùa tương phản rất rõ rệt. Mùa hè với gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9, thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều. Mùa đông với gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thời tiết lạnh, khô và ít mưa. Khu vực Tây Bắc có lượng mưa lớn bình quân từ 1800 - 2500mm/ năm, lượng mưa thường tập trung vào các thàng hè, tổng số ngày mưa trung bình trong năm từ 114 - 173 ngày. Khí hậu khắc nghiệt, mùa hè rất nóng, hạn hán hoả hoạn hay xảy ra, mưa lớn, giông bão đã ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt và sản xuất của người dân, mưa đá thường xuất hiện vào mùa đông khiến cho việc đi lại của học sinh gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, ảnh hưởng xấu đến việc khuyến khích, thu hút học sinh đến trường và nâng cao trình độ dân trí cho người dân ở đây. 1.2.3. Tài nguyên: Tây Bắc có nhiều nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. - Tài nguyên nước: Tây Bắc là đầu nguồn của một hệ thống sông lớn như: sông Đà, sông Mã, sông Bôi. Với địa thế lưu vực rất cao, lòng sông chính và các chi lưu rất dốc, có nhiều thác ghềnh, đã tạo nên nguồn thuỷ năng lớn nhất Việt Nam (33 tỷ Kwh, chiếm hơn 30% tổng tiềm năng thuỷ điện của cả nước). Nguồn suối nước nóng trong vùng tương đối nhiều, có khả năng chữa bệnh. - Tài nguyên khoáng sản: Vùng Tây Bắc có nhiều khoáng sản như than có trữ lượng lớn với nhiều mỏ than, Tây Bắc có nhiều Niken - đồng - vàng và đất hiếm. Đây là nguồn tài nguyên rất cần cho phát triển công nghiệp cần được khai thác. Ngoài ra, vùng Tây Bắc được biết đến có thế mạnh về chăn nuôi đại gia súc nhờ những cánh đồng cỏ rộng, khí hậu thích hợp như nuôi bò lấy sữa và thịt ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La). Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của vùng nếu được đầu tư khai thác tốt sẽ thúc đẩy cải thiện, phát triển kinh tế của vùng, nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng. 2. Nhân tố kinh tế: 2.1. Trình độ phát triển kinh tế của vùng Tây Bắc rất thấp và lạc hậu. Điều đó thể hiện ở cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Bảng 1: Cơ cấu GDP vùng Tây Bắc Đơn vị: % Khu vực Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Khu vực I Khu vực II Khu vực III 49,61 15,09 35,30 46,52 15,98 37,50 48,05 15,92 36,04 47,97 16,09 35,94 Tổng 100 100 100 100 Nguồn: Kinh tế Vịêt Nam đổi mới những phân tích và đánh giá quan trọng. NXB Thống Kê, Hà Nội 2002. Tỷ trọng nông nghiệp lớn, chiếm hơn 46% trong cơ cấu ngành kinh tế. Công nghiệp chủ yếu là thuỷ điện nhưng lại chủ yếu do trung ương quản lý. Công nghiệp địa phương rất nhỏ bé, chủ yếu là sửa chữa hay sản xuất đơn giản. Nông lâm nghiệp trình độ sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên lạc hậu. 2.2. Thu nhập bình quân/ người của người dân thấp. Bảng 2: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng vùng Tây Bắc năm 2002 (Giá thực tế) Đơn vị: 1000đ Các vùng Chung 5 nhóm thu nhập Chênh lệch Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Cả nước ĐB Sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ DH Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐB Sông Cửu Long 356,08 353,12 268,75 196,95 235,41 305,41 244,03 619,68 371,31 107,67 120,67 95,09 74,96 88,95 112,91 85,53 165,43 126,23 178,33 190,47 151,71 110,90 135,66 182,12 140,45 302,99 203,76 251,03 258,44 211,87 145,92 183,49 244,21 185,64 452,26 277,27 370,54 368,09 297,36 206,57 250,44 333,35 262,07 684,64 389,25 872,85 628,32 588,02 446,57 518,71 656,93 546,671493,18 860,11 8,11 6,86 6,18 5,96 5,83 5,82 6,39 9,03 6,81 Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 Tổng cục thống kê Hà Nội 2004 Từ bảng trên cho thấy thu nhập bình quân theo đầu người của vùng Tây Bắc thấp nhất cả nước, chỉ bằng gần một nửa thu nhập bình quân cả nước, GDP bình quân đầu người đã thấp nhưng lại chênh lệch rất lớn. Nhóm có thu nhập cao nhất gấp 6 lần nhóm có thu nhập thấp nhất. Nhóm có thu nhập cao thường tập trung ở khu vực thị xã, thị trấn, huyện lị và chủ yếu là người kinh, người Mường, người Thái. Nhóm có thu nhập thấp rơi vào chủ yếu là dân tộc ít người sống xa trung tâm. Cơ cấu nguồn thu nhập của người dân trong vùng sẽ phản ánh rõ hơn trình độ phát triển kinh tế của vùng. Bảng 3: Cơ cấu thu nhập bình quân một nhân khẩu theo nguồn thu Đơn vị tính: % Khoản mục Cả nước Tây Bắc Tiền lương, tiền công Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản Công nghiệp Xây dựng Thương nghiệp Dịch vụ Khác 32,69 23,15 1,27 4,07 5,53 0,46 9,67 6,98 16,19 21,23 49,38 7,13 2,02 1,96 0,09 2,93 2,77 12,49 Tổng 100 100 Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 Tổng cục thống kê Hà Nội 2004 Thu nhập bình quân theo đầu người của vùng thuộc loại thấp nhất nước và nguồn thu nhập này chủ yếu từ nông nghiệp (nông nghiệp, lâm thuỷ sản) 58,53%. Thực trạng này ảnh hưởng rất lớn đến phát triển giáo dục đào tạo. Trình độ kinh tế thấp, vùng không có điều kiện đầu tư xây dựng đường xá, trường lớp, trang thiết bị dạy học.... dẫn tới cản trở sự phát triển giáo dục. Đối với các gia đình, đời sống khó khăn, các bậc cha mẹ phải quan tâm tới cơm áo hơn là cho con cái học hành, mà họ có muốn thì cũng khó bởi không có tiền mua sách vở, chi cho con ăn học đến nơi đến chốn. 2.3. Tỷ lệ đói nghèo của vùng rất cao: Thực trạng đói nghèo của vùng Tây Bắc được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực thực phẩm Đơn vị tính: % Vùng Tỷ lệ nghèo chung Tỷ lệ nghèo LTTP Năm 1993 Năm 1998 Năm 2002 Năm 1993 Năm 1998 Năm 2002 Cả nước Miền núi phía Bắc Đông Bắc Tây Bắc ĐB Sông Hồng Bắc Trung Bộ DH Miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐB Sông Cửu Long 58,1 81,5 86,1 81,0 62,7 74,5 47,2 70,0 37,0 47,1 37,4 64,2 62,0 73,4 29,3 48,1 34,5 52,4 12,2 36,9 28,9 43,9 38,4 68,0 22,4 43,9 25,2 51,8 10,6 23,4 24,9 42,3 29,6 26,2 24,2 35,5 22,8 32,0 11,7 17,7 15,0 32,4 17,6 22,1 8,5 19,0 15,9 31,5 8,0 11,3 10,9 21,1 15,4 46,1 5,3 17,5 9,0 29,5 3,0 6,5 Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 - Nghèo Qua bảng trên cho thấy: tỷ lệ đói nghèo vùng Tây Bắc có xu hướng giảm dần qua các năm: tỷ lệ nghèo chung giảm dần từ năm 1993 đến năm 2002. Năm 1998 tỷ lệ nghèo chung giảm được 24% so với năm 1993, bình quân một năm giảm 4,82%. Đến năm 2002 tỷ lệ nghèo chung giảm 5,4% so với 1998, bình quân một năm giảm 1,35%. Tỷ lệ nghèo chung vùng Tây Bắc giảm theo thời gian song mức giảm chậm, nhưng tỷ lệ nghèo ở khu vực Tây Bắc vẫn là cao nhất cả nước: Năm 2002 tỷ lệ nghèo chung là 68%, tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm là 46,1%. Tỷ lệ đói nghèo của các địa phương vùng Tây Bắc được thể hiện qua bảng sau: Bảng 5: Tỷ lệ đói nghèo các tỉnh vùng Tây Bắc Đơn vị tính: % Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới quốc gia) Năm 2002 Năm 2003 Hoà Bình Sơn La Lai Châu 17,04 17,37 36,84 13,54 17 31,84 Nguồn tổng hợp từ bá._.iêu cho giáo dục bình quân một hộ/ năm Khoản chi Tây Bắc Lai Châu Sơn La Hoà Bình 1000 % 1000 % 1000 % 1000 % Học phí 100,3 28,81 36,63 19,44 45,38 18,02 139,6 31,97 Xây dựng trường 54,36 15,01 27,14 14,4 55,63 22,2 43,78 10,0 Quỹ phụ huynh 7,21 2,07 3,71 1,97 6,91 2,74 9,46 2,16 Bảo hiểm 9,94 2,85 2,51 1,33 3,36 1,33 13,3 3,04 Sách 68,37 19,63 42,12 22,36 69,06 27,28 67,03 15,34 Đồ dùng 46,04 13,22 37,61 19,97 45,5 18,07 49,19 1,26 Chi đi lại 9,03 2,59 16,41 8,71 12,68 5,04 14,88 3,41 Chi khác 54,96 15,78 22,26 11,82 13,27 5,27 99,54 22,79 Tổng 348,2 100 188,4 100 251,8 100 436,8 100 Nguồn : Kết quả điều tra đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 2002. NXB Thống kê, Hà Nội 2004 Qua bảng trên cho thấy chi tiêu cho giáo dục bình quân một hộ/ năm của các tỉnh vùng Tây Bắc là quá thấp. Trong cơ cấu khoản chi thì chi cho học phí, đóng góp xây dựng trường, đồ dùng, dụng cụ, sách vở là khoản chi nhiều nhất. Đặc biệt do đường xá đi lại khó khăn nên vùng Tây Bắc chi phí đi lại để học tập không phải là ít. Chi tiêu thấp như vậy không đảm bảo điều kiện học hành của học sinh. Vùng Tây Bắc là vùng nghèo nhất cả nước, người dân ở đây phải đối mặt với đói nghèo, nhiều khi họ quan tâm tới cái ăn hơn là việc cho con cái đi học. Đối với những gia đình nghèo, chi phí cho con em đi học là cả một vấn đề lớn, là gánh nặng đối với họ, không có tiền nuôi con đi học, nhiều học sinh con nhà nghèo phải bỏ học, nếu có học thì thường kết quả học tập rất thấp, một phần do thiếu sách vở, một phần do trình độ cha mẹ thấp khó dạy bảo con cái học hành. Và một phần quan trọng là nhiều học sinh sau giờ học phải làm thêm rất nhiều để giúp gia đình nên không có nhiều thời gian dành cho học tập. 2. Kết luận về thực trạng giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc và những nguyên nhân. 2.1. Những kết quả đạt được: Giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc ngày càng được tăng cường và trên đà phát triển. Giáo dục cấp trung học cơ sở của vùng đã có những bước chuyển biến tích cực và đã đạt được những kết quả nhất định : Một là, quy mô giáo dục cấp trung học cơ sở được tăng cường. Quy mô giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc được mở rộng. Cơ sở vật chất cho giáo dục cấp trung học cơ sở được tăng cường đầu tư. Nhiều trường học, lớp học, phòng học mới được xây dựng. Các trang thiết