Tài liệu Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020: ... Ebook Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020
116 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
trêng ®¹I häc n«ng nghiÖp Hµ NéI
----------------------------
nguyÔn m¹nh hïng
mét sè gi¶i ph¸p chuyÓn dÞch c¬ cÊu
lao ®éng theo ngµnh trªn ®Þa bµn tØnh B¾c Ninh 2015 - 2020
luËn v¨n th¹c sÜ KINH TÕ
Chuyªn ngµnh : Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè : 60.31.10
Ngêi híng dÉn khoa häc : ts. nguyÔn phóc thä
Hµ Néi - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Mạnh Hùng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân và tập thể. Nhân đây tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn giáo viên hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Phúc Thọ đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn tới ban giám hiệu Nhà trường, các thầy cô trong Khoa kinh tế và phát triển nông thôn, Khoa sau đại học đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Cục thống kê, Ban quản lý các khu công nghiệp, Sở Lao động Thương binh và xã hội, Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh đã nhiệt tình cung cấp thông tin cho đề tài.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã nhận được sự động viên của cơ quan, bạn bè và gia đình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sự quan tâm quý báu đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Mạnh Hùng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1
CCLĐ theo ngành của vùng đồng bằng sông Hồng
25
Bảng 2.2
Số lượng lao động được thu hút vào lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn Trung Quốc
27
Bảng 3.1
Tốc độ tăng tổng sản phẩm và đóng góp của các ngành vào tăng trưởng trong tỉnh 10 năm từ 1997 – 2007
38
Bảng 3.2
Mối quan hệ giữa GDP/người và cơ cấu lao động theo ngành
48
Bảng 4.1
Quy mô và cơ cấu lao động các ngành trong nền kinh tế
50
Bảng 4.2
Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động qua các năm
53
Bảng 4.3
Cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành 1997 - 2007
55
Bảng 4.4
Hệ số co giãn của lao động theo GDP 1998 – 2007
57
Bảng 4.5
Cơ cấu lao động ngành nông nghiệp từ 1997 – 2007
59
Bảng 4.6
Cơ cấu lao động ngành công nghiệp 1997 – 2007
61
Bảng 4.7
Cơ cấu lao động ngành dịch vụ 1997 – 2007
63
Bảng 4.8
Lao động qua đào tạo của tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 1997 - 2007
65
Bảng 4.9
Mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2005 - 2007
67
Bảng 4.10
Dự báo dân số và lao động đến năm 2020
82
Bảng 4.11
Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2020
85
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1
Biến động quy mô lao động của nền kinh tế từ 1997 – 2007
49
Hình 4.2
Động thái lao động các ngành từ 1997 – 2007
51
Hình 4.3
Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành 1997 – 2007
53
Hình 4.4
Động thái chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành
56
Hình 4.5
Biến động của hệ số co giãn lao động theo GDP qua các năm
57
Hình 4.6
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp 1997 – 2007
60
Hình 4.7
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp 1997 – 2007
62
Hình 4.8
Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành dịch vụ 1997 - 2007
64
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCLĐ
:
Cơ cấu lao động
KCN
:
Khu công nghiệp
CCN
:
Cụm công nghiệp
SS
:
So sánh
NN
:
Nông nghiệp
LN
:
Lâm nghiệp
TS
:
Thuỷ sản
CN
:
Công nghiệp
XD
:
Xây dựng
DV
:
Dịch vụ
NSLĐ
:
Năng suất lao động
CNKT
:
Công nhân kỹ thuật
PP
:
Phân phối
Nxb
:
Nhà xuất bản
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp là 5,6%; ngành công nghiệp là 59,8%; ngành dịch vụ là 34,6% [27]. Nhưng theo số liệu thống kê, năm 2007 tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp là 18,65%; ngành công nghiệp là 51,01%; ngành dịch vụ là 30,34% [3] . Thực tế trên đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải có những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo ngành để đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, năm 2007 tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp là 60,52 %; ngành công nghiệp là 23,80 %; ngành dịch vụ là 15,68% [3]. Với cơ cấu lao động theo ngành còn ở trình độ thấp và lạc hậu, vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra là phải có giải pháp đúng đắn nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý đáp ứng yêu cầu mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành đến 2020.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020"
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận kết hợp với việc phân tích thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ đó đánh giá quá trình chuyển dịch, rút ra kết luận làm cơ sở đề ra các biện pháp có hiệu quả thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần làm rõ các khái niệm về cơ cấu lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động ngành; mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành. Đồng thời chỉ ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2007.
- Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề cơ cấu lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối quan hệ với cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành.
Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở mốc thời gian tái lập tỉnh (1997) và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu theo ngành và từng nhóm ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2020.
1.4 Khái quát kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 5 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Cơ sở lý luận
Phần 3: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Kết quả nghiên cứu
Phần 5: Kết luận và Kiến nghị
Phần 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH
2.1 Cơ sở lý luận về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
2.1.1 Cơ cấu ngành kinh tế
2.1.1.1 Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, số lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động xã hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế kỷ XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên (nông nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm vô hình. Sau này, Liên hợp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội, Biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nông - lâm - ngư nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III bao gồm các ngành dịch vụ [18].
Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới các góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc độ đầu tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lao động).
Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành.
Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản
Nhóm ngành công nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối điện nước và khí đốt, ngành xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công
Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành trong mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên cứu cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất. Trạng thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp hay hậu công nghiệp.
2.1.1.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những vấn đề có tính quy luật về xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn là sự thay đổi về vị trí, tính chất mỗi ngành trong mối quan hệ giữa các ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để xây dựng một cơ cấu mới phù hợp hơn [18].
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tính chất bền vững của tăng trưởng và phát triển kinh tế phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch linh hoạt của cơ cấu ngành kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành gắn liền và phản ánh tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là hợp lý, tiến bộ khi tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp và đặc biệt là ngành dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng giá trị các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường ngày càng tăng [18].
Xây dựng một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, tiến bộ là yêu cầu khách quan của mỗi quốc gia. Một cơ cấu ngành được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được một số điều kiện cơ bản sau: Các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ và đồng bộ, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần; trình độ kỹ thuật của nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển khoa học công nghệ; cho phép khai thác tối đa và hiệu quả mọi tiềm năng của quốc gia; thực hiện phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa, xây dựng cơ cấu ngành kinh tế thành một “cơ cấu mở”.
2.1.2 Cơ cấu lao động theo ngành
Là một hình thức của cơ cấu lao động do đó nghiên cứu cơ cấu lao động là tiền đề quan trọng để nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành.
Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng và chất lượng lao động theo những tiêu chí nhất định [6].
Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính cơ bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
i) Tính khách quan: Cơ cấu lao động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu kinh tế, quá trình vận động của dân số và cơ cấu kinh tế có tính khách quan do đó nó quy định tính khách quan của cơ cấu lao động.
ii) Tính lịch sử: Quá trình phát triển của loài người là quá trình phát triển của các phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất có một cơ cấu kinh tế đặc trưng, nên cơ cấu kinh tế có tính lịch sử. Được bắt nguồn từ cơ cấu kinh tế nên cơ cấu lao động cũng có tính lịch sử.
iii) Cơ cấu lao động mang tính xã hội sâu sắc: Cơ cấu lao động phản ánh sự phân công lao động xã hội. Quá trình phân công lao động xã hội thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện quá trình phát triển của con người. Mỗi hình thức phân công lao động sẽ tạo nên một cơ cấu lao động mới. Xét trên phương diện sản xuất, cơ cấu lao động không những phản ánh các giai tầng của xã hội trong nền sản xuất mà còn phản ánh các hoạt động kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu cơ cấu lao động nghĩa là nghiên cứu sự phân chia lao động thành các nhóm, các bộ phận khác nhau dựa theo những tiêu chí cụ thể tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Thông thường, cơ cấu lao động được chia làm hai loại : cơ cấu cung về lao động (theo khả năng) và cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế (theo cầu). Cơ cấu cung lao động là một trong các yếu tố phản ánh số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực, còn cơ cấu lao động đang làm việc phản ánh sự phân bố của lao động theo các ngành, khu vực, và theo các tiêu chí khác. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động theo cung cầu được hình thành từ quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động [6].
Tùy theo giác độ nghiên cứu mà người ta chia ra các loại cơ cấu lao động khác nhau:
Xét theo không gian, hình thành cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ; cơ cấu lao động theo khu vực thành thị – nông thôn. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động xã hội theo không gian.
Xét theo tính chất các yếu tố tạo nguồn, hình thành cơ cấu lao động theo độ tuổi; cơ cấu lao động theo trình độ… Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng về tình hợp lý trong sử dụng lao động.
Xét theo các ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo ngành, đây là cơ cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo ngành hay nhóm ngành kinh tế. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng phân bố, chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế quốc dân.
Xét theo từng ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo nội bộ ngành. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động làm việc trong nội bộ các ngành của nền kinh tế.
