Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Thị trường Mỹ

Lời mở đầu 1/ Sự cần thiết của đề tài Thị trường Mỹ là thị trường lớn, đa dạng và phức tạp nhưng lại rất quan trọng đối với Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã mở ra nhiều cơ hội cho đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này. Cụ thể, phải kể đến một số mặt hàng như thuỷ sản, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ... đã đóng góp đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Nhờ vào những lợi thế vốn có như nguồn tài nguyên dồi dào, giá lao động rẻ ..

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. nên các mặt hàng trên đã bắt đầu đứng vững trên thị trường Mỹ. Trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Mỹ thì thuỷ sản là mặt hàng đạt kim ngạch cao nhất và đây là mặt hàng rất có tiềm năng của Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang thị trường Mỹ thì các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam còn hạn chế về mặt chất lượng, cơ cấu sản phẩm đơn giản, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, sơ chế, giá trị thấp... Trong hoàn cảnh đó, ngành thuỷ sản Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản nói riêng thực sự phải có những giải pháp toàn diện, đồng bộ để nâng cao tính tranh của sản phẩm thuỷ sản và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt mức tương xứng với tiềm năng của ngành thuỷ sản. Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ” làm luận văn tốt nghiệp của mình với hy vọng nó sẽ trở nên thiết thực cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt Nam. 2/ Mục đích nghiên cứu Một là, đưa ra những luận cứ khoa học làm cơ sở và định hướng cho vấn đề nghiên cứu thông qua hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu. Hai là, phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Qua đó, đánh giá những thành công, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của nó. Ba là, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ tương xứng với tiềm năng của ngành thuỷ sản. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung chủ yếu liên quan đến thị trường thuỷ sản Mỹ và những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Phạm vi nghiên cứu: Do giới hạn về thời gian cũng như điều kiện nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung vào vấn đề xây dựng một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt Nam, đó chỉ là những giải pháp chính và quan trọng trong vô số các biện pháp cần quan tâm. 4/ Phương pháp nghiên cứu Để đảm bảo tính lôgic, tính khoa học và tính thực tiễn, đề tài nghiên cứu có sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số các phương pháp khác như điều tra, phân tích kinh tế, tiếp cận hệ thống ... để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. 5/ Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liêu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu. Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ thời gian qua. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Chương 1 Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu 1.1/ Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu Khái niệm và sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là một nội dung của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán cho người nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tạo ra sức mạnh vật chất cho kinh tế của mỗi quốc gia và thoả mãn nhu cầu nhập khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng. Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường nhằm mục đích lợi nhuận. Trên thực tế đã chứng minh rằng một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ mọi thứ và phát triển bình thường được. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước mà nó còn cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các măt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới và khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung, tự cấp. Chính vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu là thực sự cần thiết và có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới . Từ trước đến nay cũng có nhiều nhà kinh tế học giải thích lý do xuất hiện thương mại quốc tế nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Adam-Smith đã giải thích thương mại giữa hai nước được dựa trên cơ sở lợi ích tuyệt đối. Lợi ích tuyệt đối thể hiện ở hàng hoá có chi phí sản xuất nhỏ hơn khi so sánh hai quốc gia với nhau. Ông cho rằng một quốc gia nên chuyên môn hoá xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế tuyệt đối và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tuyệt đối và qua trao đổi các quốc gia đều thu được lợi ích từ thương mại. Theo David - Ricardo thì lại cho rằng chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và ông gọi đó là quy luật lợi thế tương đối. Quy luật lợi thế tương đối khẳng định mỗi một quốc gia chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà nước đó làm ra với chi phí tương đối thấp hơn sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn. Có nghĩa là một quốc gia có năng suất thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất ra tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng gặp nhiều bất lợi nhất. Theo Hekscher - Ohlin thì lại cho rằng tính phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia, sự khác biệt này sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá giữa hai nước, đây là lý do trực tiếp của xuất nhập khẩu hàng hoá. Ngoài ra, còn nhiều học thuyết giải thích nguyên nhân của thương mại quốc tế. Song chúng đều có đặc điểm chung đó là mỗi quốc gia trên cơ sở thế mạnh, tiềm năng của mình để xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu hợp lý, trong đó xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh để tăng thu ngân sách, đồng thời nhập khẩu những sản phẩm cần thiết mà trong nước chưa sản xuất được hoặc kém lợi thế sản xuất so với nước khác. Thông thường các quốc gia phát triển thì nhập khẩu các sản phẩm thô và xuất khẩu các sản phẩm chế biến hoàn chỉnh. Ngược lại, các quốc gia đang và chậm phát triển thì xuất khẩu các sản phẩm thô và nhập khẩu các sản phẩm mà khi sản xuất phải sử dụng nhiều vốn hoặc dây chuyền máy móc, công nghệ hiện đại. 1.1.2 - Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Khi tiến hành kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và đánh giá ưu nhược điểm của từng hình thức xuất khẩu. Qua đó ra quyết định lựa chon hình thức xuất khẩu phù hợp với môi trường và khả năng của mình. 1.1.2.1- Xuất khẩu trực tiếp Đây là hình thức mà nhà xuất khẩu trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Sau đó hai bên sẽ trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương và hợp đồng này phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo lợi ích quốc gia đó và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. - Ưu điểm: Các doanh nghiệp, nhà xuất khẩu chủ động tìm kiếm thâm nhập thị trường, trực tiếp tiếp xúc đàm phán với khách hàng nước ngoài nên dễ nắm bắt được thông tin và nhu cầu của khách hàng, từ đó có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường. Qua đó, sẽ nâng cao được tính cạnh tranh của sản phẩm, giảm chi phí gián tiếp. - Nhược điểm: Trong điều kiện doanh nghiệp mới tham giavào hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nếu áp dụng hình thức này sẽ rất khó do nguồn vốn sản xuất hạn chế, chưa có kinh nghiệm và am hiểu thương trường quốc tế còn ít nên khó chủ động trong việc tìm kiếm nguồn hàng, khả năng chớp thời cơ thấp. 1.1.2.2- Xuất khẩu uỷ thác Là hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp phải ký hợp đồng uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu thay mình làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá. Doanh nghiệp đó sẽ được hưởng % chi phí uỷ thác theo giá trị xuất khẩu và đứng ra chịu trách nhiệm toàn bộ các công việc đã thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác xuất khẩu như thu gom, vận chuyển hoá đơn, chứng từ, giao nhận hàng hoá và thanh toán trực tiếp cho nhà sản xuất . - Ưu điểm: các doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng và các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương ở nước ngoài. Hơn nữa, rủi ro bị hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. - Nhược điểm: phương thức này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ lợi nhuận với các tổ chức trung gian. Tiếp đó là không trực tiếp kinh doanh xuất khẩu mà các doanh nghiệp xuất khẩu uỷ thác tiến hành nên các doanh nghiệp sẽ không chủ động trong việc tìm kiếm thị trường và tìm kiếm khách hàng dẫn tới hiệu quả kinh doanh không cao. 1.1.2.3- Gia công quốc tế Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu được bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phái gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất . - Ưu điểm: doanh nghiệp không phải bỏ vốn vào kinh doanh, không phải lo đầu vào, đầu ra, rủi ro ít... Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhận gia công còn được đầu tư trang thiết bị, công nghệ, có điều kiện học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh. - Nhược điểm: Gia công quốc tế là hình thức đòi hỏi phải làm nhiều thủ tục nhập và xuất, qua nhiều khâu trung gian. Qua đó lợi nhuận thu được qua những hoạt động này rất thấp so với các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp. Bên cạnh đó, khi tham gia vào hình thức này các doanh nghiệp thường bị động về vấn đề thị trường, không chủ động tìm kiếm thị trường, không biết sự biến động của nó. 1.1.2.4- Buôn bán đối lưu Là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng nhập có giá trị tương đương với lượng hàng xuất khẩu. Qua đó, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ và mua được những mặt hàng mình cần. Đồng thời hình thức này sẽ tiết kiệm cho doanh nghiệp khoản chi phí vận chuyển. Nhưng hình thức này cũng có mặt hạn chế là nhiều khi người mua và người bán quá phụ thuộc vào nhau hoặc không chủ động do phải tìm được người tiêu thụ hàng cho mình mà phải có loại hàng đáp ứng nhu cầu của mình. 1.1.2.5- Tạm nhập tái xuất Tạm nhập tái xuất là phương thức trao đổi hàng hoá chịu sự điều chỉnh của luật lệ, tập quán thương mại quốc tế, luật của các nước có liên quan. Đặc điểm của phương thức này là bộ phận hàng hoá doanh nghiệp mua của một nước, tạm nhập về để xuất bán lại cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương và làm các thủ tục qua các cơ quan hải quan. Những hàng hoá này không có quá trình gia công, chế biến nào (nghĩa là không có sự thay đổi bản chất và đặc trưng). ở đây có hai loại hợp đồng riêng biệt: + Hợp đồng mua với các nước xuất khẩu + Hợp đồng bán với các nước nhập khẩu Kết quả tạm nhập tái xuất được tính vào thống kê xuất nhập khẩu . 