bị dạy học được mua sắm thêm, việc tu bổ trường, lớp học đã được quan tâm để đáp ứng cho nhu cầu học tập ngày càng tăng của học sinh và người dân trong vùng. Số lượng giáo viên và học sinh trung học cơ sở ngày càng tăng, tỷ lệ học sinh/ giáo viên có xu hướng giảm. Hai là, chất lượng giáo dục cấp trung học cơ sở có phần được cải thiện : - Hiện nay vùng Tây Bắc đã tích cực đẩy mạnh phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở ngày càng tăng trong tất cả các tỉnh trong vùng, đặc biệt là tỉnh Hoà Bình, ước tính đến năm 2003 hoàn thành xong phổ cập trung học cơ sở. - Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi tăng nhanh. Điều này có ‎nghĩa là việc học tập của học sinh trung học cơ sở ngày càng được nhà trường, gia đình và xã hội quan tâm. - Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp rất cao so với cả nước. - Trình độ hiểu biết, năng lực của học sinh đã được cải thiện và nâng cao hơn. 2.2. Những tồn tại và hạn chế cần khắc phục : Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng mừng trong phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở nhưng nhìn chung giáo dục trung học cơ sở vùng Tây Bắc còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập cần phải khắc phục như: thiếu thốn về cơ sở vật chất, yếu về chất lượng, hiệu quả giáo dục chưa cao, trình độ phát triển còn thấp so với cả nước và mất cân đối rất lớn giữa các tỉnh trong vùng. Cụ thể là: Thứ nhất: Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học còn thiếu thốn nhiều. Vùng Tây Bắc còn thiếu nhiều trường học, lớp học, đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho giảng dạy. Chất lượng phòng học thấp, còn nhiều phòng học tranh, nứa lá, phòng học tạm. Thứ hai: Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu vừa tăng nhanh vừa phải đảm bảo nâng cao chất lượng. Cơ cấu giáo viên còn chưa hợp lý. Vùng Tây Bắc có đặc thù là có nhiều dân tộc ít người sinh sống, chữ viết và ngôn ngữ không thống nhất, ngôn ngữ víêt không phát triển lắm, không phải tất cả các dân tộc ít người đều có chữ viết riêng của mình mà phải học chữ và học tiếng phổ thông để hòa nhập vào cộng đồng người Việt Nam. Để có thể nâng cao trình độ dân trí cho người dân tộc ít người thì người dạy chữ cho dân tộc ít người phải biết tiếng dân tộc, phải dạy theo hướng song ngữ. Số lượng giáo viên dạy được song ngữ đặc biệt là giáo viên người dân tộc còn thiếu rất nhiều. Sự phân bố giáo viên cũng chưa hợp lý. Vùng Tây Bắc thừa giáo viên ở thị xã, thị trấn… thiếu nghiêm trọng giáo viên giảng dạy ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người sinh sống. Do ở những nơi này điều kiện kinh tế – xã hội, cuộc sống khó khăn nên nhiều giáo viên không muốn đến công tác. Thứ ba: Chất lượng giáo dục của vùng còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước. - Tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở rất thấp và có sự chênh lệch quá lớn giữa các tỉnh trong vùng. Trong khi Hoà Bình năm 2003 đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở thì Lai Châu mới đạt được hơn 10%. - Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh trung học cơ sở thuộc loại thấp nhất và khoảng cách quá lớn so với mặt bằng chung của cả nước. - Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học cao nhất cả nước. Đối tượng học sinh đi học không đúng tuổi, học sinh lưu ban, bỏ học chủ yếu là học sinh, trẻ em nghèo sống ở vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa của Tây Bắc. - Trình độ phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở giữa các tỉnh trong vùng và giữa thành thị, thị trấn, thị xã với vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người ngay trong một tỉnh cũng có sự chênh lệch quá lớn. Tỉnh Hoà Bình có trình độ phát triển giáo dục cao hơn hẳn Lai Châu và Sơn La. 2.3. Nguyên nhân tồn tại và hạn chế: 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan: - Khả năng học tập của học sinh đặc biệt là học sinh nghèo các dân tộc thiểu số chịu nhiều bất lợi: nghèo, sức khoẻ yếu, thiếu môi trường biết đọc, biết viết, những người xung quanh không nhiều người nói được tiếng Việt nên đã ảnh hưởng xấu đến nhiều học sinh dân tộc ít người, học sinh nghèo học tập kém, không theo được chương trình học, phải bỏ học hay lưu ban, trượt tốt nghiệp. - Trình độ dân trí thấp, đặc biệt là các dân tộc ít người. Cha mẹ của học sinh nghèo, học sinh dân tộc ít người thường ít quan tâm và xem nhẹ việc học hành cũng như sự cần thiết phải đến lớp và học tiếp lên cao của con cái nên không có được sự khuyến khích cần thiết khi chúng cần. - Thu nhập thấp, điều kiện sống khó khăn, nghèo đói. Chi phí trực tiếp cho giáo dục khá cao so với thu nhập của các hộ nghèo. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư 2002, bình quân chi phí cho một học sinh trung học cơ sở là 455.000 đồng/ năm, khiến cho các gia đình không đủ tiền cho con đi học, đóng học phí… và kết quả là rất nhiều học sinh phải bỏ học, không thể học lên cao nữa. - Học phí cao, nhiều khoản phải đóng góp đã cản trở sự tiếp cận của học sinh nghèo với giáo dục. - Chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục thấp: thiếu trường lớp, sách vở, đồ dùng dạy và học, thiếu giáo viên, chất lượng giáo viên thấp đã ảnh hưởng đến việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh. Chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục thấp nguyên nhân chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Bắc còn thấp, đói nghèo trên diện rộng nên vùng không đầu tư được nhiều cho phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở. 2.3.2. Nguyên nhân khách quan: Địa hình chia cắt, phức tạp, giao thông kém phát triển ảnh hưởng đến việc bố trí trường học và đi lại của học sinh gặp nhiều khó khăn. Thời tiết khắc nghiệt, mưa lớn vào mùa hè, rét lạnh vào mùa đông đã ảnh hưởng xấu đến việc học tập của học sinh. Đi học xa và nhiều thiếu thốn gây ra tâm lý ngại đi học đối với học sinh. Chương III Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc. I. Mục tiêu phổ cập cấp trung học cơ sở đến năm 2010. 1. Mục tiêu tổng quát của công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2000-2010 là duy trì, củng cố và phát triển thành quả phổ cập giáo dục tiểu học, đảm bảo cho hầu hết thanh, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học tập để đạt trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Mục tiêu cụ thể: - Củng cố, phát huy kết quả chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiếp tục chỉ đạo xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đặc biệt ở 18 huyện và 235 xã chưa đạt chuẩn. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, huy động hầu hết trẻ em 6 tuổi đi học lớp một, bảo đảm số học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi đạt 97% vào năm 2005 và 99% vào năm 2010, về cơ bản không còn trẻ em bước vào tuổi 15 bị mù chữ vào năm 2010. - Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trung học cơ sở; giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học; bảo đảm số học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở hàng năm từ 90% trở lên; ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 75% trở lên. Bảo đảm tỷ lệ thanh niên, thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến hết 18 tuổi đạt trình độ trung học cơ sở từ 80% trở lên; ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 70% trở lên. - Các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2005 và cả nước đạt chuẩn vào năm 2010; bảo đảm 100% số quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đạt các mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở. II. Nhu cầu đầu tư cho phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở vùng Tây Bắc. Tây Bắc là vùng có trình độ phát triển kinh tế – xã hội thuộc loại thấp nhất nước ta. Do đó để phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở của vùng thì cần phải huy động rất nhiều nguồn lực, trong đó vốn đầu tư đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong thời gian qua, giáo dục và đào tạo vẫn được ưu tiên đầu tư cao cả ở Trung ương và địa phương, tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo không ngừng tăng lên cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Bảng 26: Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo Chỉ tiêu 2000 2002 2004 1. Tổng GDP (nghìn tỷ đồng) 2. Tổng chi NSNN (nghìn tỷ đồng) 3. Ngân sách GD&ĐT (nghìn tỷ đồng) 4. Chi GD&ĐT trong GDP (%) 5. Chi GD&ĐT trong NSNN (%) 6. NSGD tính bình quân cho 1 đầu người ( nghìn đồng) 441 108,9 14,5 3,0 15,0 210 539 147,3 21,6 3,7 15,6 283 700 186,7 34,4 4,9 17,1 352 Nguồn: Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2004 Bảng số liệu trên cho thấy năm 2004 ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tăng 2,37 lần so với năm 2000, trong khi đó chi ngân sách Nhà nước chỉ tăng 1,7 lần. Tỷ trọng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo trong GDP năm 2000 là 3% đến năm 2004 đã tăng lên 4,9%. Năm 2000 ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo chiếm 15% trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Dự kiến tiếp tục nâng tỷ lệ chi cho giáo dục - đào tạo trong ngân sách Nhà nước lên ít nhất 18% năm 2005 và 20% năm 2010. Bảng27: Dự báo khả