LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có nhiều biến đổi quan trọng theo chiều hướng tích cực, để có thể tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần phải thấy được sự thay đổi của môi trường kinh doanh có tác động đến doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, để lựa chọn và sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đã là một điều hết sức khó khăn, thế nhưng để bán được sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng và thu về cho doanh nghiệp những kh
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty cổ phần May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản thu nhập chính đáng cũng là một việc rất phức tạp. Tiêu thụ sản phẩm đã sản xuất ra là một khâu quan trọng của tái sản xuất xã hội. Quá trình tiêu thụ sản phẩm chỉ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa người mua và người bán đã diễn ra và quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá đã thay đổi. Thông qua công tác tiêu thụ mà người ta có thể đánh giá được tính hiệu quả của các quá trình trước đó như: nghiên cứu thị trường, quản lý sản phẩm quản lý chất lượng, quảng cáo , xúc tiến …..
Đạt được lợi nhuận cao chính là mục tiêu hàng đầu khi doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất - kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chính là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất - kinh doanh và ảnh hưởng có tính quyết định đến mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Chỉ có tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá của mình thì mới thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chính là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Trong tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thời cơ và thách thức như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp tham gia sản xuât trong ngành may mặc nói riêng sẽ là những người “trực diện” cạnh tranh với nhau, với các doanh nghiệp khác trong khu vực và trên thế giới.
Công ty cổ phần May Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong ngành may mặc, trước những tình hình mới như: tiến trình tham gia AFTA và sắp tới đây sẽ gia nhập WTO cuả nước ta, sẽ phải cố gắng tăng cường và thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm nhằm chiếm được thị phần đáng kể trong nướcvà tiếp tục tăng cao kim ngạch xuất khẩu tới các thị trường truyền thống và các thị trường mới.
Trong những năm qua Công ty cổ phần May Thăng Long cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong viêc mở rộng thị trường và chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài. Đây chính là lý do mà em lựa chọn đề tài “Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty cổ phần May Thăng Long”. Khoá luận tốt nghiệp của em gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Phần II: Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần May Thăng Long trong những năm qua.
Phần III: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần May Thăng Long trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu hạn chế ,đây lại là một đề tài rộng có nhiều vấn đề phức tạp nên không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận dược ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn:Phó giáo sư - Tiến sỹ Phạm Hữu Huy ,các anh chị trong phòng kế hoạch thị trường của công ty, cùng các Thầy, Cô trong khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh đã tận tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 7 năm 2004
Sinh viên
Lê Duy Thanh
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
Chính sách mở cửa nền kinh tế của đất nước và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế Thế Giới, giờ đây đã và đang tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam được tự do thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển trong những điều kiện mới, đồng thời cũng là những thách thức mới như hiện nay là điều không đơn giản. Để có thể thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm trong điều kiện thị trường trong nước và ngoài nước có nhiều biến động, mức độ cạnh tranh lớn và chứa đựng rất nhiều nguy cơ, rủi ro như hiện nay, vì vậy, doanh nghiệp phải nhận thức rõ hơn về công tác tiêu thụ sản phẩm, về thị trường, quá trình nghiên cứu thị trường….
Từ những lý do nêu trên, trong phạm vi phần I sẽ trình bầy những lý luận chung làm cơ sở cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm đối với doanh nghiệp và đặc biệt là với loại hình doanh nghiệp Nhà nước sản xuất trong ngành may mặc đang có những bước thay đổi để phù hợp hơn với những biến động của thị trường.
I. THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1.1. Khái niệm thị trường.
Theo C.Mác, hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường, Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa trải qua nhiều thế kỷ, vì vậy, khái niệm về thị trường cũng rất phong phú và đa dạng:
“Thị trường là tổng hoà các mối quan hệ mua và bán”
“Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu”
“Thị trường là nơi trao đổi hàng hoá”…..
Trong kinh doanh, thị trường được mô tả cụ thể từ góc độ kinh doanh của doanh nghiệp, dẫu vậy, mô tả thị trường thế nào thì nó cũng phải giúp ích cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, thị trường của doanh nghiệp gồm hai loại: thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.
- Thị trường đầu vào: liên quan đến khả năng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường này rất quan trọng và đặc biệt có ý nghĩa đối với sự ổn định và hiệu quả của nguồn cung cấp hàng hoá/dịch vụ cho doanh nghiệp cũng như khả năng hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
- Thị trường đầu ra của doanh nghiệp: liên quan trực tiếp đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một yếu tố nào (dù rất nhỏ) của thị trường này đều có thể ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau đến khả năng thành công hay thất bại trong tiêu thụ.
Thị trường đầu vào
Doanh nghiệp
Thị trường đầu ra
1.2. Vai trò của thị trường.
Thị trường có vai trò quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, kinh doanh và quản lý kinh tế.
- Trong sản xuất hàng hoá:
Thị trường nằm trong khâu lưu thông, một khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất, thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường là nơi kiểm nghiệm các chi phí và thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động xã hội.
- Trong kinh doanh:
Thị trường là nơi thể hiện quan hệ hàng hoá, tiền tệ, do đó thị trường được coi là môi trường của kinh doanh. Thị trường tồn tại khách quan, từng cơ sở kinh doanh chỉ có thể hoạt động thích ứng với thị trường. Thị trường là “tấm gương” để các cơ sở kinh doanh nhận biết nhu cầu của xã hội và đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình.
- Trong quản lý kinh tế:
Thị trường là đối tượng, là căn cứ của chiến lược và của kế hoạch hoá, là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là nơi Nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Chức năng của thị trường:
Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có của nó đến quá trình sản xuất và đời sống kinh tế xã hội. Các chức năng của thị trường bao gồm:
- Chức năng thừa nhận:
Hàng hoá được sản xuất ra là nhằm tiêu thụ. Việc tiêu thụ hàng hoá được thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận hàng hoá và do đó hàng hoá được bán. Khi thị trường đã thực hiện chức năng thừa nhận thì cũng có nghĩa là về cơ bản đã thừa nhận quá trình sản xuất hàng hoá, thừa nhận giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa, ….
- Chức năng điều tiết và kích thích:
Đối với người sản xuất, thông qua nhu cầu thị trường, họ có thể quyết định đầu tư sản xuất vào ngành này hay ngành khác, sản phẩm này hay sản phẩm khác. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất kinh doanh có lợi thế trong cạnh tranh, tận dụng được khả năng phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, không phải bất cứ mức giá nào mà doanh nghiệp đưa ra cũng được thị trường chấp nhận. Thị trường chỉ thừa nhận ở mức giá thấp hơn hoặc bằng mức giá xã hội cần thiết. Do đó, thị trường có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kích thích tiết kiệm chi phí.
- Chức năng thực hiện:
Thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện tổng số cung và cầu trên thị trường, thực hiện cân bằng cung - cầu từng loại hàng hoá, thực hiện các giá trị thông qua giá cả….Thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các loại hàng hoá hình thành nên giá trị trao đổi của chúng, đó là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu sản phẩm và các tỷ lệ kinh tế trên thị trường.
- Chức năng thông tin:
Thị trường thông tin về tổng lượng cung và tổng lượng cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá, giá cả thị trường, các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường và ảnh hưởng đến mua và bán, chất lượng sản phẩm, xu hướng vận động của hàng hoá,…Chức năng này có vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế.
1.4. Các quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều quy luật hoạt động đan xen nhau và có mối quan hệ mật thiết với nhau chẳng hạn như:
- Quy luật giá trị:
Quy định hàng hoá được sản xuất ra và trao đôỉ trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí bình quân trong xã hội.
- Quy luật cung cầu:
Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng hàng hoá trên thị trường. Trong quy luật này, cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển dịch lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường về các loại hàng hoá và dịch vụ.
- Quy luật lưu thông tiền tệ:
Quy luật này xác định lượng tiền cần thiết đưa lưu thông, trong đó, lượng tiền cần thiết cho lưu thông bằng tổng số giá cả của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ cùng loại.
- Quy luật cạnh tranh:
Quy luật này thể hiện các hàng hoá được sản xuất và bán ra trên thị trường đều chịu sự cạnh tranh của hàng hoá, đặc biệt là các loại hàng hoá đồng dạng, với nhiều khía cạnh khác nhau như chất lượng, giá cả, mẫu mã, mầu sắc...
II. BẢN CHẤT CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
2.1. Bản chất của tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập và tự mình phải giải quyết cả ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Lợi nhuận là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận, doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hoá; sản phẩm của doanh nghiệp phải phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Hiểu một cách đơn thuần thì tiêu thụ sản phẩm là việc đưa sản phẩm hàng hoá tới tay người tiêu dùng với hiệu quả cao. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là mục tiêu của sản xuất, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đó là việc lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian, một bên là đơn vị sản xuất và đơn vị phân phối một bên là người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất – kinh doanh, việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện. Giữa hai khâu này có sự khác nhau, quyết định bản chất của hoạt động mua các yếu tố đầu vào và hoạt động bán các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp.
Theo quan điểm marketing, tiêu thụ sản phẩm là các quá trình kinh tế và các tổ chức liên quan tới việc điều hành và vận chuyển hàng hoá và dịch vụ từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng với những điều kiện cho phép.
Tiêu thụ sản phẩm quyết định chất lượng của hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị sản phẩm hàng hoá trước khi tiêu thụ vì nếu chỉ xét một cách trực diện hoạt động bán hàng chỉ có thể được tiến hành sau khi bộ phận sản xuất đã sản xuất xong, nên trước đây người ta hay quan niệm hoạt động sản xuất đi trước hoạt động tiêu thụ. Quản trị kinh doanh hiện đại cho rằng, công tác nghiên cứu điều tra tiêu thụ sản phẩm phải được đặt trước khi thực hiện sản xuất, nên hoạt động tiêu thụ phải đứng trước hoạt động sản xuất và tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất.
Thực tiễn cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế, công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp rất sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện chức năng sản xuất - kinh doanh, việc đảm bảo cho nó các yếu tố vật chất như nguyên, nhiên, vât liệu… được cấp trên bao cấp theo các chỉ tiêu pháp lệnh. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo các địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại, trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm của sản xuất và kinh doanh đều do Nhà nước quyết định thì tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá được sản xuất theo kế hoạch và giá cả được quyết định từ trước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định ba vấn đề trung tâm nên việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo cả nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ: việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng v.v.. nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm hai loại quá trình và các nghiệp vụ liên quan đến sản phẩm: các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất, các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hoá tiêu thụ. Đối với các doanh nghiệp, việc chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông ( ở các kho, phân xưởng hoặc kho thành phẩm ). Các nghiệp vụ sản xuất ở các kho bao gồm: tiếp nhận, phân loại, bao gói, lên nhãn hiệu sản phẩm, xếp hàng ở kho, bảo quản và chuẩn bị đồng bộ hàng hoá để xuất bán, vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách hàng.
Nói chung, sự cần thiết về tiêu thụ sản phẩm với mục tiêu bán hết sản phẩm đã được sản xuất với doanh thu tối đa và chi phí cho hoạt động kinh doanh tối thiểu. Với mục tiêu trong quản trị doanh nghiệp hiện đại về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá không phải là hoạt động thụ động, chờ bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm rồi mới tìm cách tiêu thụ chúng, mà hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của thị trường và khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
2.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm đối với doanh nghiệp.
Dưới áp lực ngày càng tăng lên một cách mạnh mẽ của cạnh tranh, trong điều kiện của một nền kinh tế dư thừa hàng hoá, khả năng tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp ngày càng khó khăn, phức tạp hơn, độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh ngày càng lớn hơn. Vì thế, hoạt động tiêu thụ sản phẩm đối với xã hội và riêng với hoạt động của doanh nghiệp có vai trò hết sức to lớn.