Ngoài ra, tùy thuộc mục đích nghiên cứu có thể chia cơ cấu lao động làm nhiều loại khác nhau như cơ cấu lao động theo giới tính, theo nghề nghiệp …
Luận văn đi sâu nghiên cứu một góc độ của cơ cấu lao động, đó là cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành tức là nghiên cứu về cấu trúc bên trong, sự tương quan, mối quan hệ về lao động giữa 3 nhóm ngành hay từng nhóm ngành, sự phù hợp và xu hướng chuyển dịch của nó trong mối liên hệ với cơ cấu ngành kinh tế.
2.2 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
2.2.1 Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ phận trong tổng thể lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Còn chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian, thời gian và theo xu hướng nhất định [21].
Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá trình phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Quá trình phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay đổi chỉ khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Chẳng hạn, nếu lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi, thì rõ ràng việc giảm này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng lên hay giảm xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như vậy, ở đây đã có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số lao động của ngành nông nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra đó là mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ cấu lao động theo ngành. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành gắn liền với sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành. Hơn nữa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi chất lượng lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính riêng, do đó đặc điểm sử dụng lao động của các ngành khác nhau đặc biệt là trình độ của lao động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển về lao động và sự di chuyển này kéo theo sự thay đổi về chất lượng lao động của từng ngành.
2.2.2 Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu theo ngành
2.2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là hệ quả tất yếu của chuyển dịch cơ cấu ngành
Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò của lao động đối với tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng cao, do đó tính chất sử dụng lao động cũng thay đổi. Các lý thuyết kinh tế đặc biệt là lý thuyết kinh tế hiện đại chỉ ra rằng: Cùng với vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên thì lao động là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng này có thể được hiểu là sự tăng trưởng toàn nền kinh tế hay của từng ngành cấu thành nên nền kinh tế [21].
Khi phân tích về chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta đã biết bản chất quá trình chuyển dịch chính là sự thay đổi về cấu trúc của các ngành trong nền kinh tế, tỷ trọng các ngành thay đổi, vị trí và vai trò của các ngành cũng thay đổi. Nếu xét trên phương diện giá trị thì cấu trúc về mặt giá trị của các ngành có sự thay đổi tức là tỷ trọng giá trị của mỗi ngành trong nền kinh tế thay đổi. Mặt khác, khi giá trị của mỗi ngành thay đổi thì các yếu tố cấu thành nên giá trị ngành đó cũng thay đổi, lao động là một trong các yếu tố đó. Do vậy, giá trị một ngành thay đổi sẽ tác động đến sự thay đổi về lao động của ngành đó. Khi có sự thay đổi về mặt giá trị của cả 3 ngành dẫn đến lao động của cả 3 ngành cũng thay đổi và đây chính là sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành. Ở một phạm vi hẹp hơn, với cách phân tích tương tự sẽ cho ta thấy sự thay đổi về cơ cấu nội bộ ngành cũng dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ ngành đó. Như vậy, quá trình thay đổi cơ cấu ngành cũng như cơ cấu nội bộ ngành tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành và cơ cấu lao động trong nội bộ ngành.
2.2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành phải phù hợp với trình độ phát triển của cơ cấu ngành
Trên giác độ cơ cấu ngành kinh tế thì quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế là quá trình biến đổi liên tục của cơ cấu ngành kinh tế từ cũ sang mới và ngày càng hoàn thiện hơn. Nền kinh tế trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ lạc hậu đến hiện đại, từ trình độ thấp đến trình độ cao. Mỗi giai đoạn phát triển, cơ cấu ngành có những đặc trưng riêng và gắn liền với nó là một cơ cấu lao động phù hợp.
Theo W. Rostow, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia được chia thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế đặc trưng, thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy [18]. Mặc dù có rất nhiều hạn chế về cơ sở của việc phân đoạn trong phát triển kinh tế nhưng việc vận dụng mô hình của ông trong phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là rất cần thiết. Mô hình của W.Rostow chứng tỏ rằng: gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu ngành qua các giai đoạn là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Tùy thuộc vào tính chất và trình độ của cơ cấu ngành trong từng giai đoạn mà cơ cấu lao động theo ngành cũng có sự chuyển dịch phù hợp. Ở mức độ nghiên cứu sâu hơn, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là quá trình di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ vừa là quá trình thay đổi cơ cấu lao động theo trình độ, lực lượng lao động có trình độ tăng lên theo từng giai đoạn. Như vậy, cơ cấu lao động theo ngành luôn chuyển dịch theo tính chất và trình độ của cơ cấu ngành kinh tế với xu hướng ngày càng hiện đại và hoàn thiện hơn.
2.2.2.3 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
Lao động với vai trò là một nguồn lực của sản xuất, là yếu tố không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế. Sự tăng trưởng và phát triển của các ngành kinh tế sẽ không thể có nếu không có yếu tố lao động, vì lao động là một trong các yếu tố đầu vào có vai trò rất quan trọng trong sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá trình di chuyển lao động từ ngành này sang ngành khác. Chính sự di chuyển này đã tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nhanh hay chậm phụ thuộc vào tốc độ quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Nếu tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nhanh hơn và ngược lại [21].
Luận điểm trên có thể được giải thích như sau: Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và việc tăng lượng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Khi đó cầu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm do có áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, cầu lao động trong hai ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Một vấn đề đặt ra là: Nếu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh chóng, tức là khi có sự di chuyển nhanh về lao động từ ngành nông nghiệp hoặc một bộ phận lao động khác trong lực lượng lao động sang ngành công nghiệp và dịch vụ thì cầu về lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ được đáp ứng, kết quả là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra nhanh. Ngược lại, nếu cầu về lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ không được đáp ứng thì quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chậm lại.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là hệ quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành vừa là yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.2.3 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
2.2.3.1 Cơ sở lý thuyết
- Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher: Theo A. Fisher, xu thế phát triển khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương tiện canh tác mới tạo điều kiện cho nông dân nâng cao được năng suất lao động. Kết quả là để đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội không cần đến một lượng lao động như cũ, vì vậy tỷ lệ lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần. Ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế lao động do đặc tính của ngành này là sử dụng kỹ thuật công nghệ phức tạp. Do đó, cùng với quá trình phát triển tỷ trọng lao động của ngành này có xu hướng tăng lên. Ngành dịch vụ là ngành khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra sản phẩm dịch vụ, rào cản cho sự thay thế công nghệ và kỹ thuật rất cao. Trong khi đó, trong một nền kinh tế trình độ cao thì tốc độ tăng của cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển [18]
- Mô hình di cư của Todaro: Bắt đầu từ giả định rằng di cư chủ yếu là hiện tượng kinh tế. Todaro cho rằng quá trình di cư bắt nguồn từ chênh lệch trong thu nhập dự kiến có được hơn là thu nhập thực tế giữa nông thôn và thành thị. Người di cư xem xét những cơ hội khác nhau trong thị trường lao động giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị và lựa chọn để làm tăng lợi ích mà họ có thể có được từ việc di cư. Những lợi ích này được xác định bởi: sự chênh lệch trong mức thu nhập thực tế giữa công việc ở nông thôn và thành thị; khả năng có thể kiếm được việc làm ở thành thị của người di cư [22].
Học thuyết của Todaro mô tả vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị như một cơ chế điều chỉnh mà qua đó quyết định đến việc phân bổ trên các thị trường lao động nông thôn và thành thị, đặc biệt là sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp từ đó tác động đến quy mô lao động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù học thuyết của Todaro có những phân tích thiếu tính thực tế khi áp dụng với các nước Thế giới thứ 3. Tuy nhiên, học thuyết đã đưa ra cơ sở lý luận khi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến lao động trong đó có vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
2.2.3.2 Xu hướng chuyển dịch
Dựa trên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học về chuyển dịch cơ cấu lao động và phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành, tính tất yếu và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là tất yếu do đó quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cũng mang tính tất yếu.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu theo ngành theo những xu hướng nhất định, do vậy nó quy định xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Cụ thể là: Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm trong khi đó tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt là tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng lao động các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng lao động ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng lao động các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường ngày càng tăng.
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thường trải qua ba thời kỳ:
Thời kỳ đầu: Thời kỳ phát triển nông nghiệp, lao động ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó đến lao động trong ngành công nghiệp và cuối cùng là dịch vụ.
Thời kỳ thứ hai: Khi sản xuất công nghiệp đã phát triển thì lao động trong ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đến là lao động trong ngành nông nghiệp còn lao động trong ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp nhất.
Thời kỳ thứ ba: Đây là thời kỳ hậu công nghiệp, khi các ngành kinh tế công nghiệp và nông nghiệp đã đạt năng suất lao động cao thì lao động chuyển dịch nhanh sang ngành dịch vụ. Nguồn nhân lực ở ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó đến ngành công nghiệp và cuối cùng là ngành nông nghiệp. Các nước phát triển đã trải qua ba thời kỳ này và hiện nay đang ở giai đoạn thứ ba với xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, lao động nông nghiệp ở các nước phát triển chỉ còn chiếm tỷ trọng dưới 5% lực lượng lao động, lao động trong công nghiệp dưới 30% và lao động dịch vụ tăng trên 70%.
Như vậy, tính tất yếu và xu hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành không chỉ được khẳng định trên phương diện lý thuyết mà còn được chứng minh bằng thực tiễn quá trình phát triển của một số cường quốc kinh tế.
