Mục lục
Trang
Mục lục
1
Lời nói đầu
5
Chương I: Cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và Công ty cổ phần
10
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
10
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
11
3. Những đặc điểm cơ bản c
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu tăng cường hoạt động tiêu thụ tại Công ty Xăng dầu Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa cổ phần hoá trong nông nghiệp
11
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị doanh nghiệp
12
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân còn gặp nhiều khó khăn
12
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
13
4. Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
13
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển kinh tế
16
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
17
4.3. Nâng cao tiềm lực kinh tế Nhà nước
17
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
18
4.5. Tạo động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
18
5. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá và quá trình thực hiện
19
5.1. Những chủ trương chính sách
19
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện
29
6. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới
35
6.1. CPH ở Trung Quốc
35
6.2. CPH ở các nước ASEAN
37
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về CPH có thể áp dụng trong việc thực hiện CPH DNNN chế biến thực phẩm xuất khẩu
38
Chương II: Thực trạng tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
40
I. Chủ trương của Tỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
40
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Tỉnh quản lý
40
2. Những biện pháp thực hiện
41
II. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
43
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
43
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
43
1.2. Bộ máy tổ chức
44
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay
44
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty
45
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
47
2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến tiến trình CPH
47
2.1. Vị trí địa lí của Công ty
47
2.2. Đặc điểm về lao động
48
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh
49
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí
50
3. Thực trạng quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
50
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TP XK Bắc Giang
50
3.2.Quá trình thực hiện CPH
54
3.3.Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi thực hiện CPH
55
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
69
I. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu cổ phần hoá của Công ty
69
1. Quan điểm của Công ty
69
2. Phương hướng và mục tiêu cổ phần hoá của Công ty
69
2.1. Phương hướng CPH của Công ty
69
2.2. Mục tiêu CPH của Công ty
70
II. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
70
1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong Công ty
70
2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính của Công ty trước khi cổ phần hoá
72
2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính
72
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp
73
2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ
75
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp
75
4. Giải quyết vấn đề lợi ích cho người lao động
78
5.Tổ chức thực hiện đúng quy trình cổ phần hoá theo các văn bản hiện hành
80
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách
80
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH
81
6.2.Thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay
81
6.3. Đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH
82
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp
83
6.5. Tạo môi trường thúc đẩy CPH
83
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu cổ phần hoá
84
Kết luận
88
Danh mục tài liệu tham khảo
89
Lời nói đầu
Trong tiến trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến hơn trong toàn xã hội. Những thành tựu của công cuộc đổi mới cho phép đông đảo quần chúng nhận thức ngày càng rõ hơn rằng bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, các hình thức sở hữu khác (tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự chủ quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người quản lý doanh nghiệp.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) những thành tựu đã đạt được đủ để chúng ta khẳng định rằng CPH là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách quan. Tuy nhiên xung quanh vấn đề CPH còn khá nhiều tồn tại như: Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, quy trình CPH còn phức tạp, ưu đãi dành cho người lao động và doanh nghiệp CPH chưa thoả đáng, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH còn gặp không ít khó khăn…. Vì vậy trong thời gian tới cần phải có giải pháp hoàn thiện để thúc đẩy CPH DNNN.
Sau một quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc Giang, Công ty đang tiến hành CPH. Từ điều kiện thực tế cộng với kiến thức hiểu biết của mình Em chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang” làm luận văn tốt nghiệp đại học.
Luận văn cố gắng đi sâu nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cổ phần hoá DNNN đặc biệt là cổ phần hoá trong lĩnh việc nông nghiệp. Đánh giá thực trạng quá trình CPH ở công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc Giang làm nổi bật nên những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong khi tiến hành CPH. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy CPH ở Công ty.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về CPH DNNN, tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ sau đổi mới đến nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu người viết đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra, phương pháp toán học, phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc CPH DNNN trong nông nghiệp
Chương II: Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang.
Do hạn chế về trình độ kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu nên đề tài khó trách khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chương I
Cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
Đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, trong đó có CPH, đang là vấn đề nóng bỏng, hết sức bức súc ở Việt Nam. Mặc dù chủ trương tiến hành CPH DNNN đã được đưa ra và thực hiện từ lâu, song đến nay tiến độ thực hiện còn rất chậm, ngay cả khi Chính phủ giao chỉ tiêu CPH cụ thể cho từng Bộ, ngành, địa phương. Chính vì vậy việc nghiên cứu về mặt lí luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn CPH DNNN trong và ngoài nước thời gian qua để tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ góp phần thúc đẩy quá trình CPH mà còn góp phần lí giải định hướng đổi mới DNNN và kinh tế Nhà nước nói chung.
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, DNNN trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng và phức tạp. Nó giữ vai trò quan trọng, quyết định và không thể thiếu được trong phát triển kinh tế ở tất cả các nước nhất là các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế đã chứng minh được rằng điều kiện để phát triển kinh tế đất nước là phải tăng được lượng cung về lương thực, thực phẩm bằng cách trực tiếp sản xuất hoặc có thể nhập khẩu từ các nước khác nếu không thể sản xuất hoặc không có lợi thế trong sản xuất nông nghiệp. Tuy có vai trò quan trọng như vậy, nhưng lâu nay nông nghiệp vẫn được coi là ngành sản xuất kém hiệu quả, vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, rủi ro lớn. Vì vậy, sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp không hấp dẫn được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cho nên việc tồn tại của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp là yêu cầu khách quan không chỉ vai trò của nông nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế mà còn là sự phát triển của hàng triệu hộ nông dân.
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt động theo phát luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.Từ khái niệm cho ta thấy những đặc trưng của kinh tế Nhà nước:
+ Là một tổ chức được Nhà nước thành lập bằng cánh đầu tư vốn (100% hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối) để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.
+ DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước.
+ DNNN có tư cách pháp nhân vì nó hội tụ đủ 4 điều kiện để trở thành pháp nhân theo quy định của pháp luật (được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự chụi trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập)
+ DNNN là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và cá nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi tài sản do doanh nghiệp quản lí.
1.2. Vị trí vai trò của DNNN trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mang tính chất hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát triển trong mối liên hệ hợp tác, liên kết cạnh tranh cùng nhau phát triển phù hợp với qui định pháp luật. Trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp luôn có vai trò đầu tầu, định hướng phát triển để xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng nên của xã hội đối với các sản phẩm nông nghiệp và không làm giảm khả năng cho sản phẩm trong tương lai. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp hiện nay có vị trí và vai trò chủ yếu sau.