1.1.2.6- Xuất khẩu tại chỗ Hình thức xuất khẩu này rất mới nhưng đang được phổ biến rộng rãi và nó có rất nhiều ưu điểm đó là hàng hoá không bắt buộc phải vượt qua biên giới một quốc gia nên giảm được một khoản chi phí rất lớn cũng như giảm được rủi ro trong quá trình vận chuyển và bảo quản. Thủ tục xuất khẩu cũng đơn giản hơn do không nhất thiết phải có các hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục hải quan. Trong thời điểm hiện nay, xu hướng di cư tạm thời ngày càng phổ biến mà tiêu biểu là dân các nước đi du lịch ở bên ngoài tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp có thể tận dụng xu hướng này để tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ hoặc hàng hoá để thu mua ngoại tệ. Đối với Việt Nam hình thức xuất khẩu tại chỗ có nhiều ưu điểm: Thứ nhất, nó phù hợp với điều kiện mở cửa hội nhập của nước ta và lượng khách hàng nước ngoài vào thị trường nội địa ngày càng lớn. Thứ hai, nó có thể gắn liền với hoạt động thương mại dịch vụ và các hoạt động của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam. 1.1.3- Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu là nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Do đó, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới và xuất khẩu là một trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia . Có thể thấy vai trò của xuất khẩu như sau: 1.1.3.1- Xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng một quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển cần có bốn điều kiện sau: Nguồn lực con người - tài nguyên - vốn - kỹ thuật công nghệ. Song hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu hai điều kiện là vốn và kỹ thuật công nghệ. CNH - HĐH với bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của một quốc gia. Để tiến hành CNH - HĐH đòi hỏi phải có lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Mà nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu, xuất khẩu quyết định mọi quy mô, tốc độ phát triển của nhập khẩu, xuất khẩu làm cân đối nền kinh tế, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như làm tăng trưởng thương mại của từng quốc gia, thúc đẩy chủ yếu vốn quốc tế, cải thiện cán cân thanh toán để ổn định kinh tế vĩ mô. 1.1.3.2- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiên đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH là xu hướng phát triển tất yếu của mỗi quốc gia cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa, nếu như vậy thì quy mô xuất khẩu thấp và tăng trưởng chậm chạp. Hai là, coi thị trường thế giới là hướng qua trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Trong nền kinh tế, đầu vào của ngành này là đầu ra của ngành sản xuất khác. Quan hệ kinh tế ở đây là tái sản xuất liên ngành tức là quy mô, cơ cấu, hoạt động phát triển của ngành sản xuất này phụ thuộc vào các biến số trong sự phát triển của ngành sản xuất khác. Do đó, khi ngành này mở rộng, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc ngành sản xuất nguyên liệu của ngành đó sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật, nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước hay nói cách khác tạo thêm vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến phục vụ cho hiện đại hoá ngành công nghiệp của đất nước. 1.1.3.3- Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tạo thu nhập, tăng mức sống và thoả mãn nhu cầu của người dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu người lao động vào làm việc và có mức thu nhập không thấp. Thực tế cho thấy mức lương của cán bộ và công nhân tại các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã dần được nâng lên và đến nay là tương đối cao. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân. 1.1.3.4- Xuất khẩu là điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối qua hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải... giữa các quốc gia. Khi đó các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện để mở rộng cho xuất khẩu. 1.2/ Vị trí, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 1.2.1- Vị trí và vai trò của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. 1.2.1.1- Vị trí Năm 2002 là mốc đánh dấu lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta vượt trên 2 tỷ USD. So với các mặt hàng đang xuất khẩu mạnh trong nước như may mặc, giày dép, gạo, dầu thô...thì xuất khẩu thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất. Đối với nền kinh tế quốc nội, thuỷ sản đang dần khẳng định vị trí của nó không chỉ bằng việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được thể hiện thông qua tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước không ngừng tăng lên. Hiện tại, trên trường quốc tế , Việt Nam được xếp vào nhóm 10 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới (vị trí thứ 10) với 1,2% sản lượng thuỷ sản và 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. Còn trong khu vực thì Việt Nam đứng sau Thái Lan và Idônêxia về xuất khẩu thuỷ sản. (Nguồn: Theo báo cáo tổng kết của Bộ Thuỷ sản). 1.2.1.2- Vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với Việt Nam. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực nên đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu có vai trò to lớn đối với nền kinh tế xã hội nước ta. Cụ thể: - Xuất khẩu thuỷ sản góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ, tạo vốn nhập khẩu, phục vụ tiến trình CNH- HĐH đất nước nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. - Xuất khẩu thuỷ sản thúc đẩy phát triển ngành thuỷ sản của Việt Nam theo định hướng chiến lược đến năm 2010. - Xuất khẩu thuỷ sản tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, kích thích các ngành khác hoạt động nhiều hơn, mạnh hơn, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế vận động theo xu hướng tốt hơn. Chẳng hạn, xuất khẩu thuỷ sản sẽ kéo theo các ngành sản xuất chế biến thuỷ sản, ngành công nghiệp bao bì, ngành Bưu Chính Viễn Thông, ngành vận tải, cơ sở hạ tầng ... phát triển nhằm phục vụ nó. - Xuất khẩu thuỷ sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, vùng duyên hải, ven biển theo hướng đa dạng hoá nghề nghiệp khai thác, hình thức nuôi trồng với nhiều loại quy mô lớn, vừa, nhỏ, phù hợp với từng vùng sinh thái, kết hợp giữa tập trung và phân tán, tận dụng mọi nguồn tài nguyên để khai thác và chế biến đạt hiệu quả cao. - Xuất khẩu thuỷ sản tác động tích cực tới việc giải quyết việc cho ngư dân, cải thiện đời sống cho hàng triệu người sống bằng nghề cá. Do đặc điểm của ngành thuỷ sản là sử dụng nhiều lao động nên nó có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm mang lại lợi ích xã hội to lớn như đảm bảo trật tự an ninh, giảm bớt tệ nạn xã hội. - Xuất khẩu thuỷ sản còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, góp phần hội nhập thương mại khu vực và thế giới, nâng cao sức cạnh tranh của ngành thuỷ sản, của nền kinh tế đối nội trên thương trường quốc tế. Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại kể trên lại tạo tiền đề cho mở rộng thị trường xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thuỷ sản nói riêng. Tóm lại, ngành thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Xuất khẩu thuỷ sản không những hàng năm đưa về cho đất nước một lượng ngoại tệ lớn mà còn góp phần đưa Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào khu vực và thế giới thông qua sự năng động của các doanh nghiệp trong đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu cũng như thị trường xuất khẩu, tăng cường quan hệ hợp tác, hiểu biết lẫn nhau và nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và thực hiện CNH-HĐH đất nước. 1.2.2- Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam Xuất phát từ vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với nền kinh tế quốc dân. Vậy, để tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản thì Nhà nước cần quan tâm đến những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản. Từ đó, có những biện pháp thúc đẩy hay hạn chế sự ảnh huởng của các nhân tố đó theo chiều hướng có lợi cho xuất khẩu thuỷ sản. 1.2.2.1- Môi trường tự nhiên và sự hình thành phát triển các vùng nuôi trồng, sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố như vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên sông, biển... luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, muốn khai thác triệt để các lợi thế của môi trường tự nhiên để phục vụ cho sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì cần phải có định hướng về sự phát triển vùng nguyên liệu. Phát triển vùng nguyên liệu thuỷ sản xuất khẩu thực chất là đầu tư, tận dụng lợi thế so sánh của từng vùng lãnh thổ để hình thành các vùng nuôi trồng, sản xuất và chế biến thuỷ sản tập trung như vùng đồng bằng sông Cửu Long, Khánh Hoà- Nha Trang... Ngoài ra, phát triển vùng nguyên liệu tập trung đối với các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu còn tạo điều kiện cho đầu tư đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, đường xá, giao thông... đến công nghệ chế biến, bảo quản và hệ thống tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở đó mới tạo ra khối lượng hàng lớn, có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Phát triển vùng nguyên liệu thuỷ sản phục vụ cho sản xuất và chế biến các sản phẩm thuỷ sản có khả năng xuất khẩu là một trong những vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên quan đến nhiều vùng và nhiều địa phương. Do đó, đòi hỏi phải có những chiến lược, đường lối, chính sách chỉ đạo cụ thể và triệt để vấn đề này. 1.2.2.2- Chất lượng và đa dạng hoá mặt hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu Chất lựợng sản phẩm là nhân tố quan trọng trong việc đưa hàng thuỷ sản ra nước ngoài. Giá trị của sản phẩm thuỷ sản sẽ được nâng cao hơn khi qua các khâu sản xuất, chế biến. Nếu sản xuất, chế biến có trình độ thấp sẽ làm cho giá trị và chất lượng sản phẩm thuỷ sản giảm xuống. Mặt khác, thuỷ sản là động vật tươi sống nên việc chế biến sớm bao nhiêu thì giá trị càng được nâng lên và ngược lại. Ngoài ra, sản phẩm thuỷ sản của nước ta muốn thâm nhập thị trường thế giới thì sản phẩm đó cần phải được sản xuất, chế biến theo một số tiêu chuẩn chất lượng đã được công nhận như: hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 ( hệ thống quản lý), ISO 14000 (về môi trường ), HACCP ( hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về chế biến thực phẩm an toàn), SQF 2000 (được áp dụng trong chế biến cá tra, cá basa)... Bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu thì việc đa dạng hoá mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu cũng là một nhân tố không kém phần quan trọng, nó đòi hỏi các sản phẩm thuỷ sản phải luôn thay đổi hình dáng, mẫu mã, tiêu chuẩn chất lượng... phù hợp với nhu cầu của thị trường, đặc biệt là nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài. 1.2.2.3- Năng lực tổ chức sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. Tổ chức sản xuất và chế biến là một khâu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. Tổ chức tốt hoạt động sản xuất, chế biến thuỷ sản sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng sản lượng và chất lượng của sản phẩm, tao điều kiện thuận lợi cho quá trình tiêu thụ thuỷ sản. Các sản phẩm thuỷ sản phục vụ cho hoạt động xuất khẩu có những đòi hỏi khắt khe về chất lượng như là phải đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Các đòi hỏi này với từng thị trường, quốc gia là khác nhau, thí dụ như xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU và Mỹ thì thành phần dư lượng kháng sinh trong tôm và cá chỉ được trong giới hạn cho phép. Nếu đáp ứng được tiêu chuẩn này thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng lên rất mạnh còn ngược lại toàn bộ số hàng đó sẽ bị trả lại ngay lập tức. Do vậy, để xuất khẩu thuỷ sản cần phải nghiên cức từng thị trường cụ thể về nhu cầu, tập quán tiêu dùng, thói quen... cũng như những tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm... trên cơ sở đó sản xuất, chế biến ra những sản phẩm phù hợp, đáp ứng được những đòi hỏi, những nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, các đơn vị sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu cũng cần phải có đầy đủ năng lực như nguyên liệu, máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công nghệ để tạo ra những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu trên. 1.2.2.4- Thị trường tiêu thụ và môi trường cạnh tranh Thị trường tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng. Thị trường tiêu thụ ở đây được xét đến bao gồm các nhân tố như: cung, cầu, giá cả và tình hình cạnh tranh trên thị trường, tình hình biến động của cung cầu trên thị trường trong nước và thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu có khả năng tiêu thụ. Sự biến động của cung, cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường là do một số nhân tố như chính sách phát triển thị trường, tỷ giá hối đoái, chính sách tự do hoá thương mại... Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản thì mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần phải cập nhật thông tin một cách thường xuyên để có thể đối phó với những diễn biến trên thị trường tiêu thụ, và công tác nghiên cứu thị trường là rất cần thiết. Qua đó sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu hiểu kỹ hơn về nhu cầu tiêu thụ, thị phần, các đối thủ cạnh tranh, các nguyên tắc, luật lệ của nước nhập khẩu, các quy chế về ưu đãi NT+ MFN... Từ các thông tin đó, doanh nghiệp có quyết định cụ thể trong mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ. 1.2.2.5- Giá cả Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp và tốc độ chu chuyển hàng hoá. Định giá là vấn đề then chốt đối với thúc đẩy hoạt động tiêu thụ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Định giá mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu thấp trong một số trường hợp sẽ làm tăng sức mạnh cạnh tranh cho hàng thuỷ sản, thu hút khách hàng về phía mình. Nhưng định giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và hiệu quả kinh doanh do giá bán không đủ bù đắp chi phí sản xuất. Ngoài ra, còn gây ra những bất lợi như làm giảm giá trị hàng hoá, người tiêu dùng thấy giá quá thấp sẽ nghi ngờ chất lượng sản phẩm và chuyển sang tiêu dùng hàng hoá khác hoặc nước nhập khẩu sẽ quy kết sản phẩm đó bán phá giá. Cụ thể như sản phẩm cá tra và cá basa của Việt Nam bán trên thị trường Mỹ với giá thấp hơn sản phẩm cùng loại của Mỹ rất nhiều. Do đó, để bảo vệ sản xuất trong nước các chủ trang trại nuôi cá nheo Mỹ đã kiện Việt Nam bán phá giá vá nó đã gây trở ngại lớn cho Việt Nam trong xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Nhưng định giá quá cao trong khi chất lượng sản phẩm thuỷ sản của nước ta chưa thật tốt sẽ làm cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu mất sức cạnh tranh. Vậy, việc định giá phải dựa trên giá thành hay chính là chi phí sản xuất, chế biến, lưu thông, tình hình cạnh tranh, quan hệ cung- cầu trên thị trường và tuỳ thuộc vào mỗi hoàn cảnh mà doanh nghiệp xem xét yếu tố nào là chủ yếu để định giá xuất khẩu cho phù hợp. 1.2.2.6- Chính sách của Nhà Nước về hoạt động xuất khẩu thuỷ sản a/ Chính sách sản phẩm Các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của mỗi quốc gia thường chia làm hai loại như: các sản phẩm thô chưa qua chế biến (các sản phẩm mới qua sơ chế) và các sản phẩm đã qua chế biến (sản phẩm tinh). Giá của hai loại sản phẩm này rất khác nhau và thường thì giá của sản phẩm đã qua chế biến cao gấp nhiều lần so với giá của sản phẩm mới qua sơ chế. Điều này đặt ra yêu ra yêu cầu cho các quốc gia là phải có chính sách sản phẩm phù hợp nhằm tăng dần tỷ trọng các sản phẩm qua chế biến. Nhất là đối với các mặt hàng nông- lâm- thuỷ sản cần chú trọng đổi mới cây giống, con giống, công nghệ sản xuất, công nghệ chế biến để có mặt hàng có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế để đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động xuất khẩu. b/ Chính sách thị trường Thị trường tiêu thụ là yếu tố quan trọng đối với xuất khẩu thuỷ sản và việc mở rộng, phát triển thị trường tiêu thụ là công việc khó khăn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, một yếu tố quan trọng là quan hệ ngoai giao giữa các quốc gia. Để mở rộng thị trường tiêu thụ thì cần thực hiên tốt công việc nghiên cứu thị trường, xác định cung- cầu dài hạn, đánh giá đúng tiềm năng nhập khẩu, tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam, đồng thời xây dựng chiến lược cạnh tranh với các đối thủ lớn trong khu vực. Trong chiến lược cạnh tranh cần chú ý chiến lược giá, chất lượng. Bên cạnh đó, việc duy trì thị trường truyền thống cần tham gia tích cực vao thị trường khu vực, tập trung mở rộng và từng bước chiếm lĩnh thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ. Mặt khác, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cần chủ động phối hợp tốt hơn với hiệp hội các nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp đặt các hàng rào phi thuế quan của các nước nhập khẩu. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu để có sự thống nhất giá, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chỉ có như vậy mới nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và mặt hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. c/ Các chính sách hỗ trợ khác Các chính sách hỗ trợ khác của Chính Phủ bao gồm như chính sách về tỷ giá hối đoái, về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, các chính sách trợ giúp của Nhà nước. Đây là những yếu tố cơ bản mà thông qua đó Nhà nước có thể khuyến khích hay hạn chế hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, một số yếu tố chính sách khác như điều chỉnh tỷ lệ lãi suất, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hợp tác kinh tế kỹ thuật với nước ngoài trong trong sản xuất và chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, cải tiến chính sách thuế xuất nhập khẩu, thủ tục xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng rõ rệt tới hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. Trong hệ thống các chính sách hỗ trợ, Nhà nước cần cân nhắc giữa các chính sách ngắn hạn trước mắt với chính sách dài hạn để điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, phù hợp với quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. 1.3/ Kinh nghiệm về xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Thái Lan và Trung quốc là hai quốc gia thuộc khu vực Đông á nên cũng có nhiều đặc điểm tương đối giống Việt Nam như điều kiện tự nhiên, khí hậu... và là những quốc gia rất thành công trong lĩnh vực xuất khẩ._.u thuỷ sản không chỉ sang thị trường Mỹ mà còn trên nhiều thị trường khác. 1.3.1- Thái Lan Hiện nay, Thái Lan là nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới với trị giá xuất khẩu hàng năm khoảng 4 tỷ USD. Các sản phẩm thuỷ sản của Thái Lan chủ yếu là xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc - Hồng Kông... bao gồm tôm sú, cá ngừ đóng hộp, cá hồng, mực ống, mực nang, bạch tuộc... trong đó tôm đông lạnh đã đóng hộp là mặt hàng xuất khẩu chính chiếm hơn một nửa doanh thu. Trong các thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Thái Lan thì thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đạt được thành công trên thị trường khó tính như Mỹ là do các sản phẩm thuỷ sản của Thái Lan có tính cạnh tranh về giá. Tuy thị trường Mỹ rất lớn, người dân có thu nhập cao nhưng họ khá thực dụng nên giá rẻ cũng là một yếu tố quan trọng trong tiêu dùng, đặc biệt là những thị trường bình dân, thu nhập thấp. Và nhờ chính sách hạ giá thành sản phẩm nhưng không vi phạm luật chống bán phá giá của Mỹ mà mặt hàng thuỷ sản cũng như nhiều mặt hàng khác của nước này đã thâm nhập thị trường Mỹ một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, Thái Lan còn tái chế các sản phẩm nhập khẩu và xuất sang Mỹ. Việc tái chế này làm tăng giá trị gia tăng của thuỷ sản xuất khẩu và đáp ứng được nhu cầu đa dạng cuả thị trường Mỹ. Các hãng đóng hộp Thái Lan thường tái chế cá pôlắc H&G, cá tuyết, cá bơn vây vàng và Hoki thành cá lát để tái xuất sang Mỹ. Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Thái Lan cũng chú trọng trong công tác cải tiến trình độ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn HACCP, ISO 9000, ISO 14000... đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm . 1.3.2- Trung Quốc Về xuất khẩu thuỷ sản Trung Quốc đứng hàng thứ ba trên thế giới với doanh thu xuất khẩu đạt mức 3 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính là cá Alaska, tôm trắng nuôi, thịt điệp và các thuỷ sản thân mềm khác như mực ống, mực nang, bạch tuộc... Cũng giống như Thái Lan, các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Trung Quốc rất đa dạng, phong phú về mẫu mã, bao bì sản phẩm, giá rẻ và chính sách hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường Mỹ đã rất thành công. Nó làm cho lượng tôm xuất khẩu vào Mỹ tăng vọt và điều này đã làm cho các nhà sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản Mỹ cho rằng lượng tôm nhập khẩu từ Trung Quốc đang đe doạ nghiêm trọng ngành sản xuất tôm trong nước. Chính vì vậy, họ đã kiện Trung Quốc bán phá giá tôm, làm cho lượng tôm xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Trung Quốc giảm xuống. Ngoài ra, Trung Quốc còn có nhiều chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và của Mỹ nói riêng để sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ. Nhất là sau khi được hưởng quy chế MFN của Mỹ, Trung Quốc đã giành những ưu đãi về thuế thu nhập cho tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hàng xuất khẩu sang Mỹ. Nhờ vậy, Trung Quốc có thể tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ cũng như củng cố những mối quan hệ làm ăn và học tập, trao đổi kinh nghiệm kinh doanh của các nước khác. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tận dụng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp gốc Hoa tại thị trường Mỹ để đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ mà không cần qua buôn bán trung gian. Với các khu thương mại của người Hoa ở các thành phố lớn của nước Mỹ nên hàng hoá Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường rất nhanh chóng và hiệu quả. Tóm lại, qua kinh nghiệm của Thái Lan và Trung Quốc trong xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thì có thể rút ra một số bài học chính mà Việt Nam có thể tham khảo đó là: Nâng cao tính cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh thị trường. Tức là sử dụng chính sách bán hàng với giá rẻ nhưng không vi phạm luật chống phá giá của Mỹ. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm. Tái chế sản phẩm nhập khẩu và xuất sang Mỹ. Tận dụng kiều dân ở Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu. Có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và của Mỹ nói riêng để sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ. Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ thời gian qua 2.1/ Khái quát thực trạng th ương mại hàng thuỷ sản của thế giới 2.1.1- Kim ngạch xuất nhập khẩu Trong những năm gần đây khác với nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chậm phát triển, thị trường thuỷ sản thế giới khá năng động. Điều này một phần liên quan đến đăc điểm về tính chất quốc tế của hàng thủy sản, phần khác là do tương quan cung cầu về thuỷ sản trên thế giới chưa cân đối gây ra. Lượng cung các sản phẩm thuỷ sản vẫn tương đối ổn định trong khi nhu cầu tiêu thụ sản phẩm cao cấp giảm sút đã khiến cho giá cả nhiều loại mặt hàng có xu hướng giảm trong cả năm, đặc biệt là các loài thuỷ sản nuôi trồng. Trong năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản toàn thế giới ước đạt 57 tỷ USD. Các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới vẫn là Thái Lan, Nauy, Trung Quốc, Hoa Kỳ. Mặc dù xuất khẩu tôm gặp khó khăn do những biện pháp kiểm tra chặt chẽ của EU và sự cạnh tranh gay gắt của nước khác nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Thái Lan vẫn đạt khoảng 4 tỷ USD trong năm 2002. Trong đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng giúp Trung Quốc duy trì vị trí là nước xuất khẩu thuỷ sản lớn thứ hai thế giới. Và với sự tăng trưởng kim ngạch trong vài năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên để tham gia vào nhóm 10 nước có kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới. Biểu đồ 2.1: Trị giá xuất nhập khẩu thuỷ sản toàn thế giới (tỷ USD). Nguồn: Cục diện kinh tế thế giới 2002 và dự báo thương mại 2003 Xuất khẩu thuỷ sản liên tục phát triển nhất là từ những năm đầu thập kỷ 90 đến nay. Năm 1990 đạt 35,7 tỷ USD, năm 1995 đạt 52 tỷ USD, năm 2000 đạt 55,22 tỷ USD và năm 2002 đạt 57 tỷ USD. Như vậy trong thập kỷ vừa qua kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới tăng bình quân 20% năm, phản ánh một sự phát triển rất năng động. Bảng 2.1: Giá trị XK thuỷ sản trên thế giới. Các nước 1997 1998 1999 2000 1. Thái Lan 4.329.541 4.031.279 4.109.860 4.367.332 2. Trung Quốc 2.937.281 2.656.117 2.959.530 3.660.045 3. Nauy 3.399.299 3.661.174 3.764.790 3.532.841 4. Mỹ 2.850.311 2.400.338 2.945.014 3.055.261 5. Canada 2.270.725 2.265.236 2.617.759 2.818.433 6. Đan Mạch 2.648.911 2.897.707 2.884.334 2.755.676 Thế giới (bao gồm cả nước khác) 53.386.977 51.172.858 52.802.298 55.223.767 Nguồn: Trung tâm thông tin thuỷ sản - Bộ thủy sản. Tiêu dùng thủy sản vẫn có xu hướng tăng, giúp cho giá trị xuất nhập khẩu thuỷ sản tiếp tục tăng lên. Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới năm 2002 đạt mức 61-62 tỷ USD, tăng nhẹ so với hai năm trước. Trong nhập khẩu thuỷ sản thế giới, các nước phát triển chiếm tỷ lệ áp đảo (85-90%) nhập khẩu thuỷ sản toàn thế giới trong 10 năm nay. Nhập khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây. Bảng 2.2: Giá trị nhập khẩu thuỷ sản trên thế giới. Các nước 1997 1998 1999 2000 1. Nhật Bản 15.539.507 12.826.543 14.748.712 15.513.059 2. Mỹ 8.138.840 8.548.766 9.407.307 10.453.251 3. Tây Ban Nha 3.069.601 3.545.751 3.286.831 3.351.670 4. Pháp 3.6062.051 3.505.333 3.280.940 2.983.618 5. Italia 2.571.868 2.808.587 2.728.568 2.535.269 6. Đức 2.362.914 2.623.741 2.288.523 2.262.018 7. Anh 2.141.619 2.384.028 2.276.998 2.183.811 Thế giới (bao gồm cả nước khác) 56.681.200 55.234.716 57.608.086 59.986.956 Nguồn: Trung tâm thông tin Thuỷ sản - Bộ Thuỷ sản Nước truyền thống nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới là Nhật Bản (chiếm 35,9%) tăng từ 4,7 tỷ USD năm 1985 lên 17,8 tỷ USD năm 1995 và đến năm 2002 là 34,7 tỷ USD. Với vị trí nhập khẩu thuỷ sản đứng thứ tư thế giới, lượng nhập khẩu của Mỹ đứng thứ hai. Năm 2000 lượng nhập khẩu của Mỹ tăng chủ yếu là do khối lượng nhập khẩu tôm tăng. Ngoài Tây Ban Nha là nước nhập khẩu đứng thứ ba thì giá trị nhập khẩu của các nước sử dụng đồng Euro khác đều giảm. 2.1.2- Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu . Trong cơ cấu mặt hàng thì tôm là mặt hàng thuỷ sản quan trọng nhất của thị trường thế giới, chiếm 20% tổng kim ngạch thuỷ sản toàn cầu. Song cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản đã dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tôm tại thị trường này thấp. Các nước xuất khẩu chính đã giảm giá bán và tìm kiếm những thị trường khác nhằm tiêu thụ sản phẩm của họ. Năm 2000 lượng nhập khẩu của Mỹ tăng mạnh nhưng năm 2001 lại giảm do cuộc khủng hoảng của sự kiện ngày 11/9. Bên cạnh đó, nhu cầu tôm của Châu Âu cũng tăng lên trong điều kiện tình hình nền kinh tế được cải thiện. Tuy nhiên, đồng Euro giảm giá đã làm giảm mức tăng trưởng này. Ngày 29/1/2002, EU đã ngừng nhập khẩu tôm từ Trung Quốc do sản phẩm tôm nuôi của nước này có chứa nhiều chất kháng sinh. Ngoài ra, EU cũng kiểm soát chất khoáng sinh ở sản phẩm tôm của các nước Châu á khác. Các nước này hiện đang tìm kiếm nhiều nguồn thị trường khác để tránh tình trạng sản phẩm thuỷ sản bị phá huỷ hàng ngày tại biên giới các nước EU. Điều này gây nên việc xáo trộn ở thị trường tôm thế giới trong những tháng đầu năm 2002 và đẩy giá tôm xuống mức thấp. Vấn đề bệnh tôm ở Êcuađo và Trung Mỹ năm 1999 dẫn tới sản lượng tôm nuôi liên tục giảm trong năm 2000 và 2001. Thái Lan tiếp tục là nước sản xuất tôm chính với khối lượng 250.000 tấn, riêng sản lượng tôm nuôi đã tăng trưởng sau nạn dịch bệnh tôm 1996 và 1997. *Mặt hàng cá ngừ. Sản lượng khai thác cá ngừ tăng mạnh trong năm 1999 với giá cá ngừ vằn giảm tới mức thấp chưa từng thấy làm cho ngành khai thác cá ngừ không đạt hiệu quả kinh tế cao. Vào những năm 2000, các chủ tàu khai thác cá ngừ chính đã thành lập một tổ chức nhằm bình thường hoá thị trường. Tổ chức này đặt ra chương trình giảm khai thác từ đó đã gây ảnh hưởng tới giá. Năm 2001 các thành viên của tổ chức này đã thảo luận và đề ra mức quản lý việc giảm khai thác. Chính vì thế mà vào giữa năm 2000, giá cá ngừ vằn ở mức thấp 350 USD/tấn thì sang năm 2002 giá đã khôi phục trở lại mức 700-750 USD/tấn. Thái Lan vẫn là nước xuất khẩu cá ngừ hộp chính sang thị trường Mỹ, nhưng lượng xuất khẩu năm 2001 lại giảm. Philippin giữ vị trí thứ hai. Các nhà đóng hộp Italia tiếp tục phát triển việc sử dụng thăn cá ngừ trong chế biến. Và nguyên liệu thăn cá ngừ hiện nay chiếm khoảng 70% trong tổng sản lượng cá ngừ đóng hộp của Italia. *Mặt hàng cá đáy. Trong nửa đầu năm 2001, lượng cung cấp cá đáy rất hạn chế. Cá Pôlắc Alaska giảm ở tất cả các thị trường chính. Lượng khai thác cá tuyết rất thấp. Trong khi đó, cá hồi và cá rôphi đã thay thế cá đáy ở nhiều thị trường. *Mực. Năm 2001, sản lượng khai thác mực rất thấp, đặc biệt là khai thác mực illex ở Tây Nam Đại Dương. Trong khi đó, lượng khai thác bạch tuộc ở miền Trung Đông Đại Tây Dương rất tốt dẫn tới tăng lượng xuất khẩu sang Nhật Bản. Nhưng tại thị trường Nhật Bản các nhà buôn đưa ra mức giá quá cao làm cho lượng bán ở thị trường này giảm 40% so với năm 2000. *Bột cá. Trong năm 2001, sản lượng bột cá ở mức 5,4 triệu tấn, giảm 12% so với năm 2000. Nguyên nhân chính dẫn tới lượng khai thác giảm là do lệnh cấm khai thác và các vấn đề đối với nguồn lợi cá nục ở các vùng biển ở Chilê. Ngoài ra, bệnh bò điên cũng ảnh hưởng tới thị trường bột cá ở Châu Âu do đầu năm 2001 EU ra lệnh cấm sử dụng prôtêin động vật trong tất cả các thức ăn động vật ngoại trừ bột sữa và bột cá. Kể từ khi có điều luật của EU về việc quy định lượng sử dụng bột cá trong lợn và gia cầm thấp hơn, ở hầu hết các nhà máy của các nước EU, thức ăn cho động vật không nhai lại được sản xuất cùng dây truyền với thức ăn cho động vật nhai lại. Điều này ảnh hưởng rất lớn việc khai thác và xuất khẩu bột cá của Pêru và Chilê. Hiện nay họ đã đưa yêu cầu tới uỷ ban SPS thuộc tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhằm thuyết phục EU bãi bỏ lệnh hạn chế sử dụng bột cá hiện nay. *Dầu cá. Năm 2001, xu hướng chung của thị trường dầu cá tiến triển tốt với mức giá tăng mạnh do sản lượng dầu cá năm 2001 thấp hơn so với năm 2000. Hiện nay lượng cung cấp dầu cá trên thị trường rất thấp, điều này làm cho giá dầu cá tăng rất cao. Tóm lại, thương mại hàng thuỷ sản thế giới trong những năm gần đây có một số vấn đề nổi cộm đó là việc thay đổi biện pháp kiểm tra chất lượng ở các nước nhập khẩu chính, khái niệm đánh giá rủi ro, sự lo ngại của xã hội nói chung về tình trạng khai thác nguồn lợi thuỷ sản quá mức, vấn đề dư lượng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản và nguồn gốc sản phẩm. 2.2/ Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 2.2.1- Khái quát sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam . Từ một bộ phận không lớn thuộc khối kinh tế nông nghiệp, nhưng nhờ kiên trì đường lối đổi mới nên từ năm 1981 đến nay, ngành thuỷ sản luôn giữ nhịp độ tăng trưởng kinh tế ổn định khoảng 7%/năm và được xếp vào nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2001 đạt 2.226.900 tấn, trong đó khai thác 1.347.800 tấn và nuôi trồng 879.100 tấn. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên từ 1,4 tỷ USD (2000) đến 1,76 tỷ USD (2001) và 2,0228 tỷ USD (2002), xếp thứ ba sau mặt hàng dầu thô và may mặc, nộp ngân sách Nhà nước năm 2001 là 1.350 tỷ đồng... Ngành thuỷ sản từ chỗ sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu sang Liên Xô (cũ) và Đông Âu, nay mặt hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước, châu lục và vùng lãnh thổ trên thế giới, ngay cả những thị trường khó tính như EU, Mỹ... Theo báo cáo tổng kết của Bộ thuỷ sản hiện nay đã có hơn 60 đơn vị nằm trong danh sách 1 (là danh sách các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU) và 8 vùng nguyên liệu ở Việt Nam đủ điều kiện an toàn vệ sinh xuất khẩu vào EU và gần 100 đơn vị áp dụng tiêu chuẩn HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản nước ta đã có bước phát triển nhanh về số lượng nhà máy chế biến cũng như công suất chế biến thuỷ sản, năm 1986 công suất chế biến là 210 tấn thành phẩm/ngày thì 10 năm sau (1996) đã tăng lên khoảng 800 tấn thành phẩm/ngày. Nhưng hiện nay có gần 80% nhà máy chế biến xuất khẩu đã hoạt động lâu năm nên trang thiết bị đã lạc hậu, lại thiếu đồng bộ nên chưa đảm bảo các yêu cầu về số lượng và chất lượng sản phẩm chế biến. Về đầu tư đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản. Từ năm 1986 đến năm 1999, số lượng tàu thuyền tăng hơn 2 lần nhưng tổng suất tăng 3 lần. Thực hiện các chương trình khai thác hải sản xa bờ trong 3 năm 1997-1999, Nhà nước đã đầu tư 900 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi. Các địa phương đã triển khai 615 dự án, đóng mới 769 tàu, cải hoàn 132 tàu có công suất từ 90 CV. Đến nay số vốn được giải ngân là 614,232 tỷ đồng, đạt 68,24% so với tổng nguồn vốn và 450 tàu đi vào sản xuất và đánh bắt hải sản xa bờ. Tóm lại, trong hơn một thập kỷ qua sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất khả quan: xuất khẩu thuỷ sản tăng trung bình hơn 20% từ năm 1990 trở lại đây. Theo thống kê của FAO, hiện nay Việt Nam là 1 trong số 20 nước đánh bắt thuỷ sản lớn nhất thế giới, đứng vị trí thứ 10 trong hàng ngũ 10 nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới với tỷ trọng 1,5%. Trong khu vực Đông Nam á, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đứng sau Thái Lan và Indonêxia... Ngành thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng góp phần không nhỏ vào quá trình CNH-HĐH nền kinh tế, đưa Việt Nam hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. 