Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa

Lời nói đầu Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm sự thay đổi về chất lượng(những biến đổi về mặt xã hội). Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cuả C.Mác là một thành tựu của khoa học cuả loài người. Nó phác hoạ quy luật tổng quát cuả lịch sử nhân loại và sự phát triển cuả xã hội loài người sẽ tiến tới Chủ nghiã Cộng sản mà giai đoạn th áp c

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả nó là Chủ nghiã xã hội. Chủ nghiã xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường mà là nấc thang phát triển cuả loài người được đánh dấu bằng sự tiến bộ xã hội cuả sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhaan dân lao động, của toàn thể xã hội; là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân lao động ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt nam, đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại niềm vui và sự giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển cuả Việt nam ở hiện tại và trong tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc cuả nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh cuả cả xã hội, cuả toàn dân tộc; là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghiã, là sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã; đồng thời đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng muốn thực hiện được quá trình đó chúng ta phải khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh và mọi nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước; trong đó nguồn lực con người giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đến lượt nó, các thành tựu cuả quá trình đó lại phục vụ cho sự phát triển cuả con người. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm cuả Đảng: con người và là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghiã. Nội dung của đề tài: Phần1 : Quan điểm cuả triết học Mác - Lê nin về con người. Phần 2: Quan điểm của Đảng: Con người vừa là mục tiêu vừa động lực của sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghiã. Phần 3 : Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển con người Việt nam phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghiã. Phần I Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người I. Nguồn gốc và bản chất con người Vấn đề con người là một trong những vấn đề triết học có ý nghĩa đặc biệt, được đề cập nhiều trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, việc nhìn nhận, đánh giá vai trò và vị trí của con người vẫn luôn là một vấn đề cấp thiết trong mọi thời đại. Trong lịch sử triết học, từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây, người ta đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người là gì ? Kết quả là đã có rất nhiều các câu trả lời khác nhau. Chẳng hạn, trong thuyết âm dương, Ngũ hành thì con người ứng vời hành thổ cai quản bốn phương, vạn vật; arixtốt đã gọi con người là “động vật chính trị” trong khi nhấn mạnh trong con người có hai nhân tố khởi nguyên: động vật (sinh học) và chính trị (xã hội),"Vấn đề là ở chỗ nhân tố khởi nguyên nào trong chúng được coi là ưu thế hơn, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành khả năng, tình cảm, hành vi, hoạt động của con người và bằng cách nào thực hiện được mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong con người. Đó là vấn đề mà không một trường phái, một trào lưu triết học nào không đề cập đến theo quan điểm riêng của mình. Tóm lại, với các nhà triết học trước C.Mác, con người chỉ dừng lại ở con người cá thể, cá nhân và họ chỉ loay hoay đi tìm vấn đề con người trong khuôn khổ các cá nhân riêng lẻ, hoàn toàn bị tách khỏi các mối quan hệ xã hội, tách rời với hoạt động thực tiễn trong điều kiện lịch sử nhất định. Với sự ra đời của quan điểm duy vật về lịch sử; lần đầu tiên vấn đề con người có được vị trí mà nó cần phải có, lần đầu tiên vấn đề con người được nhận thức một cách thực sự khoa học. Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháo biện chứng, Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người. Chủ Nghĩa Mác phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con người: mặt sinh vật và mặt xã hội hay nói cách khác, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác, cái sinh học và cái xã hội thống nhất biện chứng với nhau, hoà quyện vào nhau làm nên con người. C.Mác không hề phủ nhận mặt từ nhiên, mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách là những cá nhân sống. Mác viết: “Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên”. Trước hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới sinh vật như tiến hoá luận của Đac-uyn đã khẳng định. Vì vậy, con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và các quy luật tự nhiên. Khi môi trường tự nhiên thay đổi thì buộc con người phải thích nghi với nó, ví dụ khi từ mùa hè sang mùa đông thì con người phải mặc áo ấm; và các quy luật tự nhiên cũng chi phối con người như quy luật biến dị, di truyền làm cho con sinh ra mang cả đặc điểm giống với cha mẹ và thế hệ trước. Như mọi động vật khác, con người phải “đấu tranh” để tồn tại, ăn, mặc, ở, sinh con đẻ cái tức con người cũng đòi hỏi đầy đủ nhu cầu sinh học. Như vậy, xét theo phương diện này thì con người không khác động vật là mấy. Tuy nhiên, C.Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con người. Con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng của sinh vật nhưng lại có nhiều điểm phân biệt với các sinh vật khác. Vậy con người khác động vật ở chỗ nào? * Đó chính là cái xã hội (mặt xã hội) ở trong con người. Con người là sản phẩm của hoạt động xã hội mà trước hết con người là sản phẩm của lao động. C.Mác và Ph.Ănghen đã phân tích vai trò của lao động sản xuất ở con người như sau: “Có thể phân biệt con người với các súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Con người còn chịu sự chi phối của môi trường xã hội như giáo dục, văn hoá, chính trị, pháp luật và các quy luật xã hội như quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hờp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,...Đã là con người thì ngay từ khi mới ra đời đã được sống, nuôi dưỡng, giáo dục ở tron một gia đình, khi lớn lên được đi học, giáo dục trong môi trường rộng hơn là nhà trường và xã hội,... Rồi những sự thay đổi về chính trị, pháp luật, kinh tế, ... buộc hành vi của con người cũng phải thay đổi cho phù hợp với những chuẩn mực của xã hội. Thêm vào đó, con người còn có nhu cầu xã hội như vui chơi, giải trí, giao tiếp, thẩm mỹ, văn học nghệ thuật. Cuộc sống của con người là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần. Khi xã hội càng phát triển thì đời sống tinh thần càng được nâng cao, con người ngày càng có nhiều điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mình và ngày càng có nhiều điều kiện để phát triển toàn diện. Các bậc (thứ tự) nhu cầu có thể được sắp xếp như sau: - Nhu cầu tự khẳng định - Nhu cầu được tôn trọng - Nhu cầu tình cảm - Nhu cầu an toàn - Nhu cầu tâm sinh lý Vậy, về phương diện này thì con vật không thể và không bao giờ có được. Đây chính là tính ưu trội của con người . Khi xem xét mối tương quan giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố và các yếu tố xã hội trong con người, CMác cho rằng cái quyết định trong con người là yếu tố xã hội, con người và xã hội không tác rời nhau và chỉ có trong xã hội, trong khuôn khổ của hoàn cảnh xã hội cụ thể, con người mới tồn tại với tư cách con người. Từ đó, CMác đã chỉ ra bản chất của con người là: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội". Như vậy, xét trên bình diện tổng thể, bản chất con người không phải là cái trừu tượng mà là hiện thực; không phải là cái vốn có, có sẵn trong mỗi cá thể riêng biệt mà là tổng hoà của các quan hệ xã hội; không phải là cái tự nhiên sinh học mà là cái lịch sử-xã hội. Đây là cách tiếp cận cực kỳ biện chứng về bản chất con người của triết học Mác trong khi triết học trước Mác rơi vào quan điểm siêu hình. Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội có nghĩa là bản chất ấy chỉ hình thành và thể hiện trong các quan hệ xã hội. Những quan hệ xã hội ấy chi phối, quyết định hành vi trong đời sống hiện thực của con người, quyết định phẩm chất và cuộc sống của từng cá nhân riêng lẻ và làm cho phương thức thoả mãn nhu cầu của con người được xã hội hội hoá , được nhân cách hoá. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó, con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thật sự của mình. Xét về bản chất của một con người cũng như của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội ấy. Quan hệ xã hội ấy bao gồm: Quan hệ kinh tế, chính trị,pháp luật, đạo đức, tôn giáo, khoa học và nghệ thuật. Quan hệ hiện tại, quá khứ (truyền thống, hiện tại) Quan hệ giai cấp, cộng động, nhóm và gia đình. Quan hệ chung toàn nhân loại, đặc thù (dân tộc, giai cấp) và quan hệ riêng cá nhân. Quan hệ trong từng hình thái kinh tế - xã hội. Theo Mác: Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Câu nói sâu sắc này nêu lên tích tất yếu của sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên. Nhờ hoạt động thực tiễn, con người quan hệ với tự nhiên cũng có nghĩa là con người có quan hệ với bản thân mình, bởi tự nhiên là “thân thể vô cơ của mình”. Tính loài của con người không phải là tính loài trừu tượng, nó cũng có nghiã là tính xã hội và loài người chính là “xã hội người”. Con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ trực tiếp nhu cầu của nó, còn hoạt của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người không phải hoạt động theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất. Tóm lại, con người khác vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính xã hội; trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt động của con người. Tuy nhiên, bản chất con người không phải hình thành một lần là xong, không phải là cái có sẵn, bất biến mà có quá trình hình thành và biến đổi vì con người bao giờ cũng gắn với những điều kiện xã hội hiện thực, với những quan hệ xã hội cụ thể... Việc tìm ra nguồn gốc và bản chất con người đã giúp cho C. Mác có những giải pháp giải phóng con người mang tính cách mạng và khoa học hay nói một cách sâu sắc hơn thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã thực sự trở thành “Vũ khí tư tưởng” cho giai cấp công nhân đứng lên giải phóng xã hội, mang lại tự do, hạnh phúc và phồn thịnh cho toàn xã hội - điều mà trước chủ nghĩa Mác không có được. II. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Khái niệm cá nhân chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách một cá thể, một thành viên của xã hội ấy; do những đặc điểm riêng biệt của mình mà phân biệt với những thành viên khác của xã hội. Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể, những cá nhân sống. Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang những đặc điểm riêng phân biệt với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà chủ yếu về mặt những quan hệ xã hội. Những quan hệ này vô cùng phức tạp, rất cụ thể và có tính lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những “quan hệ xã hội” riêng của mình không hoàn toàn giống quan hệ xã hội của các cá nhân khác; có kinh nghiệm riêng; có nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng riêng. Tuy nhiên, các cá nhân trong một xã hội nhất định dù khác biệt nhau đến đâu, đều mang cái chung; họ đều là thành viên của xã hội đều mang bản chất xã hội, không thể sống ngoài xã hội. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều do các cá nhân- thành viên của giai cấp hợp thành. Mỗi cá nhân trong một giai cấp, vừa mang bản chất chung của con người và loài người, vừa mang bản chất của một giai cấp nhất định, đồng thời có những đặc điểm riêng làm cho cá nhân này không giống với cá nhân khác. Trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Cá nhân là hiện tượng có tính lịch sử. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của lịch sử. Mối quan hệ đó trong xã hội cổ đại không giống trong xã hội trung đại, xã hội cận đại cũng như xã hội hiện đại. III. Vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử: Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật đều không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng và quan hệ giữa quần chúng và cá nhân trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò của cá nhân và vai trò của quần chúng trong sự phát triển xã hội. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân thể hiện ở những mặt sau đây: 1.Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội: Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì trước hết phải có thức ăn, vật dùng, nhà ở,"Để đáp ứng nhu cầu đó, người ta phải không ngừng sản xuất. Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự thay đổi về mặt phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Sản xuất vật chất, chế tạo và cải biến công cụ lao động là hoạt động của toàn xã hội chứ không phải là của một số cá nhân. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. 2.Quần chúng nhân dân lao động là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội: Khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất thì cần có các cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới cao hơn. Quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế- xã hội, quần chúng nhân dân tham gia đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp riêng của một số cá nhân. 3.Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất tinh thần: Nói về vai trò quần chúng trong sáng tạo nghệ thuật, Hồ Chí Minh nhận định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội mà còn sáng tác nữa. "Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. Mác viết: “Thần thoại Hy lạp không những cấu thành kho tàng nghệ thuật của Hy lạp mà còn là miếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy lạp nữa”. Quần chúng nhân dân đông đảo với hoạt động thực tiễn của họ là cơ sở của sản xuất tinh thần của xã hội. Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau, trái lại nó quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân ưu tú lãnh đạo kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, đại diện cho lợi ích và ý chí của quần chúng và chỉ những cá nhân như thế mới được quần chúng công nhận là người lãnh đạo thực sự của họ. Cá nhân ưu tú, lãnh đạo kiệt xuất là sản phẩm, là con đẻ của phong trảo quần chúng nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có vai trò vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng. Lãnh tụ sáng suốt, đức độ, tài năng xuất hiện đúng lúc bao giờ cũng có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, chắc chắn đúng hướng, ít sai lầm và do đó giúp cho phong trào quần chúng đạt được những thành quả tốt đẹp nhất, to lớn nhất. Những phong trào quần chúng to lớn không thể thiếu người lãnh đạo có tầm nhìn xa, thấy rộng, có năng lực tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng. Nhưng phải khẳng định một lần nữa rằng quần chúng nhân dân có vai trò quyết định trong mọi cuộc cách mạng. Phần II Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người: “Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.” Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới được đề ra từ Đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Định hướng phát triển nhằm mục tiêu “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” về thực chất là phát triển vì con người, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động. Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá đều do con người quyết định và đều hướng về con người, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của mỗi con người, mỗi gia đình trong cộng đồng dân tộc Việt nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu con người đó phải lấy sự phát triển của con người Việt nam làm thước đo chung. Khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển của xã hội. C.Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao gồm con người và những công cụ lao động do con người sáng tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động của chính con người và quyết định quan hệ người với người trong quá trình sản xuất. Sản xuất càng phát triển, tính chất xã hội hoá của sản xuất càng gia tăng, “việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới” -“những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”. Và đến lượt mình, nền sản xuất đó sẽ tạo nên những con người mới, sẽ làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình(1). Bởi vậy, theo quan điểm của C.Mác, phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất để “sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”. Và hơn nữa, C.Mác coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là “một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội”(2) Trong quan niệm của C.Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa, nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người. Từ quan niệm đó, C.Mác khẳng định : Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trước hết có nghĩa là “phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là mục đích tự thân”(3). Bởi vậy, theo C.Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là sự phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải phong con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự “tha hoá” để con người được sống với cuộc sống đích thực con người. Và bước quan trọng nhất trên con đường đó, theo ông, là giải phóng con người về mặt xã hội. Điều đó cho thấy trong quan niệm của C.Mác, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diệnvà giải phóng con người. Nói theo F.Engen là đưa người “từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, là làm cho “con người, cuối cùng là người chủ của tồn tại xã hội của chính mình, cũng đồng thời trở thành những người chủ của tự nhiên, người chủ của bản thân mình- trở thành những người tự do”(4). Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tạo ra những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diên, tự do và hài hoà cho mỗi con người trong cộng động nhân loại, tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình. Quan niệm của C.Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển con người làm thước đo chung càng phải được khẳng định trong bối cảnh hiện thời của xã hội loài người. Bởi lẽ, ngày nay, nhân loại đang sống trong một bối cảnh quốc tề đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó. Xã hội loài người, kể từ thời tiền sử cho tới nay, bao giờ cũng là một hệ thống chỉnh thể, thống nhất, song cũng đồng thời là hệ thống hết sức phức tạp, đa diện. Chính sự phức tạp và đa diện của nó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở các nước, các khu vực, các châu lục khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều sắc màu về định hướng phát triển xã hội. Song, dù phát triển theo hướng nào, mọi định hướng phát triển vẫn hướng tới giá trị nhân văn của nó- tới sự phát triển con người. Trong thời đại ngày nay, tăng truởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá bảo vệ môi trường. Mục tiêu tối cao của chiến lược phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giứo cũng đều phải hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi có sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh với việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giữ gìn phát huy bản chất văn hoá dân tộc, đảm bảo cho công bằng và bình đẳng xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống. Đó chính là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển lâu bền- phát triển không chỉ vì thế hệ chúng ta hôm nay, mà còn vì sự sinh tồn và cơ hội phát triển cho thế hệ con cháu mai sau. Cùng với điều đó, trong thời đại ngày nay, quá trình quốc tế hoá quan hệ kinh tế thế giới, hoạt động sản xuất, thương mại, trao đổi thông tin khoa học- kỹ thuật , chuyển giao công nghệ, cùng nhau giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá, ảnh hưởng và sự tác động lẫn nhau giữa các nước, các khu vực các châu lục trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ngày càng trở nên sâu sắc hơn đã khiến cho mối quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên gắn bó vì giá