Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hai Bà Trưng

Lời mở đầu Chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới với rất nhiều cơ hội và thách thức, trên con đường chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước thì nhu cầu về vốn để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Để đạt được điều này thì phải có một tổ chức có khả năng đứng ra thực hiện chức năng tiếp nhận và phân phối các nguồn vốn trong xã hội-đó là các Ngân hàng. Cùng với sự phát triển củ

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a nền kinh tế , ngành Ngân hàng đã đóng góp không nhỏ những thành tựu của mình vào thành tựu chung của đất nước. Với vai trò là một trung gian tài chính, cung cấp vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư, góp phần tăng trưởng kinh tế , hệ thống Ngân hàng đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình một cách có cơ sở khoa học . Nhất là từ khi hệ thông Ngân hàng hoạt động theo cơ chế Ngân hàng hai cấp thì vai trò của Ngân hàng ngày càng được thể hiện theo hướng tích cực . Một trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh được thành lập đó là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Trong quá trình hoạt động , Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam đã phát triển và có sự đóng góp của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng - trực thuộc Ngân hàng và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Để tiếp tục vươn lên mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng thì việc tìm ra nguyên nhân, tồn tại để từ đó mà đưa ra được những giải pháp và hướng đi cho chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng là hết sức cần thiết đó là việc nâng cao chất lượng tín dụng, tăng mức đầu tư, giảm dơ nợ qúa hạn, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên và tăng tích luỹ cho Ngân hàng là việc làm hết sức cần thiết. Từ nhận thức trên, với những kiến thức đã lĩnh hội được trong quá trình học tập tại trường, qua các tài liệu tham khảo, kết hợp với thời gian 2 tháng thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng, em quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng”, làm chuyên đề thực tập. Do kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, thời gian hạn chế, cho nên bài viết không tránh khỏi những sai xót . Vì vậy , em kính mong có được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo trong học viện và các cô chú cán bộ công nhân viên trong cơ quan- nơi em thực tập để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! chương i tín dụng và tầm quan trọng của tín dụng trong các Ngân hàng thương mại. I/ Tín dụng và tầm quan trọng của tín dụngngân hàng 1/ Tín dụng là gì ? Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này. Tín dụng( credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo ( tin tưởng, tín nhiệm ). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: - Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người này cho vay sang người đi vay. Trong một quan hệ cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phỉa thanh toán vốn gốc và lãi. Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. - Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ: Tín dụng ngắn hạn (Short-term Credit) đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn (Short term loans); hoặc như từ tín dụng tuần hoàn ( revoking credit ) là một loại cho vay cụ thể. - Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuỷên giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ là cho vay bằng tiền. Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 70 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc-thiết bị). Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên có sở đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần chú ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ “credo” hoặc từ “tín” để đặt tên cho “credit” hoặc tín dụng không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi xuất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chụi ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở hoàn trả bô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 2/ Vai trò của tín dụng ngân hàng Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, đưa lại sự phồn vinh cho đất nước. Đạt được những kết quả này có một nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, đó là hoạt động tín dụng ngân hàng. Khi nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường mở, có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Vai trò của tín dụng ngân hàng ngày càng được nâng cao và phát huy mạnh mẽ. 2.1-Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân hàng với chức năng là trung gian tài chính đã thu hút mọi nguồn tiền phân tán nhỏ lẻ trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hòa quan hệ cung cầu tiền tệ trong xã hội, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu về vốn đầu tư phát triển của khách hàng. Để thực hiện quá trình kinh doanh của mình, ngoài vốn tự có, ngân hàng còn phải tạo vốn dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư trong xã hội để cho vay phục vụ sản xuất, giúp cho các doanh nghiệp bù đắp được nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tái sản xuất mở rộng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu này thì các ngân hàng cần phải có vốn và cho vay vốn nhu thế nào trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở để có hiệu quả, có lợi nhuận, có thể tồn tại và phát triển được, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có một chiến lược kinh doanh riêng, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn với chi phí thấp nhất để kinh doanh có hiệu quả nhất. Như vậy, có thể nói rằng hoạt động tín dụng ngân hàng đã điều tiết được giá cả, làm suy yếu nguy cơ tích trữ tiền tệ trong dân cư, loại trừ tệ nạn xã hội như cho vay nặng lãi, góp phần vào quá trình vận động liên tục của quá trình tăng trưởng nền kinh tế. 2.2-Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, mở rộng đẩy mạnh đầu tư phát triển Trong thực tế, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn nhất định ban đầu. Nếu muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn, nhất là trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Song song với những đòi hỏi này là đòi hỏi về vốn. Tín dụng ngân hàng sẽ là người bạn đồng hành giúp cho các doanh nghiệp thỏa mãn về vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất. Như vậy thì nền kinh tế có khả năng tái sản xuất mở rộng nhanh hơn. Mặt khác, tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh doanh sẽ dễ dàng chuyển từ ngành có lợi nhuận thấp sang các ngành có lợi nhuận cao, hình thành nên một cơ cấu hợp lý. ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH, mở cửa thông thương với nhiều nước. Do vậy, nhu cầu đổi mới về công nghệ, thiết bị để phù hợp với sự phát triển của xã hội càng cao thì nhu cầu về vốn lại càng lớn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải làm tốt công tác huy động vốn và xây dựng được những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế, có như vậy mới đẩy mạnh đầu tư phát triển. 