2.2.4 Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
2.2.4.1 Các nhân tố liên quan đến nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
- Sự phát triển của khoa học công nghệ
Nếu thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với đặc trưng là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II đến hiện nay được đặc trưng bởi cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra các công cụ lao động mới mà cả phương pháp sản xuất mới, do đó mở ra khả năng mới về kết quả sản xuất và tăng năng suất lao động. Dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn lực sản xuất được mở rộng: mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn tài nguyên; làm biến đổi chất lượng lao động; cơ cấu lao động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động bằng máy móc, nhờ đó tăng năng suất lao động và giảm một cách tương đối số lượng lao động được sử dụng trong các ngành dẫn đến sự thay đổi về lao động giữa các ngành và làm cơ cấu lao động theo ngành thay đổi.
Các công nghệ mới ra đời như sử dụng vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ điện tử… đã làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, nghĩa là việc tăng trưởng kinh tế dựa trên việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất. Với vai trò này, khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng nhất làm biến đổi nền kinh tế từ nền kinh nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và tri thức. Điều này đồng nghĩa với việ._.c chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ lạc hậu đến hiện đại, từ trình độ thấp lên trình độ cao.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc và đưa đến việc phân chia các ngành thành nhiều phân ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay đổi cơ cấu lao động theo ngành với xu hướng tích cực, thể hiện: tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp mà đặc biệt là ngành dịch vụ có xu hướng tăng dần, trong khi đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm; cơ cấu lao động trong nội bộ mỗi ngành cũng có sự biến đổi sâu sắc, tỷ trọng lao động trong các ngành có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao ngày càng tăng [21].
Có thể nói khoa học công nghệ không những đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý và hiện đại mà còn làm thay đổi cơ cấu lao động nội bộ ngành đồng thời tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ.
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành có mối liên hệ hữu cơ, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là đòi hỏi vừa là hệ quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong phần này chúng ta đề cập đến yếu tố định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ tác động như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Hầu hết các quốc gia đều phải nghiên cứu và đưa ra các định hướng xây dựng và phát triển cơ cấu ngành hợp lý. Việc định hướng không những có tác dụng trong việc xác định con đường sẽ đi mà còn tạo ra các căn cứ để quản lý, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Gắn liền với một cơ cấu ngành là một cơ cấu lao động, cho nên việc định hướng xây dựng cơ cấu ngành sẽ đặt ra yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở thời điểm hiện tại để phù hợp với cơ cấu ngành đã được định hướng trong tương lai. Rõ ràng, với mỗi định hướng khác nhau sẽ làm cho cơ cấu lao động theo ngành chuyển dịch theo những hướng khác nhau. Như vậy, việc định hướng cơ cấu ngành đúng đắn, có tính khả thi cao thì cơ cấu lao động theo ngành cũng có điều kiện chuyển dịch đúng hướng và phù hợp với cơ cấu ngành.
- Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị, đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng.
Theo lý thuyết của Todaro, quá trình đô thị hoá gắn liền với quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị, quá trình di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Việc di chuyển này trực tiếp làm giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và dịch vụ dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động theo ngành.
Quá trình đô thị hoá một mặt làm giảm diện tích đất nông nghiệp, nhu cầu lao động nông nghiệp giảm dần. Mặt khác, do sự phát triển về cơ sở hạ tầng, tâm lý của người lao động và việc dư thừa lao động nông nghiệp dẫn đến xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó làm tỷ trọng lao động của các ngành này không ngừng tăng lên. Có thể thấy rằng, đô thị hoá vừa tác động trực tiếp đến số lượng và tỷ trọng lao động của các ngành vừa gián tiếp tác động đến cơ cấu lao động theo ngành thông qua sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quá trình công nghiệp hoá gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành có hàm lượng khoa học cao. Việc phát triển các ngành sản xuất về cả số lượng và chất lượng là một Bảng hiện của sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi mạnh mẽ do sự biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế tất yếu dẫn đến sự thay đổi của cơ cấu lao động trong nền kinh tế, trong đó có cơ cấu lao động theo ngành.
2.2.4.2 Các nhân tố liên quan đến khả năng chuyển dịch cơ cấu cao động theo ngành
- Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực
Không thể có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành khi mà quy mô nguồn nhân lực không đáp ứng được những đòi hỏi của cơ cấu ngành kinh tế, nhân tố gần như là dễ đáp ứng nhất của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Mặc dù có những tác động tiêu cực nhưng sự dồi dào về lao động cũng là yếu tố rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Quy mô của lực lượng lao động lớn sẽ đáp ứng được yêu cầu về số lượng lao động để mở rộng quy mô các ngành kinh tế. Có hai vấn đề đặt ra: nếu việc chuyển dịch chỉ đơn thuần là việc di chuyển lao động giữa các ngành, tác dụng quy mô nguồn nhân lực chỉ dừng lại ở mức độ bổ sung lao động cho các ngành; nếu việc chuyển dịch không đơn thuần là sự di chuyển lao động giữa các ngành mà còn là sự tăng lên về quy mô lao động của nền kinh tế thì quy mô lao động có ý nghĩa rất lớn, vì nếu quy mô lao động không đáp ứng được dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lực từ đó sẽ làm giảm tốc độ phát triển của nền kinh tế. Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, vai trò của quy mô nguồn nhân lực là khác nhau, chúng ta không thể phủ nhận tác động của nó đến quá trình phát triển nói chung và đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nói riêng.
Sẽ thiển cận nếu chỉ phân tích tác dụng của quy mô nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực cũng là yếu tố có ý nghĩa quan trọng với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Chất lượng nguồn nhân lực tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động được xét trên hai phương diện.
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về số lượng lao động, gắn liền với nó là sự thay đổi về chất lượng lao động. Xu hướng của quá trình chuyển dịch là giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Không giống với ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp và dịch vụ là những ngành đòi hỏi cao về chất lượng lao động việc tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ đồng nghĩa với việc tăng tỷ trọng lao động có chất lượng. Hơn nữa, sự tác động của khoa học công nghệ dẫn đến quá trình hiện đại hoá nông nghiệp, kéo theo đó là yêu cầu nâng cao chất lượng lao động trong nông nghiệp. Như một xu thế tất yếu, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đặt ra một vấn đề là không ngừng nâng cao chất lượng lao động trong cả ba ngành kinh tế với mức độ khác nhau. Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là nhân tố quan trọng nhất để giải quyết vấn đề này. Hơn nữa, nó còn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tốc độ quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực cũng là nhân tố quyết định đến phát triển khoa học công nghệ. Chúng ta đã biết vai trò của khoa học công nghệ với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cho nên xét trên phương diện này nguồn nhân lực đã tác động gián tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua việc thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ.
- Chênh lệch thu nhập
Thu nhập là có vai trò sống còn đối với người lao động. Nó là mục tiêu là động lực thúc đẩy người lao động trong quá trình sản xuất. Xu hướng chung của người lao động là tìm những công việc phù hợp và có thu nhập cao, do đó việc chênh lệch thu nhập giữa ngành này và ngành khác là một trong những căn cứ quan trọng nhất để người lao động quyết định chọn một ngành để làm việc.
Sự chênh lệch thu nhập giữa các ngành nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ là yếu tố thúc đẩy di chuyển một bộ phận lao động từ ngành nông nghiệp sang hoạt động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Hệ số co giãn của cung lao động theo thu nhập thường được dùng để đo lường biến động trên.
EL
=
% D L
[21]
% D I
Trong đó:
- EL : Hệ số co giãn của cung lao động theo thu nhập
- % D L : Sự thay đổi của cung lao động
- % D I : Sự thay đổi của thu nhập
Hệ số co giãn càng lớn thì cung lao động theo thu nhập càng co giãn, nghĩa là khi mức độ chênh lệch thu nhập giữa các ngành càng lớn thì quy mô lao động dịch chuyển ngày càng tăng. Nếu chênh lệch thu nhập giữa ngành nông nghiệp với ngành công nghiệp dịch vụ càng lớn thì quy mô lao động di chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Điều này dẫn đến tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm, còn tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
2.2.4.3 Trình độ phát triển của thị trường lao động
Thị trường lao động được hình thành khi sức lao động là hàng hóa và được trao đổi trên thị trường. Thị trường lao động thường được phân loại theo không gian và theo chất lượng hàng hóa sức lao động. Dựa trên tiêu chí chất lượng hàng hóa sức lao động, thị trường gồm hai loại: thị trường lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và thị trường lao động phổ thông. Nếu theo tiêu chí không gian thì có các loại thị trường như thị trường lao động các địa phương, thị trường lao động trong nước, thị trường lao động quốc tế, thị trường lao động nông thôn, thị trường lao động thành thị.