2.2.2- Kết quả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nói chung 2.2.2.1- Kim ngạch xuất khẩu. Năm 1986 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đạt 109,23 triệu USD thì đến năm 2002 xuất khẩu đạt 2022,8 triệu USD. Như vậy, trong vòng 16 năm 1986-2002 xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã tăng 18,58 lần mức tăng xuất khẩu trung bình hàng năm từ 1986-1996 đạt 19,5%, từ 1997-2002 đạt gần 22%. Đây là tốc độ tăng trưởng ngoạn mục (giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới cùng thời kỳ chỉ tăng trung bình 17%/năm). Bảng 2.3: Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1997-2002. Năm Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch XKTS (triệu USD) 776,0 850,0 979 1478,6 1760 2022,8 Tăng trưởng (%) - 109,5 115,2 151,0 119,0 114,9 Nguồn: Bộ Thuỷ sản và tự tính toán Năm 2002 là năm đánh dấu kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm 2001. Và nhờ giá trị xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh nên hiện nay Việt Nam đã được xếp vào một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới (đứng ở vị trí thứ 10). Trong khối ASEAN, Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan và Inđônêxia về giá trị xuất khẩu thuỷ sản. 2.2.2.2/ Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong năm 2002 là tôm đông lạnh, mực khô, mực đông lạnh, cá đông lạnh... Ngoài ra, còn có các mặt hàng mới như cá philê đông lạnh, cá hộp, cá ngừ tươi, thuỷ sản chế biến ăn ngay. Bảng 2.4: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (2001-2002). Tên hàng Năm 2001 Năm 2002 Số lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD) Tỷ trọng (%) Số lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD) Tỷ trọng (%) 1. Tôm đông lạnh 87,1 777,8 44,2 114,6 949,4 46,9 2. Cá đông lạnh 74,1 221,9 12,6 112 361,6 17,9 3. Mực, bạch tuộc đông lạnh 41,7 115,9 6,6 54,9 140,2 6,9 4. Mực khô 18,1 135,8 7,7 18,9 109,2 5,5 5. Cá ngừ 14,5 59,2 3,4 20,7 77,5 3,8 6. Thuỷ sản khác 140 449,4 25,5 137,5 384,9 19 Tổng cộng 375,5 1760 100 458,6 2022,8 100 Nguồn: Bộ Thuỷ sản - Tôm đông lạnh là nhóm sản phẩm xuất khẩu hàng đầu với khối lượng 114,6 nghìn tấn, giá trị 949,4 triệu USD, tăng so với năm 2001 tương ứng là 31,6% và 22%. Giá trị tôm chiếm 46,9% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản so với 44,2% năm 2001. - Cá đông lạnh: là mặt hàng xuất khẩu đứng thứ 2 với khối lượng xuất khẩu là 112 nghìn tấn, giá trị 361,6 triệu USD, tăng so với năm 2001 là 51% và 63% chiếm 17,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. - Mực, bạch tuộc đông lạnh: khối lượng xuất khẩu là 54,9 nghìn tấn, giá trị 140,2 triệu USD tăng so với năm 2001 là 31,7% và 21% chiếm 6,9% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản. - Ngoài ra, các loại thuỷ sản khác có khối lượng xuất khẩu là 137,5 nghìn tấn với giá trị 384,9 triệu USD và chỉ bằng 98,2% và 85,6% so với năm 2001. Bên cạnh đó, trong năm 2002 các mặt hàng thuỷ sản giá trị gia tăng còn chiếm hơn 30% trong tổng số sản phẩm xuất khẩu . Đây là kết quả của chủ trương đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu và tăng cường chất lượng sản phẩm theo chương trình HACCP và ISO 2002 của ngành. Các doanh nghiệp sản xuất chế biến luôn cố gắng cải tiến mẫu mã, bao bì, phát triển các mặt hàng giá trị gia tăng phù hợp với nhu cầu thị trường. 2.2.2.3- Thị trường xuất khẩu . Trong những năm qua, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực về việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Hiện nay, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đã có mặt tại thị trường hơn 60 nước trên thế giới, trong đó thị trường trọng điểm là Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông... Bảng 2.5: Thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam (2001-2002). Thị trường Năm 2001 Năm 2002 Số lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD) Số lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD) - Mỹ 70,9 523,6 98,7 655 - Nhật Bản 76,9 465,9 96,2 537,5 - Trung Quốc 45,0 194,8 51,2 172,6 - Hồng Kông 23,1 122 26,0 129,3 - EU 26,7 90,7 28,6 73,7 - Thị trường khác 132,8 363 157,9 454,7 Tổng cộng 375,4 1760 458,6 2022,8 Nguồn: Bộ Thuỷ sản *Thị trường EU. Khối lượng thủy sản xuất khẩu vào thị trường này trong năm 2002 đạt 28,6 nghìn tấn, giá trị 73,7 triệu USD, chiếm 3,64 tổng giá trị xuất khẩu . So với năm ngoái, giá trị xuất khẩu vào EU giảm 18,76%. Đây là thị trường tuy có thị phần không lớn (chỉ chiếm 3,6%) nhưng lại có ý nghĩa quan trọng vì các nước trong EU luôn yêu cầu cao về chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Các mặt hàng chính xuất khẩu vào EU là cá đông lạnh 5.398 tấn, đạt 16,448 triệu USD chiếm 22,31%, tiếp đó là mực, bạch tuộc đông lạnh đạt 7.904 tấn với 13,694 triệu USD chiếm 18,48%. Tôm đông lạnh đạt 3.931 tấn, đạt trên 15,733 triệu USD, chiếm 21,34% ngoài ra còn có cá ngừ, mực khô và một số mặt hàng khác. Thời kỳ đầu các doanh nghiệp gặp khó khăn do EU đưa quyết định kiểm tra dư lượng kháng sinh và Chloramphenol đối với 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam . Sau những cố gắng từ phía Việt Nam, đến tháng 9/2002, EU đã bãi bỏ quyết định trên. Việc này đã tạo thêm uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam . Tuy nhiên, về phía Việt Nam cũng cần phải kiểm tra chặt chẽ đối với những lô hàng xuất khẩu vào EU, nếu không EU sẽ lại áp dụng chế độ kiểm tra 100%. *Thị trường Mỹ. Thị trường này vẫn giữ vị trí số 1 với khối lượng xuất khẩu là 98,7 tấn, trị giá 655 triệu USD, chiếm 32,38 thị phần, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Các mặt hàng xuất sang Mỹ tính theo giá trị nhiều nhất vẫn là tôm đông lạnh đạt 466 triệu USD, chiếm 71,20% kim ngạch xuất khẩu, tiếp đó là cá đông lạnh, cá tra, cá basa, cá ngừ, mực đông lạnh, mực khô và các mặt hàng giá trị gia tăng. Năm 2002 cũng là một năm sóng gió vì Việt Nam phải tiếp tục đấu tranh chống lại vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa. Trước mắt sức tiêu thụ của Mỹ đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không hề giảm mà lại tăng đáng kể. Tuy nhiên, Mỹ cũng đang chuẩn bị khởi kiện vụ bán phá giá tôm và áp dụng rào cản kiểm tra dư lượng kháng sinh. Đây cũng là một thách thức lớn đối với hàng thuỷ sản của Việt Nam . *Thị trường Nhật. Thị trường Nhật vẫn giữ vị trí thứ hai, chiếm 26,57% thị phần với khối lượng là 96,3 tấn và giá trị đạt 537,5 triệu USD, tăng 15,36% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là thị trường truyền thống với các mặt hàng như tôm đông lạnh đạt 345,4 triệu USD (chiếm 64,26%), cá đông lạnh đạt 33,58 triệu USD (chiếm 6,25%). Mực, bạch tuộc đông lạnh đạt 64,7 triệu USD (chiếm 12,03%) và các mặt hàng khác như cá ngừ, mực khô. Từ giữa năm 2002 Nhật cũng đã có những động thái kiểm tra dư lượng kháng sinh và tuyên bố sẽ chú ý đến vấn đề này. *Thị trường Trung Quốc- Hồng Kông. Thị trường này đạt 77,2 nghìn tấn đạt 302 triệu USD, chiếm 14,93% thị phần, tăng 13,19% về khối lượng nhưng lại giảm 4,67% về giá trị. Các mặt hàng chính là cá đông lạnh đạt 107,9 triệu USD (chiếm 35,75%), tôm đông lạnh đạt 26,14 triệu USD nhưng chủ yếu xuất vào thị trường Hồng Kông, ngoài ra còn mực khô, mực đông lạnh, cá ngừ... Riêng thị trường này, lượng hàng thuỷ sản xuất theo tiểu ngạch cũng khá nhiều, trong đó có mực, bạch tuộc, cá rô phi và các hàng thuỷ đặc sản khác như baba, ếch, cá biển tươi sống. Ngoài ra còn có một số thị trường khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo và một số nước Châu Âu, Châu Mỹ khác. Hiện các doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo của hiệp hội VASEP đã tiến hành phát triển thị trường Nga, Đông Âu, Nam Mỹ, Trung Đông và mở rộng sang các thị trường láng giềng như Campuchia, Lào. Biểu đồ 2.2: Các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam 2002 Mỹ : 32,38% Nhật Bản : 26,57% TQ + HK : 14,93% EU : 3,6% Các nước khác: 22,52% Nguồn: Trung tâm Thông tin Thuỷ sản - Bộ Thuỷ sảnError! Not a valid link. 2.2.2.4- Giá cả xuất khẩu. Từ những năm 1995 trở lại đây, giá thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng lên nhưng nhìn chung giá hàng thuỷ sản của nước ta vẫn thấp, chỉ bằng khoảng 70% mức giá cùng loại của Thái Lan và Inđonêxia. Mặc dù, Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu như tài nguyên thuỷ sản phong phú, điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi, giá lao động rẻ... nhưng trình độ khoa học và công nghệ thấp, cơ sở hạ tầng yêu kém và thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thủy sản giảm sút nhiều và xuất khẩu đạt hiệu quả không cao. Do vậy, để tăng sức cạnh tranh về giá của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu cần phải tập trung vốn vào đầu tư các dây truyền công nghệ bảo quản, chế biến hiện đại hơn. Tóm lại, ngành thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu rất khả quan về xuất khẩu thuỷ sản. Và nó đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất góp phần không nhỏ vào quá trình CNH-HĐH nền kinh tế, đưa Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào khu vực và thế giới, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam còn bộc lộ các tồn tại chính sau: - Mặt hàng xuất khẩu : Chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu bao gồm chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế (chiếm hơn 80% về mặt khối lượng), tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng cao là thấp, chất lượng sản phẩm chưa phù hợp với yêu cầu của các nước nhập khẩu lớn. - Thị trường xuất khẩu: Là một thị trường tiêu thụ có nhiều tiềm năng song lại thiếu ổn định. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào các thị trường lớn vì vậy mức độ rủi ro trong xuất khẩu còn cao. - Giá sản phẩm xuất khẩu: Nhìn chung thấp chỉ bằng khoảng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và Inđonêxia nhưng vẫn không cạnh tranh được với mặt hàng của nước khác. Tuy Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu: tài nguyên thuỷ sản phong phú, điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi, giá lao động rẻ... nhưng trình độ khoa học công nghệ thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, và thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản giảm sút nhiều và xuất khẩu không đạt được hiệu quả mong muốn vì giá thấp. - Mạng lưới các kênh phân phối: Trong xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính thì mạng lưới kênh phân phối chưa tốt, chủ yếu xuất qua trung gian, môi giới và trung tâm tái xuất như Xingapo, Hồng Kông. Xuất khẩu chủ yếu theo điều kiện FOB, chưa đủ khả năng bán hàng theo điều kiện CIF và các điều kiện có hàm lượng dịch vụ bán hàng cao hơn. Hiện tại, chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản ở các nước tiêu thụ lớn như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ... nên không tận dụng được các cơ hội thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu . - Xúc tiến xuất khẩu: Chưa có được một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thuỷ sản Việt Nam ở nước ngoài, mặc dù có tiến hành một số hoạt động xúc tiến như việc tham gia các hội chợ thương mại và việc cử các đoàn cán bộ đi khảo sát ở nước ngoài nhưng nhìn chung hoạt động này còn mang tính tự phát và chưa thể coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự. - Nguồn nguyên liệu: Để đảm bảo chất lượng cho hoạt động chế biến xuất khẩu thì nguồn nguyên liệu còn thiếu, không