- Định hướng, tạo tiềm lực cho Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước quyết định quỹ đạo phát triển của nông nghiệp nông thôn, đảm bảo duy trì cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự can thiệp của kinh tế Nhà nước bằng tiềm lực kinh tế của mình cũng như một số công cụ pháp luật làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động được thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà bản thân kinh tế thị trường không thể tự điều tiết được. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp là lực lượng xung kích trong việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện vai trò của mình thì bản thân kinh tế Nhà nước phải đủ mạnh, có thực lực thật sự để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Chúng ta không thể định hướng nền kinh tế bằng các công cụ phi kinh tế, bằng ý chí chủ quan và ý chí chính trị.
- Kinh tế Nhà nước nắm giữ các hoạt động quan trọng của nông nghiệp: Nông nghiệp là ngành cung cấp những sản phẩm tối cần thiết cho nhu cầu của con người, thiếu những sản phẩm này còn người không thể tồn tại và phát triển được. Những sản phẩm của nông nghiệp cho dù khoa học ngày nay rất phát triển nhưng cũng chưa thể tạo ra sản phẩm thay thế. Đối với nước ta nông nghiệp càng có vai trò quan trọng hơn khi hơn 70% dân số nước ta vẫn hoạt động trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp có những lĩnh vực rất nhạy cảm chỉ cần một sự tác động nhỏ là có thể ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của hàng triệu hộ nông dân. Những lĩnh vực như vậy không thể để cho các thành phần kinh tế khác kiểm soát được mà Nhà nước phải quản lí, kiểm soát chẳng hạn như sản xuất giống, phân bón, thuốc thú ý, hoạt động xuất nhập khẩu, thức ăn gia súc, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn… Tuy nhiên cũng không nên hiểu cứng nhắc là Nhà nước phải độc quyền trong lĩnh vực này mà nên hiểu Nhà nước kiểm soát hoạt động này, kết hợp cùng với các thành phần kinh tế khác phối hợp hoạt động sao cho có hiệu quả cao nhất.
- Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp có vai trò hỗ trợ kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, kinh tế hộ kinh doanh có hiệu quả, phải là đòn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ vào sản xuất, phát triển công nghệ chế biến để tiêu thụ nông sản, phải phát huy được vai trò là trung tâm công nghiệp dịch vụ, trung tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá. Hỗ trợ các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp khi cần thiết. Kinh tế Nhà nước phải là đầu tầu trong việc đưa nông nghiệp ra khỏi tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá, phải nắm giữ cho được đại bộ phận các mặt hàng chủ lực thiết yếu cho đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân.
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và CTCP
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
CPH DNNN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ DNNN (doanh nghiệp đơn sở hữu) sang Công ty cổ phần(CTCP) (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật DNNN sang doanh nghiệp hoạt động theo các quy định về CTCP trong luật doanh nghiệp. Do vậy, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng có sự chuyển biến từ Nhà nước độc quyền sang hoạt động theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường tuân theo các quy luật như cung cầu, giá cả, cạnh tranh…
Trong quá trình CPH, tài sản của Nhà nước được chuyển đổi sở hữu cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước, Nhà nước cũng giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho chính mình ở doanh nghiệp đó. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu.
Với những đặc trưng như vậy, giải pháp CPH là giải pháp quan trọng nhất trong công cuộc cải cách DNNN đang diễn ra hiện nay; giải tỏa được những khó khăn cho ngân sách Nhà nước, khuyến khích người lao động đóng góp tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ, vốn của họ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn CPH là giải pháp khắc phục những vấn đề khó khăn trong khu vực kinh tế Nhà nước.
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
Công ty cổ phần với tính cách là kết quả của việc CPH DNNN là công ty được thành lập trên cơ sở hợp tác của nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu có mệnh giá bằng nhau. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông là chủ sở hữu.
- Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau
- CTCP có tư cánh pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, cổ đông chỉ chịu tránh nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của phát luật về chứng khoán.
3. Những đặc điểm cơ bản của CPH trong nông nghiệp
CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là giải pháp trung tâm để sắp xếp và đổi mới hoạt động của kinh tế Nhà nước. Các DNNN trong nông nghiệp hầu hết không nằm trong danh mục những DNNN cần nắm giữ 100% vốn hoặc những DNNN cần nắm cổ phần chi phối. Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp nông nghiệp cần phải CPH là rất lớn. Để có thể chuyển nhanh các doanh nghiệp này sang hoạt động theo hình thức CTCP thì cần phải nghiên cưú kĩ những đặc điểm kinh tế kĩ thuật riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp mà có cách làm cho phù hợp.
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị của doanh nghiệp.
Khác với các ngành kinh tế khác trong nông nghiệp đất đai có vị trí đặc biệt quan trọng nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. Trong nông nghiệp đất đai là tài sản vô giá, không có đất đai thì không có hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. Điểm đặc biệt của loại tư liệu sản xuất này là nếu biết sử dụng, cải tạo, bảo vệ hợp lí thì chúng chẳng những không bị hao mòn, chất lượng xấu đi, mà còn tốt hơn tức là độ phì của đất tăng lên. Cho nên diện tích đất đai thì có hạn nhưng sức sản xuất của đất đai thì không có giới hạn. Trong nông nghiệp giá trị của đất đai được xác định theo độ mầu mỡ của đất tức khả năng sinh lời của đất. Chính vì vậy khi xác định giá trị đất đai trong nông nghiệp không chỉ căn cứ vào diện tích bề mặt mà quan trọng hơn là phải căn cứ vào sức sản xuất (khả năng cho sản phẩm) của đất trong tương lai. Trong nông nghiệp giá trị đất đai thường chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong giá trị doanh nghiệp nên làm nẩy sinh những khó khăn khi CPH. Bởi vì nếu tính giá trị đất đai vào giá trị doanh nghiệp khi CPH sẽ đẩy giá trị doanh nghiệp lên rất cao trong khi đất đai chưa thể phát huy vai trò sinh lời ngay. Giá trị doanh nghiệp cao làm sao có thể hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh như vậy rất khó cho CPH trong nông nghiệp. Nếu giá trị đất đai không tính vào giá trị doanh nghiệp CPH thì Nhà nước sẽ mất đi một khoản thu và tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thực tế rất dễ nẩy sinh tiêu cực.