Một trong những đặc trưng của thị trường lao động đó là nơi mua bán hàng hóa sức lao động và cung, cầu lao động là những yếu tố quan trọng nhất trên thị trường lao động. Thị trường lao động có vai trò quan trọng thúc đẩy sự di chuyển lao động trong xã hội. Chúng ta hãy xét vấn đề này trên hai khía cạnh: Thứ nhất, trên thị trường một khối lượng lớn hàng hóa được mua, bán nghĩa là có nhiều người bán được và mua được sức lao động, do đó số lượng người được tuyển dụng tăng lên dẫn đến số lượng lao động của một ngành nào đó đã có sự thay đổi. Thứ hai, nếu quá trình mua, bán sức lao động diễn ra với tốc độ nhanh, với lập luận tương tự có thể thấy rằng nó sẽ đẩy nhanh tốc độ di chuyển lao động trong xã hội
Như vậy, thị trường lao động không những tác động đến số lượng lao động di chuyển mà còn ảnh hưởng đến cả tốc độ di chuyển lao động. Chuyển dịch cơ cấu lao động, theo cách hiểu đơn giản nhất đó là sự di chuyển lao động vào và ra khỏi các ngành. Do vậy, thị trường lao động sẽ tác động đến quá trình này. Tính chất và mức độ tác động của thị trường lao động đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường lao động.
Thị trường lao động được coi là phát triển khi nó đảm bảo các điều kiện cơ bản sau: Một là, giá cả hàng hoá sức lao động chính là tín hiệu của thị trường; Hai là, cung cấp thông tin cho các chủ thể trên thị trường lao động; Ba là, kích thích sự hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể trên thị trường lao động phát triển; Bốn là, thực hiện việc phân phối nguồn nhân lực một cách tối ưu; Năm là, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật. Với những đặc tính này, rõ ràng thị trường lao động đã tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Và quá trình này diễn ra nhanh khi thị trường lao động càng phát triển.
2.2.4.4 Nhân tố hệ thống chính sách
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội đã chứng tỏ rằng: Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, phương thức sản xuất nào, nhà nước luôn giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, vai trò của nhà nước được thể hiện khác nhau thông qua việc can thiệp của nhà nước vào các vấn đề kinh tế – xã hội. Bằng các chính sách cụ thể, nhà nước đã can thiệp trực tiếp và gián tiếp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Mặc dù, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động có tính khách quan và tuân theo những xu hướng nhất định. Nhưng sự can thiệp của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Nhà nước tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ngành thông qua hệ thống các chính sách: chính sách phát triển khoa học công nghệ; chính sách đầu tư mà đặc biệt là cơ cấu đầu tư; chính sách phát triển các ngành, chính sách phát triển nguồn nhân lực… Hệ thống các chính sách này đã tác động toàn diện đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Nó thúc đẩy quá trình phân công lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng thời đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu nội bộ ngành. Những tác động này không những làm thay đổi sự phân bố lao động giữa các ngành và nội bộ ngành mà còn nâng cao chất lượng lao động, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
2.3 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng
2.3.1 Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành của cả nước đến năm 2010
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50% [11].
Những mục tiêu trên buộc các vùng nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng phải có những bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, những mục tiêu trên đặt ra nhiều thách thức lớn cho vùng đồng bằng sông Hồng, đòi hỏi vùng phải có những định hướng phát triển kinh tế - xã phù hợp góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chung của cả nước.
2.3.2 Định hướng phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
Định hướng phát triển vùng đồng bằng sông Hồng có những nội dung cơ bản như sau:
Phát huy thế mạnh về nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, giao lưu quốc tế và trong nước thuận tiện và chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, tiến tới sử dụng hết lực lượng lao động. Tiếp tục thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có, xây dựng khu công nghiệp cao. Chuẩn bị điều kiện để hình thành các điểm công nghiệp mới.
Phát triển công nghiệp với trình độ công nghệ cao, hiện đại trên các lĩnh vực như cơ khí chế tạo máy, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng, sản xuất phần mềm tin học, sản xuất các loại vật liệu xây dựng... kết hợp với sử dụng được nhiều lao động.
Phát huy vai trò các trung tâm thương mại, y tế, giáo dục, đào tạo của cả nước. Phát triển mạnh du lịch trong vùng, đầu tư xây dựng khu du lịch. Phát triển các điểm du lịch ở các tỉnh gắn với các trung tâm du lịch trong và ngoài vùng để hình thành rõ các tuyến du lịch nội vùng và liên vùng.
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng lúa chất lượng cao ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Phát triển trồng trọt và chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến, hình thành các vùng chuyên canh phục vụ cho các đô thị và xuất khẩu. Khai thác sử dụng hợp lý dải ven biển trong vùng, phát triển nghề nuôi, trồng và đánh bắt thuỷ sản, từng bước phát triển nghề nuôi thuỷ sản trên biển.
Theo yêu cầu của Bộ Chính trị thì sau 5 năm nữa, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, cảng biển và vùng nông nghiệp lớn sẽ phải giữ được tốc độ tăng trưởng liên tục trên 10% và đóng góp khoảng 24% cho GDP của cả nước so với 20% như hiện nay, và đến trước năm 2020 tỷ lệ này sẽ phải là 27% [11].
Với những định hướng và nhiệm vụ đặt ra, đòi hỏi các tỉnh thuộc vùng phải có những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Xét trên góc độ lao động, phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.3.3 Thực trạng cơ cấu lao động theo ngành ở một số địa phương
Dưới đây là kết quả thống kê cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành của các tỉnh thuộc vùng vùng đồng bằng sông Hồng:
Bảng 2.1. Cơ cấu lao động theo ngành của vùng đồng bằng sông Hồng
Đơn vị: %
CN
NN
DV
Vùng đồng bằng sông Hồng
52.8
22.8
24.4
Bắc Ninh
61.2
23.6
15.2
Hà Nội
22.6
28.7
48.7
Hải Phòng
37.9
27.9
34.2
Hà Tây
44.1
33
22.9
Nam Định
56.6
22.5
20.9
Hải Dương
69.6
14.5
15.9
Hưng Yên
67.6
15.1
17.3
Vĩnh Phúc
65.3
18.2
16.5
Hà Nam
61.2
22.5
16.3
Thái Bình
70.7
17.9
11.5
Ninh Bình
72.1
11.7
16.2
Nguồn: Điều tra Việc làm - Thất nghiệp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội 2006
Nhìn chung, cơ cấu lao động theo ngành của các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng còn nhiều hạn chế, lao động ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chỉ có 3 địa phương (Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây) có tỷ trọng lao động nông nghiệp dưới 50%. Tính chung cho cả vùng, tỷ trọng lao động nông nghiệp là 52,8%, công nghiệp là 22,8%, dịch vụ là 24,4%.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, hơn nữa lại nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Nhưng cơ cấu lao động theo ngành của Bắc Ninh so với mức trung bình của cả vùng còn nhiều điểm bất cập, tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp rất lớn (cao hơn 8,3% so với cả vùng), tỷ trọng lao động ngành dịch vụ thấp (thấp hơn 9,2% so với cả vùng). Hiện trạng này đòi hỏi Bắc Ninh phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành để theo kịp một số tỉnh, thành phố và mức trung bình chung của cả vùng.
2.4 Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động của Trung Quốc và Hàn Quốc
Một trong những nhân tố góp phần quan trọng và quyết định nhất tạo nên thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đó là chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chủ yếu là sự di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành khác trong đó có những thay đổi nhất định về chất lượng lao động. Lao động nông nghiệp tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn do vậy vấn đề có tính then chốt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chính là cơ cấu lại lao động khu vực nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Thực tế quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đã diễn ra ở một số nước Châu Á cũng chứng minh những lý giải trên là hoàn toàn đúng. Chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn của các nước Hàn Quốc và Trung Quốc.
2.4.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Trung Quốc
Dân số khu vực nông thôn chiếm đến 80% tổng số dân, giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực này là mấu chốt để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành của toàn nền kinh tế. Hai yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn là phát triển các hoạt động phi nông nghiệp và sản nghiệp hoá nông nghiệp.
Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn: Cải cách trong nông nghiệp của Trung Quốc đi kèm với phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp Hưng trấn ở Trung quốc. Thập kỷ 90 chứng kiến sự phá rào của tiểu chủ làm nên phong trào công nghiệp Hương trấn. Công nghiệp Hương trấn phát triển mạnh do trong thời kỳ đầu hội đủ các điều kiện phát triển và đặc biệt là thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tuy nhiên, đây lại chính là khó khăn mà nó gặp phải khi mà yêu cầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường ngày càng cao trong khi đó điều kiện về đổi mới công nghệ của công nghiệp nông thôn lại không đáp ứng kịp. Lao động trong các thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể giảm mạnh; nếu xét năm 1978 ở khu vực thành thị hầu hết (99,8%) lao động trong các xí nghiệp Nhà nước hoặc hợp tác xã thì năm 2001 chỉ còn có 73,3% lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân Hương trấn đã tăng lên đáng kể cả về số lượng lẫn cơ cấu. Đến năm 2000 trong 128,195 triệu lao động tăng lên ở Hương trấn thì chỉ có 30% lao động hoạt động ở thành phần kinh tế Nhà nước, còn 70% lao động hoạt động ở thành phần kinh tế tư nhân và cá thể. Chỉ trong vòng 4 năm từ 1998 đến 2001 có trên 25,5 triệu lao động phải chuyển đổi từ các doanh nghiệp Nhà nước do sự sắp xếp lại lao động ở khu vực này, cũng thời gian đó có khoảng 150 triệu lao động nông thôn di chuyển ra thành thị hoạt động ở khu vực phi kết cấu (dẫn theo [36]). Năm 1993 có khoảng 109,5 triệu lao động được thu hút vào làm việc tại khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn, tăng 6,24 triệu hay 6% so với năm 1992.