đồng bộ, đồng đều và kịp thời. 2.2.3- Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 2.2.3.1- Khái quát về thị trường thủy sản Mỹ. Với dân số trên 270 triệu người, lại có mức sống cao, nước Mỹ hàng năm tiêu thụ hàng tấn thuỷ sản các loại. Theo số liệu của viện nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI) mức tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đạt 7,02 Kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thuỷ sản (là một trong 10 nước có sản lượng thuỷ sản cao nhất thế giới), hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thuỷ sản xuất nhiều nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong thập kỷ qua, Mỹ luôn đứng vị trí thứ ba, thứ tư thế giới về tổng lượng thuỷ sản với mức khá ổn định từ 5,5-5,9 triệu tấn/năm. Thuỷ sản của Mỹ có chất lượng cao, phong phú về chủng loại với nhiều sản phẩm như cá hồi, cá tuyết, cá ngừ, tôm hùm, sò, điệp, cá nheo...Tuy nhiên, mức độ như trên mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước hiện nay, người tiêu dùng Mỹ rất ưa chuộng các sản phẩm tinh chế như tôm nõn, philê, hộp cá, thịt cua, các sản phẩm ăn liền... Mặt khác, thị hiếu của người Mỹ hiện nay là có thay đổi về chất lượng và nghiêng về các sản phẩm cao cấp rất đắt như tôm he, tôm hùm, cá ngừ, cá hồi, cua biển, cá basa...là những thứ Mỹ có rất ít và không đáp ứng được nhu cầu ngày càng gia tăng. Chính điểm này là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy ngoại thương thuỷ sản Mỹ phát triển toàn diện cả xuất - nhập khẩu. a/ Về nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ. ã Kiểm soát nhập khẩu thuỷ sản. Mỹ nhập hơn 100 mặt hàng thuỷ sản các loại từ cao cấp nhất đến thấp nhất và đủ mọi loại giá cả khác nhau. Các sản phẩm thuỷ sản muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ đều phải tuân theo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm (HACCP), các tiều chuẩn chất lượng, bao gói, ghi nhãn, các giới hạn nhiễm khuẩn thực phẩm Mỹ (FDA) quy định. Bên cạnh đó hàng thuỷ sản nhập khẩu còn phải chịu sự kiểm soát của cơ quan hải quan liên bang - Vụ thuỷ sản. Nếu sản phẩm thuỷ sản không đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng thì sẽ bị huỷ, trả lại hoặc buộc phải được tái chế. Ngoài ra, Mỹ còn đưa ra các rào cản kỹ thuật khác như lệnh cấm vận tôm của toà án Mỹ có hiệu lực từ 1/5/1996. Đó là Mỹ chỉ cho phép nhập khẩu tôm của những nước sử dụng công nghệ đánh bắt tôm không làm phương hại đến những loài động vật quý hiếm. Lệnh cấm vận tôm còn lan sang cả nuôi tôm nếu việc nuôi tôm dẫn đến tàn phá rừng ngập mặn, gây ô nhiễm và huỷ diệt môi trường... Tuy nhiên các nước xuất khẩu tôm đã đưa vấn đề này ra WTO và WTO đã tuyên bố chống lại lệnh cấm vận tôm của Mỹ với lý do không một nước nào có thể áp đặt cho nước khác luật về môi trường của riêng họ. ã Cơ cấu nhập khẩu thuỷ sản. Cơ cấu mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu của Mỹ rất đa dạng và trong những năm gần đây thị trường Mỹ thiên về các mặt hàng tươi sống và giảm các mặt hàng đồ hộp. Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nhập khẩu thuỷ sản của thị trường Mỹ - Hàng tươi sống và tôm đông lạnh : 88% - Hộp thuỷ sản : 7,3% - Các dạng khác : 4,7% Nguồn: Trung tâm Thương mại Thuỷ sản - Bộ Thuỷ sản Sau đây là các mặt hàng chủ yếu có giá trị cao được nhập khẩu vào thị trường Mỹ: * Tôm đông: Từ lâu tôm đông là mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Mỹ và luôn có giá trị lớn nhất. Sau 10 năm nhập khẩu tôm của Mỹ tăng từ 1,79 tỷ USD năm 1991 lên 3,7 tỷ USD năm 2000 (tăng 2 lần) là mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Mỹ nhanh chóng vượt qua Nhật Bản trở thành nước nhập khẩu tôm đông lớn nhất thế giới (năm 2000 Mỹ nhập khẩu hơn Nhật Bản 90 nghìn tấn) Mỹ nhập khẩu 19 loại tôm đông khác nhau nhưng chỉ có ba sản phẩm có giá trị lớn nhất là tôm đông bóc vỏ, tôm đông chế biến, tôm đông còn vỏ 31/40. Bảng 2.6: Các sản phẩm tôm có giá trị lớn nhất Tên sản phẩm Giá trị nhập năm 2000 ( triệu USD) % giá trị Tôm đông bóc vỏ 1,244 33 Tôm đông chế biến 654 17 Tôm đông còn vỏ 31/40 3._. sản tại Mỹ cần phải quán triệt những yêu cầu cơ bản sau: - Phải gắn kết giữa định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ với định hướng chiến lược mở rộng, phát triển thị trường xuất khẩu chung của nước ta. - Xây dựng chiến lược trên cơ sở khai thác và phát huy những lợi thế, tiềm năng của khu vực. - Xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, giảm xuất khẩu sản phẩm sơ chế, đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu các sản phẩm chế biến, chế biến sâu, tăng dần tỷ trọng hàng thuỷ sản có giá trị cao. - Xây dựng chiến lược xuất khẩu song song với chiến lược đầu tư, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, thiết bị và công nghệ. - Chú ý đến hiệu quả kinh tế xã hội trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu, gắn xuất khẩu với nhập khẩu . Với những yêu cầu trên đây, trên cơ sở thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thời gian qua thì chiến lược chung được đề xuất để phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 là: đa dạng hoá các loại hình hoạt động xuất khẩu, chú trọng xây dựng nguồn hàng xuất khẩu chủ lực, khối lượng lớn, giá trị cao, sức cạnh tranh lớn, phù hợp với cơ cấu và hướng phát triển các ngành sản xuất, tăng tỷ trọng các sản phẩm đã qua chế biến, giảm dần các sản phẩm xuất khẩu thô, sơ chế giá trị thấp. Mở rộng các phương thức xuất khẩu, củng cố, ổn định các thị trường lớn và thị trường truyền thống, từng bước mở rộng thị trường mới, phát triển các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu . 3.2.2- Những định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ. Xuất phát từ thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thời gian vừa qua, cần có các định hướng cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong giai đoạn 2001- 2010. Các định hướng này trước hết phải căn cứ vào các mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản và phải đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Cuối cùng, định hướng cần phải dựa trên các dự báo về thị trường thuỷ sản thế giới, thị trường thuỷ sản Mỹ và xu hướng thay đổi nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Mỹ là một trong những thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này ngày càng tăng nhưng hiệu quả đem lại chưa thực sự tương xứng với quy mô và tiềm năng của ngành. Do vậy, định hướng chiến lược trong mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ từ năm 2001- 2010 tập trung vào một số vấn đề sau: Nâng cao giá trị và sản lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ là 900 triệu USD - 1000 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD - 1,8 tỷ USD vào năm 2010. Mở rộng sản phẩm xuất khẩu, đồng thời thay đổi cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu tại thị trường Mỹ để duy trì khách hàng hiện tại và thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Cụ thể: Tăng tỷ trọng sản phẩm thuỷ sản qua chế biến, đóng hộp như cá ngừ hộp, tôm hộp. Tăng tỷ trọng thuỷ sản tươi sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông, đông lạnh. Tăng tỷ trọng các loại thuỷ sản phi thực phẩm như thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá... Giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Gắn chế biến xuất khẩu với sản xuất nguyên liệu, tham gia tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất hàng hoá qui mô lớn, tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng cường trình độ và năng lực quản lý, cải thiện chất lượng, lấy chế biến làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị các sản phẩm thuỷ sản. Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để nâng cao các cơ sở chế biến hiện có cả về cơ sở hạ tầng và đổi mới trang thiết bị nhằm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm do Mỹ đặt ra. Nhanh chóng có những chính sách ưu tiên và hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản, đa dạng hoá các phương thức xuất khẩu để đưa hàng vào Mỹ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xúc tiến hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, nâng cao vai trò của các tổ chức, các hiệp hội, tìm hiểu thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ theo cả chiều rộng và chiều sâu nhằm xuất khẩu ngày càng nhiều mặt hàng thuỷ sản với khối lượng, ngày càng lớn, giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong những năm tới, định hướng của ngành thuỷ sản Việt Nam là tăng giá xuất khẩu sang Mỹ ngang bằng hoặc ít ra cũng bằng 80-90% mức giá xuất khẩu các sản phẩm cùng loại của nước khác. Tuy nhiên việc tăng giá không thể tiến hành một cách độc lập mà phải đi kèm với các biện pháp khác như là nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường công tác xúc tiến thuỷ sản tại thị trường Mỹ... để nâng cao uy tín và hình ảnh cho sản phẩm thuỷ sản của nước ta. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản như bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề cho ngư dân, đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. 3.3- Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ Để khai thác triệt để tiềm năng, tránh nguy cơ tăng trưởng chậm dần, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ thì Chính phủ, Ngành Thuỷ sản và các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: 3.3.1- Những giải pháp vĩ mô 3.3.1.1- Thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO và tăng cường hợp tác song phương giữa Việt Nam- Hoa Kỳ trong lĩnh vực thương mại hàng thuỷ sản. Để có thể được hưởng quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn của Mỹ, Việt Nam cần có những giải pháp để nhanh chóng gia nhập WTO cho phép Việt Nam được hưởng những điều kiện có lợi trong buôn bán quốc tế, nhất là với Mỹ. Không những thế Việt Nam có thể thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thuỷ sản, từ đó tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng cường các quan hệ song phương, hợp tác kinh tế kỹ thuật với Mỹ để hạn chế các tranh chấp thương mại mới có thể xảy ra cũng như học tập các kinh nghiệm trong sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Mỹ. 3.3.1.2- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay, nguồn tài nguyên ven bờ của chúng ta đã bị cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua, chỉ còn tiềm năng sản lượng là đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản. Theo Bộ Thuỷ sản, nguồn tài nguyên thuỷ sản xa bờ của nước ta có trữ lượng 1.932.382 tấn, khả năng khai thác là 771.775 tấn. Hiện chúng ta mới khai thác được 13% trữ lượng và 25%- 26% khả năng khai thác cho phép. Đây thực sự là nguồn tiềm năng nguyên liệu lớn, tuy nhiên vấn đề khai thác này lại phụ thuộc vào khả năng quản lý cũng như năng lực và trình độ công nghệ của nghề cá Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần dựa trên cơ sở đặc điểm sinh thái và tiềm năng của từng vùng địa lý, từng vùng mặt nước đã được quy hoạch để xác định đối tượng nuôi, công nghệ nuôi và quy mô nuôi phù hợp, đẩy mạnh nuôi thâm canh các đối tượng có giá trị xuất khẩu như: tôm sú, tôm hùm, cá tra, cá basa, nhuyễn thể..., phù hợp với nhu cầu thị trường Mỹ. 3.3.1.3- Đầu tư cho phát triển vùng, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến xuất khẩu . Để