Ở các doanh nghiệp nói chung, việc tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh khá đầy đủ những điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp.
Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Về phương diện xã hội, tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, nhưng tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ, tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, ta có thể dự đoán được nhu cầu cần tiêu dùng của xã hội nói chung và của từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các chiến lượcvà các loại kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong từng thời kỳ kinh doanh.
Sản xuất, kinh doanh là một quá trình bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn, nhiều bộ phận phức tạp và liên tục, có mối liên hệ chặt chẽ gắn bó với nhau. Kết quả của khâu này, bộ phận này có ảnh hưởng đến chất lượng của khâu khác, bộ phận khác. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, được xác định là khâu then chốt, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Nhưng nếu chỉ thực hiện tốt ở khâu này thôi thì không đủ, nếu các khâu trước đó, từ xác định nhu cầu, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh đến khâu thực hiện không được hoàn thành tốt thì những cố ngắng cao trong khâu tiêu thụ không phải lúc nào hay không thể đủ điều kiện để giải quyết yêu cầu của sản xuất - kinh doanh.
III.CÁC YẾU TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
3.1.Các yếu tố khách quan:
Ở đây chủ yếu bao gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như tình trạng nền kinh tế, thể chế chính trị, các quy định của pháp luật mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được theo ý muốn của mình và doanh nghiệp chỉ có thể thích ứng sao cho có lợi nhất đối với doanh nghiệp, theo xu hướng vận động của chúng. Các yếu tố đó bao gồm:
3.1.1.Các yếu tố về kinh tế và chính trị:
Đây là yếu tố có vai trò quan trọng, bởi vì chúng tác động trực tiếp tới các yếu tố cấu thành thị trường như cung cấp, giá cả, tiền tệ và mọi sự thay đổi về các ngành kinh tế, khoa học đều ảnh hưởng tới thị trường. Mọi sự chuyển dịch dù lớn hay nhỏ đều cần những tác động thuận hay nghịch trên thị trường. Bất cứ một sự chuyển dịch cầu hay cung là sẽ kéo theo sự chuyển dịch về giá cả, tạo nên sự cân bằng mới cho mọi mặt hàng. Một sự gia tăng hay giảm bớt cơ cấu, chủng loại, số lượng sản phẩm cải tiến, nâng cao chất lượng hay đưa sản phẩm mới ra thị trường, sự xuất hiện sản phẩm thay thế đều sẽ làm cho quan hệ cung cầu biến đổi, dẫn đến việc đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn là hết sức khó khăn.
Thượng tầng kiến trúc chính trị sẽ quyết định môi trường pháp lý mà trong đó các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như luật hợp đồng và những quyết định về quảng cáo và bảo vệ quyền lợi khách hàng, hướng sự ổn định thị trường theo ý định quốc gia. Sự ổn định về chính trị là điều kiện không thể thiếu được cho sự phát triển nền kinh tế thị trường
Sự ổn định về chính trị sẽ khuyến khích doanh nghiệp tập trung tham gia thực hiện tốt hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình.
Các yếu tố về kinh tế và chính trị tác động qua lại lẫn nhau, các yếu tố chính trị tác động đến nền kinh tế, và ngược lại những thử thách về kinh tế chứng minh sự ổn định hay biến động của chính trị. Do vậy, doanh nghiệp muốn thúc đẩy, nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình thì cần phải tuân thủ theo môi trường chính trị, pháp luật, từ đó mới có chỗ đứng trên thị trường, mới có cơ hội tiếp tục phát triển.
3.1.2.Các yếu tố văn hoá:
“Văn hoá phản ánh lối sống của một dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác và được phản ánh qua hanh vi, cách cư xử, quan điểm, thái độ trong cuộc sống”. Các yếu tố văn hoá của thị trường nơi doanh nghiệp tham gia tiêu thụ sản phẩm của mình cũng có những tác động nhất định đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố này tác động trực tiếp đến cầu từng mặt hàng và thị trường. Sản phẩm phải chịu sự chi phối của yếu tố này. Các nhân tố này được coi là “một rào cản chắn” các hướng để đạt được hiệu quả tốt nhất cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình.
3.1.3.Các yếu tố về luật pháp.
Hệ thống luật quốc gia và các tập quán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những điều này sẽ quyết định và cho phép các lĩnh vực hoạt động và hình thức kinh doanh nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện được và các lĩnh vực, mặt hàng nào mà doanh nghiệp không được phép tiến hành kinh doanh hoặc tiến hành có hạn chế ở những quốc gia hay thị trường khu vực. Hệ thống luật pháp chặt chẽ, ổn định sẽ giúp cho doanh nghiệp yên tâm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình. Và ngược lại, một hệ thống luật pháp có nhiều thay đổi sẽ luôn khiến cho doanh nghiệp phải chạy theo và làm hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.1.4.Môi trường cạnh tranh.
Hiện nay, cạnh tranh là điều tất yếu của thị trường và ngày càng diễn ra hết sức khốc liệt giữa những doanh nghiệp sản xuất cùng loại mặt hàng với nhau, những doanh nghiệp sản xuất mặt hàng thay thế…để tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm đến sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá mình tạo ra so với hàng hoá của các đối thủ. Doanh nghiệp phải nhận biết một cách hết sức rõ ràng về các đối thủ của mình: đâu là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, đâu là đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn; lợi thế so sánh của doanh nghiệp mình với các đối thủ cạnh tranh. Phân tích một cách cụ thể những mặt mạnh, yếu của mình để từ đó có những bước thay đổi cho phù hợp với môi trường và chiếm được một thị phần tối ưu trước các đối thủ cạnh tranh, và phải hoàn thiện mình đặc biệt là trong khâu tiêu thụ sản phẩm.
3.2. Các yếu tố chủ quan.
Để có thể thành công trong kinh doanh nói chung, hay việc tiêu thụ sản phẩm nói riêng, thì việc nghiên cứu các yếu tố khách quan là chưa đủ, mà ngược lại, muốn thành công còn phải dựa vào các yếu tố chủ quan. Các yếu tố chủ quan là các yếu tổ thuộc về nội tại của doanh nghiệp, nó phản ánh các tiềm lực của doanh nghiệp cũng như khả năng tận dụng được các tiềm lực đó. Việc doanh nghiệp có khai thác thành công các cơ hội kinh doanh hay không phụ thuộc rất lớn vào tiềm lực hiện có và tiềm lực có thể đạt được trong tương lai của doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh nghiệp được đánh giá thông qua các nhân tố chủ yếu sau:
3.2.1.Tiềm lực tài chính.
Đây là yếu tố quan trọng phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng quản lý, phân phối có hiệu quả các nguồn vốn. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp thường được xem xét thông qua các chỉ tiêu như: số vốn chủ sở hữu, vốn huy động, tỷ lệ tái đầu tư từ lợi nhuận, khả năng trả nợ của doanh nghiệp … thông thường, doanh nghiệp có khả năng và nguồn lực tài chính mạnh thì việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thuận lợi hơn.
Tiềm lực tài chính, đó là sức mạnh của doanh nghiệp cũng như quy mô doanh nghiệp có thể khai thác được. Doanh nghiệp không thể làm tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, nếu không có đủ vốn phục vụ cho việc sản xuất, thu mua hàng hoá, không đủ vốn để tiến hành các hoạt động như xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường…vì những hoạt động này đòi hỏi những chi phí rất lớn không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
Nếu doanh nghiệp có tiềm lực tài chính dồi dào, việc đáp ứng các khoản chi trong quá trình tiêu thụ sản phẩm là việc hết sức dễ dàng. song, doanh nghiệp cần phải quản lý, phân bổ các nguồn vốn một cách hợp lý để tránh tình trạng lãng phí vốn, suy giảm khả năng tài chính.
3.2.2.Sản phẩm của doanh nghiệp.
Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra là đối tượng tiêu dùng của khách hàng, nó được khách hàng đánh giá về chất lượng, mẫu mã, nên nó chính là nhân tố quyết định khiến người tiêu dùng mua sản phẩm. Mục đích của việc tiêu thụ sản phẩm chính là đưa được sản phẩm tới tay người tiêu dùng, tạo niềm tin, gây dựng uy tín để khách hàng mua nhiều và mua lại khi có nhu cầu về sản phẩm. Để đạt được điều này, doanh nghiệp cần phải sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, giá cả phải chăng và đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh trong khả năng có thể của doanh nghiệp.
3.2.3.Khả năng kiểm soát chi phối nguồn cung cấp hàng.
Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp, qua đó tác động đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Việc kiểm soát, chi phối nguồn cung cấp hàng tốt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp chủ động về nguồn cung cấp, an tâm về chất lượng hàng hoá, số lượng hàng hoá cũng như tiến độ giao hàng cho khách.
Nguồn cung cấp ổn định giúp cho khách hàng không tốn nhiều công sức và chi phí để thu gom, đồng thời dễ dàng tính toán giá cả. Ngoài ra, điều này còn giúp doanh nghiệp liên kết được với các đơn vị sản xuất để tạo ra những sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường. Tăng khả năng kiểm soát, chi phối nguồn cung cấp hàng hoá là điều kiện để doanh nghiệp ổn định được chất lượng, giá cả sản phẩm, nâng cao uy tín với khách hàng trong và ngoài nước.
3.2.4.Nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Đây là yếu tố có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và của hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói riêng. Bởi lẽ, với đội ngũ nhân công lành nghề sẽ tạo ra được những sản phẩm tốt, rẻ và hơn hẳn những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Và chính con người thu thập các thông tin đầu vào để hoạch định mục tiêu, lựa chọn và thực hiện các chiến lược tiêu thụ của doanh nghiệp. Với đội ngũ cán bộ kinh doanh năng động, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoạt động của doanh nghiệp sẽ dễ dàng thích nghi với mọi thay đổi của nền kinh tế, nhanh chóng phán đoán được tình thế, chớp được thời cơ, phục vụ tốt nhất cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Khai thác tối đa nguồn nhân lực là một trong những yếu tố góp phần giành thắng lợi của doanh nghiệp trong sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thương trường hiện nay.
IV. NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP
4.1. Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp có thể làm cách nào để đảm bảo và mở rộng tiêu thụ của mình trước những cản trở của thị trường( thị trường dư thừa, nhu cầu tiêu dùng thay đổi, sản phẩm cạnh tranh…)? Điều kiện tiên quyết là việc nghiên cứu thị trường có hiệu quả để có thể đem lại cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết khi quyết định về mức tiêu thụ của doanh nghiệp.
Để tiến hành nghiên cứu thị trường, trước hết doanh nghiệp phải hiểu rằng: thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là nơi thể hiện tập trung nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp. Đó có thể là thị trường tiềm năng, thị trường mục tiêu hay thị trường hiện hữu của doanh nghiệp, nên các doanh nghiệp đều phải nghiên cứu để có định hướng đúng đắn cho hoạt động tiêu thụ cả trước mắt và trong tương lai.
Doanh nghiệp luôn cần phải có thị trường và hiểu rõ cách hoạt động trên thị trường, nghĩa là phải tìm cách trả lời bốn câu hỏi:
- Đâu là thị trường của doanh nghiệp?
- Dung lượng thị trường của doanh nghiệp đến mức độ nào?
- Sản phẩm của doanh nghiệp có thích ứng với thị trường hay không ?
- Sử dụng phương thức phân phối nào để tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp?