Bảng 2.2. Số lượng lao động được thu hút vào lĩnh vực
phi nông nghiệp ở nông thôn Trung Quốc
ĐVT: triệu người
Công nghiệp
Xây dựng
Vận tải
Thương mại
Tổng cộng
1978
19,800
2,690
1,185
1,642
25,317
1984
36,561
6,835
1,293
4,553
49,242
1985
41,367
7,900
1,142
16,858
67,267
1991
58,136
13,843
7,323
14,358
93,660
1992
63,364
15,407
7,969
16,523
103,260
Nguồn: Báo cáo Green Report năm 1994
Sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động phi nông nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội để lao động nông thôn tiếp cận việc làm, dẫn đến thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao động ở nông thôn.
Sản nghiệp hóa nông nghiệp: Trung Quốc đưa ra chính sách “sản nghiệp hóa nông nghiệp” nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn. Sản nghiệp hóa nông nghiệp là việc tổ chức kết hợp giữa hộ nông dân với công ty hoặc hộ nông dân kết hợp với tập thể, hộ nông dân cùng với các tổ chức kinh tế khác tiến hành liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, kết hợp giữa nông nghiệp - công nghiệp và thương mại, kết nối các khâu thành một dây chuyền. Sản nghiệp hóa nông nghiệp có 5 đặc trưng chủ yếu:
Thứ nhất, tạo ra mối liên kết giữa các ngành nông nghiệp, ngành nông nghiệp và thương mại, công nghiệp tiên tiến và công nghiệp truyền thống, hộ sản xuất với thị trường, thành thị với nông thôn. Đồng thời thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất, dịch vụ hoá xã hội, kết nối các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thành một dây chuyền để hợp tác và phát triển.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh tế bằng cách chuyên môn hoá các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, xác định vai trò quan trọng của thị trường, với quan điểm sản xuất hàng hoá là để trao đổi trên thị trường.
Thứ tư, sử dụng các biện pháp quản lý theo kiểu công nghiệp để quản lý nông nghiệp từ đó làm cho lối sản xuất phân tán, tiểu nông của các hộ nông nghiệp đi vào tiêu chuẩn hoá. Đồng thời thực hiện tốt việc tiêu thụ hàng nông sản để tối đa lợi nhuận cho người nông dân.
Thứ năm, cung cấp dịch vụ toàn diện cho sản nghiệp hoá bằng cách đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ.
Chính sách sản nghiệp hóa nông nghiệp đã mang lại cho Trung Quốc những thành tựu quan trọng. Từ năm 1997 đến 2001 số tổ chức kinh doanh sản nghiệp hóa nông nghiệp đã tăng từ 11834 lên hơn 66000, đến năm 2002 số các tổ chức sản nghiệp hóa đã lên tới 94000. Các tổ chức sản nghiệp hóa nông nghiệp đã thu hút được 7,2 triệu hộ nông dân tham gia (chiếm 30,5% tổng số hộ nông dân của Trung Quốc). Hệ quả của nó là sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động ngành nông nghiệp từ đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành của Trung Quốc.
2.4.2 Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Hàn Quốc
Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược tập trung mọi nguồn lực cho phát triển công nghiệp và nhờ công nghiệp phát triển để tích luỹ cho nền kinh tế từ đó làm tiền đề cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Với cách làm này, Hàn Quốc không chỉ giải được bài toán về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội. Nông thôn Hàn Quốc có những thay đổi rất lớn về kinh tế và xã hội do hệ quả của tăng trưởng kinh tế nhanh. Kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp, hướng vào xuất khẩu đã tạo điều kiện thu hút một lượng lớn lao động nông thôn ra thành thị, giải quyết cơ bản tình trạng thất nghiệp ở nông thôn đồng thời đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Sở dĩ có thể đạt được những thành công nhưng vậy là vì Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt các chính sách đúng đắn:
Rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp: Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, từ đó rút dần lao động ra khỏi nông nghiệp. Chính sách này tập trung thực hiện ba chương trình lớn: Chương trình hỗ trợ trang trại gia đình; Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp và Chương trình hỗ trợ giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của chính sách này là bảo vệ và hỗ trợ cho các nhà kinh doanh nông nghiệp có trình độ, kỹ năng canh tác; các công ty kinh doanh nông nghiệp, những người có khả năng thúc đẩy năng suất và quản lý việc canh tác một cách hiệu quả.
Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Đẩy mạnh phong trào làng mới (Saemaul Undong) nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Chương trình tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng giúp cho việc hình thành các doanh nghiệp nhỏ đồng thời làm tăng năng suất nông nghiệp, ổn định đời sống của người dân, giải quyết các mâu thuẫn khi lao động được rút sang hoạt động phi nông nghiệp. Chương trình Làng mới sử dụng phương pháp tiếp cận từ trên xuống trong lập kế hoạch nhưng triển khai thực hiện lại từ dưới lên một cách dân chủ với sự tham gia đóng góp tài chính của người dân, Nhà nước đầu tư một lượng nhỏ ban đầu.
Phát triển công nghiệp hóa nông thôn: Có chính sách khuyến khích phát triển các hoạt động này để thu hút lao động nông nhàn. Khuyến khích các hoạt động chế biến nông sản và các tài nguyên thiên nhiên tại địa phương. Chính phủ có vai trò cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật cho các hoạt động tạo việc làm phi nông nghiệp và tổ chức sản xuất theo hình thức hợp tác.
Mặt khác, khuyến khích các nhà máy chuyển về khu vực nông thôn để giải quyết việc làm và tạo thêm thu nhập phi nông nghiệp cho nông dân; chính phủ đã ra kế hoạch đưa ít nhất một nhà máy về một làng. Những nhà máy này được nhận các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng nhà máy và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, chính sách này đã không đạt được mục tiêu đã đề ra do chi phí quá cao về xây dựng cơ sở hạ tầng, khó khăn trong maketing và các yếu tố khác như tiếp cận các dịch vụ về ngân hàng, vấn đề chất lượng lao động.
Phát triển cụm công nghiệp nông thôn những năm 80: Rút ra bài học kinh nghiệm từ chính sách đưa các nhà máy về khu vực nông thôn, dự án phát triển cụm công nghiệp ở nông thôn giúp giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, giảm được chi phí hoạt động nhờ sử dụng các trang thiết bị dùng chung. Chính quyền địa phương thiết kế và xây dựng các cụm công nghiệp theo quy định của luật pháp, sau đó bán mặt bằng trong cụm công nghiệp cho nhà đầu tư đến xây dựng nhà máy. Các doanh nghiệp thuộc cụm công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế trong một số năm, được nhận hỗ trợ tài chính từ Chính phủ. Các dự án phát triển cụm công nghiệp nông thôn đã góp phần rất quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn Hàn Quốc.
2.4.3 Bài học về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cho các địa phương ở Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn của Trung Quốc, Hàn Quốc chúng ta rút ra một số bài học như sau:
- Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá, do đó cần phải đáp ứng các vấn đề mới phát sinh của quá trình này. Trong điều kiện hiện nay, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa gắn với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng của đất nông nghiệp. Một trong những vấn đề đặt ra là di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động ở những khu vực có đất thu hồi.
- Một bộ phận nông dân không còn đất hoặc còn rất ít đất để sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lại chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng về chuyển đổi nghề nghiệp nên dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, ngoài chính sách đền bù khi thu hồi đất, cần có các giải pháp hỗ trợ về đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề nghiệp.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động phải đảm bảo phù hợp với cơ cấu kinh tế không chỉ về số lượng mà về cả chất lượng nguồn nhân lực.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào đẩy nhanh khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. Cần đặc biệt chú ý đến phát triển khoa học công nghệ, có chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể và trong từng thời kỳ cụ thể.
- Chính sách phát triển công nghiệp cần chú ý giữa bố trí công nghiệp tập trung hay phân tán, mức độ tập trung hay phân tán của bố trí quy hoạch công nghiệp ảnh hưởng mạnh tới chuyển dịch cơ cấu lao động và dòng dân di cư. Theo kinh nghiệm của Hàn quốc, việc bố trí các doanh nghiệp về nông thôn ngoài tác động tạo việc làm cho lao động nông thôn nhưng cũng có thể làm cho giá thành sản xuất của các doanh nghiệp này tăng cao nếu không đi đồng bộ với cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ đi kèm khác và như thế có thể dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững của công nghiệp hóa nông thôn.
- Tăng cường kết nối giữa thành thị - nông thôn, công nghiệp - nông nghiệp, sản xuất - thị trường.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm của các nước là hết sức cần thiết. Với nhiều điểm tương đồng, chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng những kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc vào thực tế của Việt Nam nói chung và một số địa phương nói riêng.
Phần 3
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng -._.át triển không gian kinh tế, quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị, các trung tâm dịch vụ, vui chơi giải trí… gắn kết phát triển công nghiệp ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp với phát triển công nghiệp và nông nghiệp nông thôn.