2.3-Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức điều hòa, lưu thông tiền tệ Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông mà không có sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, ngân hàng với chức năng trung gian tài chính đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, nghĩa là đã rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết, góp phần giảm lạm phát. Với chức năng tạo tiền, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy, Ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ, chính sách tiền tệ để thực hiện việc điều tiết hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng … 2.4-Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn Hoạt động tín dụng ngân hàng mang lại lợi nhuận cao, song cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Một trong những biện pháp giảm thiểu rủi ro là ngân hàng chỉ thực hiện cấp tín dụng vào một số đơn vị làm ăn có hiệu quả và có triển vọng trong sản xuất kinh doanh. Đối với nước ta hiện nay, một bộ phận lớn dân cư sống băng nghề nông, vì vậy, trong giai đoạn trước mắt, hoạt động tín dụng cần tập trung vào phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội, đồng thời tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bởi vậy, cần phải tập trung vào việc phát triển các ngành mũi nhọn và tín dụng ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển thông qua việc sử dụng lãi suất ưu đãi, cấp tín dụng cho các dự án, các chương trình trọng điểm để khai thác triệt để nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn có cơ hội phát triển nhanh. 2.5-Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu quốc tế Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở, phát triển kinh tế không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà phải hòa nhập vào sự phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Việc đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến giữa các nước. Chính tín dụng ngân hàng sẽ là phương tiện nối liền thúc đẩy quan hệ kinh tế các nước với nhau phát triển mạnh thêm. Không một doanh nghiệp nào, một nền kinh tế nào hoạt động mà lại không cần đến vốn, và vì vậy, tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ đắc lực cho các nhà đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Sự phát triển của hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tài chính quốc tế và các ngân hàng nước ngoài với Chính phủ Việt Nam đã góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, hòa nhập với các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới. 2.6- Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát đối với nền kinh tế Ngân hàng thương mại với chức năng là trung gian tín dụng - tiền tệ - thanh toán, có thể kiểm soát được mọi hoạt động kinh tế thông qua khả năng huy động vốn tiền gửi nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và các quan hệ giao dịch thanh toán của các tổ chức kinh tế qua ngân hàng. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể đánh giá được tốc độ phát triển của nền kinh tế cao hay thấp, ngành kinh tế nào có xu hướng phát triển và ngành kinh tế nào phải co hẹp sản xuất, từ đó, ngân hàng có được những chiến lược và quyết sách hợp lý trong việc cơ cấu lại vốn đầu tư khi có sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. Tóm lại, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà chất lượng và hiệu quả tín dụng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay, do đó, việc không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 3/ Phân loại tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Mặt khác, để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì việc cấp tín dụng phải gắn liền với đối tượng vay, để tạo điều kiện cho sự vận động của vốn phù hợp với sự vận động của vật tư hàng hóa thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng là huy động từ nền kinh tế, từ vốn tạm thời nhàn rỗi của cá nhân và của các doanh nghiệp được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Các tổ chức kinh tế và các cá nhân khác nhau. Vì vậy, nguồn vốn huy động của ngân hàng cũng bao gồm nhiều loại: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn ngắn hạn và tiền gửi có kỳ hạn dài hạn … Do đó, phải tiến hành phân loại tín dụng để thực hiện cân đối giữa vốn và sử dụng vốn trong ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình quản lý điều hành ngày càng có hiệu quả. Trong quá trình phân loại có thể sử dụng nhiều chiêu thức để phân loại tín dụng, song thực tế các nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây: 3.1-Thời hạn tín dụng Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 3 loại: - Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm (một số nước quy định dưới hai năm). Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. - Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay ...) cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. 3.2-Đối tượng tín dụng Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại: - Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu. - Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. 3.3-Mục đích sử dụng vốn Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại: - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa bền chắc như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt … 3.4-Mức độ đảm bảo Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành các loại: - Tín dụng có đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. - Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay. 3.5-Phương pháp cho vay Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành các loại: - Tín dụng gián tiếp: Là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính như ngân hàng thương mại hoặc một tổ chức tín dụng khác. - Tín dụng trực tiếp: Là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc hàng hóa) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hóa) đó, không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả II/ Chất lượng của tín dụng ngân hàng 1/ Khái niệm chất lượng tín dụng - Chất lượng tín dụng ngân hàng chính là biểu hiện chất lượng của mối quan hệ chuyển giao vốn, giữa người sở hữu (mà ở đây là các ngân hàng thương mại) với người sử dụng vốn (là các pháp nhân, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp...). Trong mối quan hệ này, người sử dụng vốn phải thực hiện đúng cam kết về tính thời hạn và giá trị hoàn trả của khoản vốn chuyển giao. - Trong phạm vi xã hội và toàn bộ nền kinh tế , chất lượng tín dụng là biểu hiện trách nhiệm thực hiện đầy đủ các cam kết đối với cả hai bên (người cho vay và người sử dụng tiền vay) đã được quy định trong hợp đồng tín dụng sau khi hai bên đã ký kết. Hiểu một cách đầy đủ, chất lượng tín dụng ngân hàng được thể hiện: - Đối với ngân hàng cho vay, sau