năng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục Chỉ tiêu 2005 2010 1. Tổng GDP (tỷ đồng) (tính theo giá năm 2000) 2. Chi ngân sách Nhà nước trong GDP (%) 3. Tổng chi ngân sách Nhà nước (tỷ đồng) 4. Tỷ lệ chi cho giáo dục trong tổng chi NSNN (%) 5. Tổng chi NSNN cho giáo dục (tỷ đồng) 6. Chi NSNN cho giáo dục trong GDP (%) 619628 20 94532 15 14179 3 900314 20 189065 20 37813 4 Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục cũng được cải thiện theo hướng tập trung nhiều hơn cho các bậc học phổ cập, các vùng đặc biệt khó khăn, các lĩnh vực ưu tiên trong đào tạo nhân lực. Bảng 28: Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo Đơn vị tính: Tỷ đồng 2001 2002 2003 2004 Dự kiến 2005 Tổng số 15609 20624 22795 29298 40140 Chi xây dựng cơ bản 2360 3008 3200 4900 6200 Chi thường xuyên 12469 16906 18625 23148 33940 Chi chương trình mục tiêu 600 710 970 1250 2500 Nguồn: Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2004 Qua bảng số liệu trên thấy rằng: Chi đầu tư xây dựng cơ bản cho giáo dục so với tổng chi xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước đã tăng từ 3,9% năm 1998 lên 10,4% năm 2004, tăng gấp 4 lần so với giai đoạn 1990-1995 (2,65%) và chiếm tỷ trọng cao nhất trong các lĩnh vực xã hội. Chi chương trình mục tiêu quốc gia tăng từ 600 tỷ đồng năm 2000 lên 1250 tỷ đồng năm 2004, dự kiến năm 2005 tăng gấp đôi lên 2500 tỷ đồng, đã góp phần giải quyết kinh phí cho việc thực hiện các mục tiêu ưu tiên của ngành như đổi mới giáo dục phổ thông, hỗ trợ giáo dục miền núi và dân tộc, xoá mù chữ và phổ cập giáo dục, tăng cường năng lực đào tạo nghề, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục. Trong thời gian qua kinh phí chi thường xuyên và kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo phân bổ cho vùng Tây Bắc cũng ngày càng tăng lên. Bảng 29: Nguồn kinh phí cho giáo dục vùng Tây Bắc Đơn vị tính: Triệu đồng Tỉnh Kinh phí CTMT QG GD&ĐT Kinh phí chi thường xuyên 2001 2002 2003 2004 2001 2002 2003 2004 Hoà Bình 8700 16070 17630 21814 166300 219210 232610 301425 Sơn La 8000 13430 16720 25400 190620 268500 288290 406810 Lai Châu 8400 13620 12980 6934 112530 169260 181840 278704 Nguồn: Vụ Kế hoạch – Tài chính. Bộ giáo dục và đào tạo Dự kiến chi thường xuyên năm 2005 là 1103585 triệu đồng, năm 2010 là 1902705 triệu đồng ; chi CTMT QG năm 2005 là 65263 triệu đồng, năm 2010 là 110940 triệu đồng. Có thể thấy nhu cầu đầu tư cho phát triển giáo dục vùng Tây Bắc ngày một tăng lên nhưng chủ yếu là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, khả năng huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước rất hạn chế, đặc biệt là khả năng huy động tại chỗ do vùng có điều kiện sống khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao nhất cả nước. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho giáo dục của vùng là thấp so với các vùng khác trong cả nước. Do đó, trong thời gian tới phải có những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước cấp để cải thiện chất lượng giáo dục của vùng nói chung và giáo dục cấp trung học cơ sở nói riêng , góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Bắc. III. Một số giải pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Giáo dục được coi là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế hiện đại và ngày càng vươn lên yếu tố hàng đầu, tạo động lực bên trong cho phát triển kinh tế. Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng một xã hội văn minh. Kinh phí để thực hiện phổ cập trung học cơ sở bao gồm: - Kinh phí thường xuyên dành cho cấp trung học cơ sở - Kinh phí từ các chương trình dự án vốn vay ADB để xây dựng chương trình mới cho cấp trung học cơ sở, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất cho cấp trung học cơ sở. - Kinh phí Nhà nước bổ sung để đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu phổ cập trung học cơ sở : + Xây dựng trường, sở, mua sắm thiết bị đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng. + Các chính sách cho giáo viên và học sinh (tăng phụ cấp cho giáo viên trung học cơ sở thuộc các địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, trợ cấp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn học tại lớp phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phụ cấp cho giáo viên dạy các lớp này…) + Kinh phí chi khác (chi về quản lý, tuyên truyền vận động, tổ chức, kiểm tra, đánh giá…) - Ngoài nguồn ngân sách Nhà nước, các địa phương chủ động tạo mọi điều kiện nhằm huy động sự tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Để đảm bảo vốn đầu tư nhằm đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, vùng