(iii) Tiếp tục mở rộng các KCN, CCN
Trong những năm tới, tập trung xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp đã được phê duyệt. Triển khai thực hiện quy hoạch và đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp tập trung: Yên Phong (340,7 ha), Quế Võ II (500 ha), Yên Phong II (300ha), Thuận Thành (200 ha), Đại Đồng – Hoàn Sơn II (300ha), Nam Sơn – Hạp Lĩnh (200ha) và mở rộng khu công nghiệp Tiên Sơn giai đoạn III (100ha).
Hoàn thiện và phát triển 25 KCN làng nghề và cụm công nghiệp vừa và nhỏ hiện có, đến năm 2010. Bắc Ninh cần hoàn thiện quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp làng nghề và cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các huyện, có quy mô từ 5 - 20 ha, thu hút những cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. Quy hoạch mở rộng và quy hoạch mới các KCN làng nghề, cụm công nghiệp để đến 2010 trên địa bàn tỉnh cần có 54 khu với tổng diện tích 1780,2 ha, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương đầu tư phát triển.
(iiii) Khắc phục những khó khăn và hạn chế trong phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
Thực hiện tốt khâu giải phóng mặt bằng, đền bù cho người dân nơi thu hồi đất. Giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa các bên.
Xây dựng hệ thống hạ tầng ngoài hàng rào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đặc biệt là nhà ở cho lao động và các dịch vụ phục vụ lao động.
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư, đẩy mạnh xây dựng môi trường đầu tư.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng, quản lý và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
4.5.3 Phát triển mạnh các ngành thương mại - dịch vụ
Khuyến khích đầu tư phát triển các ngành dịch vụ có khả năng thu hồi vốn nhanh như du lịch, dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông. Phát huy mọi nguồn lực của Nhà nước và xã hội để phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ đáp ứng sự phát triển nhằm phục vụ cho nhu cầu giáo dục, y tế và thể thao. Mở rộng các dịch vụ phục vụ đời sống công cộng và sinh hoạt gia đình. Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đa dạng hóa thị trường, nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ. Tăng nhanh lưu thông hàng hoá nhất là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa ở các vùng sâu vùng xa và các vùng đặc biệt khó khăn. Mở rộng thị trường nông thôn tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong tỉnh. Phát triển các điểm du lịch, xây dựng các dự án đầu tư theo quy hoạch, sớm hình thành các khu du lịch tầm cỡ của tỉnh, cải thiện cơ sở hạ tầng đến các điểm du lịch tham quan. Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu chính, viễn thông, tin học. Cụ thể:
Xây dựng hai trung tâm thương mại tại thành phố Bắc Ninh và huyện Từ Sơn làm đầu mối liên kết và cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn sản xuất và làm cầu nối giữa sản xuất- tiêu dùng.
Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp thương mại quốc doanh về tổ chức, mạng lưới, lao động và phương thức hoạt động đảm bảo văn minh thương mại.
Nâng cấp hệ thống chợ nông thôn, mở rộng phát triển hợp tác xã thương mại - dịch vụ ở các huyện và thành phố. Hình thành các kênh lưu thông hàng hoá theo hướng gắn sản xuất với thị trường.
Xây dựng các doanh nghiệp chủ lực để áp dụng hình thức kinh doanh hiện đại. Nghiên cứu thị trường hình thành phát triển các kênh lưu thông hàng hoá theo hướng gắn sản xuất với thị trường, nhằm hướng dẫn sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đổi mới công tác quản lý nhà nước về thương mại - dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đồng thời giúp các doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi và đạt hiệu quả.
4.5.4 Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp
Việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Năng suất lao động tăng lên dẫn đến sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng, trong khi đó số lượng lao động được sử dụng ngày càng giảm. Từ đó tạo điều kiện để giải phóng lao động trong ngành nông nghiệp. Việc rút lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ làm cho cơ cấu lao động theo ngành có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý, tăng tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ, và giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp.
Để tăng năng suất lao động trong nông nghiệp cần thực hiện hai biện pháp cơ bản như sau:
(i) Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu:
Cơ giới hoá: Các hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào lao động thủ công, kỹ thuật lao động vì vậy năng suất lao động thấp. Cơ giới hoá không những giảm nhẹ sức lao động của người lao động mà còn nâng cao năng suất lao động.
Thủy lợi hoá: Do đặc trưng của sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên việc đẩy mạnh thuỷ lợi hoá là yếu tố quan trọng để hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên.
Ứng dụng công nghệ sinh học: Việc ứng dụng công nghệ sinh học sẽ đem lại những lợi ích to lớn, vừa tạo ra nhiều sản phẩm mới vừa nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời nâng cao năng suất lao động.
(ii) Nâng cao trình độ chuyên môn cho lao động nông nghiệp
Lao động nông thôn có đặc điểm là trình độ học vấn thấp và phần lớn không được qua đào tạo. Đây chính là trở ngại trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Vì vậy, nâng cao trình độ chuyên môn cho lao động nông nghiệp là một trong những nhân tố quyết định đến việc khả năng tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Muốn nâng cao trình độ cho lao động nông nghiệp cần có chính sách giáo dục, đào tạo có tính đặc thù cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, việc mở các lớp dạy nghề cho nông dân đặc biệt là khu vực có đất thu hồi là rất cần thiết.
4.5.5 Đào tạo nghề cho người lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có mối quan hệ hữu cơ không tách rời. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là yếu tố, là điều kiện không thể thiếu để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đòi hỏi cơ cấu lao động phải chuyển dịch về số lượng và chất lượng. Với quy mô như hiện nay và theo kết quả dự báo đến năm 2020, nguồn nhân lực của Bắc Ninh có thể đáp ứng tốt yêu cầu về số lượng lao động cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để giải quyết vấn đề này cần thiết phải có giải pháp đào tạo nghề cho người lao động:
4.5.5.1 Thực hiện phổ cập trung học cơ sở và phát triển giáo dục trung học phổ thông
Việc phổ cập trung học cơ sở và phát triển giáo dục trung học phổ thông nhằm tạo tạo tiền để, tạo nguồn để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Do vậy, đòi hỏi phải nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, nhận thức của gia đình và các cá nhân trong xã hội về tầm quan trọng của nó.
Phát triển mạng lưới các trường THCS, THPT kể cả khu vực ngoài công lập về số lượng và chất lượng.
Tăng cường công tác bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên đồng thời giải quyết vấn đề chất lượng ngay từ khâu xét tuyển giáo viên vào các trường của tỉnh.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác dạy và học của các trường đặc biệt là các trường ngoài công lập.
4.5.5.2 Phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS và THPT
Thông qua hệ thống các phương tiện truyền thông, các trường tuyên truyền cho các bậc phụ huynh, các em học sinh thấy được sự cần thiết và lợi ích của việc lựa chọn con đường học tập cho phù hợp, đại học không phải con đường duy nhất có thể dẫn tới thành công.
Tạo điều kiện cần thiết để thu hút số lượng lớn học sinh sau khi tốt nghiệp vào học tại các trường dạy nghề trong tỉnh.
4.5.5.3 Xây dựng và thực hiện quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề và kế hoạch đào tạo nghề
Xây dựng mạng lưới và kế hoạch đào tạo nghề trên cơ sở nhu cầu đào tạo nghề phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Phát triển đào tạo nghề theo hướng xã hội hoá, đa dạng hoá, hiện đại hóa không ngừng nâng cao chất lượng. Mở rộng hệ thống các cơ sở đào nghề công lập và ngoài công lập, khuyến khích việc đầu tư xây dựng các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh.
Quy hoạch mạng lưới dạy nghề chú trọng đến việc mở rộng quy mô nhưng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng trọng đào tạo nghề.
Mạng lưới đào tạo nghề được quy hoạch trên cơ sở nhu cầu của các địa phương nhằm tạo điều kiện thuận cho người dân tham gia học nghề. Thành lập các trường, các trung tâm dạy nghề tại các địa phương có nhu cầu đào tạo lớn, có tiềm năng phát triển.
Tăng nhanh số lượng lao động được đào tạo nghề thuộc các nhóm ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn.
Phát triển mạng lưới đào tạo nghề trên cơ sở đảm bảo cơ cấu về trình độ và phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và nhịp độ phát triển kinh tế của tỉnh.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở dạy nghề, truyền nghề thủ công, nghề truyền thống ở khu vực nông thôn.
Khuyến khích việc đào tạo các nghề mới xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch đào tạo nghề. Việc lập kế hoạch phải dựa trên các phương pháp hiện đại và nhu cầu của tỉnh trên cơ sở khai thác được năng lực, thế mạnh của các cơ sở đào tạo.
4.5.5.4 Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nghề
Xây dựng nội dung và mục tiêu chương trình đào tạo dựa trên kết quả phân tích nghề theo phương pháp DACUM (xác định tên nghề, các nhiệm vụ của nghề, các công việc cần thực hiện trong nhiệm vụ của nghề, đánh giá mức độ quan trọng của nhiệm vụ và công việc của nghề, sắp xếp nhiệm vụ và công việc của nghề theo thứ tự quan trọng, phân tích chi tiết công việc thành các bước cụ thể thực hiện theo tiêu thức xác định)
Cải tiến nội dung chương trình, giáo trình. Áp dụng cấu trúc đào tạo theo Module. Đầu tư kinh phí xây dựng các chương trình đào tạo nghề theo Module kỹ năng thực hành nghề.