Để trả lời bốn câu hỏi này, doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phải xuất phát từ hai loại thông tin. Thông tin sơ cấp (primary information) là những thông tin thu thập trực tiếp từ các khách hàng hiện hữu và cả khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Để có được các thông tin sơ cấp doanh nghiệp cần tiến hành các cuộc điều tra khách hàng, phỏng vấn khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, gửi thư thu thập ý kiến của khách hàng…Cùng với thông tin sơ cấp, để nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng cần thu thập các thông tin thứ cấp (secondary information). Đó là những thông tin gián tiếp về thị trường được thu thập thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các số liệu của các cơ quan nghiên cứu, thống kê, các cơ quan thương mại trong và ngoài nước…
Khi nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải phân tích kỹ cầu sản phẩm mà doanh nghiệp muốn tiêu thụ trên thị trường. Nghiên cứu cung sản phẩm trên thị trường là nhằm xác định khả năng sản xuất và cung ứng loại sản phẩm đó, khả năng nhập khẩu bao nhiêu và lượng tồn kho xã hội có thể đưa ra thị trường là bao nhiêu.
Nghiên cứu thị trường sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải nắm được nhu cầu và cầu trên thị trường, khách hàng của doanh nghiệp là ai? Cơ cấu khách hàng như thế nào? Nhịp điệu mua hàng của khách hàng đó ra sao? Nghiên cứu cầu thị trường sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải nắm được sức mua trung bình của các khách hàng, các sản phẩm của doanh nghiệp có loại nào thay thế hay không và việc nắm nhu cầu khách hàng cũng cần phải gắn với địa bàn và xác định cho được thị trường trọng điểm với sức mua lớn nhất.
Cùng với nghiên cứu cung cầu của sản phẩm mà doanh nghiệp cần tiêu thụ, cần nắm được mức giá trung bình thị trường của sản phẩm cũng như giá bán của các doanh nghiệp cạnh tranh. Phải tìm ra được mức khác biệt giữa giá cao nhất và giá thấp nhất của sản phẩm đó trong một khoảng thời gian nhất định nhằm có chính sách giá và phương thức định giá thích ứng và dự đoán khuynh hướng biến động giá cả trên thị trường.
Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cũng cần phải nắm được các nhân tố khác ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ. Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp như chính sách của chính phủ, các quy định về chính sách bán hàng và thuế, giá cả của các dịch vụ có liên quan đến hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp, các nhân tố khác của thị trường như: các yếu tố về quan hệ chính trị, thương mại giữa hai nước, thể chế tài chính và cả những yếu tố về văn hoá tiêu dùng.
Cấp độ nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là phải đạt từ nghiên cứu khái quát đến nghiên cứu chi tiết. Nghiên cứu khái quát cho doanh nghiệp biết những thông số chung về tổng cung và tổng cầu sản phẩm của thị trường và những yếu tố môi trường tiêu thụ. Nghiên cứu chi tiết thị trường cho doanh nghiệp thấy cơ cấu thị trường sản phẩm và chính sách tiêu thụ của các doanh nghiệp khác sản xuất sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế, cho thấy ai là khách hàng của doanh nghiệp, số lượng mua của họ là bao nhiêu, họ sẽ mua theo phương thức nào và với mức giá bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là ai trong tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, những thông tin nắm được về thị trường tiêu thụ sẽ là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp tiến hành kế hoạch hoá khâu này một cách hợp lý.
4.2. Ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thị trường, doanh nghiệp sẽ tìm cho mình được đầu ra cho sản phẩm của mình, bên cạnh hoạt động bán lẻ ở các cửa hàng, các._. đại lý của doanh nghiệp thì một đầu ra vô cùng quan trọng đó chính là hoạt động bán buôn cho các doanh nghiệp khác, các hoạt động tiêu thụ có tính chất lớn với số lượng nhiều như vậy thì doanh nghiệp phải tiến hành một hoạt động có tính chất cần thiết và bắt buộc, đó là hoạt động ký kết các hợp đồng tiêu thụ.
Tuỳ thuộc vào quy định của luật pháp và thoả thuận của mỗi bên mà doanh nghiệp tiến hành ký thảo và ký kết hợp đồng, cả doanh nghiệp và phía đối tác đều mong muốn có được những điều khoản có lợi cho phía mình, nên hợp đồng sẽ phản ánh sự nhất chí chung của hai phía. Hợp đồng có thể được ký kết giữa một bên là doanh nghiệp cung cấp và một bên là doanh nghiệp thu mua, hoặc cũng có thể là hợp đồng gia công…
Trong các quan hệ hợp đồng thì phía đối tác của doanh nghiệp có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài, nhưng nói chung, khi đã tiến hành ký kết hợp đồng thì cả hai phía đều phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều khoản đã ký.
4.3. Kế hoạch sản xuất - tiêu thụ sản phẩm.
Trong quá trình tiến hành hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty, thì kế hoạch sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì ở bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng sẽ xảy ra một trong hai trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất, tức là khi khối lượng sản xuất ra lớn hơn so với khối lượng tiêu thụ, lúc này doanh nghiệp phải tiến hành lưu kho các sản phẩm còn tồn lại, đòi hỏi công tác tổ chức hoạt động kho thành phẩm thật tốt cho các công việc tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Trường hợp thứ hai, là khi khối lượng sản xuất ra ngang bằng với khối lượng tiêu thụ thì sẽ không còn tồn kho, công việc lúc này của doanh nghiệp là tiếp tục tìm kiếm nguồn cung cấp hàng để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của mình.
4.4. Hệ thống kênh và mạng lưới tiêu thụ.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá như hiện nay, doanh nghiệp, người bán buôn, bán lẻ và môi giới hình thành một cách khách quan, kết hợp với nhau để đảm bảo thông suốt từ sản xuất đến tiêu dùng. Để lựa chọn cho mình một hệ thống kênh và mạng lưới tiêu thụ phù hợp nhất thì doanh nghiệp phải căn cứ vào: tính chất, đặc tính của sản phẩm của mình trong lưu thông, phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và các yếu tố tồn tại bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Từ đó, doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình hệ thống kênh mạng lưới tiêu thụ như sau:
a) Kênh tiêu thụ trực tiếp.
Doanh nghiệp đưa trực tiếp sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng mà không qua khâu trung gian nào. Các loại sản phẩm này của doanh nghiệp thường có đặc tính như:
- Các loại sản phẩm dễ hư hỏng, dễ vỡ, dễ dập nát.
- Sản phẩm sản xuất đơn chiếc giá trị cao.
Nói chung, lựa chọn kênh này chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp kinh doanh nhỏ lẻ.
b) Kênh tiêu thụ gián tiếp.
Doanh nghiệp đưa sản phẩm của mình tới tay người tiêu dùng thông qua các đại lý, người bán buôn, bán lẻ… Loại kênh này thường được sử dụng ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, ưu điểm của nó là tạo điều kiện cho các nhà sản xuất tiêu thụ nhanh sản phẩm của mình để có thể thu hồi vốn nhanh song lại gặp khó khăn trong khâu quản lý thông tin và quản lý các khâu trung gian.
c) Kênh tiêu thu hỗn hợp.
Đây là hình thức kết hợp giữa hai loại kênh tiêu thụ ở trên để tận dụng được ưu thế của hai loại và hạn chế được những nhược điểm của chúng. Các doanh nghiệp hiện nay hầu hết đều chọn loại kênh tiêu thụ hỗn hợp này cho hoạt động tiêu thụ của mình.
4.5. Vận chuyển và thanh toán.
Khi doanh nghiệp đã có được những hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng đã tiến hành sản xuất để đáp ứng các hợp đồng đó, thì công tác quan trọng sau cùng là việc tổ chức vận chuyển và thanh toán.
Thông thường, các công việc này đã được thoả thuận cụ thể trong các hợp đồng mua bán sản phẩm của doanh nghiệp đối với đối tác của mình. Để chủ động trong việc giao hàng cho khách thì những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải làm tốt các khâu thủ tục hành chính: xuất nhập hàng hoá, vận chuyển hàng hoá, đảm bảo giao hàng đúng tiến độ, tránh rủi ro cho khách hàng và thời hạn giao hàng. Việc thanh toán có thể tiến hành chi trả bằng tiền mặt hoặc là thông qua hệ thống ngân hàng với việc đăng ký tài khoản ở các ngân hàng có uy tín.
4.6. Các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
Chính sách Marketing là những nguyên tắc chỉ đạo, quy tắc, phương pháp, thủ tục được thiết lập gắn với hoạt động marketing nhằm hỗ trợ và thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu đã xác định. Nó bao gồm các quyết định tác nghiệp nhằm thực hiện chiến lược marketing đã định.
Chính sách marketing sẽ phải chỉ ra và hướng dẫn nhà quản trị trong lĩnh vực bán hàng, và marketing biết được ai sẽ bán, bán cái gì, bán cho ai, với số lượng bao nhiêu và như thế nào?
Marketing là hoạt động bao gồm nhiều chính sách cụ thể mà việc thực hiện chúng có ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của giai đoạn thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá; trong đó bao gồm bốn chính sách chủ yếu là: chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến. Các chính sách marketing – mix dựa trên hai loại hoạt động chính là phân đoạn thị trường và định vị sản phẩm. Các chính sách cụ thể thường được xây dựng trên cơ sở các quyết định marketing.
4.6.1. Chính sách sản phẩm.
Đối với mỗi khu vực thị trường mà doanh nghiệp hướng tới, thường có những chiến lược khác nhau cho sản phẩm của doanh nghiệp để làm sao sản phẩm của doanh nghiệp bán được ngày càng nhiều, đạt được những chỉ tiêu đã được đề ra. Sản phẩm khi bán ở thị trường truyền thống là những sản phẩm mới, sản phẩm còn đang trong thời kỳ tăng trưởng mạnh trong chu kỳ sống của sản phẩm. Khi bán sản phẩm ở thị trường mới thì doanh nghiệp bán sản phẩm mà doanh nghiệp đang tiêu thụ ở các thị trường khác…
4.6.2. Chính sách giá cả sản phẩm.
Chính sách giá cả là tổng thể các nguyên tắc, phương pháp và giải pháp mà doanh nghiệp tác động vào giá cả sao cho đạt được các mục tiêu đã định.
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn của quá trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể cho từng mặt hàng bao gồm những nội dung chủ yếu liên quan tới các vấn đề như mức đặt giá, cách thức đặt giá(dựa vào chi phí, thực trạng cạnh tranh hay theo chu kỳ sống của sản phẩm), giảm giá và chiết khấu, các điều kiện về thanh toán như thời hạn, phương thức bán chịu, bán trả dần, chính sách giá phân biệt. Chính sách giá cụ thể phải gắn với thực trạng và dự báo về cung – cầu, cạnh tranh ở toàn bộ thị trường cũng như ở từng bộ phận. Vì vậy không loại trừ trường hợp chính sách giá cả của mỗi loại sản phẩm ở thị trường khác nhau, thì giá cả sản phẩm cũng khác nhau.
+ Giá cả ở thị trường truyền thống:
Doanh nghiệp phải đưa ra các giải pháp nhằm giảm thiểu chi phí kinh doanh sử dụng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu như các giải pháp về kỹ thuật -công nghệ cũng như các giải pháp về sử dụng nhân lực nhằm làm tăng phần lợi nhuận trên một sản phẩm được bán ra.
+ Chính sách giá cả đối với sản phẩm mới, thị trường mới.
Sản phẩm mới là sản phẩm lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường hay bộ phận thị trường nào đó. Đối với sản phẩm mới, chính sách giá cả thăm dò thường dựa trên cơ sở giá thành và lợi nhuận ước tính.