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
Đầu tư vào nông nghiệp thường là đầu tư dài hạn cần nhiều vốn, khả năng sinh lời thấp rủi ro cao do sản xuất nông nghiệp phải gắn với đất đai và điều kiện tự nhiên. Kết quả của sản xuất phải thông qua sinh trưởng và phát triển của cây trồng và vật nuôi. Giá của sản phẩm nông nghiệp có tính biến động lớn và ngày càng giảm so với giá của hàng công nghiệp. Chính vì sản xuất kém hiệu quả cho nên nông nghiệp sẽ không mấy hấp dẫn với các nhà đầu tư vì không một nhà đầu tư nào lại bỏ tiền vào một lĩnh vực kinh doanh chứa nhiều rủi ro mà hiệu quả lại không cao trong khi họ có thể lựa cho được cơ hội đầu tư tốt hơn. Hiệu quả kinh doanh thấp còn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn trong đời sống kinh tế cán bộ công nhân viên và những người cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp. Với thu nhập như hiện nay thì chỉ đủ trang trải những chi phí tối cần thiết cho cuộc sống làm sao tạo được tích luỹ. Vì vậy khi CPH nguy cơ người lao động không mua được cổ phần và nằm ngoài quá trình CPH là rất lớn cho dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi. Nếu như người lao động không mua được cổ phần thì mục tiêu CPH có đạt được không, đời sống của người lao động có được cải thiện không, người lao động có thực sự là chủ doanh nghiệp không.
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
Ngoài những tài sản như máy móc thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất …trong nông nghiệp còn có những tài sản có nguồn gốc sinh học như vườn cây lâu năm, súc vật sinh sản. Điều đặc biệt của những tài sản này là chúng sinh trưởng phát triển theo những quy luật nhất định không phụ thuộc vào ý trí chủ quan của con người. Trong quá trình sử dụng tài sản này không bị khấu hao, có nhiều trường hợp giá trị đào thải lại lớn hơn giá trị ban đầu. Vì vậy trong quá trình CPH liệu có thể xác định giá trị tài sản này như những tài sản khác không khi mà giá trị hiện tại của nó không chỉ phụ thuộc vào hiện trạng mà còn phụ thuộc rất lớn vào khẳ năng cho sản phẩm trong tương lai. Khả năng sinh lời trong tương lai thì khó ai có thể xác định chính xác khi nông nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi do. Như vậy, công tác định giá các doanh nghiệp nông nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn so với doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác.
4. Sự cần thiết CPH DNNN trong nông nghiệp
Trong quá khứ sự hình thành và phát triển của DNNN trong nông nghiệp đã khẳng định được vị trí vai trò là đầu tầu kinh tế của nó không chỉ đối với nông nghiệp nói riêng mà còn cho cả nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp đóng vai trò trung tâm trong khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp đã kết hợp với các doanh nghiệp làm dịch vụ kĩ thuật, các Viện và các Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm để sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các doanh nghiệp là cầu nối giúp các địa phương chuyển giao khoa học công nghệ cho các thành phần kinh tế khác. Theo thống kê đến năm 1986 cả nước có 475 doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất, hành trăm doanh nghiệp hoạt động dịch vụ kĩ thuật. Các doanh nghiệp sản xuất đã quản lí và sử dụng 1,2 triệu ha đất tự nhiên trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp. Thu hút khoảng 37 vạn lao động. Hệ thống các doanh nghiệp nông nghiệp được phân bố rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay khi trình độ của lực lượng sản xuất đã được cải thiện đáng kể mà theo như Mác thì “quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Vì vậy, đã đến lúc cần phải “xã hội hoá” vấn đề sở hữu, chuyển từ sở hữu đơn nhất sang sở hữu tập thể đó là yêu cầu khách quan. Sự thành lập một cánh tràn lan các DNNN chỉ chú ý đến số lượng không quan tâm đến chất lượng đã dẫn đến sự hoạt động hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước thể hiện:
- Quản lí các doanh nghiệp theo cơ chế tập trung bao cấp dẫn đến bộ máy quản lí cồng kềnh nhưng hoạt động không hiệu quả, Nhà nước can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của các doanh nghiệp trong khi lại không chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp đã làm giảm tính chủ động, tăng tính ỷ lại trông chờ vào Nhà nước.
- Do được Nhà nước bao cấp nên các DNNN không có ý thức tiết kiệm làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước, làm tăng chi phí sản xuất, hàng hoá làm ra không có sức cạnh tranh.
Bảng 1: Giá một số sản phẩm sản xuất trong nước so với các sản phẩm nhập khẩu (quý I năm 1999)
Đơn vị: USD/tấn
Tên sản phẩm
Giá xuất xưởng
Giá nhập khẩu
Giá xuất xưởng cao hơn(%)
Xi măng
50-60
40-50
20-50
Đường RS
360-400
260-300
20-50
Thép xây dựng
300
260-280
10-12
Phân URE
160-180
110-125
30-40
Nguồn: Tạp chí nghin cứu kinh tế số 254/7/1999
- Do tình trạng trạng độc quyền của các DNNN dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, các DNNN ỷ lại trông vào sự bảo hộ của Nhà nước, các thành phần kinh tế khác bị kìm kẹp làm cho lực lượng sản xuất không phát triển được nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế ngày càng hiện rõ.
- Do hoạt động không hiệu quả nên các DNNN là gánh nặng cho ngân sách. Hằng năm ngân sách Nhà nước phải chi một khoản không nhỏ đề bù lỗ và duy trì hoạt động của các DNNN trong khi nhiều lĩnh vực khác như y tế, giáo dục lại không nhận được sự đầu tư cần thiết. Trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp, 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra Nhà nước còn miễn giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng cho vay tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Điều này không chỉ tăng thâm hụt ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong đầu tư phát triển kinh tế.
Đổi mới sắp xếp lại hoạt động của các DNNN là yêu cầu khách quan phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xu thế của thời đại. Có nhiều biện pháp để sắp xếp đổi mới hoạt động của DNNN như giao, khoán, bán, cho thuê nhưng CPH là giải pháp có nhiều ưu điểm hơn cả.
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.