Nội dung và chương trình đào tạo gắn với công nghệ, phương pháp sản xuất đang được áp dụng trong thực tế đồng thời tính đến xu hướng phát triển trong tương lai.
Phối hợp với các địa phương xây dựng chương trình nội dung dạy nghề đối với các ngành nghề truyền thống, nghề thủ công mỹ nghệ.
Tăng cường thực hành, làm việc trọng công tác dạy và học. Sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá thực hiện thông qua sản phẩm và tiêu chuẩn.
4.5.5.5 Tăng cường đầu tư vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở dạy nghề
Tùy theo quy mô và nội dung đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải có đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cho phù hợp.
Cơ sở dạy nghề phải có đủ diện tích cần thiết: diện tích phòng học, xưởng thực hành, thư viện, ký túc xá, …
Trang thiết bị dạy nghề phải đủ về số lượng và chủng loại tương ứng với quy mô và yêu cầu về chất lượng của đào tạo. Máy móc, thiết bị dạy nghề phải phù hợp với nghề đang được đào tạo cũng như phù hợp với trình độ khoa học công nghệ hiện có của nền kinh tế. Tránh tình trạng máy móc thiết bị của các xưởng thực hành quá lạc hậu không phù hợp với yêu cầu thực tế, dẫn đến người học nghề không được tiếp cận với các công nghệ mới.
Chuẩn hóa hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy. Có kế hoạch thường xuyên cập nhật tri thức mới đưa vào giảng dạy.
Xây dựng và nâng cấp thư viện, thường xuyên cập nhật các loại sách, tạp chí, tài liệu tham khảo… tạo điều kiện thuận lợi cho người học khi học tập và nghiên cứu.
Ngoài việc đầu tư nâng cấp cho tất cả các cơ sở dạy nghề trong tỉnh cần phải chú trọng tập trung vào một số cơ sở điểm. Xây dựng các cơ sở có năng lực tương đương với các cơ sở đào tạo mạnh trong cả nước và khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác đào tạo nghề.
4.5.5.6 Gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm
Đào tạo nghề phải thực sự gắn với thị trường lao động, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Tạo điều kiện cho người học nghề có cơ hội tìm được việc làm sau khi ra trường. Do vậy, các cơ sở đào tạo nghề phải có sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp, các trung tâm giới thiệu việc làm nhằm giải quyết tốt khâu đầu ra cho người học nghề. Để làm được điều đó phải làm tốt những việc sau:
Quy mô, cơ cấu trình độ đào tạo nghề phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động trong từng giai đoạn. Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề dựa trên những căn cứ khoa học và điều kiện thực tế của địa phương: nhu cầu công nhân kỹ thuật từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; nhu cầu CNKT từ các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp; nhu cầu CNKT cho xuất khẩu lao động …
Phát triển linh hoạt các mô hình đào tạo nghề, trong đó người học nghề vừa học vừa có thể làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh. Mở rộng hình thức đào tạo nghề bằng việc ký kết hợp đồng đào tạo giữa cơ sở đào tạo nghề với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Liên kết chặt chẽ với các trung tâm giới thiệu việc làm nhằm xác định nhu cầu của thị trường lao động về số lượng lao động, cơ cấu lao động theo nghề, cơ cấu lao động theo trình độ. Từ đó có kế hoạch trong việc tuyển sinh và đào tạo cho phù hợp.
Tổ chức hội chợ việc làm, sàn giao dịch để các cơ sở dạy nghề, người học nghề, các doanh nghiệp, trung tâm giới thiệu việc làm có cơ hội tiếp cận và tìm hiểu nhu cầu của các bên.
4.5.5.7 Tăng cường công tác tuyên truyền về đào tạo nghề
Đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về vai trò, vị trí của công nhân kỹ thuật trong phát triển kinh tế xã hội; lợi ích khi được học nghề…
Giới thiệu về các cơ sở đào tạo nghề đặc biệt là các cơ sở đào tạo nghề có uy tín và chất lượng cao. Phân tích để người lao động thấy được cơ hội tìm được việc làm sau khi được đào tạo nghề, từ đó tác động đến nhận thức của người lao động đối với việc học nghề.
Tổ chức các hoạt động hướng nghiệp, tư vấn nghề nghiệp cho thanh niên nhất là thanh niên khu vực nông thôn.
4.5.5.8 Kiểm định chất lượng đào tạo nghề
Kiểm định chất lượng đào tạo nghề là khâu có ý nghĩa rất quan trọng, đây là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các địa phương và cả tỉnh. Do vậy, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí và cách thức kiểm định chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề, từ đó phát hiện các cơ sơ đào tạo nghề không đủ tiêu chuẩn và có biện pháp thích hợp để xử lý.
4.5.6 Nâng cao chất lượng hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm
Với vai trò trung gian trên thị trường lao động, nâng cao chất lượng các trung tâm giới thiệu việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khắc phục sự trì trệ của thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình di chuyển lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Với vai trò đó mục đích của hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm đó là phát triển thị trường lao động, cung cấp những thông tin cơ bản nhất về cung cầu trên thị trường lao động và là trung gian tích cực giữa người lao động, người sử dụng lao động và các trung tâm đào tạo nghề. Để nâng cao chất lượng các trung tâm giới thiệu việc làm cần phải giải quyết những vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức về hoạt động giới thiệu việc làm, coi đây là yếu tố quan trọng để phát triển thị trường lao động, sự hình thành và phát triển của nó là yêu cầu khách quan của thị trường lao động cả trước mắt và lâu dài, góp phần thúc đẩy sự phát triển, xúc tiến và chắp nối việc làm, chủ động cung ứng lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng vùng và cả nước. Vì vậy cần phải có sự quan tâm, tạo điều kiện và hỗ trợ của các cấp, các ngành và các tổ chức đối với sự hình thành và phát triển của hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm.
Quy hoạch hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm trên cơ sở nhu cầu của thị trường lao động, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và khả năng thực tế của các trung tâm trên địa bàn tỉnh. Đồng thời tiếp tục khai thác các nguồn lực để đầu tư cho các trung tâm. Việc đầu tư cần đảm bảo tập trung, tránh dàn trải và hướng chủ yếu vào thực hiện các nhiệm vụ chính và gắn với kết quả hoạt động của các trung tâm. Việc xây dựng các trung tâm cũng cần phải đảm bảo tính khoa học, phù hợp với từng hoạt động ở các khu vực như: khu vực chờ của người tìm việc, khu vực phỏng vấn, khu dành cho người lao động và doanh nghiệp khai thác thông tin.
Tăng cường công tác đào tạo và sử dụng cán bộ giới thiệu việc làm, việc đào tạo phải gắn với các nhiệm vụ và thực hiện theo các cách thức phù hợp (các khoá tập huấn ngắn hạn và đào tạo dài hạn tập trung); biên soạn cẩm nang về việc làm và tìm kiếm việc làm; có chính sách thoả đáng đối với những cán bộ giới thiệu việc làm.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống phần mềm về dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin thị trường lao động, kết nối giữa các trung tâm tạo điều kiện tìm kiếm trao đổi thông tin về lao động, việc làm. Nghiên cứu và đầu tư xây dựng phần mềm trắc nghiệm đánh giá khả năng của từng người lao động để giúp cho việc tư vấn nghề nghiệp và tìm việc làm. Đầu tư xây dựng website về việc làm tạo điều kiện thuận lợi để người lao động và người sử dụng lao động tiếp cận với các thông tin về lao động, việc làm.
Đẩy mạnh hợp tác với các trung tâm giới thiệu việc làm trong cả nước, các tổ chức có liên quan, tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức trong và ngoài nước, tiếp thu kinh nghiệm về giới thiệu việc làm.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp trong việc chia sẻ và khai thác có hiệu quả các thông tin trên thị trường lao động.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giới thiệu việc làm, kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan chủ quản của các trung tâm để quản lý hoạt động giới thiệu việc làm, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra để thực hiện đúng các quy định và xử lý nghiêm các vi phạm của các trung tâm cũng như doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm. /.
4.5.7 Giải quyết việc làm cho lao động trong khu vực có đất thu hồi
Một trong những vấn đề then chốt trong chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở khu vực nông thông đó là di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp. Một trong những hệ quả của phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đó là tình trạng dư thừa lao động ở khu vực nông thôn, đặc biệt là những khu vực có đất thu hồi. Giải quyết việc làm cho người lao động ở những nơi có đất thu hồi là yêu cầu khách quan. Một mặt, khắc phục những tác động tiêu cực đến xã hội; mặt khác, đây cũng chính là điều kiện quyết định cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở các địa phương nói riêng và của tỉnh nói chung.
Để giải quyết việc làm cho lao động có đất thu hồi đòi hỏi phải có những giải pháp cấp bách:
Tiếp tục thực hiện đầy đủ các chính sách về bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ dân có đất thu hồi. Rà soát các chính sách hiện hành để có cơ sở bổ sung, điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Có chính sách hỗ trợ về học nghề cho người lao động, lập quỹ hỗ trợ đào tạo cho người lao động có đất thu hồi. Mở các lớp học nghề, hướng nghiệp miễn phí tại các địa phương có đất thu hồi giúp người lao động trong khu vực này có điều kiện chuyển đổi nghề và ổn định cuộc sống.