Tây Bắc cần thực hiện một số giải pháp sau: 1. Tăng cường vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước được coi là nguồn vốn chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo vì việc phổ cập trung học cơ sở có ý nghĩa chiến lược rất căn bản, hơn thế nữa vùng Tây Bắc có tỷ lệ nghèo đói cao nhất cả nước. Vốn từ ngân sách Nhà nước tập trung vào: - Trả lương cho giáo viên - Tăng ưu đãi, phụ cấp cho giáo viên đi dạy ở vùng sâu, vùng xa. - Xây dựng cơ sở vật chất: trường lớp học, trang thiết bị dạy học - Xây dựng chương trình sách giáo khoa song ngữ cho học sinh vùng dân tộc ít người. - Đào tạo đội ngũ giáo viên, đặc biệt là tăng cường giáo viên dạy song ngữ…. Một trong những giải pháp quan trọng bảo đảm vốn đầu tư là phân bổ ngân sách cho giáo dục. Giải pháp hợp lý là thực hiện phân bổ ngân sách giáo dục - đào tạo theo đầu học sinh với hệ số hợp lý cho học sinh các vùng khó khăn và tăng cường giám sát, kiểm tra, quản lý nguồn vốn đầu tư cho giáo dục. Do đó cần phải cải tiến cơ chế phân bổ ngân sách Nhà nước. Các căn cứ để phân bổ ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo là phải tính được chi phí đơn vị ( chi phí đào tạo trung bình cho mỗi học sinh) để có cơ sở xác định mức chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước được sát thực và xác định “khung giá trần học phí” hợp lý và có căn cứ tính toán giá cả của các hợp đồng đào tạo. Phân bổ ngân sách giáo dục nên hoàn toàn dựa vào số học sinh có tính đến các hệ số ưu tiên giữa các vùng có điều kiện kinh tế khác nhau (nên bỏ việc chia ngân sách giáo dục theo đầu dân). Điều chỉnh lại các định mức chi cho đào tạo cho sát thực với chi phí đơn vị theo các ngành đào tạo, tính toán nâng định mức cho các ngành kỹ thuật để có điều kiện tăng cường thiết bị, thí nghiệm. Ngân sách Trung ương được cấp phát theo nguyên tắc công bằng về mức chi theo đầu học sinh, hạn chế dần tình trạng đào tạo tràn lan như hiện nay. Ngân sách Nhà nước ưu tiên cho trung học cơ sở là điều dễ hiểu trong tương lai vì đây sẽ là bậc học phổ cập. Để nhanh chóng mở rộng giáo dục trung học cơ sở cần cân nhắc việc thực hiện với 2 chính sách về tài chính đi kèm: một là,tăng tỷ lệ thu hồi chi phí bằng việc mở rộng diện đóng học phí; hai là, chuyển dần một số trường công lập sang bán công, thành lập một số trường dân lập để tận dụng khả năng đóng góp của các đối tượng khác nhau. Phân cấp, phân định lại quyền hạn và tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, quản lý nguồn vốn đầu tư cho giáo dục. Trên thực tế, đến nay nhiều người cũng đã nhận ra rằng cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo thiếu thông tin toàn ngành nên không thể giám sát và điều phối toàn bộ hệ thống, chưa giúp đỡ có hiệu quả cho các địa phương, các sở giáo dục. Một số địa phương có thuận lợi hơn về nguồn kinh phí, về tính tự chủ thì dễ giải quyết đời sống cán bộ giáo viên và cung cấp dịch vụ giáo dục - đào tạo khá hơn địa phương khác. Do đó phải đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng song song với việc trao quyền chủ động về tài chính, cần thực hiện chế độ tài chính công khai và chế độ kiểm toán nhằm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho giáo dục. Tăng cường công tác giám sát của Nhà nước. Sự phân chia quyền lực và giám sát phải đảm bảo việc Nhà nước thực hiện “chức năng quản lý vĩ mô” trong khi vẫn tăng khả năng tự chủ của các cơ sở giáo dục - đào tạo. Để làm được điều này, cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây trong chương trình hành động của các cơ quan quản lý giáo dục và tài chính: Nhà nước dứt khoát chuyển sang việc thực hiện vai trò giám sát, điều phối mà bỏ việc kiểm soát chi tiết. Nhà nước định ra những khuôn khổ, đường lối chính sách và những mục tiêu cần đạt được của giáo dục - đào tạo để các địa phương, các trường có thể lập kế hoạch phát triển cho chính họ. Các sở giáo dục - đào tạo được khuyến khích huy động và sử dụng kinh phí một cách có hiệu quả và hướng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và phục vụ các mục tiêu quốc gia, của ngành hay của từng địa phương. 