Vốn là điều kiện tồn tại và phát triển cho mỗi doanh nghiệp nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hiện nay các DNNN nói chung và các DNNN trong nông nghiệp nói riêng đang đứng trước thực trạng là gần như không có vốn lưu động để hoạt động. Số vốn lưu động mà các doanh nghiệp có thể tự chủ được chỉ chiếm 10 – 30% để đảm bảo cho hoạt động của mình các doanh nghiệp phải thường xuyên vay của các ngân hàng Thương mại. Hiện nay vốn vay các ngân hàng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp cũng không dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn này do thủ tục vay vốn hiện nay còn rất rườm rà. Thiếu vốn là nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thì thiếu vốn trong khi các công nhân và nông dân có nguồn vốn dư thừa nhưng chưa biết đầu tư vào đâu để đem lại hiệu quả cao nhất. Đa số vốn này dùng để tích trữ dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ một số ít dành cho gửi tiết kiệm, chỉ có một phần nhỏ dùng cho hoạt động đầu tư kiếm lời là đầu tư vào thị trường bất động sản. Như vậy là có mâu thuẫn người có thể sử dụng vốn có hiệu quả thì không có vốn trong khi đó người có vốn lại không biết đầu tư vào đâu. CPH là giải pháp tốt để giải quyết tốt mâu thuẫn trên. CTCP có ưu thế là có thể huy động từ những nguồn vốn lớn từ các ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính đến những nguồn vốn nhỏ lẻ của công nhân, nông dân. Do vậy CTCP có thể huy động vốn ở trình độ xã hội hoá cao hơn so với các ngân hàng. Khả năng huy động vốn của CTCP sẽ được nâng lên khi thị trường chứng khoán nơi diễn ra hoạt động mua bán cổ phiếu được hình thành và phát triển.
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay được trang bị máy móc từ nhiều nguồn khác nhau như mua mới, chuyển giao, viện trợ… nhưng hầu hết các máy móc hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng đã rất lạc hậu được sản xuất từ những năm 50-60 của thế kỉ trước. So với các nước trên thế giới thì công nghệ hiện nay của ta đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ cá biệt có những doanh nghiệp sử dụng máy móc đã lạc hậu từ 4-5 thế hệ. Theo một cuộc điều tra của Viện bảo hộ lao động vào giữa năm 1999 thì trên 70% số máy móc đang sử dụng đã khấu hao hết, 50% đã được tân trang, 38% số máy móc nằm trong tình trạng chờ thanh lí. Với công nghệ như vậy làm sao ta có thể tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài nguy cơ mất thị trường ngày càng hiện rõ. Thực tế hiện nay giá các mặt hàng nông sản chế biến của ta hiện nay chỉ bằng 70-80% giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta lại sắp trở thành thành viên của APTA và WTO nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. CPH đưa người lao động lên làm chủ, có quyền quyết định mọi hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ cho nên để tồn tại và phát triển họ phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, giảm giá thành tăng sức cạnh tranh.
4.3. Nâng cao tiềm lực của kinh tế Nhà nước
Qua bán cổ phần Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp, trong dân cư để đầu tư phát triển. Tại hơn 1000 doanh nghiệp đã CPH tính đến hết ngày 20/11/2003 Nhà nước đã thu hồi được hơn 4000 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Vốn và tài sản Nhà nước trong các CTCP không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm Nhà nước thu được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do người lao động vay mua cổ phiếu, các khoản thuế từ CTCP. Bên cạnh đó hàng năm Nhà nước không phải mất một khoản hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các doanh nghiệp đã CPH.
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
Việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lí Nhà nước từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách; thúc đẩy củng cố nâng cao hiệu lực quản lí Nhà nước, nâng cao trình độ, năng lực quản lí của đội ngũ các bộ. Quyền kinh doanh đã được chuyển giao cho doanh nghiệp nên doanh nghiệp có quyền ra mọi quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước chỉ tham gia như một cổ đông của công ty.
4.5 Tạo ra động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
CPH DNNN đã biến doanh nghiệp thành có chủ, những người trực tiếp điều hành và lao động trong chính doanh nghiệp. Quyền lợi của họ gắn với sự thành bại của doanh nghiệp, vì thế tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của mình, lao động tích cựu với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong phú. Những biểu hiện mới này hầu như không tồn tại trong doanh nghiệp trước khi CPH. Các CTCP hoạt động theo luật công ty trong đó Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định phương hướng của công ty cũng như giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành. Người lao động đồng thời là cổ đông có quyền yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp trình bầy trước Đại hội những vấn đề về thu chi của doanh nghiệp, có quyền thắc mắc về hiệu quả quản lí…Hơn nữa, do sự thay đổi về cơ chế tổ chức, vai trò trách nhiệm của các bộ phận, các tổ chức quần chúng được phân định rõ ràng, công đoàn có chức năng độc lập với người quản lí điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, các ý kiến đóng góp từ phía nào đều được nghiêm túc lắng nghe…Bên cạnh việc quản lí tập trung không khí sinh hoạt dân chủ thực sự được cải thiện ở CTCP.
5. Những chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH và quá trình thực hiện
5.1. Những chủ trương chính sách
Chủ trương CPH DNNN đã được hình thành từ cuối những năm 80. Tại điều 22 của Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ đã ghi “Bộ Tài chính nghiên cứu và tổ chức làm thí điểm việc mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp (Quốc doanh) và báo cáo lên Hội đồng bộ trưởng vào cuối năm 1998”. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng có lẽ hơi sớm so với điều kiện cụ thể lúc đó bởi vì:
- Những tiêu cực, yếu kém của khu vực Quốc doanh chưa bộc lộ một cách đầy đủ, như là một đòi hỏi bức bách cần phải g._.iải quyết.
- Những hiểu biết về kinh tế thị trường, đặc biệt là vấn đề CPH của chúng ta còn ít ỏi chưa đủ sức triển khai. Vì thế chủ trương đúng đắn đó đã bị lãng quên.
Đến năm 1989 tức hai năm sau Chính phủ lại có Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1989 về thí điểm CPH một số DNNN cùng với việc sắp xếp lại khu vực kinh tế Quốc doanh. Khác với lần trước là các doanh nghiệp chưa hiểu hết ý đồ của Chính phủ, dưới chưa chuyển biến kịp với trên, lần này ngược lại trên còn dè dặt thì dưới lại rất hăng hái. Trong khi các văn bản của Chính phủ đang dừng lại ở mức dự thảo chưa có quyết định chính thức chưa có hướng dẫn nhưng bên dưới thì đã triển khai. Kết quả là cuộc thí điểm đã không rút ra được kết luận chính xác và đầy đủ, các doanh nghiệp thì CPH theo ý đồ riêng của từng doanh nghiệp để đối phó với thực trạng lúc đó là các DNNN đang rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thiếu vốn nghiêm trọng và thất nghiệp tăng lên.
Quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1892 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về thí điểm chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP kèm theo đề án triển khai. Theo chỉ thị 202 CT CPH nhằm 3 mục tiêu:
- Thứ nhất là, phải chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông để nâng có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Thứ hai là, huy động được một lượng vốn lớn trong và ngoài nước để phát triển kinh tế
- Thứ ba là, CPH là tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm chủ của mình.
Qúa trình triển khai thực hiện thí điểm CPH DNNN đã được kiểm tra và tổng kết, bước đầu đã đem lại những ưu điểm và kết quả tốt như đời sống của người lao động được cải thiện đáng kể, đóng góp cho ngân sách tăng. Bên cạnh đó còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất là trong cơ chế chính sách cần tiếp tục được hoàn thiện.
Chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”.
Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ Tài chính, Thông tư số 99/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “ Hướng dẫn về lao động và chính sách với người lao động trong thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”.
Chỉ thị số 685-TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy triển khai CPH DNNN.
Sau 6 năm từ 1992-1998 mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn thực hiện chủ trương CPH nhưng xem ra CPH vẫn dậm chân tại chỗ. Trong 4 năm đầu từ 6-1992 đến 6-1996 mới CPH được 10 doanh nghiệp, hai năm tiếp theo mới CPH được 28 doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng trên cần phải có chính sách CPH thông thoáng hơn hấp dẫn hơn để đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN trong đó CPH là giải pháp trung tâm. Đáp ứng yêu cầu đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP “Về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”. Khác với các văn bản trước đây, Nghị định mới của Chính phủ đã có sự chuyển biến căn bản tạo ra sức hấp dẫn thực sự với doanh nghiệp và người lao động, thủ tục trình tự CPH khá rõ ràng, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, địa phương, doanh nghiệp dễ triển khai
5.1.1. Nghị định 44/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau:
* Hình thức CPH:
Theo điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP thì CPH được tiến hành theo các hình thức sau đây:
+ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp
+ Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
+ Tách một bộ phận của doanh nghiệp để CPH
+ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP
* Quy trình CPH: gồm 4 bước
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp được thành lập do Giám đốc làm trưởng ban, Kế toán trưởng làm uỷ viên thường trực, các trưởng phòng ban kế hoạch, sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kĩ thuật làm uỷ viên. Ban đổi mới quản lí có trách nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước để người lao động được biết và tổ chức thực hiện.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp phải chuẩn bị ngay các tài liệu về: hồ sơ pháp lí thành lập doanh nghiệp, tình hình công nợ, tài chính, nhà xưởng, vật kiến trúc mà doanh nghiệp đang quản lí, các loại vật tư hành hoá ứ đọng, kém phẩm chất và đưa ra hướng giải quyết
Lập danh sách người lao động của doanh nghiệp đến thời điểm quyết định CPH: số người lao động, số năm công tác của từng người. Dự kiến số người nghèo được mua cổ phần theo giá ưu đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm
Dự toán chi phí CPH cho đến khi hoàn thành đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất.
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp. Căn cứ trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp và kết quả kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lí vốn để giải quyết những vướng mắc về tài chính và dự kiến đề nghị giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp lập phương án CPH doanh nghiệp và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
- Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án trên để mọi người lao động cùng biết và thảo luận
- Tổ chức Đại hội công nhân viên để lấy ý kiến về dự thảo phương án, bàn phương hướng biện pháp cụ thể để có cơ sở hoàn thành phương án.
- Hoàn thiện phương án trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn thiện dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP để trình Đại hội đồng cổ đông xem xét quyết định
Bước 3: Duyệt và triển khai phương án CPH
Ban quản lí đổi mới tại doanh nghiệp:
- Mở sổ đăng kí mua cổ phiếu của các cổ đông để đăng kí mua tờ cổ phiếu tại kho bạc Nhà nước
- Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp cho đến thời điểm CPH
- Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần, tổ chức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông
-Trưởng Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát, thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
Bước 4: Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
- Giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của Ban đổi mới quản lí doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lí vốn và tài sản Nhà nước bàn giao cho Hội đồng quản trị CTCP: lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu sổ sách của doanh nghiệp.
- Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại (nếu có) cho Hội đồng quản trị và công bố giải thể từ ngày kí biên bản bàn giao
- Hội đồng quản trị của CTCP hoàn tất những công việc còn lại
Nghị định 44/NĐ-CP đã tạo ra sự đột biết tác động tích cực đến quá trình CPH nhưng nó vẫn còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn gây cản trở đến tiến độ CPH, vì vậy cần phải có Nghị định mới ra đời thay thế. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
5.1.2. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau
1. Mục tiêu và đối tượng CPH
* Mục tiêu:
Nghị định này quy định rất rõ ràng các mục tiêu CPH theo đúng tinh thần NQTW3 theo đó CPH nhằm 3 mục tiêu chính:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp: đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động.
* Đối tượng CPH:
Đối tượng CPH là các DNNN và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp không thuộc đối tượng mà Nhà nước cần phải nắm 100% số vốn, được xác định theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN quy định tại quyết định số 58/2002/QĐ-TTg không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các đơn vị phụ thuộc chỉ được tiến hành CPH khi các đơn vị này có đủ điều kiện hoạch toán độc lập và không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
2. Đối tượng mua cổ phần và quyền mua cổ phần lần đầu
Khắc phục những tồn tại của các quyết định trước về giới hạn mua cổ phần lần đầu của các tổ chức và các cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng huy động vốn của toàn xã hội. Nghị định mới ra đời đã chính thức xoá bỏ mức khống chế về quyền mua cổ phần lần đầu đối với các nhà đầu tư trên cơ sở đảm bảo các quy định về số cổ đông tối thiểu và cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối. Riêng các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quy định
3. Xử lí những tồn tại về tài chính trước khi CPH
Những quy định trước đây về vấn đề này đã gây nhiều cản trở cho việc CPH DNNN chính vì Nghị định lần này quy định vấn đề này rất rõ ràng
* Về tài sản:
Đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ phải chủ động kiểm kê, phân loại và xử lí những tài sản không cần dùng hoặc không thể sử dụng được theo cơ chế hiện hành. Trong trường hợp đến thời điểm CPH mà doanh nghiệp vẫn chưa xử lí xong vấn đề này thì không tính giá trị tài sản này vào tài sản doanh nghiệp CPH và uỷ quyền cho CTCP tiếp tục quản lí và sử dụng số tài sản này. Đối với tài sản được đầu tư bằng quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp thì được chuyển giao cho người lao động trong doanh nghiệp quản lí và sử dụng thông qua tổ chức công đoàn của doanh nghiệp (đối với tài sản thuộc công trình phúc lợi) hoặc chuyển thành cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp CPH (đối với những tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh). Đối với tài sản đem góp vốn kinh doanh với nước ngoài, nếu doanh nghiệp cổ phần kế thừa hoạt động kinh doanh thì toàn bộ tài sản đem góp vốn liên doanh sẽ được tính vào giá trị doanh nghiệp đem CPH, trong trường hợp doanh nghiệp không tiếp tục kế thừa hoạt động kinh doanh thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, xử lí vốn góp liên doanh theo hướng mua lại vốn góp liên doanh hoặc chuyển số vốn này cho doanh nghiệp khác có điều kiện quản lí sử dụng làm đối tác mới trong liên doanh.