trị nhân văn, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp cho con người. Các vấn đề mang tính toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt, nguy cơ tồn tại của bản thân nhân loại ngày càng có ý nghĩa đặc biệt cũng khiến cho con người càng gắn bó với nhau vì số phận chung của nhân loại. Quy mô và độ sâu sắc của các quá trình đó đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự thay đổi bậc thang giá trị theo tinh thần của nguyên lý triết học mới về một nhân loại đang phát triển- phát triển trong sự thống nhất và với tính chính thể của xã hội loài người, phát triển vì sự tiến bộ tiếp theo của nhân loại. Khi bàn về con đường phát triển tiếp theo, về sự thống nhất và tính đa dạng của các quá trình lịch sử, về bản chất và các tiêu chí phát triển, người ta đã đi đến quan niệm thống nhất rằng ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội đang là xu hướng phát triển chung của tất cả các nước, mục tiêu của sự phát triển đó là vì con người. Tiêu chí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới là sự phát triển của con người. Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII-“Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” - Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định như vậy và chỉ rõ việc đánh giá tiến bộ kinh tế-xã hội của một nước không phải chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà còn dựa trên cơ sở của những “chỉ tiêu cơ bản” là thu nhập quốc dân, trình độ giáo dục và tuổi thọ người dân. Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ những buổi đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Chăm lo cho hạnh phúc của mọi người, mọi nhà đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Quán triệt quan điểm đó, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng ta đã khẳng định: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn là nước nông nghiệp lạc hậu, chậm phát triển để mau chóng thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta không còn con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không chỉ là con đường tất yếu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hôị công bằng văn minh” còn là “cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”- cách mạng con người, vì con người và do con người. Bởi lẽ, khi “nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội”, chúng ta không thể nói khác ngoài việc khẳng định “những ưu việt ấy không thể do ai đưa đến cho chúng ta, cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội , về đạo đức, tình cảm trong sáng”. Định hướng phát triển xã hội theo hướng “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” vì mục tiêu phát triển con người Việt nam được coi là “bước rất quan trọng trong thời kỳ phát triển mới” - giai đoạn từ nay đến năm 2000. Sự nghiệp đó đòi hỏi chúng ta phải tập trung rất nhiều trí tuệ, sức người sức của, tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu phấn đấu của chúng ta từ nay đến năm 2000 mà Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thông qua là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề bền vững cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Từ nay đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 90. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt từ 9 - 10% tạo việc làm nhiều hơn số lao động, giảm đáng kể thất nghiệp; xoá đói, tiếp tục giảm nghèo. Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Thanh toán nạn mù chữ cho người trong độ tuổi từ 15 - 35, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 22-25%. Đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội. Mục tiêu đó cho thấy trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng đã luôn coi hướng phát triển con người Việt nam “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”- vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Phát triển con người Việt nam - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân văn, là nền tảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta từng bước thực hiện. Thực tiễn ngày càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm chủ nghĩa Mác về vị trí và vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển lịch sử cuả nhân loại, của xã hội loài người. Bên cạnh nước chúng ta, các nước Công nghiệp mới ở châu á đã cho thấy thành công của họ trong chiến lược nâng cao chất lượng con người, coi con người là tài nguyên vô giá và đầu tư lớn cho việc nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên sức người vô giá ấy, làm tài nguyên, lấy đó làm đòn bẩy phát triển kinh tế, hiện đại hoá xã hội. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội mà chúng ta đang thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc “những giá trị lớn lao và nhân tố quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Trên thực tế, và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia”. Bởi vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó lên thành công ở một nư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0294.doc
Tài liệu liên quan