2. Tích cực huy động và thực hiện việc lồng ghép nguồn vốn đầu tư từ các chương trình như chương trình 135, chương trình định canh định cư kinh tế mới, chương trình mục tiêu quốc gia… 2.1. Đẩy mạnh chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn (135) để tạo cơ hội cho con em các gia đình nghèo có đủ điều kiện học trung học cơ sở, Nhà nước sẽ xây dựng chương trình hỗ trợ đặc biệt về ngân sách cho giáo dục trung học cơ sở ở các xã được xác định có tỷ lệ nghèo đói cao. Nguồn vốn được huy động từ chương trình 135 chủ yếu tập trung vào: - Xây dựng đường xá, cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, các vùng đặc biệt khó khăn. - Xoá bỏ phòng học tranh tre, nứa lá, tôn tạo, nâng cấp và xây dựng thêm trường, lớp mới. - Tăng cường xây dựng hệ thống thư viện ở các trường học. Hiện nay chương trình 135 đang được triển khai, thực hiện tại các tỉnh, huyện, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Để chương trình 135 thực sự phát huy hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực đòi hỏi các địa phương phải: - Quán triệt đầy đủ mục đích, ý nghĩa, nội dung và các chính sách của chương trình 135. - Quan tâm chỉ đạo sát sao thực hiện chương trình 135. - Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư cho địa phương từ chương trình 135. - Tăng cường bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ xã, thôn, bản, cán bộ quản lý, giám sát… trong việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho địa phương mình như: đường giao thông, trường học, trạm y tế… - Tăng cường sự tham gia của người dân trong việc thực hiện, đánh giá, giám sát các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn mà họ sinh sống. 2.2. Các chương trình mục tiêu quốc gia bao gồm các dự án: - Củng cố và phát huy những thành quả phổ cập tiểu học và xoá mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. - Đổi mới chương trình và nội dung sách giáo khoa - Đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường, đẩy mạnh dạy ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. - Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất các trường sư phạm. - Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn - Tăng cường trang thiết bị dạy và học trong các trường học. Với nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia được cấp hàng năm, kết hợp với các nguồn vốn bổ sung của địa phương, các địa phương đã đạt được những kết quả tích cực, giáo dục - đào tạo của vùng đã có những chuyển biến đáng kể về cơ sở vật chất và các điều kiện để đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên để thực hiện tốt các mục tiêu, nội dung và tiến độ của các dự án cần có sự tiếp tục đổi mới về cơ chế phân bổ kinh phí, quản lý tài chính và các chính sách có liên quan. 3. Đẩy mạnh xã hội hoá cho giáo dục: Xã hội hóa giáo dục - đào tạo là tư tưởng chủ đạo của sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta. Tư tưởng xã hội hóa giáo dục là kết quả của sự đúc kết từ truyền thống hiếu học, đề cao sự học, chăm lo việc học của dân tộc ta trong hàng ngàn năm lịch sử, là bài học của hơn nửa thế kỷ xây dựng nền giáo dục XHCN, nhất là trong những năm đổi mới. Trước những tác động của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ, xã hội hoá giáo dục còn mang tính thời đại thông qua việc học hỏi, giao lưu với nền giáo dục của nhiều quốc gia dân tộc khác trên thế giới và khu vực. Để khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời; tiến tới một xã hội học tập; cần phải thực hiện một số giải pháp sau: 3.1. Hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã hội hoá giáo dục nhằm tạo sự nhất trí cao trong xã hội về nhận thức và tổ chức thực hiện; bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách vĩ mô khuyến khích mạnh mẽ các tổ chức kinh tế – xã hội, các cá nhân đầu tư cho phát triển giáo dục; tạo điều kiện để vừa phát triển vừa nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các trường ngoài công lập, các hình thức giáo dục ngoài nhà trường và các trung tâm giáo dục cộng đồng. 3.2. Phát triển các trường ngoài công lập. Chuyển một số trường công lập thành trường ngoài công lập khi có đủ điều kiện thích hợp. Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục của các trường ngoài công lập. Các trường ngoài công lập được ưu tiên thuê đất và vay vốn tín dụng xây trường. Các trường hoạt động có chất lượng và hiệu quả được Nhà nước trợ giúp kinh phí xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy, học tập. Nhà trường, giáo viên, học sinh các trường ngoài công lập được bình đẳng như các trường công lập. Học sinh thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội học tập ở các trường ngoài công lập thì cũng được hưởng quyền lợi như ở trường công lập. Hoàn thiện và ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập. 3.3. Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân và tập thể đầu tư phát triển giáo dục; đổi mới chế độ học phí của các trường công lập và ngoài công lập theo hướng đảm bảo tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục mà nhà trường có thể cung cấp, phù hợp với khả năng của người học, đồng thời miễn giảm cho các đối tượng chính sách, gia đình có công và người nghèo. 