P = Z + lợi nhuận ước tính (chưa tính thuế)
Trong đó:
P : là giá cả
Z : là giá thành sản xuất bình quân
Thị trường mới là thị trường lần đầu tiên xuất hiện loại sản phẩm mà doanh nghiệp đang tiêu thụ ở các thị trường khác. Đối với thị trường mới, chính sách giá cả được xây dựng trên cơ sở chi phí kinh doanh biến đổi bình quân và chi phí kinh doanh vận chuyển cũng như thâm nhập thị trường. Nguyên tắc xây dựng cơ sở giá cả là giá cả phải thoả mãn điều kiện:
P ≥ AVCkd + CPKDvc&thuế quan
Trong đó:
P: giá cả.
AVCkd: chi phí kinh doanh biến đổi bình quân đơn vị sản phẩm.
CPKDvc&thuế quan: chi phí kinh doanh vận chuyển và thuế quan ước tính bình quân đơn vị sản phẩm.
4.6.3. Chính sách phân phối sản phẩm.
Chính sách phân phối sản phẩm thường đề cập đến các nội dung như xác định kênh phân phối trực tiếp hay gián tiếp? Kênh phân phối nào là chính? Tiêu chuẩn lựa chọn đại lý, đại diện thương mại, người bán hàng? các điều kiện về kho hàng và vận chuyển…
Nói chung, khi tiến hành tiêu thụ sản phẩm thì tuỳ thuộc vào tiềm lực và các yếu tố khác mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn cho mình chính sách phân phối riêng. Chính sách phân phối thường được đề cập là:
+Chính sách phân phối trực tiếp: hình thức phân phối này là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành các hoạt động bán và sau bán sản phẩm của mình tới tận tay người tiêu dùng.
+Chính sách phân phối gián tiếp: với chính sách này, doanh nghiệp sử dụng nhiều trung gian phân phối đại diện cho doanh nghiệp tiến hành các hoạt động bán và sau bán sản phẩm của doanh nghiệp tới tay người tiêu dùng… để doanh nghiệp tập trung vào việc sản xuất, các trung gian này sẽ được doanh nghiệp trích một phần lợi nhuận trong doanh số bán, hay doanh thu tuỳ theo sự thoả thuận giữa các bên.
4.6.4. Chính sách xúc tiến:
Chính sách xúc tiến là tổng thể các nguyên tắc cơ bản , các phương pháp và giải pháp gắn với hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm hạn chế hoặc xoá bỏ mọi trở ngại trên thị trường tiêu thụ, đảm bảo thực hiện các mục tiêu chiến lược đã xác định.
Chính sách xúc tiến bao gồm các chính sách cụ thể khác như: chính sách quảng cáo, khuyến mại…
+Chính sách quảng cáo của một thời kỳ kinh doanh gắn với chu kỳ sống của sản phẩm, thực trạng và dự báo thị trường, vị trí của doanh nghiệp, mục tiêu cụ thể của quảng cáo.
Nhìn chung, chính sách quảng cáo của một thời kỳ liên quan đến việc lựa chọn hình thức quảng cáo như: quảng cáo sản phẩm hay quảng cáo doanh nghiệp, quảng cáo tập trung hay không tập trung, gián tiếp hay trực tiếp. Nói chung, các giải pháp định hướng cho việc lựa chọn các quyết định cụ thể ở các thị trường khác nhau có thể không giống nhau.
+Chính sách khuyến mại của một thời kỳ kinh doanh thường đề cập đến các hình thức khuyến mại như phiếu dự thi, tặng quà, giảm giá hay bán kèm, thời điểm và thời gian, tổ chức phục vụ khách hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể xây dựng chính sách tuyên truyền cổ động phù hợp với từng thị trường bộ phận cụ thể nhất định.
4.7. Phân tích và đánh giá hiệu quả của việc tiêu thụ sản phẩm.
Sau khi kết thúc một thời kỳ kinh doanh nhất định, các doanh nghiệp cần tiến hành đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của mình, đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cũng vậy.
Việc đánh giá tiêu thụ có thể dựa trên các chỉ tiêu có thể lượng hoá được như số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ, doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận thu được, chi phí tiêu thụ… cũng như các chỉ tiêu không được khách hàng mến mộ đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
Đánh giá doanh thu phải trên cơ sở so sánh giữa thực tế với kế hoạch giữa năm nay với năm trước, nếu tốc độ doanh thu cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã có những tiến bộ nhất định trong hoạt động tiêu thụ. Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận mới là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Giữa lợi nhuận và doanh thu có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Lợi nhuận = doanh thu - chi phí
Doanh thu tiêu thụ = giá bán x số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Xem xét công tác tiêu thụ có nghĩa là phải đánh giá hiẹu quả của kênh tiêu thụ, của chính sách giá cả, của hoạt động bán hàng.
Hiểu quả kinh doanh còn được phản ánh qua một số chỉ tiêu quan trọng như vòng quay vốn lưu động, hiệu quả sử dụng vốn…
Khi thực hiện đánh giá kết quả tiêu thụ phải nêu nên những gì doanh nghiệp đã tạo ra và đạt được, đánh giá được ưu, nhược điểm và nguyên nhân của chúng. Từ đó, doanh nghiệp sẽ tìm ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm trong các kỳ kinh doanh tiếp theo.
PHẦN II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG TRONG THỜI GIAN QUA
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, ngành dệt may đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường nội địa với hơn 80 triệu dân, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành ngành xuất khẩu quan trọng với giá trị kim ngạch xuất khẩu đáng kể, đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô và dự kiến sẽ vượt kim ngạch xuất khẩu dầu thô vào năm 2004 với 4,25 tỷ USD, tăng trên 10% so với năm 2003.
Theo ông Mai Hoàng Ân - Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VINATEX), mức tăng trưởng của ngành dệt may nói chung và của VINATEX nói riêng trong năm 2003 chủ yếu là xuất khẩu. Có được kết quả này là do năng lực sản xuất của ngành được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu (số lượng doanh nghiệp tăng gấp 5 - 6 lần so với 10 năm trước); thị trường xuất khẩu hàng dệt may được mở rộng do làm tốt khâu đàm phán mậu dịch và xúc tiến thương mại. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt tại 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có thị trường dệt may quan trọng của thế giới như: Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản… Đáng chú ý nhất là việc mở rộng xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Trong thời gian qua, thông qua văn phòng đại diện tại Mỹ, các doanh nghiệp dệt may đã nhận được nhiều đơn đặt hàng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp trong ngành đã ký được đơn hàng đi Mỹ, EU đến hết tháng 4/2004.
Công ty cổ phần May Thăng Long cũng là môt trong số những doanh nghiệp như vậy với tổng giá trị sản xuất năm 2003 được phân bổ:
USA
EEC
Europe (non EEC)
Asia
Other
%
75
10
5
5
5
Công ty đang ngày một khẳng định mình trứơc những thay đổi của môi trường kinh doanh hiện nay.
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
1.1. Giới thiệu chung về công ty
Công ty may Thăng Long được thành lập ngày 8/5/1958 theo quyết định của bộ công nghiệp nhẹ (nay là bộ công nghiệp) trên cơ sở chủ trương thành lập một số doanh nghiệp xuất khẩu tại Hà Nội và dựa vào hoàn cảnh thực tế của nền kinh tế lúc đó. Khi mới thành lập, công ty có tên là Xí nghiệp may mặc xuất khẩu trực thuộc tổng Công ty xuất nhập khẩu thực phẩm.
Việc thành lập Công ty mang ý nghĩa lịch sử to lớn, bởi vì đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam, lần đầu tiên đưa hàng may mặc của Việt Nam ra thị trường nước ngoài. Ngoài ra, Công ty ra đời cũng đã góp sức mình vào công cuộc cải tạo kinh tế thông qua việc hình thành những tổ sản xuất của hợp tác xã may mặc đi theo phương hướng sản xuất xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá. Đến ngày 4/3/1993, Bộ công nghiệp quyết định đổi tên xí nghiệp thành Công ty may Thăng Long. Đến năm 2003 công ty tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, tháng 3/2004 công ty chính thức đổi tên thành Công ty cổ phần May Thăng Long.
Có thể chia quá trình hình thành và phát triển của Công ty thành những giai đoạn cụ thể trên cơ sở những nét đặc trưng và những thành quả tiêu biểu như sau:
- Từ năm 1958 đến năm 1965:
Đây là giai đoạn đầu của quá trình phát triển, đặc điểm của Công ty là còn phân tán, Công ty đã trang bị thêm 400 máy đạp chân.
Từ 1961 – 1965 là những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Công ty cũng chuyển địa điểm làm việc về 250 Minh Khai.
- Từ năm 1966 đến năm 1975:
Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ảnh hưởng rất nặng nề đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau khi chiến tranh kết thúc Công ty bắt tay ngay vào ổn định sản xuất và đổi mới công tác quản lý. Đây là thời kỳ bắt đầu bước vào sản xuất công nghiệp của Công ty, Công ty đã thay thế máy may đạp chân bằng máy may công nghiệp, ngoài ra còn trang bị thêm máy móc chuyên dùng như: máy đính cúc, máy cắt gọt, máy dùi dấu… lúc này mặt bằng sản xuất được mở rộng, dây chuyền sản xuất đã lên tới 27 người, năng xuất áo sơ mi đạt 9 áo/người/ca. Thời kỳ này Công ty vừa may hàng gia công cho Liên Xô cũ và một số nước XHCN khác vừa làm nhiệm vụ phục vụ nhu cầu quốc phòng.
- Từ năm 1975 đến 1980:
Sau khi đất nước thống nhất, Công ty bước vào thời kỳ phát triển mới, Công ty từng bước đổi mới trang thiết bị chuyển hướng trang thiết bị, chuyển hướng phát triển sản xuất kinh doanh mặt hàng gia công. Tên gọi Xí nghiệp may Thăng Long ra đời vào năm 1980, sản phẩm của Công ty đặc biệt là áo sơ mi đã xuất khẩu đi nhiều nước, song chủ yếu là Liên Xô và các nước Đông Âu.
- Từ năm 1980 đến năm 1990:
Đây là thời kỳ hoàng kim trong sản xuất kinh doanh của Công ty kể từ khi thành lập, trong mỗi năm Công ty sản xuất được 5 triệu áo sơ mi ( 3 triệu sang Liên Xô cũ, 1 triệu sang Đông Đức, còn lại sang các thị trường khác, dây chuyền sản xuất là dây chuyền với 70 công nhân, với năng suất tăng đáng kể). Thời kỳ này, Công ty đã có bước phát triển mạnh đặc biệt là từ khi Chính phủ hai nước Việt Nam và Liên Xô cũ ký hiệp định ngày 19/5/1987 về hợp tác sản xuất may mặc vào các năm 1987 – 1990. Cùng với hình thức gia công theo hiệp định của Chính phủ, Công ty đã có mối quan hệ hợp tác sản xuất với một số nước như: Thụy Điển, Pháp, Cộng hoà Liên Bang Đức…và đã được các thị trường này chấp nhận cả về chất lượng cũng như giá cả.