khắc phục khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đảm bảo đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thì việc tạo nguồn nguyên liệu ổn định là hết sức cần thiết. Nhất là tạo nguồn nguyên liệu ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cung cấp đủ số lượng theo đơn đặt hàng cũng như các cơ sở sản xuất, chế biến có thể hoạt động hết công suất để giảm giá thành sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần đầu tư cho phát triển vùng nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Cụ thể: + Về con giống: đảm bảo cung cấp đủ số lượng, giống có chất lượng và kịp thời vụ. + Cơ sở chế biến thưc ăn, nguyên liệu: cần đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp phuc vụ nuôi trồng thuỷ sản hiện có và đầu tư xây dựng mới một số xí nghiệp. + Khai thac nguồn lợi thuỷ sản: tiếp tục thực hiện chương trình khai thác, đánh bắt xa bờ kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản . + Cơ sở hạ tầng: tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng như: cầu cảng, bến cảng, chỗ neo đậu cho tàu thuyền, thông tin cứu nạn. 3.3.1.4- Vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng, khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ. Thứ nhất, miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản. Hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam nhưng ngày nay lợi thế cạnh tranh đã giảm đi rất nhiều do chi phí tàu thuyền ngày càng cao, giá lao động cũng tăng lên, trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biếntrong tình trạng quá lạc hậu so vơi trình độ chung. Vậy để tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ, Nhà nước cần có chính sách thuế thoả đáng như hoàn trả 100% thuế nhập khẩu, khuyến khích đầu tư đổi mới trang thiết bị thông qua các quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý . Thứ hai, Nhà Nước cần có chính sách về tín dụng xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất - xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Mỹ. Tín dụng xuất khẩu là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công của hoạt động xuất khẩu, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì hình thức tín dụng xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh do: + Cung cấp vốn cho doanh nghiệp: để đảm bảo đầu vào cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu . + Cung cấp tín dụng trong khi giao hàng: mỗi doanh nghiệp xuất khẩu muốn ký kết được nhiều hợp đồng thì cần phải chào hàng với những điều kiện hấp dẫn về giá cả thanh toán. Do đó phát sinh nhu cầu tín dụng trong khi giao hàng. + Cung cấp tín dụng sau khi giao hàng: khi nhà xuất khẩu chào hàng với điều kiện thanh toán chậm thì cần phải có tín dụng xuất khẩu cho nhà xuất khẩu tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, với chính sách tín dụng hợp lý còn hạn chế các rủi ro trong giao dịch xuất khẩu. 3.3.1.5- Chính sách về công nghệ và chuyển giao công nghệ cho ngành thuỷ sản . Tuyển chọn và ứng dụng những công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến, phù hợp với điều kiện trong nước. Chú trọng phát triển những công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt đối với các loài có giá trị kinh tế cao, công nghệ khai thác cá xa bờ, cá vùng rạn san hô, rạn đá. Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi của nước ngoài và tăng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, đa dạng hoá mặt hàmg thuỷ sản xuất khẩu phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng Mỹ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải đầu tư các thiết bị thông tin, kiểm soát an toàn trong khai thác, đánh bắt xa bờ, cũng như xây dựng các công trình cầu cảng, bến cảng... phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao 3.3.1.6- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ. Qua thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ có thể thấy hoạt động xúc tiến thuỷ sản hoàn toàn tự phát, chưa có tổ chức thường xuyên và chặt chẽ. Do đó, Việt Nam cần có một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc xúc tiến thương mại để quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện xúc tiến xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Cơ quan này có thể cung cấp các dịch vụ Marketing cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam rồi thu lệ phí. Tiếp đó, tiến hành nghiên cứu thị trường thuỷ sản Mỹ và thế giới, đề xuất viêc tham gia các hội chợ, tổ chức các chiến dịch quảng cáo hàng thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ hay trợ giúp và đào tạo kĩ thuật cho cán bộ thị trường của các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu. 3.3.1.7- Thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá Để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhằm đối phó với những vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa và mới đây là vụ kiện bán phá giá tôm... đang có xu hướng ngày càng tăng lên trên thị trường Mỹ thì Chính phủ cần nghiên cứu thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá như: + Tích cực triển khai việc đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường . + áp dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ và trợ giúp các doanh nghiệp khi bị kiện bán phá giá như thành lập các quỹ trợ giúp theo đổi các vụ kiện, tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, chuẩn bị cho họ những hành trang kiến thức cần thiết... + Phát huy vai trò của các hiệp hội chuyên ngành hoặc của các tổ chức nhóm sản phẩm thuỷ sản, tăng cường sự phối hợp với các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh nghiệp. Cụ thể như trong vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ,hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VASEP đã tập hợp được 14 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa cùng nhau chia sẻ chi phí , kiên quuyết theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu không có vai trò của hiệp hội thì một doanh nghiệp riêng rẽ sẽ khó có đủ điều kiện để theo đuổi vụ kiện. + Phổ biến kiến thức về tổ chức thương mại thế giới WTO và hiệp định thương mại Việt- Mỹ, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, hình thành các tổ chức chuyên phục vụ, ứng phó với những tranh chấp về ngoại thương, có khả năng tư vấn cho các doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi xảy ra các vụ kiện. + Cần đẩy mạnh tiến trình đàm phán ra nhập WTO, sử dụng quy tắc của WTO để đối phó với nước ngoài thực hiện biện pháp chống bán phá giá. Bên cạnh đó, sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước bị kiện như Việt Nam là rất quan trọng. 3.3.1.8- Phát triển nguồn nhân lực cho nghành thuỷ sản. Đây là một vấn đề bức xúc không chỉ riêng ngành thuỷ sản mà còn của nhiều ngành khác. Như đã phân tích ở chương 2, trình độ nguồn nhân lực của ngành thuỷ sản Việt Nam còn rất nhiều hạn chế trong khi yếu tố quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người. Do vậy, Nhà nước cần có những giải pháp, các chính sách trong phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản, thông qua việc nâng cao trình độ văn hoá và tay nghề của ngư dân, đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật. Ngoài ra, đi đôi với việc xây dựng các trung tâm đào tạo, Nhà nước nên thuê các chuyên gia nước ngoài có khả năng chuyên môn để đào tạo nguồn lao động. Trên đây là một số giải pháp vĩ mô nhằm tạo cơ sở và hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để tận dụng được mọi sự ưu đãi của chính phủ làm cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Mỹ thì lại phụ thuộc vào các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu . 3.3.2- Những giải pháp vi mô. 3.3.2.1- Chiến lược kinh doanh, tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp . Để hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ đạt hiệu quả kinh tế cao thì mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hợp lý, trong đó có tiếp cận các phương thức kinh doanh mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản . Vai trò của tiếp thị là hết sức quan trọng, nhất là đối với một thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp thuỷ sản cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiên cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ, triển lãm, tiếp thị qua mạng internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới ... Đặc biệt, cần nắm vững luật pháp, hiểu biết về lực lượng kinh tế, chính trị tác động đến thị trường này. Mỗi doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn cần xây dựng bộ phận đại diện thương mại của mình ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và các hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 3.3.2.2- Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Để giữ vững thị phần và vị trí trên thị trường Mỹ thì các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần phải quan tâm đến vấn đề chất lượng sản phẩm. Trên thị trường Mỹ, các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất mạnh. Dovậy, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam muốn cạnh tranh được, ngoài việc giảm giá thành, công tác tiếp thị tốt ... thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm là hết sức cần thiết. Đây là yếu tố quan trọng có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh ngày càng khắt khe của thị trường Mỹ. Cụ thể, tại thị trường này tất cả các vấn đề liên quan đến chất lượng đều được quy định trong viêc thực hiện các tiêu chuẩn HACCP. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần có trong tay giấy chứng nhận tiêu chuẩn HACCP. Đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường Mỹ. Nếu có được giấy “thông hành HACCP ” doanh nghiệp sẽ có được lòng tin của người tiêu dùng, tránh được nhiều rắc rối khi xuất hàng, giảm chi phí, nâng cao khả năng xâm nhập thị trường, tạo điều kiện cho việc thu hút khách hàng mới. Muốn thế, doanh nghiệp cần đáp ứng được những yêu cầu nhất định về cơ sở hạ tầng (kết cấu nhà xưởng, mặt bằng, hệ thống cấp thoát nước ...). Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải chuyển sang quản lý chất lượng ngay từ những khâu đầu tiên để dễ dàng phát hiện những sai xót nhỏ, tránh gây ra những lây lan lớn. Tiếp đó, doanh nghiệp cần kiểm soát chặt chẽ dư lượng kháng sinh có trong sản phẩm thuỷ sản để tránh tình trạng hàng bị huỷ khi sang tới Mỹ. 3.3.2.3 - Đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ Như phân tích ở chương 2, sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ của nước ta còn chưa đa dạng, chủ yếu mới qua sơ chế và giá trị gia tăng thấp. Do vậy, các doanh nghiệp bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu cần đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm, phải tìm hiểu thị trường Mỹ để nắm bắt được nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần hợp tác với các nhà đâu tư Mỹ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường Mỹ như thành công chúng ta đã làm được với các nhà đầu tư Nhật trong những năm qua. 3.3.2.4 - Xây dựng và phát triển thương hiệu. Để có thể đứng vững và khẳng định mình trên thị trường Mỹ cũng như để người tiêu dùng Mỹ biết đến sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì mỗi doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần phải xây dựng cho mình một thương hiệu, việc xây dựng thương hiệu tốt và chất lượng ổn định sẽ cải thiện khả năng tiếp thị và tác dụng của quảng cáo, bán được giá ngày càng cao hơn, thí dụ: sau vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Mỹ về thương hiệu cá tra và cá basa thì sản phẩm này đã được rất nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến và bán được nhiều hơn do chất lượng thơm ngon không thua cá do Mỹ nuôi mà giá cả rẻ hơn. Vậy, để phát huy sức mạnh của thương hiệu, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam cần phải có nhận thức đúng và đủ về thương hiệu, có chiến lược thương hiệu nằm trong chiến lược marketing tổng thể, cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng. Ngoài ra, để xây dựng thương hiệu thành công cần chú ý: + Xây dựng logo cho sản phẩm cần tạo được sự khác biệt, dễ nhận biết mà làm cho người xem liên tưởng đến sản phẩm của doanh nghiệp . + Hình tượng của nhãn hiệu: tuỳ vào sản phẩm thuỷ sản và nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng Mỹ. + Bao bì: cần được thiết kế từ màu sắc đến kiểu dáng sao cho nổi bật và cải tiến liên tục để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường Mỹ. 3.3.2.5- Thực hiện liên doanh, liên kết với các công ty quốc tế, công ty Mỹ, kiều bào Việt Nam trong xây dựng hệ thống bán lẻ tại thị trường Mỹ. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam gặp một số khó khăn và hạn chế chủ yếu là thiếu vốn kinh doanh nên chưa đầu tư, xây dựng được hệ thống các kho lạnh bảo quản hàng thuỷ sản tại Mỹ để bán lẻ mà chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian, các trung tâm tái xuất. Vậy, để tiếp cận được với người tiêu dùng Mỹ thì các doanh nghiệp thuỷ sản nên liên kết với các công ty quốc tế, các công ty Mỹ để đặt các hệ thống bán lẻ thuỷ sản tại thị trường Mỹ nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong xuất khẩu. Bên cạnh đó, có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc là sử dụng kiều bào Việt Nam làm đại diện, làm marketing,làm nhà phân phối...cho doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ vì họ đang sinh sống và làm việc tại đó nên có thể cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và chính xác hơn các doanh nghiệp trong nước. 3.3.2.6- Sử dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán và tiếp cận thị trường Mỹ. Trong thời đại khoa học công nghệ thông tin phát triển mạnh như vũ bão thì việc ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán là hết sức cần thiết và tiện lợi, giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu các chi phí phát sinh trong quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản có thể tìm kiếm các thông tin để đưa hàng thuỷ sản vào thị trường Mỹ ngay trên Internet. Trang Web đầu tiên mà họ cần tìm là trang Web chứa đựng mọi biểu thuế suất trong hệ thống GSP (trang www.Customs.Ustreas.Gov ). Trang tiếp theo là www.tdc.Com.hk và www.alibaba.com của Hồng Kông để bán sản phẩm hoặc tham khảo xem các doanh nghiệp trên thế giới mua bán sản phẩm của họ như thế nào?. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp nên xây dựng một trang Web riêng để quảng cáo sản phẩm của mình còn nếu chưa có điều kiện thì các doanh nghiệp có thể quảng cáo sản phẩm thuỷ sản trên trang Web của Bộ Thuỷ sản (www.fistenet.com.vn ), trang Web của VASEP (www.vasep.com.vn ) hay trang Web www.brom.com . 3.3.2.7- Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản . Mỗi doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu có đủ năng lực để nắm bắt một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, thị trường Mỹ. Đây là nhân tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và thị trường thuỷ sản Mỹ nói riêng thường xuyên biến động theo chiều hướng bất lợi cho các nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam . Để có đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi thì trước tiên họ phải được đào tạo một cách có hệ thống, bộ máy điều hành và các nhân viên hỗ trợ phải nắm được các kiến thức cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế. Ngoài việc giỏi về chuyên môn, họ phải đạt được trình độ ngoại ngữ, có khả năng dự báo và kiến thức tiếp thị, marketing, có khả năng nghiên cứu phân tích các thông tin liên quan đến sản phẩm, đến thị trường của doanh nghiệp, đến giá cả mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh. Đồng thời, phải nắm được kỹ năng sử dụng các phương tiện phân tích thông tin, truyền tin hiện đại để nâng cao khả năng phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp cần phải có kế hoạch thường xuyên chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ chuyên viên đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt dược các thông tin để tư vấn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Tóm lại, để ổn định và không ngừng tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính Phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 2000 - 2010 và chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành sản xuất có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn với mục tiêu 3 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2005, mà trước mắt năm 2003 phải đạt hơn 2 tỷ USD, trong đó vào thị trường Mỹ phải đạt từ 600 -700 triệu USD. Kết luận Những năm qua, ngành thuỷ sản đã đạt được những thành tựu rất lớn và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp tích cực vào công cuộc ổn định và phát triển kinh tế xã hội cuả đất nước. Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản, chúng ta cần phải đa dạng hoá, mở rộng thị trường xuất khẩu và Mỹ được coi là một trong những thị trường rất có triển vọng. Việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ không những thực hiện đa dạng hoá thị trường xuất khẩu mà còn tạo cơ hội tăng kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt sức ép từ thị trường truyền thống. Từ thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ trong nhưng năm qua và triển vọng cũng như những cơ hội mới cho ngành thuỷ sản sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ với mong muốn đây sẽ là những giải pháp hữu hiệu đối với ngành thuỷ sản và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản trong việc tìm ra con đường tốt nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ và đứng vững trên con đường này. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu 3 1.1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3 1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu 3 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 4 1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp 5 1.1.2.2. Xuất khẩu uỷ thác 5 1.1.2.3. Gia công quốc tế 6 1.1.2.4. Buôn bán đối lưu 6 1.1.2.5. Tạm nhập tái xuất 6 1.1.2.6. Xuất khẩu tại chỗ 7 1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 7 1.1.3.1. Xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu 8 1.1.3.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 8 1.1.3.3. Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tạo thu nhập, tăng mức sống và thoả mãn nhu cầu của người dân 9 1.1.3.4. Xuất khẩu là điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại 9 1.2. Vị trí, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam 9 1.2.1. Vị trí và vai trò của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 9 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 11 1.2.2.1. Môi trường tự nhiên và sự hình thành phát triển các vùng nuôi trồng, sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu 11 1.2.2.2. Chất lượng và đa dạng hoá mặt hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu 12 1.2.2.4. Thị trường tiêu thụ và môi trường cạnh tranh 13 1.2.2.5. Giá cả 14 1.2.2.6. Chính sách của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu thuỷ sản 15 1.3. Kinh nghiệm về xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 16 1.3.1. Thái Lan 16 1.3.2. Trung Quốc 17 Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ thời gian qua 19 2.1. Khái quát thực trạng thương mại hàng thuỷ sản của thế giới 19 2.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu 19 2.1.2. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu 21 2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 24 2.2.1. Khái quát sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam 24 2.2.2. Kết quả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nói chung 25 2.2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu 25 2.2.2.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam 26 2.2.2.3. Thị trường xuất khẩu 27 2.2.2.4. Giá cả xuất khẩu 30 2.2.3. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 31 2.2.3.1. Khái quát về thị trường thuỷ sản Mỹ 31 2.2.3.2. Kết quả hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ thời gian qua 37 2.2.3.3. Tình hình cạnh tranh của ngành hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ 43 2.2.3.4. Hình thức xuất khẩu 44 2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 45 2.3.1. Những thuận lợi và thành công đã đạt được 45 2.3.2. Những khó khăn, hạn chế cần giải quyết 47 Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ 50 3.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới và thị trường Mỹ về ngành hàng thuỷ sản 50 3.1.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới 50 3.1.1.1. Cung thuỷ sản 50 3.1.1.2. Cầu thuỷ sản 50 3.1.1.3. Dự báo giá hàng thuỷ sản 51 3.1.2. Dự báo thị trường thuỷ sản Mỹ và khả năng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 52 3.2. Định hướng chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ 54 3.2.1. Yêu cầu của chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ 54 3.2.2. Định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ 55 3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ 57 3.3.1. Những giải pháp vĩ mô 57 3.3.1.1. Thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO và tăng cường hợp tác song phương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực thương mại hàng thuỷ sản 57 3.3.1.2. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể nuôi trồng thuỷ sản 57 3.3.1.3. Đầu tư cho phát triển vùng, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến xuất khẩu 58 3.3.1.4. Vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng, khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ 59 3.3.1.5. Chính sách về công nghệ và chuyển giao công nghệ cho ngành thuỷ sản 59 3.3.1.6. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến bán hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ 60 3.3.1.7. Thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá 60 3.3.1.8. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản 61 3.3.2. Những giải pháp vĩ mô 62 3.3.2.1. Chiến lược kinh doanh, tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp 62 3.3.2.2. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ 62 3.3.2.3. Đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ 63 3.3.2.4. Xây dựng và phát triển thương hiệu 63 3.3.2.5. Thực hiện liên doanh, liên kết với các công ty quốc tế, công ty Mỹ, kiều bào Việt Nam trong xây dựng hệ thống bán lẻ tại thị trường Mỹ 64 3.3.2.6. Sử dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán và tiếp cận thị trường Mỹ 65 3.3.2.7. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản 65 Kết luận 67 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4615.doc
Tài liệu liên quan