3.4. Mở rộng và tăng cường các mối quan hệ của nhà trường với các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã hội … tạo điều kiện để xã hội có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, góp ý kiến cho quy hoạch phát triển nhà trường, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học và tiếp nhận người tốt nghiệp, giám sát các hoạt động giáo dục và tạo lập môi trường giáo dục lành mạnh. 3.5. Xây dựng nhà trường thực sự trở thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh, giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” nêu cao phẩm chất của nhà giáo, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phấn đấu để các thầy cô giáo thực sự là những nhà giáo mẫu mực về mọi mặt, là tấm gương sáng cho học sinh, sinh viên noi theo. Làm tốt công tác Đảng, Đoàn thanh niên, Hội học sinh – sinh viên trong nhà trường, kiên quyết loại trừ các tệ nạn xã hội, các tiêu cực trong giảng dạy và học tập. 3.6. Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự giám sát của hội đồng nhân dân, sự quản lý của uỷ ban nhân dân các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, đội thiếu niên tiền phong, hội học sinh – sinh viên, hội cha mẹ học sinh, hội khuyến học và các đoàn thể, tổ chức xã hội khác trong việc huy động nguồn lực xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Chủ trương xã hội hóa giáo dục là cơ sở để khẳng định giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục trong xu hướng xã hội hoá sẽ thu hút được nhiều nguồn lực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đối với sự nghiệp “trồng người”. Khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội cho giáo dục. Cùng với việc tăng thêm và sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà nước là nguồn chủ yếu, cần thiết phải thu hút, huy động thêm các nguồn vốn khác trong nước và tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngoài để phát triển giáo dục thông qua việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục. Huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. 4. Tăng cường huy động vốn đóng góp từ dân cư: Trong nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước thì nguồn vốn đóng góp của phụ huynh học sinh (bao gồm tiền học phí, tiền xây dựng trường…) chiếm tỷ lệ cao và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học. Vì vậy cần phải cải tiến chế độ học phí, có tính đến điều kiện kinh tế của từng địa phương khi xác định mức học phí. Mức thu phải được công khai hóa và được thể chế hoá bằng văn bản pháp quy nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu triệt để theo quy định của Chính phủ. Đối với những vùng có điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn như vùng phân lũ, các xã miền núi thì có thể thu học phí và tiền xây dựng trường thấp hơn mức thu trung bình. Nhà nước cũng đã ban hành chính sách miễn, giảm 100% hoặc 50% học phí và các khoản đóng khác cho học sinh nghèo, học sinh là người dân tộc thiểu số. Hơn nữa, tăng cường huy động vốn đóng góp trong dân cư sẽ góp phần nâng cao ý thức, sự quan tâm của cha mẹ đối với việc học hành của con cái. Tuy vậy, do vùng Tây Bắc rất nghèo nên nhìn chung vốn huy động đóng góp từ dân cư là không lớn, chủ yếu thông qua đóng góp ngày công, sức lực của nhân dân địa phương trong xây dựng trường lớp. Kết luận Quán triệt quan điểm “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” nên trong thời gian qua việc đầu tư cho giáo dục - đào tạo đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010. Bậc học trung học cơ sở là một bậc học quan trọng trong quy trình đào tạo nhân tài cho đất nước, có tác dụng làm nền tảng cho các quá trình đào tạo tiếp theo. Do đó, phổ cập giáo dục trung học cơ sở được coi là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và nhân dân ta trong suốt 10 năm đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là đối với những vùng có trình độ phát triển kinh tế – xã hội thấp kém như vùng Tây Bắc. Việc đầu tư cho phát triển giáo dục trung học cơ sở vùng Tây Bắc ngày càng được coi trọng đã góp phần cải thiện đáng kể cả về mặt số lượng và mặt chất lượng giáo dục trung học cơ sở của vùng. Vì vậy để đạt được mục tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 ở vùng Tây Bắc thì trong thời gian tới cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ, thiết thực nhằm đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở, góp phần đưa vùng thoát khỏi tình trạng lạc hậu như hiện nay. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36780.doc
Tài liệu liên quan