- Từ năm 1990 đến nay:
Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi sâu sắc, sau khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu chấm dứt tồn tại, thị trường truyền thống của Công ty bị phá vỡ một mảng rất lớn. Cũng như nhiều xí nghiệp may khác, xí nghiệp may Thăng Long lúc đó gặp rất nhiều khó khăn trong buổi đầu tiên khi nền kinh tế của đất nước chuyển sang cơ chế thị trường. Để tồn tại và phát triển, Công ty phải chuyển hướng sản xuất và tìm kiếm thị trường mới, cho đến nay, là thành viên của Tông công ty may Việt Nam (VINATEX), Công ty đã trở thành một trong những doanh nghiệp đầu đàn của ngành may mặc Việt Nam. Công ty đã có hơn 3000 người lao động, năng xuất lao động đạt trên 5 triệu sản phẩm/ năm. Sản phẩm của Công ty đã có uy tín trên thị trường nhiều nước như: Mỹ, Nhật Bản, EU…
Cơ cấu tổ chức của công ty:
Tên đơn vị: Công ty cổ phần May Thăng Long
Tên giao dịch: Thăng Long Garment Joint Stoct Company(Thaloga JS)
Trụ sở chính: 250 Minh K
hai-Hai Bà Trưng-Hà Nội
Loại hình doanh nghiệp: Tổng công ty dệt may Việt Nam
Ngành nghề kinh doanh: May mặc – Gia công may mặc
Số điện thoại: 8623372 Fax: 84.4623374
Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Công ty may Thăng Long gồm có:
- Một tổng giám đốc.
- Ba phó tổng giám đốc.
- Hệ thống các phòng ban và các xí nghiệp sản xuất.
Cơ cấu này được thể hiện thông qua sơ đồ sau:
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật
Phòng kế hoạch thị trường
Phòng kế toán tài vụ
Văn phòng
Xí nghiệp 1
Xí nghiệp 2
Xí nghiệp 3
Xí nghiệp may Nam Hải
Xí nghiệp khác
Xưởng thời trang
Xí nghiệp phụ trợ
Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất
Phó tổng giám đốc điều hành nội chính
Phòng chuẩn bị sản xuất
Phòng kỹ thuật chất lượng
Sơ đồ1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần May Thăng Long.
* Tổng giám đốc: Là người đứng đầu bộ máy công ty, thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước về toàn bộ hoạt động của công ty mình, đồng thời lãnh đạo công ty từ bộ máy quản trị cho tới các phòng ban chức năng. Trước đây, Tổng giám đốc Công ty may Thăng Long là kỹ sư Lê Văn Hồng, đồng thời là Bí thư Đảng uỷ của công ty. Tháng 4/2004, từ khi chuyển đổi sang hình thức Công ty cổ phần thì Tổng giám đốc của Công ty là đồng chí Khuất Duy Thành.
*Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc thiết lập mối quan hệ bạn hàng, các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tổ chức nghiên cứu mẫu hàng và các loại máy móc kỹ thuật, triển khai các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như: tham mưu ký kết các hợp đồng gia công, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tiếp nhận phụ liệu, mở tờ khai hải quan, giao hàng cho khách…
*Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: có chức năng tham mưu, giúp việc cho tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc thiết lập và báo cáo tài chính tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
*Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành nội chính chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về sắp xếp các công việc của công ty, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, y tế, tuyển dụng lao động, đào tạo cán bộ, chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên.
*Phòng kỹ thuật chất lượng: là bộ phận tham mưu cho phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật về kế hoạch và chiến lược kinh doanh. Phòng kỹ thuật chất lượng thực hiện các công việc như: nghiên cứu thị trường, may các mẫu chào hàng, thiết kế các mẫu mã sản phẩm, lên định mức nguyên phụ liệu, kí các hợp đồng gia công, hợp đồng sản xuất, xuất nhập khẩu trực tiếp với khách hàng. Phòng này cũng đồng thời có nhiệm vụ chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật cho các xí nghiệp may và làm các thủ tục xuất nhập khẩu các lô hàng của công ty.
*Phòng kế hoạch thị trường: có chức năng tham mưu cho Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất của công ty, báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng này có tác dụng nắm vững các yếu tố vật tư, năng lực của thiết bị, năng suất lao động, lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiến hành điều độ sản xuất cho linh hoạt và kịp thời, phối hợp các đơn vị, các nguồn lực trong công ty có hiệu quả nhất.
*Phòng kế toán tài vụ: có chức năng chuẩn bị và quản lý nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các khoản lương cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Phòng kế toán tài vụ quản lý và cung cấp các thông tin kinh tế về kết quả sản xuất kinh doanh, về tài sản của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, từng năm kế hoạch. Phòng cũng có nhiệm vụ hoạch toán chi phí, tính giá thành từng sản phẩm, thực hiện chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước.
*Văn phòng công ty: có nhiệm vụ chức năng tham mưu cho giám đốc nội chính về tổ chức nhân sự, có nhiệm vụ tuyển dụng lao động, bố trí lao động, bố trí đào tạo cán bộ công nhân viên, thực hiện các công tác tiền lương, bảo hiểm xã hội cho công nhân viên. Văn phòng đang rất chú ý công tác quản lý lao động, đặc biệt chủ yếu quản lý chặt chẽ định mức lao động từng công nhân.
*Phòng chuẩn bị sản xuất: có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu về công ty. Phòng chuẩn bị sản xuất quản lý và bảo quản các thành phẩm do các xí nghiệp sản xuất ra và chờ thời gian giao cho khách hàng.
*Các xí nghiệp may trong công ty: Từ khi xí nghiệp may Thăng Long đổi tên thành Công ty may Thăng Long, 5 phân xưởng của công ty được đầu tư và nâng cấp trở thành 5 xí nghiệp sản xuất, rồi được tăng thành 6 xí nghiệp , hiện nay 6 xí nghiệp này đã được gộp lại thành 3 xí nghiệp. Các xí nghiệp được trang bị máy may hiện đại và theo quy trình công nghệ khép kín, thống nhất, đảm bảo từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất sản phẩm. Các xí nghiệp may thực hiện quá trình sản xuất hàng may mặc bao gồm các công đoạn: cắt, may, là, đóng gói sản phẩm.
*Mạng lưới đại lý và các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty: Tại đây công ty giới thiệu và bán các sản phẩm may mặc phục vụ nhu cầu trong nước: áo jacket các loại, áo sơ mi, quần áo Jean nữ, quần áo trẻ em….Cũng tại đây công ty giới thiệu và bán nhiều hàng tiêu chuẩn xuất khẩu cho người tiêu dùng.
*Chi nhánh và cơ sở khác: Ngoài các bộ phận các xí nghiệp tập trung tại Công ty ở đường Minh Khai (Hà Nội), Công ty may Thăng Long còn có 2 chi nhánh ở Nam Định và Hải Phòng.
Chi nhánh ở Nam Định đó là xí nghiệp may Nam Hải có khoảng 247 lao động.
Chi nhánh ở Hải Phòng với 1 xưởng may khoảng 154 lao động, ngoài ra ở đây còn có 1 văn phòng đại diện và khu kho bãi kinh doanh các hoạt động kho ngoại quan.
*Ngoài ra Công ty còn có các bộ phận phục vụ cho quá trình sản xuất: có nhiệm vụ chuẩn bị các điều kiện về máy móc thiết bị và phụ tùng thay thế cho sản xuất, cung cấp năng lượng điện nước, xây dựng kế hoạch dự phòng thiết bị, chi tiết thay thế….
1.2. Những đặc điểm Kinh tế – Kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần May Thăng Long.
1.2.1. Về thị trường tiêu thụ của Công ty.
Từ năm 1990 trở về trước, Công ty sản xuất theo kế hoạch của Bộ chủ quản, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong công tác tìm kiếm thị trường, song Công ty đã chủ động khai thác và mở rộng thị trường. Với các mặt hàng chủ yếu như: áo sơ mi, áo măng tô, pijama, quần áo bò, quần áo dệt kim…..Công ty đã có được thị trường ở nhiều khu vực, nhiều vùng khí hậu khác nhau.
Ngày nay, khi ăn mặc được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm, việc có quyền xuất khẩu trực tiếp giúp cho Công ty có cơ hội gặp gỡ làm ăn với nhiều vùng cả trong và ngoài nước. Sản phẩm của Công ty đã có mặt ở hơn 40 nước trên thế giới, trong đó có những khách hàng khó tính như: Mỹ, Nhật, Hồng Kông, Hàn Quốc, EU….Sản phẩm xuất khẩu của Công ty chiếm 80% tổng số sản phẩm sản xuất hàng năm, số còn lại phục vụ cho tiêu dùng các tầng lớp trung và cao cấp trong nước. Sản phẩm của Công ty cũng đã được người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao. Trong những năm tới, Công ty sẽ có kế hoạch đầu tư trang thiết bị thêm và cho ra đời những sản phẩm không những để duy trì thị trường hiện nay mà còn mở rộng, chiếm lĩnh thị trường mới.
- Thị trường trong nước, sản phẩm của Công ty đã có mặt tại nhiều tỉnh thành và ngày càng được thị trường yêu thích. Trong những năm tới đây, Công ty sẽ cố gắng phấn đấu hơn nữa để có thể chiếm lĩnh được thị phần cao nhất ở Miền Bắc và gia tăng giá trị sản lượng tiêu thụ ở thị trường Miền Trung, Miền Nam.
Biểu 1: Thị trường trong nước của Công ty cổ phần may Thăng Long.
Đơn vị: Triệu đồng
Khu vực
Năm
2001
2002
KH 2003
Miền Bắc
10970
14507
17900
Miền Trung
6988
5244
10900
Miền Nam
566
734
1200
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường Công ty cổ phần may Thăng Long)
- Thị trường nước ngoài, trên thực tế thị trường chính của Công ty chính là hướng ra xuất khẩu với giá trị sản lượng sản xuất ngày càng tăng, đặc biệt là thị trường Mỹ. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các số liệu kim ngạch xuất khẩu của một số năm gần đây:
Biểu 2: Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường nước ngoài của Công ty cổ phần may Thăng Long.
Đơn vị: USD
Thị trường
Năm
2001
2002
2003
Châu Âu
10840756
3694462
3210061
Châu Mỹ
19307748
36046299
60216209
Châu Á
9614388
3816058
3460679
Châu Phi
109326
Châu Úc
39872218
75228
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường Công ty cổ phần may Thăng Long)
1.2.2. Về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của Công ty Cổ phần may Thăng Long.
a) Về máy móc thiết bị.
Công ty cổ phần may Thăng Long được thành lập tương đối lâu, từ thời kỳ bao, cấp nên đa số máy móc thiết bị của công ty được các nước XHCN giúp đỡ. Trải qua một thời gian hoạt động tương đối dài, đến nay các loại thiết bị máy móc của công ty đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp, nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị mới từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến như: Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Hiện nay, công ty đã thay thế hết các số máy móc cũ, máy móc mà công ty đang sử dụng đều thuộc thế hệ mới, chủ yếu từ năm 1989-1990 trở lại đây và đều có nguồn gốc chủ yếu từ Nhật Bản và Đức.
Dưới đây là bảng liệt kê tình hình máy móc thiết bị của Công ty trong năm 1999:
Biểu3: Bảng kê về số lượng máy móc thiết bị chủ yếu của công ty cổ phần May Thăng Long.