khi yêu cầu người đi vay cung cấp đầy đủ các tái liệu chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ, tính hiệu quả của dự án xin vay và các điều kiện vay vốn khác theo quy định của pháp luật và ngân hàng cho vay như năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, các điều kiện đảm bảo tiền vay … sẽ tiến hành thẩm định dự án vay vốn, và nếu quyết định cho vay phải đáp ứng kịp thời, thuận tiện, chính xác, đầy đủ và an toàn nhu cầu vay vốn của khách hàng; tiến hành thực hiện các bước kiểm tra, giám sát trong quá trình sử dụng vốn nhằm tạo điều kiện để người vay thực hiện thành công và có hiệu quả dự án vay vốn. - Đối với người đi vay, sau khi đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện số vốn vay theo nhu cầu, phải thực hiện sử dụng vốn đúng mục đích và các điều kiện sử dụng vốn khác theo cam kết; tìm mọi biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu của môi trường khách quan nhằm thu hút được hiệu quả kinh doanh và xã hội lớn nhất.; tạo điều kiện để thực hiện đúng các cam kết về tính thời hạn và giá trị hoàn trả của khoản vốn vay. - Hiệu quả của dự án vừa bảo toàn và mở rộng quy mô vốn cho các ngân hàng hoạt động và phát triển, vừa tạo lợi ích kinh tế để người vay mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội để phát triển nền kinh tế và đảm bảo các điều kiện về sinh môi trường theo quy định. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng, đối với hoạt động doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. 2/ Vai trò của chất lượng tín dụng * Đối với hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế - Tăng nhanh vòng quay vốn, thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. - Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa và luân chuyển tiền tệ, thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế. - Góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế kinh doanh của các doanh nghiệp. - Tạo điều kiện để thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài. * Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động, tăng khả năng tài chính và năng lực cạnh tranh trên thương trường, nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng thương mại, đối với thị trường trong nước và quốc tế. Chất lượng tín dụng thấp sẽ có kết quả ảnh hưởng ngược lại. 3/ Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Để đánh giá chất lượng tín dụng thì có rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau, song thường sử dụng một số chỉ tiêu chính sau đây: * Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này cho biết nguồn vốn ngân hàng huy động được trong nền kinh tế, đánh giá mức độ tín nhiệm của người gửi với ngân hàng đến mức độ nào, đồng thời cũng đánh giá khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng. * Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ra sao, chỉ tiêu này cao chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đa dạng và phong phú. * Hiệu suất sử dụng vốn vay Tổng dư nợ Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này phản ánh khả năng huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hay không của ngân hàng. * Tỷ lệ nợ quá hạn Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu này đo lường chất lượng các khoản vay, khi tỷ lệ này vượt quá giới hạn cho phép thì nó phản ánh hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu kém. * Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Chỉ tiêu lợi nhuận = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng, chỉ tiêu này lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng tốt, phản ánh cứ một đồng đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. * Thời hạn trả nợ V T= P Chỉ tiêu này cho biết giữa vốn bỏ ra và lợi nhuận thu được thì sau thời gian là bao lâu thu hồi được hết vốn đầu tư, chỉ tiêu này thấp phản ánh thời gian thu hồi nhanh. Việc xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng, nếu xác định đúng phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của đối tượng vay thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thực hiện tốt quá trình sản xuất kinh doanh của mình, đồng thời khi kết thúcchu trình sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nguồn vốn để trả nợ ngân hàng. Ngược lại, nếu xác định thời hạn cho vay không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của đối tượng vay, có nghĩa là có thể ngắn hơn hoặc kéo dài thời gian cho vay thì sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc thu hồi nợ đến hạn kịp thời bởi vị khách hàng sẽ không có nguồn trả nợ khi thời hạn cho vay ngắn hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay hoặc dẫn đến rủi ro về vốn khi ngân hàng ấn định thời hạn cho vay dài hơn (họ sẽ sử dụng vốn vay sai mục đích), cho nên việc xác định thời hạn trả nợ đúng hay không đúng cũng phản ánh chất lượng tín dụng của các ngân hàng. * Vòng quay vốn tín dụng Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này cho biết, trong một thời gian nhất định vốn tín dụng quay được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt vì nó phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh. Việc đánh giá chất lượng tín dụng thực chất là quá trình kiểm tra tính toán các chỉ tiêu trên để so sánh, đối chiếu với các định mức và chuẩn mực cho phép. Nếu vòng quay vốn tín dụng lớn; tỷ lệ và số tuyệt đối về nợ quá hạn thấp; cơ cấu đầu tư = 70% ngắn hạn + 30% trung hạn; hệ số an toàn tối thiểu ≥ 8% .. thể hiện chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại là tốt và ngược lại. Nhưng trong số các chỉ số và chỉ tiêu đó thì chỉ tiêu về nợ quá hạn (số nợ quá hạn so với tổng dư nợ) là quan trọng hơn cả, nó cũng biểu hiện kết quả cuối cùng về chất lượng đầu tư vốn tín dụng. 4/ Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Để hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả thì một trong những yếu tố quan trọng mà các nhà lãnh đạo ngân hàng hiện nay đang rất quan tâm chính là chất lượng tín dụng. Tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu, song phần lớn rủi ro và mất an toàn đều phát sinh từ đây, do đó, điều kiện và biện pháp hàng đầu của ngân hàng là đảm bảo cho ngân hàng ổn định, phát triển hoạt động tín dụng lành mạnh, an toàn và có hiệu quả. Để quản lý và đưa ra được những biện pháp phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng thì phải nắm bắt được và đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, nhưng cơ bản thì có một số nhân tố sau: 4.1-Nhân tố khách quan * Môi trường kinh tế Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển, bởi vì khi đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành bình thường, không bị ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng tài chính. Nhu cầu đầu tư phát triển cao dẫn đến khả năng mở rộng cho vay và thu nợ đến hạn của các ngân hàng được thuận lợi. Trong trường hợp này, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc quản lý chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Hiện