* Về công nợ:
Nghị định mới quy định rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử lí các khoản nợ đọng của doanh nghiệp trước khi CPH. Cho phép doanh nghiệp bán nợ hoặc chuyển nợ thành cổ phần thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc theo thoả thuận giữa doanh nghiệp với các chủ nợ nhưng giá cổ phần không được thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ quá hạn được nhà nước hỗ trợ thông qua các giải pháp như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, hỗ trợ vốn đầu tư đối với các khoản nợ ngân sách và nợ thuế, được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, giảm lãi suất vay ngân hàng hoặc được chuyển thành vốn góp cổ phần, được dùng thu nhập trước thuế đến thời điểm CPH để bù lỗ các khoản lỗ luỹ kế của các năm trước. Trong trường hợp đến thời điểm CPH vẫn chưa xử lí xong nợ và tồn đọng thì được giảm trừ vào giá trị phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp CPH.
4. Cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp
Cơ chế định giá doanh nghiệp khi CPH được hoàn thiện theo hướng gắn với thị trường: Bổ sung thêm các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng sinh lời của doanh nghiệp để tạo điều kiện để tính đúng tính đủ, nhanh chóng trong việc xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm CPH. Bổ sung thêm quy định về tính giá trị quyển sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo đó trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giá đất theo những quy định hiện hành. Riêng đối với diện tích Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Giá trị đất được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư cho đất như: chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp, xây dựng cơ sở hạ tầng…Tuỳ theo đặc điểm ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà cho phép áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để định giá doanh nghiệp CPH.
Sửa đổi phương pháp xác định lợi thế kinh doanh: nếu như trước đây giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trước khi CPH với các DNNN khác cùng ngành nghề trên cùng địa bàn. Nay theo Nghị định số 64 giá trị lợi thế kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề đều được xác định dựa trên cơ sở: mức chênh lệch của tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân 3 năm liền kề trước khi CPH với lãi suất đầu tư Trái phiếu của Chính phủ ở thời điểm gần nhất (được coi là hoạt động ít rủi do nhất) nhân với giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Trong trường hợp doanh nghiệp có thương hiệu được thị trường chấp nhận thì giá trị lợi thế kinh doanh do thương hiệu mang lại được xác định theo giá trị thị trường. Nghị định này cũng bổ sung thêm quy chế về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Trước đó, hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp chỉ được thực hiện theo cơ chế Hội đồng. Nay bổ sung thêm cơ chế thực hiện giá trị doanh nghiệp CPH thông qua Công ty Kiểm toán và các tổ chức kinh tế có chức năng định giá. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, cơ quan quyết định CPH có thể lựa chọn và quyết định việc định giá doanh nghiệp theo Hội đồng hay thuê các tổ chức trung gian.
5. Bán cổ phần phát hành lần đầu
Xác định ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp và người cung cấp nguyên liệu đã đăng kí, sau đó mới bán cổ phần cho người bên ngoài. Tại Nghị định số 64 cán bộ quản lí tại DNNN từ phó phòng nghiệp vụ trở nên không bị khống chế mức cổ phần ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp. Người lao động trong doanh nghiệp CPH đều có quyền và nghĩa vụ như nhau dựa theo số năm tháng đã làm việc tại khu vực Nhà nước trước khi CPH.
Quy định việc bán cổ phần ra bên ngoài phải thông qua các Tổ chức Tài chính trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH lựa chọn và bằng hình thức đấu thầu, đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bổ sung quy định về thời hạn cho việc bán cổ phần ở các DNNN CPH là 2 tháng kể từ ngày có quyết định chuyển đổi mà không bán hết thì cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH, quyết định việc bán cổ phần rộng rãi ra bên ngoài.
6. Quản lí và sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH
Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước sau khi trừ đi các khoản chi phí được chuyển về quỹ hỗ trợ từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành phố và các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty tuỳ thuộc vào các cấp quản lí doanh nghiệp.
Số tiền thu được sẽ được sử dụng theo thứ tự ưu tiên như sau:
* Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc ở thời điểm CPH và thời điểm đã chuyển sang CTCP
* Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo lại lao động
* Đầu tư cho các doanh nghiệp đã CPH để đảm bảo tỷ trọng chi phối của Nhà nước đối với loại hình DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối
* Hỗ trợ các DNNN gặp khó khăn trong việc CPH
7. Chính sách với doanh nghiệp CPH và người lao động
Nghị định mới bổ sung cho phép doanh nghiệp CPH không bắt buộc phải sử dụng hết lao động hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm CPH
Có chính sách ưu đãi mới về thuế cho các doanh nghiệp CPH “Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành CTCP được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng cho doanh nghiệp thành lập mới (không phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư)”.
Cho phép doanh nghiệp đang thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan Nhà nước và các DNNN khác vẫn được duy trì các hợp đồng hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường. Các doanh nghiệp CPH có tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp thì được sử dụng đất để nhượng bán, thế chấp, đem góp vốn liên doanh…
Đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi ghi tên và được chuyển nhượng sau ba năm. Không khống chế tổng giá trị ưu đãi theo % trên giá trị vốn Nhà nước thực tế. Đối với lao động dôi dư trong quá trình CPH thì được giải quyết chế độ theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002
8. Thẩm quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp
Chuyển toàn bộ quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp CPH cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân Thành phố, Tỉnh trực thuộc Trung ương quyết định, kể cả trường hợp giá trị sổ sách đến 500 triệu đồng. Nếu quá mức này thì phải được Bộ Tài chính chấp nhận bằng văn bản.