Tên máy móc thiết bị
Nước sản xuất
Số lượng(chiếc)
Máy may 1 kim
Nhật
673
Máy may 1 kim
Đức
145
Máy may 2 kim cố định
Nhật
127
Máy may 2 kim cố định
Đức
6
Máy vắt sổ
Nhật
175
Máy thùa khuyết đầu bằng
Nhật
237
Máy đính cúc phẳng
Nhật
22
Máy đính cúc phẳng
Đức
3
Máy đính bộ
Nhật
20
Máy cuốn ống
Nhật
13
Máy nẹp sơ mi
Đức
30
Máy cạp chun
Đức
6
Máy cạp chun
Nhật
2
Máy tra cạp quần Jean
Đức
8
Máy thùa đầu tròn
Đức
3
Máy thùa đầu tròn
Tiệp
10
Máy vắt gấu
Nhật
8
Máy trần viền
Nhật
17
Máy bổ cơi
Đức
1
Máy thêu tự động
Nhật
1
Máy thêu tự động
Đức
2
Máy cắt vòng
Nhật
4
Máy cắt tay
Nhật
11
Máy dập cúc
Hàn Quốc
46
(Nguồn: Phòng kỹ thuật - Công ty may Thăng Long)
Qua bảng trên ta nhận thấy, tuy máy móc thiết bị có nguồn gốc khác nhau nhưng khá hoàn thiện và đồng bộ. Mỗi xí nghiệp của công ty được trang bị 150 máy các loại. Với trình độ công nghệ khá tiên tiến như vậy, Công ty đủ năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó, Công ty không ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị mới. Trong năm 1998 công ty đã nhập về một dây chuyền công nghệ tự động để may áo sơ mi cao cấp (XN1). Nhiều phương án công nghệ đang được tiếp tục xây dựng và thực hiện, đưa thêm máy móc thiết bị tự động , hiện đại và để sản xuất mặt hàng cao cấp hơn, chủng loại đa dạng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường nước ngoài cũng như thị trường nội địa.
b) Về quy trình công nghệ sản xuất.
Công ty cổ phần may Thăng Long là một doanh nghiệp lớn, chuyên sản xuất va gia công các mặt hàng may mặc theo quy trình kép kín từ A đến Z( bao gồm: cắt, may, là, đóng gói, đóng thùng, nhập kho) với các loại máy móc chuyên dùng và số lượng sản phẩm tương đối lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải.
Nguyên liệu vải
Là
Đóng gói
Kho thành phẩm
Thêu
Giặt, mài , tẩy
Cắt, đặt mẫu, đánh số, cắt
May, may cổ, may tay, ghép thành phẩm
Sơ đồ 2: sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty.
Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là quy trình sản xuất cũng khá phức tạp, sản phẩm được trải qua nhiều giai đoạn sản xuất kế tiếp nhau. Công ty sản xuất nhiều loại sản phẩm với chủng loại và mẫu mã khác nhau, song tất cả đều phải trải qua một quy trình công nghệ như trên.
Như vậy, quy trình công nghệ sản xuất mà công ty đang áp dụng là quy trình công nghệ kép kín, từng bộ phận chuyên môn hoá rõ rệt, vì thế mà thực hiện được tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng xuất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra, đạt tiêu chuẩn mà công ty đã xây dựng.
1.2.3. Về tình hình nhân sự của công ty.
Lao động là một yếu tố quan trọng của Công ty, đặc biệt là trong tiêu thụ sản phẩm. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của mình, cơ cấu lao động của Công ty dần đi vào ổn định, lao động nữ chiếm tỷ lệ cao ( khoảng 80% trong tổng số cán bộ công nhân viên ), số công nhân đứng máy chiếm 8%, hàng tháng, tùy theo yêu cầu của sản xuấ._.ng sản phẩm của doanh nghiệp.
a) Mục đích của giải pháp:
Sản phẩm chính là vấn đề mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm khi tiến hành hoạt động tiêu thụ của mình. Có thể nói, cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế hiện nay hết sức quyết liệt buộc các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều loại công cụ thích hợp để bán được sản phẩm và thu lợi nhuận về. Đối với sản phẩm, ngoài sự cạnh tranh truyền thống là giá cả, ngày nay đã xuất hiện công cụ cạnh tranh hết sức hữu hiệu đó là sự cạnh tranh về chất lượng và mẫu mã hàng hoá.
b) Nội dung của giải pháp:
Hiên nay, thương hiệu của sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng đối với tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. Công ty đăng ký bản quyền biểu tượng THALOGA tại thị trường Việt nam từ năm 1993 và được cấp giấy chứng nhận vào tháng 8 năm 2003. Sản phẩm của công ty cũng dần lấy được lòng tin của khách hàng về chất lượng và mẫu mã, dẫu vậy, công ty vẫn còn cần làm rất nhiều công việc để sản phẩm của mình được tiêu thụ nhiều hơn và có chỗ đứng vững chắc hơn trong lòng khách hàng có nhu cầu về hàng may mặc trong và ngoài nươc. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, công ty cần làm tốt những công việc như:
* Đổi mới công nghệ:
Hiện nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nên yêu cầu đổi mới công nghệ kỹ thuật đối với Công ty ngày càng bức thiết. Chỉ có đổi mới công nghệ thì mới có thể nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, từ đó mới có thể đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong những năm tới đây. Đổi mới công nghệ không chỉ là đổi mới máy móc thiết bị, mà còn là đổi mới kiến thức kỹ năng, đổi mới phương pháp công nghệ.
Việc đầu tư đổi mới công nghệ phải dựa trên nhu cầu thị hiếu về sản phẩm, nhưng phải có kế hoạch đầu tư cho từng giai đoạn, không thể cùng lúc có thể thay thế toàn bộ được. Công ty cổ phần may Thăng Long hiện nay đang sở hữu một hệ thống máy móc hiện đại nhưng lại chưa thật đồng bộ, vì vậy, trong những năm tới đây, Công ty cần phải có những chú trọng đặc biệt đến vấn đề đổi mới công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của sản phẩm sản xuất ra.
* Nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoạn thiết kế và sản xuất:
- Trong giai đoạn thiết kế, Công ty cần phải xây dựng đội ngũ thiết kế thời trang có năng lực nhằm thiết kế ra nhiều sản phẩm mới có tính thời trang với thương hiệu THALOGA phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế.
Đa dạng hóa sản phẩm tạo khả năng nhận được nhiều đơn hàng với các quota khác nhau nhằm đáp ứng năng lực của công ty, đồng thời tập trung nghiên cứu nâng cấp những sản phẩm chủ lực, có tuổi thọ dài của công ty, có uy tín trên thị trường như quần áo bò, dệt kim, sơ mi, jacket v.v.. phục vụ mọi đối tượng và trong cả bốn mùa.
Trong giai đoạn này, Công ty cần phải làm những công việc cụ thể như sau:
Tuyển dụng và đào tạo cán bộ thiết kế: nguồn tuyển dụng những cán bộ này có thể là ở trong hoặc ngoài Công ty. Nếu là ở trong công ty thì đó phải là những cán bộ có năng lực trong công tác thiết kế mẫu mã cho sản phẩm may măc, là cán bộ kỹ thuật thì cần phải được đào tạo thêm thông qua các lớp học ở các trung tâm đào tạo thiết kế thời trang.
Công ty cần có những chính sách khuyến khích hợp lý đối với các cán bộ tạo mẫu để họ có thể phát huy hết khả năng, trình độ của mình trong công tác thiết kế những mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng ngày nay.
-Trong giai đoạn sản xuất, Công ty cần phải đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng chính sách quản lý chất lượng toàn diện theo các tiêu chuẩn về chất lượng của quốc tế. Làm tốt khâu này, sản phẩm của Công ty sẽ được các thị trường khó tính như: Mỹ, EU, Nhật … chấp nhận. Cụ thể trong thời gian tới, Công ty phải giảm giá bán và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng việc áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật được công nhận trên toàn thế giới như: ISO-9001, ISO-14000, SA-8000. Hiện nay, Công ty đã chuyển đổi hệ thống quản lý chất lượng sang ISO-9001:2000, xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO-14000 và đưa vào áp dụng tại công ty.
c) Kết quả đạt được sau khi thực hiện giải pháp:
Thực hiện giải pháp sẽ góp phần gia tăng chất lượng của sản phẩm Công ty số lượng bán ra tăng cao đem lại doanh thu tăng dần theo từng năm. Sản lượng xuất khẩu của công ty phân cho thị trường trong nước 20% và thị trường Mỹ75%.
Trong tương lai sản lượng sản xuất của công ty sẽ là:
Sản lượng sản phẩm sản xuất trong tương lai
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
Sản phẩm SX chủ yếu (quy về sơ mi chuẩn)
1000 sp
10000
15000
20000
d) Điều kiện để thực hiện giải pháp:
- Phải có nguồn vốn đầu tư cho công tác thiết kế sản phẩm, bởi lẽ, công tác này rất tốn kém, nó đòi hỏi phải được làm tốt từ khâu nghiên cứu thị trường, nắm bắt được xu hướng thời trang, thiết kế, làm mẫu, rồi chi phí cho khâu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tới tay người tiêu dùng…
- Phải có được chiến lược tuyển mộ và phát triển nguồn cán bộ thiết kế sản phẩm hợp lý. Phải lựa chọn được những cán bộ có năng lực thực sự trong việc nghiên cứu và thiết kế sản phẩm, và liên tục có hướng đào tạo phát triển thêm cho các cán bộ thiết kế.
- Ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên phải có được ý thức thực hiện tốt quy trình công nghệ, quy trình quản lý công nghệ theo các tiêu chuẩn quốc tế nhằm giúp cho Công ty ngày càng có được vị thế trên thương trường trong thời gian tới đây.
Trong thời gian tới đây, trước những thách thức của quá trình hội nhập, muốn có được ưu thế trong cạnh tranh với các công ty sản xuất cùng ngành thì sản phẩm của Công ty cổ phần may Thăng Long phải có được những nét riêng nổi bật thu hút được sự quan tầm của khách hàng cả trong và ngoài nước.
2.3. Giải pháp 3: Tăng khả năng kiểm soát, chi phối nguồn cung cấp nguyên phụ liệu.
a) Mục đích của giải pháp:
Những hạn chế do không tự chủ được về nguồn cung cấp nguyên phụ liệu của công ty trong những năm tới cần phải được khắc phục để đảm bảo cho việc nội địa hoá sản phẩm của mình. Trong những năm tới đây, Công ty cần phải thay thế việc nhập khẩu nguyên phụ liệu bằng cách sử dụng nhiều các nguồn này bằng sản phẩm của các công ty trong nước.
Có làm được như vậy thì chính bản thân Công ty mới có thể góp phần làm giảm chi phí do khâu vận chuyển nguyên phụ liệu đem lại. Dần dần công ty còn cần phải phát triển mở rộng sản xuất để có thể sản xuất được một số nguyên phụ liệu cần thiết cho các sản phẩm của mình.
b) Nội dung của giải pháp :
Trong những năm tới đây, công ty cổ phần may Thăng Long cần phải làm tốt công tác này để có được những ưu thế trong cạnh tranh trước những sự phát triển của các Công ty trong nước và sự xâm nhập của các Công ty nước ngoài tham gia sản xuất cùng ngành. Để làm tốt được điều này, Công ty cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau đây:
* Liên kết với các công ty, xí nghiệp sản xuất các mặt hàng nguyên phụ liệu trong nước để có thể có được nguồn cung cấp nội địa ổn định lâu dài. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường như hiện nay, việc liên kết này có tầm quan trọng hết sức to lớn đối với sự phát triển của không những chỉ riêng Công ty cổ phần may Thăng Long mà còn của các doanh nghiệp có liên quan. Các doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu dùng cho ngành may mặc trong nước đang rất cần thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình, trong khi đó, Công ty cũng đang cần có một thị trường đầu vào ổn định đảm bảo chất lượng để giảm được chi phí vận chuyển, thanh toán khi nhập nguyên phụ liệu từ thị trường ngoài nước. Trước những nhu cầu của cả hai phía như vậy, việc bắt tay ký kết, hợp tác lâu dài giữa Công ty với các đơn vị này là rất quan trọng và có được lợi ích đối với cả hai phía.