nay, với chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực đã đem lại cho nước ta có nhiều thuận lợi, trong đó có sự phát triển về lĩnh vực kinh tế. Song việc đầu tư nước ngoài vào trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ, gây ra lạm phát ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng. Mặt khác, chu kỳ phát triển kinh tế cũng tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất về quy mô và chủng loại, vì vậy, nhu cầu về vốn lớn, rủi ro thị trường cao, nếu công tác quản lý tín dụng ở các ngân hàng thương mại không tốt sẽ dẫn đến mở tín dụng quá giới hạn cho phép và xảy ra tốc độ lạm phát cao, các ngân hàng thương mại sẽ bị chịu thiệt thòi lớn do sự mất giá của đồng tiền, chất lượng tín dụng bị giảm sút. Ngược lại, khi nền kinh tế suy giảm, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ngừng trệ, nhu cầu đầu tư giảm, vốn tín dụng bị ứ đọng, khả năng thu hồi các khoản vốn vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn và như vậy, chất lượng tín dụng không được đảm bảo. Ngoài ra, chính sách kinh tế của nhà nước điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó nhằm đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cũng cần phải nói đến, đó là lãi suất tiền vay. Nếu mức lãi suất cao sẽ làm giảm thu nhập của các doanh nghiệp, làm cho khả năng phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị hạn chế. Lúc này, tín dụng không còn là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng theo. Với phương châm đi vay để cho vay, các ngân hàng cần phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp lý để vừa có thể thu hút được vốn nhàn rỗi trong xã hội nhưng lại không bị ứ đọng vốn mà vẫn bảo toàn được vốn, đem lại lợi nhuận cao và thắng được trong cạnh tranh. * Môi trường pháp lý Hoạt động của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng, muốn kinh doanh có hiệu quả, tồn tại và phát triển được cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất hỗ trợ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, giúp cho mọi hoạt động kinh doanh được thuận lợi và có hiệu quả. Trong điều kiện nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ đã phần nào gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng. * Nhân tố xã hội Tín dụng là một quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, nó được cấu thành từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: nhu cầu của khách hàng - khả năng của ngân hàng - sự tín nhiệm lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, chất lượng tín dụng cũng được phụ thuộc vào 3 yếu tố trên, trong đó sự tin tưởng là cầu nối. Ngân hàng có uy tín cao thì khả năng thu hút vốn lớn, và ngược lại khách hàng mà có tín nhiệm với ngân hàng thì sẽ được ưu đãi về lãi suất cho vay, thủ tục vay cũng đơn giản hơn, vay vốn dễ dàng hơn. Như vậy, có thể nói, sự tín nhiệm có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Về phía khách hàng, là những tổ chức kinh tế, các hộ sản xuất với tư cách là các nhà sản xuất kinh doanh có nhu cầu về vốn đầu tư, họ mong muốn được từ ngân hàng một quan hệ giao dịch thuận lợi, nhanh chóng. Nếu sự tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng cao (biểu hiện ở tư cách đạo đức tốt, tài chính lành mạnh, quan hệ tín dụng sòng phẳng …) thì những khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho họ sẽ được kịp thời về thời gian, chất lượng tín dụng cũng được đảm bảo. Về phía ngân hàng, là một đơn vị kinh tế với tư cách là người cung cấp vốn cho các nhà sản xuất, thì trong trường hợp lòng tin bị lợi dụng để lừa đảo hoặc do dân trí, trình độ hiểu biết chưa cao, làm ăn kém hiệu quả dẫn đến không trả nợ được ngân hàng, và như vậy, lòng tin (sự tín nhiệm) đã tác động xấu đến chất lượng tín dụng. * Yếu tố tự nhiên Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh … Khi xảy ra những điều này thường xuyên cũng sẽ tác động gây hậu quả xấu đến ngân hàng và khách hàng, chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng theo. 4.2-Nhân tố chủ quan * Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tín dụng, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại thực hiện được các mục tiêu đã hoạch định nhưng vẫn đảm bảo được an toàn và có hiệu quả. Một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng mở rộng được cho vay, đảm bảo được khả năng sinh lời trên cơ sở tuân thủ pháp luật, và lại phân tán được rủi ro. Bất cứ ngân hàng thương._. mại nào muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì đều phải có những chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng sẽ tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại. * Công tác tổ chức của ngân hàng Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hóa và sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong từng ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung, tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi quản lý sát sao các mặt nghiệp vụ và kịp thời phát hiện giải quyết các vướng mắc về nghiệp vụ khi cần thiết. * Chất lượng nhân sự Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung. Nền kinh tế phát triển, hoạt động của các ngân hàng thương mại càng đa dạng, phong phú về các sản phẩm dịch vụ đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng được các máy móc, công nghệ hiện đại. Do vậy, việc tuyển chọn nhân sự cần được kiểm tra, sát hạch kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có tư cách đạo đức tốt, trách nhiệm cao, chuyên môn vững mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc ngăn ngừa những sai phạm trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng. Trình độ cán bộ quản lý, điều hành cán bộ tín dụng yếu kém sẽ ảnh hưởng không tốt đến chất lượng thẩm định, không có biện pháp xử lý kịp thời những tình huống bất lợi xảy ra. * Quy trình tín dụng Thực chất đây là những công việc phải làm theo một trình tự nhất định trong quá trình cho vay, thu nợ kể từ khi nhận được đơn xin vay của khách hàng. Nó bao gồm các khâu thẩm định dự án, hướng dẫn lập hồ sơ vay, xét duyệt cho vay, kiểm tra sau và trong khi vay, thu nợ đến hạn … Thẩm định dự án là giai đoạn khởi đầu có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm đinh về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân, đánh giá khả năng tính toán sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất hoặc khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp, tình hình tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư, giá trị tài sản đảm bảo tiền vay. Trên cơ sở thẩm định kỹ lưỡng đầy đủ các yếu tố trên, ngân hàng sẽ quyết định cho vay hay không, nếu cho vay thì mức cho vay là bao nhiêu, điều này phụ thuộc vào mức vốn của ngân hàng có tại thời điểm vay và giá trị tài sản đảm bảo. Khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng cho khách hàng là lúc cán bộ tín dụng phải theo dõi, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng, để qua đó, ngân hàng phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có biểu hiện không lành mạnh, sử dụng vốn vay sai mục đích. Thu nợ là khâu cuối cùng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay cũng như chất lượng tín dụng. Nếu một khoản vay của ngân hàng không thu được nợ đến hạn kịp thời, đó là dấu hiệu phát triển không bình thường của hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào việc có chấp hành đúng quy trình tín dụng hay không, và việc thực hiện các khâu trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào. Một khoản tín dụng không thực hiện đúng quy trình sẽ gây hậu quả không tốt đến chất lượng tín dụng. * Thông tin tín dụng Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay hay không của ngân hàng. Xét trên tầm vĩ mô thì thông tin tín dụng là cơ sở, là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của ngân hàng. Nó đánh giá chất lượng tín dụng và đưa ra các dự báo về khả năng phát triển kinh tế. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao, hoạt động tín dụng mà không nắm bắt được thông tin thì ngân hàng khó có thể lường hết được hậu quả nghiêm trọng đối với hoạt động tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình. * Kiểm tra, kiểm soát nội bộ Thông qua công tác này, các nhà lãnh đạo ngân hàng nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những khó khăn, những thuận lợi để từ đó tự điều chỉnh, kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các thể lệ, chế độ, các quy trình nghiệp vụ cho vay … Công tác này được các ngân hàng thương mại hết sức quan tâm và coi trọng, xem đây là việc làm thường xuyên, từ đó phát hiện ra những khe hở trong quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và bổ sung kịp thời để xóa bỏ những khe hở đó. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát cả về số lượng, chất lượng mới đủ điều kiện để thực hiện tốt các hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng với phương châm “tự kiểm tra, tự sửa sai là tự cứu lấy mình”, cho nên thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ góp phần làm tăng chất lượng và hiệu quả các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. * Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng Nền kinh tế phát triển đòi hỏi ngành ngân hàng phải được trang bị đầy đủ các công nghệ thiết bị hiện đại, phù hợp với nhu cầu của xã hội và phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về các mặt dịch vụ với chi phí cả hai bên đều chấp nhận được. Mặt khác, các trang thiết bị này cũng giúp cho các nhà quản trị ngân hàng kịp thời nắm bắt được mọi diễn biến của thị trường, các dự báo về khả năng phát triển kinh tế và mọi hoạt động tín dụng để đưa ra được những chiến lược, những quyết sách phù hợp với tình hình thực tế, nhằm thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Như vậy, trang thiết bị và không ngừng đổi mới công nghệ cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng CHương II: Chất lượng tín dụng tại ngân hàng NNO&PTNT hai bà trưng Hà Nội. I. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng 1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng là một trong những lĩnh vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam phát triển cùng với sự nghiêp CNH-HĐH. Trước nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế nhu cầu sử dụng vốn và các dịch vụ của ngân hàng càng tăng đồng thời nhằm mục tiêu mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nâng cao hơn nữa uy tín và hiệu quả kinh doanh của mình NHNo&PTNT đã không ngừng mở rộng các chi nhánh mới. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội ra đời cùng với quyết định số 69- QĐNHNN tháng 8 - 1988 chuyển hệ thống Ngân hàng Việt nam từ 1 cấp thành 2 cấp và thành lập 4 NHTM quốc doanh trên cơ sở các phòng tín dụng trước đây ở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp Hà nội là một Ngân hàng vừa làm nhiệm vụ quản lý vừa làm nhiệm vụ kinh doanh. Từ tháng 8 - 1988 Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội làm nhiệm vụ quản lý về nghiệp vụ Ngân hàng, với 12 Ngân hàng cấp huyện (tức là Ngân hàng cấp 3) của thành phố Hà Nội lúc đó là Ngân hàng Nông nghiệp Ba Vì, Phúc Thọ, Sơn Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh. Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm và Thanh Trì. Đồng thời tổ chức hoạt động kinh doanh tại trụ sở số 2 - Lạc Trung - Hà nội. Sau kỳ hợp Quốc hội khoá IX năm 1991 đã tách 7 huyện ngoại thành Hà Nội về Tỉnh Hà Tây đó là các huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Sơn Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và huyện Mê Linh chuyển về Tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy lúc này hoạt động quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội đã bị thu hẹp lại, tập trung nhiều vào các địa bàn nội thành . Trên cơ sở nhiệm vụ quản lý NHNo&PTNT Hà Nội nhanh chóng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trên các quận nội thành bằng việc mở ra 6 chi nhánh cấp 4 là: Chợ Hôm, Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, Giảng Võ, Tây Hồ, Cầu Giấy. Các chi nhánh Ngân Hàng cấp 4 hoạt động như một phòng giao dịch của NHNo&PTNT Hà Nội . Chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Hôm là 1 trong 6 chi nhánh của NHNo&PTNT Hà Nội. Được thành lập theo quyết định 59/ QĐ ngày 27/7/1994 của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Hôm được tách ra từ NHNo&PTNT Hà Nội, khi mới ra đời chi nhánh là một Ngân Hàng cấp 4 sau 3 năm đi vào hoạt động chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Hôm được nâng cấp thành Ngân Hàng cấp 3 với tên gọi là Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng. Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng là một đại diện theo ủy quyền của NHNo&PTNT Hà Nội, là một đơn vị hạch toán phụ thuộc có con dấu, có bảng cân đối tài sản, hoạt động theo pháp lệnh Ngân Hàng, HTX tín dụng, điều lệ và quy chế tổ chức hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam. Từ ngày 6/1/2003 trụ sở của chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng được đặt tại 60 Ngô Thì Nhậm – Hai Bà Trưng – Hà Nội.Và hiện nay đã được nâng cấp thành chi nhánh cấp II với 4 phòng giao dịch đặt tại Trương Định, Lò Đúc, Lê Thanh Nghị, Đầm Trấu. Là một trong những chi nhánh lớn của NHNo&PTNT Hà Nội trong quá trình hoạt động NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng được sự chỉ đạo trực tiếp của NHNo&PTNT Hà Nội, được sự quan tâm của UBND quận Hai Bà Trưng, sự hỗ trợ tích cực của các ban ngành Hà Nội và quận Hai Bà Trưng về mọi mặt, ở mọi thành phần kinh tế chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng đã không ngừng phát triển về mọi mặt như: hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán và ngân quỹ tài chính, hoạt động huy động vốn, hoạt động kinh doanh ngoại tệ…….. 