Một mặt, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực này; mặt khác, phải hoàn thiện các quy định hiện hành về việc nhận người lao động vào làm việc tại các khu công nghiệp tại địa phương.
4.5.8 Tăng cường xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài vừa có ý nghĩa trong việc tăng thu nhập cho người dân, vừa có ý nghĩa trong việc giải quyết việc làm chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Về cơ bản, đối tượng tham gia xuất khẩu lao động chủ yếu là người lao động hoạt động trong khu vực nông nghiệp. Vì vậy, xuất khẩu lao động trực tiếp tác động đến lao động của ngành nông nghiệp mà cụ thể là rút bớt lao động của ngành này từ đó có tác dụng làm giảm tỷ trọng lao động của ngành này trong nền kinh tế. Hơn nữa, với nguồn ngoại tệ thu được, xuất khẩu lao động còn tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, từ đó tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở các địa phương.
Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở các địa phương cần phải giải quyết những vấn đề sau:
Trước hết, phải tạo được nhận thức đúng đắn trong các cấp chính quyền về vai trò, ý nghĩa của xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đó thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền, đoàn thể, người lao động và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Nâng cao nhận thức của người dân đối với xuất khẩu lao động, cho họ thấy được những lợi ích mà xuất khẩu lao động đem lại. Tuyên truyền cho họ hiểu biết về hoạt động xuất khẩu lao động, quy trình xuất khẩu lao động để tránh bị các đổi tượng xấu lợi dụng khi họ muốn tham gia xuất khẩu lao động
Chú trọng khâu giáo dục định hướng cho người lao động trước khi tham gia xuất khẩu: pháp luật, ngoại ngữ, văn hoá, phong tục của nước mà người lao động sẽ đến. Một vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay là tình trạng bỏ chốn, phá hợp đồng lao động khi xuất khẩu lao động. Vấn đề này đã tác động xấu và làm giảm khả năng khai thác các thị trường xuất khẩu lao động. Do vậy, vấn đề giáo dục pháp luật xuất khẩu lao động cho người lao động phải được nhận thức là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đây là một yếu tố quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khai thác thị trường của tỉnh. Để làm được điều này các cấp chính quyền, các đoàn thể phải tích cực tham gia phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích người lao động tham gia xuất khẩu. Hỗ trợ tài chính cho các đối tượng tham gia xuất khẩu đặc biệt là các đối tượng thuộc diện ưu tiên và mở rộng hỗ trợ thêm các đối tượng khác.
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động. Tăng cường phối hợp giữa các ngành các cấp, và người dân trong việc phòng, chống các hành vi tiêu cực trong xuất khẩu lao động, vi phạm pháp luật xuất khẩu lao động.
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế là yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua, đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Mặc dù đã gặt hái được những thành công nhất định, song quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vẫn còn nhiều bất cập, tác động không tốt đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Với nghiên cứu “Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020 “, luận văn đã góp phần làm rõ một số vấn đề sau:
Với những nội dung trình bày ở phần 2, Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề có tính chất lý luận và phương pháp luận về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành: các khái niệm, mối quan hệ biện chứng giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành; các nhân tố tác động, xu hướng và phương pháp luận đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Mặt khác, Luận văn cũng minh chứng về sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành tại các địa phương thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Trung Quốc và Hàn Quốc.
Bằng việc sử dụng các tư liệu, số liệu đáng tin cậy kết hợp với các công cụ phân tích thống kê, trên cơ sở vận dụng hệ thống lý luận ở phần 2, Luận văn đã phân tích thực trạng, tổng kết các thành tựu và hạn chế, đồng thời chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở Bắc Ninh giai đoạn 1997 – 2007.
Từ việc phân tích thực trạng, Luận văn đã đưa ra những kết luận quan trọng về quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 – 2007:
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành khá phù hợp với chuyển dịch cơ cấu ngành. Thứ hai, với mức GDP bình quân đầu người như hiện nay thì cơ cấu lao động theo ngành còn có điểm bất hợp lý. Thứ ba, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành diễn ra tương đối nhanh, sự thay đổi tỷ trọng lao động của các ngành tương đối lớn nhưng tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp vẫn chiếm quá lớn chứng tỏ cơ cấu lao động theo ngành của Bắc Ninh vẫn ở trình độ thấp và lạc hậu.
Đồng thời, Luận văn cũng chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành của Bắc Ninh những năm qua đó là: Quá trình phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp còn nhiều hạn chế; tốc độ phát triển ngành dịch vụ còn chậm và không ổn định; công tác đào tạo nghề còn rất nhiều bất cập; năng lực của các trung tâm giới thiệu việc làm còn nhiều hạn chế.
Cuối cùng, xuất phát từ những căn cứ mang tính thực tiễn kết hợp với các nội dung đã được làm rõ trong phần 2 và phần 3, Luận văn đã đưa ra những định hướng, mục tiêu và các giải pháp cụ thể góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
5.2 Kiến nghị
- Tỉnh Bắc Ninh cần phải coi chiến lược tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược cơ cấu ngành. Từ trước đến nay, mối liên hệ quan trọng hàng đầu này thường bị bỏ qua. Do vậy, kết quả của chuyển dịch cơ cấu lao động thường bị tụt hậu so với chuyển dịch cơ cấu ngành theo sản lượng.
- Cần có định hướng ưu tiên phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động bằng cách đưa tiêu chuẩn “sử dụng nhiều lao động” thành một tiêu chuẩn ưu tiên khuyến khích số một, thậm chí mang tính bắt buộc của việc phê duyệt các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với yêu cầu việc làm của người lao động, đặc biệt là lao động trẻ và lao động khu vực bị giải toả đất nông nghiệp. Trong đó, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, xây dựng các mô hình đào tạo liên thông, cần đặc biệt đào tạo nghề trình độ cao để đáp ứng cho các khu chế xuất, khu công nghệ cao và một phần cho xuất khẩu lao động, đồng thời phổ cập nghề cho số lao động đại trà ở trình độ thấp.
- Thúc đẩy quá trình đa dạng hoá ngành nghề, nhất là phát triển các ngành nghề truyền thống sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nhất là hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chuyển dịch cơ cấu lao động tạo việc làm thời kỳ 2001 – 2010, Hà Nội.
2. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại, Bắc Ninh thế và lực trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Cục Thống kê Bắc Ninh (2007), Bắc Ninh thế và lực 1997 – 2007, Nxb Bản đồ, Hà Nội
4. Cục Thống kê Bắc Ninh (2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006,2007), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh, Nxb Thống kê, Hà Nội
5. Trần Xuân Cầu và tập thể tác giả (2002), Phân tích lao động xã hội, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
6. Mai Quốc Chánh, Trần Xuân Cầu, Kinh tế lao động, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Sinh Cúc (2005), "Các giải pháp kinh tế - xã hội đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động tại Việt Nam", Lao động và Xã hội, (256), 56 - 57.
8. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Các căn cứ lý luận và thực tiễn để đổi mới chính sách và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn (Thuộc Chương trình trọng điểm cấp Bộ 2002 - 2003), Hà Nội
9. Trần Đại, Lê Huy Đức, Lê Quang Cảnh (2003), Dự báo phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Tạ Đăng Đoan (2007), Một số giải pháp nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các làng nghê tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2007 – 2015, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh quốc tế, Hà Nội.
13. Nguyễn Đại Đồng (2005), "Vĩnh Phúc đẩy mạnh dạy nghề và giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp", Lao động và Xã hội, 265, 2 - 4.
14. Lê Huy Đức (2005), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Phạm Ngọc Kiểm (2002), Phân tích kinh tế xã hội và lập trình, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
16. Ngô Thắng Lợi và tập thể tác giả (2002), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. Phan Công Nghĩa, Bùi Huy Thảo, Thống kê kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Vũ Thị Ngọc Phùng và tập thể tác giả (2005), Kinh tế phát triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
19. Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt Nam – Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, tr 306.
20. Phạm Đức Thành – Lê Doãn Khải (2002), Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, Nxb Lao động, Hà Nội.
21. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
22. Michael P. Todaro (1998), Kinh tế học cho Thế giới thứ 3 (Trần Đoàn Kim, Nguyễn Quang Đức, Đặng Như Vân, Nguyễn Lâm Hoè dịch từ Tiếng Anh), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17, Bắc Ninh.
24. Hoàng Đình Tuấn (2003), Lý thuyết mô hình toán kinh tế, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
25. Trường Đại học Lao động – Xã hội (2005), Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hoá gắn với CNH-HĐH trên địa bàn Hà Nội. Đề tài cấp Thành Phố, mã số TC-XH/10-03-02, Hà Nội.
26. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2005), Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, Bắc Ninh.
27. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, Bắc Ninh.
28. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2002, 2003, 2004, 2005), Thực trạng Lao động việc làm ở Bắc Ninh, Bắc Ninh.
29. Viện nghiên cứu con người (2004), Quản lý nguồn nhân lực Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2006), Báo cáo các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Hà Nội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NGUYEN MANH HUNG (NOP).doc