* Tự tạo được một số dây chuyền sản xuất nguyên phụ liệu để có thể tự chủ được trong một số nguyên phụ liệu cần có trong sản xuất sản phẩm của công ty. Không phải lúc nào khi có yêu cầu về nguyên phụ liệu thì các đơn vị trong và ngoài nước cũng có thể đáp ứng được ngay, trong khi đó, kinh doanh ngày nay, tiến độ và thời gian giao hàng là một yếu tố rất quan trọng để Công ty khẳng định uy tín của mình đối với khách hàng và khẳng định mình trong cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành. Việc nhập một số các dây chuyền sản xuất nguyên phụ liệu chính là để Công ty có được những ưu thế đó.
c) Kết quả đạt được sau khi thực hiện giải pháp:
Nâng cao dần tỷ lệ nội địa hoá nguyên phụ liệu của công ty thì sẽ giúp làm giảm bớt chi phí ở khâu này và từ đó sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của công ty trong những năm tới. Chi phí sẽ giảm hơn hiện nay khoảng 10%.
Tình hình nhập nguyên phụ liệu trong tương lai.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Nhập khẩu
90
75
50
Mua trong nước
10
25
50
d) Điều kiện để thực hiện giải pháp:
- Phải có nguồn vốn đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị cho các dây chuyền sản xuất một số nguyên phụ liệu cần thiết.
- Ban lãnh đạo của Công ty cần phải thiết lập được quan hệ tốt đối với các Công ty, xí nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nước để có đươc nguồn cung cấp ổn định và có được quan hệ làm ăn lâu dài đối với các đơn vị này.
Chủ động trong việc kiểm soát và cung cấp nguồn nguyên phụ liệu sẽ giúp cho Công ty có được lợi thế cạnh tranh trong những năm tới đây, dần dần từng bước Công ty tạo cho mình nguồn cung cấp ổn định nhằm giảm các chi phí liên quan để có thể tập trung vốn cho các công tác quan trong khác của Công ty sau này.
2.4. Giải pháp 4: Phát triển nguồn nhân lực của Công ty.
a) Mục đích của giải pháp:
Khoa học công nghệ dù có phát triển tới đâu thì vai trò của con người cũng hết sức quan trọng, tác động tới mọi mặt của đời sống. Một doanh nghiệp “mọc lên” cũng là nhờ bàn tay của con người, con người là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Trong những năm qua, nhờ sự nỗ lực không ngừng của chính những cán bộ, công nhân viên trong Công ty, cũng như sự quan tâm đào tạo nâng cao tay nghề của ban giám đốc Công ty, nên trình độ tay nghề của công nhân viên trong công ty đã có những bước trưởng thành vượt bậc. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập này chất lượng của cán bộ, công nhân viên còn nhiều hạn chế, nên còn cần phải được tiếp tục bồi dưỡng và đào tạo.
b) Nội dung của giải pháp:
* Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý: Trình độ quản lý là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành, bại của doanh nghiệp. Công ty cổ phần may Thăng Long với 185 cán bộ quản lý, trong đó trên 90% có trình độ đại học trở lên, điều đó cho thấy trình độ cán bộ quản lý của Công ty khá cao, nhưng trong những năm qua, đội ngũ những cán bộ quản lý này vẫn chưa phát huy hết khả năng vốn có của mình.
Để có thể đương đầu với tình hình biến động không ngừng của thị trường đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý của công ty không ngừng được đào tạo bằng cách thường xuyên gửi cán bộ trẻ, có triển vọng đi học tập kinh nghiệm tại các trung tâm đào tạo cán bộ kinh doanh ở trong hoặc ngoài nước, thông qua việc đào tạo giúp họ có những quan điểm mới về cách nhìn nhận thị trường, nắm bắt được những kiến thức giúp cho công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty ngày càng suôn sẻ.
Tạo điều kiện thuận lợi cho một số cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để tham quan trao đổi kinh nghiệm và nắm bắt thị trường, hoặc Công ty mời chuyên gia nước ngoài trực tiếp về giảng dạy tại Công ty nhằm giải quyết kịp thời các mặt yếu kém trong quản lý và sản xuất kinh doanh. Có những chế độ khuyến khích bằng vật chất và tinh thần thoả đáng, có như vậy, mới kích thích được lòng say mê và sự tận tâm với công việc của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ.
* Tăng cường đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân lao động trực tiếp: Tay nghề của người công nhân và dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Để có được đội ngũ công nhân lành nghề thì Công ty cổ phần may Thăng Long phải coi trọng công tác đào tạo, giáo dục toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hoá và khoa học kỹ thuật.
- Công ty cần phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người công nhân. Công ty có thể mở các lớp học ngay tại xí nghiệp do các chuyên gia giảng dạy, hoặc gửi các công nhân có triển vọng đi học ở các trường dạy nghề. Đào tạo nâng cao tay nghề cho người công nhân là rất cần thiết, bởi vì khi các công nhân sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị, am hiểu về các yếu tố cấu thành sản phẩm, nguyên nhân gây ra phế phẩm…từ đó, họ có thể dễ dàng phát hiện ra sai lỗi và khắch phục được chúng một cách nhanh chóng.
- Thông qua các tổ chức đoàn thể phát động các phong trào thi đua trong đội ngũ công nhân lao động, tuyên truyền giáo dục tư tưởng cho người lao động, để cho người lao động hiểu rằng: sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao sẽ góp phần vào việc nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty trên thương trường, từ đó, Công ty sẽ có doanh số bán ra tăng dần theo từng năm, mà lời ích của Công ty cũng chính là lợi ích của người lao động. Mặt khác, Công ty phải chăm lo tới việc nâng cao đời sống và tinh thần của người lao động.
Xây dựng quy chế thưởng phạt theo công việc dựa trên quy chế phân công trách nhiệm đã xây dựng trước đó, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với công nhân giỏi, có năng suất lao động cao, có nhiều sáng kiến đóng góp giúp làm giảm chi phí... Đây là động lực kích thích mạnh mẽ nhất, có tác dụng trực tiếp thu hút sự quan tâm, gắn bó lâu dài và khả năng phát huy trí tuệ của người lao động.
c) Kết quả đạt được sau khi thực hiện giải pháp:
Tăng cao chất lượng tay nghề cán bộ công nhân viên chức trong công ty trong những năm tới sẽ giúp cho công ty có được một sức mạnh trong cạnh tranh và trong tiêu thụ sản phẩm của công ty. Doanh thu sẽ tăng lên từ 20% tới 25% nếu làm tốt trong điều kiện số lượng lao động và thu nhập của họ cũng tăng.
Số lượng lao động và thu nhập của cán bộ công nhân trong những năm tới.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
Lao động
Người
4000
4500
4800
1. Lao động gián tiếp
"
185
200
220
2. Lao động trực tiếp
"
3815
4300
4580
Tổng thu nhập
1000 đ
5200000
6500000
7500000
Thu nhập bình quân
Đ/ng/th
1300000
1444444
1562500
d) Điều kiện để thực hiện giải pháp:
- Phải có khinh phí cho việc mua sắm máy móc, dây chuyền công nghệ mới và kinh phí đào tạo cho công nhân và cán bộ quản lý.
- Công ty phải đề ra được những kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo và bố trí cán bộ để đảm bảo không có sự xáo trộn sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
Tóm lại, công tác phát triển nguồn nhân lực của Công ty là một công tác rất cần phải được ban lãnh đạo Công ty xem trọng, bởi vì trong bất cứ một lĩnh vực nào thì yếu tố con người vẫn là yếu tố được đánh giá cao.
2.5. Giải pháp 5: Thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường.
a) Mục đích của giải pháp:
Hiện nay, công tác nghiên cứu thị trường là công tác rất quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may, do đặc điểm của nhóm hàng này là sự nhạy cảm, yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang…Đối với Công ty cổ phần may Thăng Long, công tác này đặc biệt quan trọng bởi vì Công ty tham gia xuất nhập khẩu và kinh doanh quốc tế rất rộng.
b) Nội dung của giải pháp:
Hiện nay, mọi hoạt động liên quan đến thị trường đều do phòng kế hoạch thị trường đảm nhận. Phòng này thực hiện rất nhiều chức năng, từ tổ chức thu mua nguyên phụ liệu đến việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm đầu ra nên tính chuyên môn hóa chưa cao. Vì vậy, công tác này phải được thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
* Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty cần phải được đưa về phòng Marketing đảm nhiệm:
Nhiệm vụ của phòng Marketing là thu thập, xử lý các thông tin có liên quan đến hoạt động tiêu thụ, nắm bắt được tình hình kinh tế xã hội, sức tiêu thụ, thị hiếu của người tiêu dùng, mức thay đổi thị hiếu giữa các thời kỳ, sự cạnh tranh của các sản phẩm may mặc trên thị trường, các điều kiện về địa hình, địa vật,…Muốn nắm chắc được các yêu cầu đó, bên cạnh đội ngũ cán bộ công nhân viên của phòng Marketing có trình độ tốt thì Công ty cũng cần phải thiết lập được quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin thị trường.
Cán bộ thị trường cần phải thông qua các phương pháp nghiên cứu thị trường tiêu thụ của Công ty như: điều tra thị trường, phỏng vấn trực tiếp khách hàng,… để rồi từ đó có thể tổng hợp, phần tích, lập báo cáo chi tiết chính xác về từng mảng thị trường để cho ban lãnh đạo Công ty có thể căn cứ vào đó để đưa ra những kế hoạch sản xuất và tiêu thụ phù hợp.
Công tác nghiên cứu thị trường cũng cần làm rõ về các đối thủ cạnh tranh của Công ty, năng lực sản xuất của họ ra sao? Các chiến lược, chính sách họ đang áp dụng là gì? So sánh chất lượng, giá cả sản phẩm của Công ty với các sản phẩm cùng loại trên thị trường… Những thông tin này là rất quan trọng và cần phải được xử lý thật tốt.
* Nghiên cứu thị trường và kinh doanh trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, làm tốt công tác nghiên cứu thị trường chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của những sản phẩm mang tính thời vụ như sản phẩm may mặc. Muốn thành công trong tiêu thụ sản phẩm, Công ty phải khai thác tốt các thông tin về thị trường trong và ngoài nước. Có một nguồn thông tin cập nhật, nhanh chóng và có độ chính xác rất cao đó là thông tin trên mạng Internet toàn cầu, đây cũng chính là xu thế kinh doanh của tương lai.
Trên thế giới, hình thức kinh doanh mạng đã trở nên hết sức phổ biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam, đây vẫn còn là một hình thức kinh doanh còn rất mới mẻ mặc dù hiệu quả của nó đã được khẳng định. Việc kinh doanh trên mạng có rất nhiều ích lợi, nó làm cho các bên tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc và giao dịch được tiến hành một cách nhanh chóng. Việc tìm kiếm bạn hàng và kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho Công ty thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả hơn. Hiện nay, cơ sở vật chất phục vụ cho hình thức kinh doanh này của Công ty còn rất thiếu, các phòng ban đã được trang bị máy tính và nối mạng toàn cầu nhưng ngay cả trang Web giới thiệu về Công ty cũng chưa được làm một cách chu đáo. Trong giai đoạn tới đây, Công ty nên lập ra một bộ phận chuyên trách để phục vụ cho việc quảng bá thương hiệu THALOGA JS ra toàn thế giới, phục vụ cho việc kinh doanh thương mại điện tử sau này. Làm được như vậy, Công ty sẽ nâng cao được khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình cả ở thị trường trong nước và trên thế giới.
c) Kết qủa đạt được sau khi thực hiện giải pháp:
Thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường trong những năm tới, kết quả thu được của Công ty cổ phần may Thăng Long được thể hiện ở chỗ phát triển và mở rộng thị phần.
Thị phần của công ty trong những năm tới.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Thị phần trong nước
5
10
15
Thị phần xuất khẩu
25
30
35
d) Điều kiện để thực hiện giải pháp:
- Công ty cần phải có ngân sách cho hoạt động nghiên cứu thị trường, đây là điều kiện đầu tiên nhằm đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu thị trường có hiệu quả.