2. Cơ cấu tổ chức - bộ máy cán bộ Phòng giám đốc Phó giám đốc phụ trách kinh doanh Phó giám đốc phụ trách hành chính Phòng kế toán ngân quỹ Phòng kiểm soát Phòng kế hoạch Phòng hành chính Phòng kinh doanh Phòng giao dịch 12 Phòng giao dịch 14 Phòng giao dịch 40 Phòng giao dịch 52 Cho vay doanh nghiệp Cho vay cầm đồ, các giấy tờ có giá Thanh toán quốc tế - Ban giám đốc NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng: Là người trực tiếp ra quyết định thi hành, quản lý hoạt động của các phòng ban trong chi nhánh. - Nghiệp vụ tín dụng : Thực hiện nhiệm vụ cho vay và tổng hợp hợp đồng kinh doanh của chi nhánh. Nghiên cứu đề xuất chiến lược kinh doanh an toàn và hiệu quả từ đó tổng hợp các thông tin, cung cấp các thông tin giúp ban giám đốc đưa ra các quyết định kịp thời và đúng đắn. - Nghiệp vụ kế toán :Tổ chức hạch toán theo dõi các quỹ vốn tập trung toàn chi nhánh, thực hiện hạch toán kế toán, các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác của chi nhánh. Cuối ngày, tháng, quý, năm tiến hành hạch toán quyết toán và các báo cáo thực hiện các khoản nộp Ngân sách Nhà nước. - Nghiệp kiểm soát: Kiểm tra công tác điều hành của các phòng giao dịch, giám sát việc thực hiện quy định của chi nhánh. - Phòng hành chính –nhân sự: Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ hành chính quản trị thông tin tuyên truyền, quảng cáo thông tin tiếp thị theo sự chỉ đạo của ban giám đốc, giúp ban giám đốc đưa ra quyết định kịp thời và đúng đắn. - Các phòng giao dịch: Nhiệm vụ chính của các phòng giao dịch là huy động vốn. 3. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng 3.1. Hoạt động huy động vốn Với phương châm là “ đi vay để cho vay” chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng hết sức coi trọng công tác huy động vốn và coi đây là một trong những công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả trong hoạt động của mình. Nhìn nhận từ quan điểm đó, ngân hàng luôn chú trọng đến công tác huy động vốn tại chỗ. Ngân hàng luôn coi trọng chiến lược khách hàng trong huy động vốn và đưa ra mọi biện pháp nhằm khai thác nguồn vốn trên địa bàn như: vận động khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, luôn lắng nghe ý kiến đóng góp từ phía khách hàng… Nhờ làm tốt công tác huy động vốn nên trong những năm qua ngân hàng luôn đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho hoạt động của mình. Nguồn vốn huy động của ngân hàng không ngừng tăng lên qua các năm. Điều này được thể hiện ở bảng 1 Bảng 1: Kết quả huy động vốn. Đơn vị: triệu đồng Năm Nguồn vốn huy động Tăng giảm Số tiền % 2005 490.112 2006 620.372 130.260 26,58 2007 730.495 110.123 17,75 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng ) Qua bảng số liêu trên ta thấy nguồn vốn hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng liên tục tăng trưởng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước, cụ thể là: Năm 2006 nguồn huy động đạt 620.372 triệu đồng tăng so với năm 2005 là 130.260 triệu đồng hay tăng 26,58% Năm 2007 nguồn huy động đạt 730.495 triệu đồng tăng so với năm 2006 là 110.123 triệu đồng hay tăng 17,75% Ta nhận thấy tốc độ tăng của nguồn vốn huy động có giảm đi . Sự giảm này là do năm 2007 thị trường chứng khoán khoán Việt Nam phát triển mạnh công chúng thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất họ đã tham gia chơi chứng khoán. Mặt khác do năm 2007 giá vàng tăng cao, tỷ lệ lạm phát tăng cao điều này ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn huy động của ngân hàng. 3.2. Hoạt động sử dụng vốn Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, ở NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng công tác sử dụng vốn cũng rất được coi trọng vì đây là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hơn nữa, nếu làm tốt công tác sử dụng vốn có thể tác động trở lại thúc đẩy công tác huy động vốn. Do bám sát định hướng phát triển kinh tế của đia bàn, định hướng kinh doanh của ngành NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng đã đưa ra được các chính sách hợp lý nhằm tăng trưởng dư nợ, đáp ứng được nhu cầu vốn trên địa bàn.Trong những năm qua dư nợ của ngân hàng tăng trưởng, thể hiện ở bảng 2 dưới đây Bảng 2: Dư nợ theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Cho vay DNNN 240.934 84,5 295.080 73,3 435.244 83,5 2. Cho vay DNNQD 15.112 5,3 19.323 4,8 45.349 8,7 3. Cho vay hộ sản xuất 7.414 2,6 5.636 1,4 13.552 2,6 4. Cho vay khác 21.668 7,6 82.527 20,5 27.105 5,2 Tổng cộng 285.128 100 402.546 100 521.250 100 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Nhìn vào bảng trên ta thấy tổng dư nợ của chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng có mức tăng trưởng ổn định và khá cao trong những năm qua. Nếu như trong năm 2005 doanh số cho vay chỉ đạt 285.128 triệu đồng thì sang năm 2006 con số này đã có bước nhảy vọt, đạt 402.546 triệu đồng, tăng 117.418 triệu đồng hay 41,18% so với năm 2005. Đến năm 2007 là 521.250 tăng 118.704 triệu đồng hay 29,5% so với năm 2006. Sở dĩ chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua là do Chính Phủ đã có chính sách đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy mà nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Ngân hàng nhà nước cũng tạo điều kiện tối đa cho các ngân hàng thành viên có thế mở rộng tín dụng. Chính vì các nguyên nhân trên mà trong ba năm qua hệ thống ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng có những bước tăng trưởng mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng. II/ Thực trạng hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng 1/ Tình hình huy động vốn của ngân hàng trong thời gian qua Đối với ngân hàng thương mại nguồn vốn huy động là nguồn vốn quan trọng và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Việc các ngân hàng thương mại đảm bảo huy động đủ vốn cho công tác sử dụng vốn vừa đảm bảo thu hút được mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước vừa đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng thương mại được ổn định và đạt hiệu quả cao. Không giống các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, hoạt động của các ngân hàng thương mại dựa chủ yếu vào nguồn vốn huy động, nguồn vốn tự có chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và chủ yếu được đầu tư vào cơ sở vật chất, tạo uy tín đối với khách hàng. Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn sử dụng một số nguồn vốn khác như đi vay, vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư. Nhưng những nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Nhận thức được điều đó NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng đã tập trung mọi nỗ lực và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn chi nhánh nên vốn huy động đã tăng cả về số lượng và chất lượng. Các hình thức huy động chủ yếu được áp dụng tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua bao gồm: Nhận tiền gửi tiết kiệm, Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và phát hành giấy tờ có giá. Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền % 1. Tiền gửi tiết kiệm 295.436 60,28 361.500 58,27 375.210 51,36 2. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế,cá nhân 98.801 20,16 147.994 23,86 230.285 31,52 3. Phát hành giấy tờ có giá 95.875 19,56 110.878 17,87 125.000 17,12 Tổng cộng 490.112 100 620.372 100 730.495 100 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Qua biểu trên cho thấy cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm; tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân; phát hành giấy tờ có giá. Trong đó tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Đây là nguồn vốn có tính ổn định cao tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình sử dụng. Tiền gửi của tổ chức kinh tế cá nhân luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động. Vì đây là nguồn vốn huy động có chi phí rất thấp nhất, tạo điều kiện cho ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tăng được tỷ trọng nguồn này nghĩa là ngân hàng đã thắng trong kinh doanh không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn trong công tác dịch vụ ngân hàng. Nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong các nguồn vốn trên. Mặc dù đây là nguồn vốn có chi phí huy động cao hơn các nguồn vốn khác nhưng nó cũng chính là nguồn vốn mà ngân hàng có thể chủ động huy động cả về số lượng, lãi suất và thời điểm huy động. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này cho đầu tư trung dài hạn một lĩnh vực đang mở ra rất nhiều tiềm năng cho ngân hàng. 2/ Công tác sử dụng vốn tại ngân hàng NNo & PTNT Hai Bà Trưng. Huy động vốn và sử dụng vốn là 2 mặt của quá trình hoạt động tín dụng. Một NH hoạt động có hiệu quả là phải giải quyết tốt được 2 mặt này. Chúng ta đều biết rằng mục đích hoạt động chủ yếu của NH là “đi vay để cho vay”, điều này có nghĩa là NH sẽ huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau và đem kinh doanh số vốn đó nhằm thu lợi nhuận. Chính vì vậy ta có thể nói rằng để sử dụng vốn là khâu mấu chốt quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Trong bối cảnh có sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tiền tệ như hiện nay, để có thể đứng vững và phát triển được thì các NHTM VN nói chung và NHNo&PTNT HN nói riêng buộc phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hợp lý. Dựa trên cơ sở nguồn vốn huy động được, NHNo&PTNT Hai Bà Trưng sẽ phải tiến hành nghiên cứu đánh giá sao cho công việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất vì đây là khâu tiếp nối của quá trình tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định sự thành bại của NH trên thương trường. Như đã trình bày ở trên, xuất phát từ những lợi thế mà nhiều NHNo&PTNT khác trong hệ thống không có được đó là đóng trên một địa bàn có mật độ dân số cao với hàng loạt các doanh nghiệp lớn nhỏ kinh doanh trên mọi lĩnh vực nên công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hai Bà Trưng là khá thuận lợi. Còn trong hoạt động sử dụng vốn, ngoài việc ngân hàng thực hiện việc cho vay ra đối với nền kinh tế thì vốn của NH còn tham gia vào hoạt động điều chuyển vốn trong hệ thống NHNo&PTN Hai Bà Trưng với một khối lượng khá lớn. Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động sử dụng vốn ta sẽ lần lượt phân tích diễn biến tình hình dư nợ của NHNo&PTNH Hai Bà Trưng trên nhiều bình diện. Bảng 4. Dư nợ theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ% 1. Cho vay DNNN 240.934 84,5 295.080 73,3 435.244 83,5 2. Cho vay DNNQD 15.112 5,3 19.323 4,8 45.349 8,7 3. Cho vay hộ sản xuất 7.413 2,6 5.636 1,4 13.552 2,6 4. Cho vay khác 21.668 7,6 82.526 20,5 27.105 5,2 Tổng dư nợ 285.128 100 402.546 100 521.250 100 Biến động tăng giảm 117.418 41.18 118.704 29.5 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Nhìn vào bảng trên ta thấy tổng dư nợ của NHNo&PTNT Hai Bà Trưng có mức tăng trưởng ổn định và khá cao trong những năm qua. Nếu như trong năm 2005 doanh số cho vay chỉ đạt 285.128 triệu đồng thì sang năm 2006 con số này đã có bước nhảy vọt, đạt 402.546 triệu đồng, tăng 56,9%. Đến năm 2007 mức tăng trưởng dư nợ tuy có giảm so với năm 2006 chỉ đạt 29,5%, về số tuyệt đối đạt 521.250 triệu đồng song cũng vào hàng cao nhất trong số các NH đóng trên địa bàn. Sở dĩ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua là do trong những năm qua chính phủ đang có chính sách đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Để đạt được mục đích tăng trưởng kinh tế, chính phủ đã có những chính sách rất ưu đãi để tạo điều kiện thuận lợi để để đầu tư có thể mở rộng sản xuất tăng thu nhập quốc dân. Chính vì vậy mà nhu cầu vay vốn để phục vụ cho quá trình mở rộng sản xuât của các doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Ngân hàng nhà nước cũng tạo điều kiện tối đa cho các ngân hàng thành viên có thế mở rộng tín dụng. Chính vì các nguyên nhân trên mà trong ba năm qua hệ thống ngân hàng nói chung cũng như ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trương có những bước tăng trưởng mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng. Trong giai đoạn 2005 – 2007 hệ thống NHTM VN nói chung, NHNo&PTNT Hai Bà Trưng nói riêng đã có những phương pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng khác nhau nhằm tăng số lượng khách hàng. Nhờ các biện pháp hiệu quả và kịp thời mà trong giai đoạn này ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng đã thu hút được một lượng lớn khách hàng đến vay vốn, chủ yếu là các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mới về nhà xưởng, trang thiết bị công nghệ nhằm mở rộng sản xuất. Ta có thể thấy rõ điều này qua bảng sau: Bảng 5. Dư nợ theo mục đích Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % 1.Cho vay để sản xuất 274.293 96,2 393.689 97,8 494.145 94,8 Biến động tăng giảm +119.396 +43.53 +100.456 +25.5 2.Cho vay để tiêu dùng 10.835 3,8 8.856 2,2 27.105 5,2 Biến động tăng giảm -1.978 -18,3 +18.249 +206.1 Tổng dư nợ 285.128 100 402.546 100 521.250 100 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Như vậy dư nợ cho vay để sản xuất năm 2006 tăng 43,53% so với năm 2005 tương đương với 119.396 triệu đồng và đã đưa tổng dư nợ đạt 402.546 triệu đồng tăng 41.18% mặc dù nhu cầu vay tiêu dùng giảm. Sang năm 2007 cùng với TP HCM, TP Hà Nội thực hiện chính sách kích cầu tiêu dùng, kết quả là dư nợ cho vay tiêu dùng tăng 206.1% song vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ (5,2%). Còn dư nợ cho vay sản xuất tuy có chậm lại song vẫn tăng hơn năm 2006 là 25.5%. Chính vì vậy tổng dư nợ cũng tăng 29,5% về con số tuyệt đối đạt 521.250 triệu đồng. Xét về cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế ta thấy dư nợ cho vay doanh nghiệp quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2005 chiếm 94,1%, năm 2006 chiếm 93,8%, năm 2007 chiếm 90,6%) và có sự tăng trưởng ổn định. Điều này cho thấy chủ trương của ngân hàng trong chính sách tín dụng đó là ưu tiên khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh lớn, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của nền kinh tế. Đây hầu hết là những doanh nghiệp có sự hỗ trợ của nhà nước nên làm ăn có hiệu quả chính vì vậy việc cho vay sẽ gặp ít rủi ro hơn. Hơn nữa do các doanh nghiệp quốc doanh có nhu cầu về vốn tín dụng cao nên thu hút sự quan tâm của ngân hàng hơn. Đây chính là những khách hàng đem lại nguồn lợi nhuận rất lớn và ổn định cho ngân hàng. Bảng 6.Dư nợ theo khu vực kinh tế Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % 1.Cho vay khu vực quốc doanh 240.934 94,1 295.080 93,8 435.244 90,6 Biến động tăng giảm +54.146 +22,5 +140.164 +47,5 2.Cho vay khu vực ngoài quốc doanh 15.112 5,9 19.323 6,2 45.349 9,4 Biến động tăng giảm +4211 +28 +26.026 +134,7 Tổng dư nợ 256.046 100 314.403 100 480.593 100 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Đối với khu vực ngoài quốc doanh, do công việc kinh doanh luôn gặp rủi ro lớn mà không có sự bảo trợ của nhà nước nên NH thực hiện quản lý việc cho vay chặt chẽ hơn. Điều này lý giải tại sao dư nợ cho vay ngoài quốc doanh luôn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong cơ cấu tổng dư nợ. Tuy nhiên điều này không có ý nghĩa là Ngân hàng không quan tâm đến việc cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vay. Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh hàng năm vẫn tăng trưởng cao đặc biệt là năm 2007 tỷ lệ tăng trưởng trong khu vực ngoài quốc doanh đã tăng trưởng gấp đôi (28% năm 2006 và 134,7% năm 2007). Điều này cũng lý giải một phần cho việc doanh số cho vay khu vực quốc doanh năm 2006 và 2007 tăng khá (22,5% năm 2006 và 47,5% năm 2007) nhưng lại giảm về tỷ trọng so với năm 2005. Sở dĩ có hiện tượng như trên là vì trrong những năm gần đây chính phủ và nhà nước đã có chủ trương phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này được nhà nước có những chính sách ưu đãi để phát triển nên các doanh nghiệp này có nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Đồng thời đối với những thành phần kinh tế này Ngân hàng đã chú trọng đầu tư theo món, cán bộ tín dụng đã tiếp cận kịp thời nắm bắt tình hình tài chính và kinh doanh của các doanh nghiệp đó và mạnh dạn đầu tư, cung ứng vốn góp phần đưa dư nợ ở khu vực này tăng lên qua các năm. Dư nợ cho vay hộ sản xuất và cho vay khác hàng năm cũng có mức tăng trưởng khá. Điều này thể hiện Ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá nội dung cho vay nhằm khai thác triệt để nguồn vốn huy động được để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, để có thể khái quát được tình hình sử dụng vốn của NHNo & PTNT Hai Bà Trưng, ta có bảng sau đây: Bảng 7. Cơ cấu nguồn vốn tín dụng theo kỳ hạn Đơn vị : Triệu VNĐ Thời gian Khoản mục 31/ 12/ 2005 31/ 12/ 2006 31/ 12/ 2007 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Cho vay ngắn hạn Biến động tăng giảm 242073 84,9 295.066 +52.993 73,3 +21,89 386.246 +91.180 74,1 +30,9 Cho vay trung - dài hạn Biến động tăng giảm 43.054 15,1 107.480 +64.426 26,7 +149,6 135.004 +27.524 25,9 +25.6 Tổng dư nợ 285.128 100 402.546 100 521.250 100 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Như vậy, qua các số liệu ở bảng trên, ta có thể nhìn thấy một cách tổng thể về tổng dư nợ của NHNo & PTNT Hai Bà Trưng trong các năm 2005 - 2006 - 2007. Dư nợ ngắn hạn có sự tăng trưởng khá cao qua các năm. Năm 2006, dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng 21,89% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 30,9%. Trong những năm này, dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm phần lớn trong tổng dư nợ, song dư nợ tín dụng trung và dài hạn cũng có mức tăng trưởng cao, nhất là trong năm 2006 đã tăng 149,6% và tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu dư nợ. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã chú trọng đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần một lượng vốn lớn trong thời gian dài để phục vụ cho những dự án lớn. Đây cũng là một chiến lược nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tiền tệ tín dụng. Ngoài ra, NHNo & PTNT Hai Bà Trưng còn tham gia bảo lãnh cho các dự án vay vốn nước ngoài. Không chỉ dừng lại ở việc bảo lãnh cho các dự án vay vốn thuộc các ngành kinh tế trọng điểm như công nghiệp … mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, gia công hàng xuất khẩu … tuy nhiên mức độ vẫn còn khá khiêm tốn. Bảng 8. Hoạt động bảo lãnh Đơn vị : Triệu VNĐ Thời gian Khoản mục 31/ 12/ 2005 31/ 12/ 2006 31/ 12/ 2007 Hoạt động bảo lãnh 7.170 9.070 8.359 Nguồn: NHNo & PTNT Hai Bà Trưng * Tình hình thu nợ Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao nhất, song cũng tiềm ẩn những rủi ro cao, đặc biệt là trong hệ thống NHNo & PTNT. Đối với NHNo & PTNT Hai Bà Trưng, do có đặc thù là cho vay vốn đối với mọi thành phần kinh tế nên việc thu nợ chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố cả về chủ quan từ phía người xin vay lẫn khách quan do ngoại cảnh tác động. Bởi vậy, việc đôn đốc thu nợ được ngân hàng thực hiện thường xuyên song vẫn xảy ra tình trạng nợ quá hạn nhất là trong những năm gân đây tình hình nợ xấu đang trở thành một vấn đề gây nhức nhối đối với không chỉ các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mà nó đã trở thành vấn đề nan giải với toàn bộ ngành ngân hang. Đây là vấn đề làm đau đầu toàn thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng bởi vì khi có nợ quá hạn xảy ra là đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Điều này sẽ đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của chính bản thân ngân hàng vì vốn của ngân hàng là vốn “đi vay để cho vay”. Bảng 9. Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ Đơn vị : Triệu VNĐ Thời gian Khoản mục 31/ 12/ 2005 31/ 12/ 2006 31/ 12/ 2007 Tổng dư nợ Nợ quá hạn Tỷ trọng (%) 285.128 9.125 3,2 402.546 18.115 4,5 521.250 14.595 2,8 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Năm 2005 với con số tuyệt đối nợ quá hạn là 9.125 triệu đồng, chiếm 3,2% trong tổng dư nợ. Xét về tỷ lệ thì mức nợ quá hạn là bình thường. Năm 2006, nợ quá hạn đã trở thành một vấn đề lớn của toàn bộ ngành ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng cũng tăng lên 18.115 triệu đồng chiếm 4.5% trong tổng dư nợ và sang năm 2007, do ngân hàng đã chú trọng đến công tác hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn nên tỷ lệ này đã giam xuống còn 2,2 %. Để có thể hiểu rõ hơn, ta sẽ xem xét tỷ lệ nợ quá hạn trên bình diện sau: Bảng 10. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế Đơn vị : Triệu VNĐ Chỉ tiêu Khoản mục 31/ 12/ 2005 31/ 12/ 2006 31/ 12/ 2007 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng dư NQH KTQD KTNQD Hộ SX và cá thể NQH khác 9.125 3.112 3686 1.652 675 100 34,1 40,4 18,1 7,4 18.115 8.315 5.887 3.170 743 100 45,9 32,5 17,5 4,1 14.595 6.349 4.452 3.448 306 100 43,5 30,5 23,9 2,1 (Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh NHNo&PTNTQuận Hai Bà Trưng ) Như vậy, qua bảng trên, ta thấy khu vực kinh tế quốc doanh luôn có tỷ lệ nợ quá hạn là lớn nhất, đặc biệt là trong hai năm gần đây. Nguyên._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30459.doc
Tài liệu liên quan