- Công ty phải có được một đội ngũ cán bộ điều tra nghiên cứu thị trường giỏi về chuyên môn, do đó Công ty phải có chính sách tuyển mộ, đào tạo cụ thể trong thời gian tới.
- Công ty cần phải đầu tư những trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt cho hoạt động nghiên cứu thị trường trong giai đoạn sau này.
Tóm lại, đối với bất cứ doanh nghiệp nào thì việc nghiên cứu thị trường là rất quan trọng, là yếu tố tiên quyết cho sự thành bại trong tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, công tác này phải được nhìn nhận và đánh giá một cách đúng mực và nghiêm túc.
2.6. Giải pháp 6: Kiến nghị đối với Nhà nước.
Trong những năm gần đây, do được sự quan tâm của Nhà nước, ngành may mặc đã trở thành một trong những ngành mũi nhọn hàng đầu của nước ta. Song, để cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của ngành may mặc nói chung và của công ty cổ phần May Thăng Long nói riêng phát triển mạnh, vững bền hơn nữa thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ, cùng giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp bằng các vấn đề sau đây:
* Tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất trong ngành may mặc.
- Tạo điều kiện thông thoáng, cởi mở hơn trong việc nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ cho sản xuất gia công hàng may mặc, để sản phẩm may mặc có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập và tiếp thụ các công nghệ máy móc hiện đại của ngành từ các nước phát triển.
- Ưu tiên cung cấp vốn vay để đầu tư mở rộng đối với doanh nghiệp may mặc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mà công ty cổ phần May Thăng Long là một điển hình.
* Cung cấp nguồn thông tin cho doanh nghiệp.
- Nhà nước nên nghiên cứu và thành lập trung tâm nghiên cứu, trợ giúp các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, thu thập các thông tin về thị trường nước ngoài.
- Thường xuyên thông tin về thị trường may mặc trong nước và nước ngoài, nhằm đảm bảo cho các công ty nắm được những thông tin chính xác, cập nhật giúp cho các công ty may mặc trong nước nói chung và công ty cổ phần May Thăng Long nói riêng tận dụng triệt để các cơ hội hợp tác, kinh doanh với các khách hàng ở thị trường nước ngoài.
- Khi Nhà nước cung cấp thông tin cho doanh nghiệp thì thông tin đó phải đảm bảo tính chính xác, tính kịp thời, đảm bảo tính hiện đại và tính hệ thống, lôgíc và ổn định.
* Nâng cao thương hiệu quốc gia.
Nhà nước ngoài việc hỗ trợ trên còn cần phải thường xuyên quan tâm đến các hoạt động xúc tiến cho thương hiệu quốc gia.
Đây là việc làm tưởng chừng như có hiệu quả không cao, nhưng ngược lại, nếu làm tốt khâu này thì các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam sẽ có được sự tin yêu của người tiêu dùng nước ngoài. Từ đó, sẽ góp phần tăng trưởng mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, mà lợi ích đó cũng không nằm ngoài mong muốn của công ty cổ phần May Thăng Long.
Tóm lại, sau khi áp dụng 5 loại giải pháp đề xuất, và kiến nghị với Nhà nước và cơ quan quản lý cấp trên thì tỷ lệ % doanh thu và mức doanh thu hàng năm đều tăng lên trong những năm tới.
Biểu tổng hợp về tỷ lệ và mức doanh thu đều tăng trong những năm tới.
STT
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
1
Tỷ lệ tăng doanh thu trong nước
%
21
21
21
2
Mức tăng doanh thu trong nước
Triệu đồng
241400
292094
353433,7
3
Tỷ lệ tăng doanh thu xuất khẩu
%
21
21
21
4
Mức tăng doanh thu xuất khẩu
Triệu đồng
205800
249018
301311,8
KẾT LUẬN
Tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề xuyên suốt mọi thời kỳ hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Môi trường kinh doanh càng có nhiều cơ hội và xuất hiện lắm nguy cơ, muốn tồn tại và phát triển thì mỗi doanh nghiệp cần phải có được những chiến lược tiêu thụ riêng có hiệu quả. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, có chiến lược đầu tư đúng đắn cho sản phẩm và chất lượng sản phẩm, giá cả cũng như các hoạt động thị trường thì mới có thể tăng cường thế mạnh của mình trong cạnh tranh, vượt qua thách thức và tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh.
Mặc dù đã từng bước đi lên và khẳng định mình trên thương trường, nhưng việc đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần May Thăng Long là rất cần thiết. Đề tài : “Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Công ty cổ phần May Thăng Long” là sự kết hợp các vấn đề lý luận và những tìm hiểu phân tích về thực trạng sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần May Thăng Long. Đồng thời, các giải pháp đưa ra cũng là một sự vận dụng các vấn đề lý thuyết vào thực tiễn quản trị kinh doanh, hi vọng góp phần làm cho Công ty ngày càng phát triển.
Một lần nữa, em xin cảm ơn Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Hữu Huy, các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần May Thăng Long đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Danh mục các loại giáo trình và sách:
Giáo trình Marketing thương mại – TS. Nguyễn Xuân Quang (chủ biên) – Nhà xuất bản thống kê - Năm 1999
Giáo trình Quản trị tiêu thụ sản phẩm – Viện Đại học Mở Hà Nội – PGS. PTS. Đặng Đình Hào, PGS. Lê Thiện Hạ, Thạc sĩ Trần Hoè.
Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh - Phan Quang Niệm (chủ biên) – Nhà xuất bản Thống kê - Năm 2002
Giáo trình kinh tế học quốc tế – GS. PTS. Tô Xuân Dân – Nhà xuất bản thống kê - Năm 1998
TQM & ISO 9000 dưới dạng sơ đồ – GS. Nguyễn Quang Toản – Nhà xuất bản Thống kê - Năm 1996
2. Danh mục báo và các tài liệu khác:
Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần May Thăng Long.
Thời báo kinh tế Việt Nam các số trong năm 2001 và 2003
Các tài liệu khác trên Internet:
Và một số tài liệu khác.
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
3
I. Thị trường và các vấn đề cơ bản của thị trường tiêu thụ sản phẩm
3
1.1. Khái niệm thị trường
3
1.2. Vai trò của thị trường
4
1.3. Chức năng của thị trường
5
1.4. Các quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường
6
II. Bản chất của tiêu thụ sản phẩm và vai trò của nó đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
7
2.1. Bản chất của việc tiêu thụ sản phẩm
7
2.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm đối với doanh nghiệp
9
III. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
10
3.1. Các yếu tố khách quan
10
3.1.1. Các yếu tố về kinh tế và chính trị
10
3.1.2. Các yếu tố văn hoá
11
3.1.3. Các yếu tố về luật pháp
11
3.1.4. Môi trường cạnh tranh
12
2.2. Các yếu tố chủ quan
12
3.2.1. Tiềm lực tài chính
12
3.2.2. Sản phẩm của doanh nghiệp
13
3.2.3. Khả năng kiểm soát chi phối nguồn cung cấp hàng
13
3.2.4. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
14
IV. Nội dung của công tác tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp
14
4.1. Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
14
4.2. Ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
17
4.3. Kế hoạch sản xuất – tiêu thụ sản phẩm
17
4.4. Hệ thống kênh và mạng lưới tiêu thụ
18
4.5. Vận chuyển và thanh toán
19
4.6. Các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
19
4.7. Phân tích và đánh giá hiệu quả việc tiêu thụ
23
PHẦN II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG TRONG THỜI GIAN QUA
24
I. Tổng quan về Công ty Cổ phần May Thăng Long
24
1.1. Giới thiệu chung về Công ty
24
1.2. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cổ phần May Thăng Long.
31
1.2.1. Về thị trường tiêu thụ của Công ty
31
1.2.2. Về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của Công ty Cổ phần May Thăng Long
32
1.2.3. Về tình hình nhân sự của Công ty
35
1.2.4. Về tình hình vốn kinh doanh của Công ty
36
II. Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty May Thăng Long trong những năm qua
37
2.1. Phân tích thực trạng sản xuất của Công ty Cổ phần may Thăng Long trong thời gian qua
37
2.1.1. Thực trạng sản xuất các mặt hàng sản phẩm của Công ty
37
2.1.2. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây
38
2.2. Phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cổ phần May Thăng Long trong thời gian qua
39
2.2.1. Thị trường trong nước của Công ty Cổ phần May Thăng Long
40
2.2.2. Thị trường nước ngoài của Công ty Cổ phần May Thăng Long
41
2.2.3. Tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong thị trường Mỹ
43
2.3. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cổ phần may Thăng Long trong thời gian qua
45
2.3.1 Công tác giao dịch ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
45
2.3.2 Kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm
45
2.3.3. Tổ chức hoạt động kênh tiêu thụ sản phẩm
46
2.3.4 Phương thức vận chuyển và thanh toán
47
2.3.5. Thực hiện các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
49
III. Đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong thời gian qua
50
3.1. Những ưu điểm
50
3.2. Những hạn chế và tồn tại
51
3.3. Nguyên nhân
52
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
55
I. Mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong thời gian tới
55
1.1. Mục tiêu của Công ty trong những năm tới
55
1.2. Phương hướng để thực hiện các mục tiêu đã đề ra
57
II. Những giải pháp cơ bản
58
2.1. Giải pháp 1: Nâng cao tiềm lực tài chính của Công ty
59
2.2. Giải pháp 2: Nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
61
2.3. Giải pháp 3: Tăng khả năng kiểm soát chi phối nguồn cung cấp nguyên phụ liệu
64
2.4. Giải pháp 4: Phát triển nguồn nhân lực của Công ty
66
2.5. Giải pháp 5: Thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường
69
2.5. Giải pháp 6: Kiến nghị đối với Nhà nước.
71
Kết luận
74
Danh mục tài liệu tham khảo
75
DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH VÀ BẢNG BIỂU
Trang
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần May Thăng Long
28
Sơ đồ 2: Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty
34
Sơ đồ 3: Sơ đồ phương thức tiêu thụ của Công ty Cổ phần may Thăng Long
47
Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm
39
Biểu 1: Thị trường trong nước của Công ty cổ phần may Thăng Long
32
Biểu 2: Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường nước ngoài của Công ty cổ phần may Thăng Long
32
Biểu 3 : Bảng kê số lượng máy móc thiết bị chủ yếu của Công ty Cổ phần May Thăng Long
33
Biểu 4 : Về tình hình nhân sự và thu nhập của Công ty Cổ phần may Thăng Long
35
Biểu 5 : Tình hình vốn đầu tư của Công ty
36
Biểu 6 : Sản lượng sản xuất qua các năm
37
Biểu 7 : Tình hình thực hiện các chỉ tiêu
39
Biểu 8: Doanh thu nội địa trong một số năm
40
Biểu 9 : Thực hiện chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu
41
Biểu 10: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm tại các Châu
43
Biểu 11: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ
44
Biểu 12: Tình hình thực hiện các hợp đồng tiêu thụ
45
Biểu 13 : Kế hoạch sản xuất và lượng kho thành phẩm của Công ty
46
Biểu 14: Kết quả đạt được theo các phương thức hay các kênh tiêu thụ
47
Biểu 15 : Tình hình vận chuyển hàng hoá
48
Biểu 16 : Tình hình thanh toán trong thời gian gần đây
49
Biểu 17 : Thực hiện các chính sách hỗ trợ tiêu thụ
50
Biểu 18 : Các chỉ tiêu chủ yếu sau khi cổ phần từ năm 2004 – 2006
57
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5169.doc