9. Về thẩm quyền phê duyệt phương án và quyết định chuyển đổi DNNN thành CTCP.
Nghị định này quy định chuyển giao toàn bộ thẩm quyền phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành CTCP cho Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; đối với các doanh nghiệp CPH mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần đặc biệt thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Đi kèm với Nghị định 64 còn có các văn bản khác như Thông tư số 76/2002/TT- BTC, Thông tư số 15/2002/TT- LĐTBXH để hướng dẫn thi hành những điều đã quy định tại Nghị định 64
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện CPH
Từ năm 1992 Đảng và Chính phủ bắt đầu thực hiện một chủ trương lớn là CPH DNNN. Qua nhiều giai đoạn hoàn thiện đến nay kế hoạch tổng thể về sắp xếp và đổi mới đã được định hình và dự tính phải hoàn thiện trong năm 2005. Theo các đề án sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ có 1866 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn và 2923 doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu dưới các hình thức CPH, giao khoán, bán, cho thuê, giải thể, phá sản. Năm 2003 đã kết thúc chúng ta hãy nhìn lại chặng đường CPH chúng ta đã đi qua xem chúng ta đã làm được gì, những gì chưa làm được và cần phải làm gì trong thời gian tới.
5.2.1. Những thành tựu đạt được:
+ Tiến độ CPH bước đầu được cải thiện: Đã hơn 10 năm trôi qua kể từ khi có chủ trương chuyển DNNN thành CTCP. Tính đến ngày 20/11/2003 cả nước đã CPH được 12641 Nguồn tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
doanh nghiệp kết quả cụ thể các năm như sau:
Bảng 2: số doanh nghiệp đã CPH (tính đến ngày 20/11/03)
Nguồn: tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
Trong đó từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996 CPH được 5 doanh nghiệp, từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998 CPH được 25 doanh nghiệp, sáu tháng cuối năm số doanh nghiệp được CPH tăng đột biến lên gần 100 đơn vị. Có sự tăng đột biến như vậy là do ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP với nhiều nội dung thông thoáng hơn so với các văn bản trước. Năm 1999 là năm có số lượng doanh nghiệp được CPH lớn nhất 250 doanh nghiệp nhưng rất tiếc là tốc độ tăng trong các năm tiếp theo không được duy trì mà liên tục giảm từ 212 doanh nghiệp năm 2000 xuống 204 doanh nghiệp năm 2001 và chỉ còn 148 doanh nghiệp năm 2002 để khắc phục tình trạng chậm trễ trong CPH ngày 19/6/2003 Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP “về chuyển DNNN thành CTCP” thay thế cho nghị định số 44/1998. Nghị định này như một luồng gió mới thổi vào tạo ra sức hấp dẫn của CPH, những vướng mắc trong quá trình CPH đã được gỡ bỏ vì vậy chỉ trong 11 tháng đầu năm 2003 chúng ta đã CPH được 312 doanh nghiệp.
+ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt:
Hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực, toàn diện kể cả các doanh nghiệp trước CPH bị thua lỗ, cụ thể như sau1 Số liệu lấy từ tạp chí Lý luận chính trị số 1/2001
- Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25%
- Lợi nhuận trước thuế hằng năm tăng bình quân trên 26% có công ty đạt gấp 2-3 lần so với trước khi CPH.
- Nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân trên 30% cá biệt có những doanh nghiệp tăng gấp đôi
- Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi suất tiết kiệm, bình quân 1-2% trên tháng
- Thu nhập hàng tháng của người lao động tăng 20%
- Số lao động thu hút thêm vào các CTCP tăng 20%
+ Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực của kinh tế thị trường
Nếu như trước kia việc phân phối do Nhà nước quy định mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa thì nay sau khi chuyển sang CTCP người lao động mua cổ phần và trở thành cổ đông của công ty, họ vừa là người chủ doanh nghiệp vừa là người lao động làm thuê. Ngoài tiền lương hưởng theo sự đóng góp vào công ty người lao động còn có thêm một khoản thu nhập nữa đó là lợi tức cổ phần. Không những thu nhập của người lao động tăng lên mà phần thu của Nhà nước cũng tăng do thu được thuế và lợi tức từ cổ phần Nhà nước.
Trong các DNNN CPH đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn, giảm các chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạng tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hình thức phân phối theo cổ phiếu đã hấp dẫn không ít nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp điều này không chỉ thể hiện sự ủng hộ của toàn xã hội đối với CPH mà còn tăng thêm nguồn vốn, góp thêm kiến thức, kinh nghiệm sự giám sát hoạt động của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
5.2.2. Một số vấn đề còn vướng mắc
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì quá trình CPH vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến kết quả CPH chưa được theo ý muốn.
+ Tốc độ CPH tiến hành còn chậm
Trong giai đoạn thí điểm, 4 năm đầu chúng ta mới CPH được 5 doanh nghiệp. Trong giai đoạn mở rộng và thúc đẩy quá trình CPH, tuy CPH có diễn ra nhanh hơn nhưng vẫn chưa đạt được tốc độ mong muốn. Theo dự kiến đến năm 1999 CPH xong 400 DNNN, đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 20% tổng số DNNN (khoảng 1200 doanh nghiệp) thành CTCP, nhưng đến ngày 30/6/2000 cả nước mới CPH được 450 doanh nghiệp tức 7% tổng số DNNN. Nếu tính đến hết 20/11/2003 cả nước mới CPH được 1264 doanh nghiệp, trong khi theo kế hoạch riêng năm 2003 chúng ta sẽ CPH 896 doanh nghiệp nhưng có lẽ chúng ta cũng chỉ CPH được hơn 300 doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp đã CPH đa số là doanh nghiệp nhỏ
Trong 460 doanh nghiệp đã CPH trong giai đoạn 1992- 2000 vốn Nhà nước được đánh giá lại khi CPH là 1920 tỷ đồng. Khi CPH Nhà nước giữ lại 762 tỷ đồng, phần còn lại 1128 tỷ đồng bán cho người lao động trong và ngoài doanh nghiệp. Như vậy tính bình quân vốn của các doanh nghiệp đã CPH là 4,17 tỷ đồng. Doanh nghiệp đã CPH có số vốn Nhà nước lớn nhất là 92,5 tỷ đồng (CTCP chế biến mía đường Lam Sơn), số vốn nhỏ nhất là 32 triệu đồng (CTCP chế biến chiếu cói xuất khẩu Kim Sơn). Các doanh nghiệp CPH có số vốn quá nhỏ, không phù hợp với loại hình CTCP là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn.
+ Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp đạt kết quả chưa cao.
Theo những quy định mới nhất là mục tiêu của CPH là nhằm thu hút mọi nguồn vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Thực tế hiện nay trong số hơn 1000 doanh nghiệp đã CPH thì số doanh nghiệp thu hút vốn từ các cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ chiếm chưa tới 50%. Không những thế số doanh nghiệp có cổ đông ngoài tham gia thì số vốn góp của các cổ đông này còn khiêm tốn chỉ vào khoảng 1-20%. Số doanh nghiệp có cổ đông nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay và tỷ lệ góp vốn của họ cũng rất thấp.
+ CPH mang tính nội bộ
Quá trình CPH một doanh nghiệp từ phương án, các bước thực hiện cho đến những người tham gia đều có tính nội bộ cao. “Toàn bộ quá trình CPH không được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước CPH như định giá doanh nghiệp, đấu giá cổ phần, thời điểm bán cổ phần”, nhất là đối với những doanh nghiệp nhiều lợi thế kinh doanh. Danh sách người mua cổ phần được giữ kín cho đến khi bán xong, kể cả sau khi đã hết cổ phần cũng không được tiết lộ. Tỷ lệ bán cổ phần bán ra bên ngoài quá ít. Các cổ đông ngoài doanh nghiệp bị đối xử phân biệt về giá và thường bị gây khó dễ cho các hoạt động chính đáng của họ. Quy định bán cổ phiếu cho các cổ đông trong doanh nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo giá được xác định, còn lượng cổ phiếu được bán ra bên ngoài được bán thông qua đấu giá là điều không hợp lý. Giá cổ phiếu cần được xác định khách quan, qua đấu giá và là giá chung. Việc giảm giá bao nhiêu phần trăm cho các đối tượng ưu tiên phải làm công khai, minh bạch, tách hoàn toàn khỏi việc xác định giá. Có thể tăng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài qua hình thức đấu giá, lấy mức giá đó làm chuẩn để tính giảm giá cho các đối tượng được ưu đãi.
5.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
* Khách quan
+ Trình độ phát triển sản xuất của nước ta còn thấp
+ Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành và phát triển
+ Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lí sản xuất nhỏ
* Chủ quan
+ Nhận thức về vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường chưa thống nhất
+ Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ
+ Đặt lợi ích cục bộ trên lợi ích quốc gia
+ Tâm lí sợ mất việc làm của đại bộ phận người lao động trong DNNN, vốn đã quen dựa vào cơ chế bao cấp
+ Việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, cơ chế chính sách còn chưa thống nhất, thiếu tính thực tế thủ tục phiền hà.
5.2.4. Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới
Theo kế hoạch đề ra đến năm 2005 chúng ta phải hoàn thành việc sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN. Tính đến hết năm 2003 chúng ta mới chỉ hoàn thành một nửa công việc vậy là trong 2 năm cuối chúng ta phải làm công việc bằng 12 năm qua điều này quả không dễ. Vậy trong thời gian tới chúng ta phải làm gì để hoàn thành nhiệm vụ mục tiêu đề ra:
- Xây dựng kế hoạch CPH cụ thể giao nhiệm vụ cho từng Bộ, địa phương, Tổng công ty
- Tăng cương công tác tập huấn về CPH cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến nghiệp vụ của các cơ quan quản lí và doanh nghiệp, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và người dân trong việc CPH doanh nghiệp.
- Rà soát lại tình hình tài chính của các doanh nghiệp, những doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong danh sách CPH nhưng thua lỗ mất hết vốn Nhà nước thì kiên quyết thực hiện phá sản
- Tổ chức các hội nghị cả nước hoặc từng vùng để trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện CPH và đề xuất kiến nghị sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
- Hoàn thiện quy trình CPH theo hướng nhanh gọn chính xác đặc biệt là trong công tác xác định giá trị doanh nghiệp.
- Thúc đẩy sự hoạt động của thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các CTCP có đủ điều kiện để niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, từ đó sẽ có tác dụng trở lại đối với việc CPH DNNN.
6. Kinh nghiệm CPH ở một số nước trên thế giới
CPH DNNN là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm CPH DNNN của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có điều kiện tương đồng như: Trung Quốc, Nga, các nước ASEAN để tìm kiếm kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Tuy CPH DNNN mang đặc thù riêng của mỗi nước.
6.1. CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi nhau về địa lí mà còn có những tương đồng về mô hình kinh tế Kế hoạch hoá tập trung trước đây và các định hướng chuyển đổi hiện nay, vì vậy xem xét CPH ở Trung Quốc là cần thiết cho việc CPH ở Việt Nam.
* Quan điểm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin để tiến hành chuyển hoá DNNN; coi CPH là bộ phận hữu cơ trong tổng thể đổi mới DNNN, luôn khẳng định đây là con đường tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau; đổi mới DNNN là khâu then chốt của cải cách kinh tế, coi tiền đề của cải cách là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường.
* Mục tiêu CPH ở Trung Quốc
- Mở rộng hình thức sở hữu tạo cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị trường
- Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước nâng cao năng lực quản lí và hiệu quả kinh doanh của DNNN.
- Định hướng năng lực hành chính của Nhà nước giảm bớt tham nhũng và thói quen dựa dẫm vào Nhà nước, thay đổi mối quan hệ giữa những người quản lí hành chính với những người quản lí kinh tế.
- Thương mại hoá hành vi quản lí tạo ra chế độ khuyến khích với các nhà quản lí, thay đổi lực lượng lao động, nâng cao thu nhập. Tăng nguồn thu để trả nợ và cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.
* Hình thức CPH
- Nhà nước cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ phần để hình thành nên CTCP
- Bán cổ phần cho người lao động trong nội bộ doanh nghiệp
- CPH DNNN bằng cách phát hành công khai cổ phần ra xã hội
* Phương pháp CPH
Tiến hành CPH DNNN theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước quy mô vừa và lớn sau cùng với hình thành tập đoàn CTCP, coi trọng hình thức CTCP mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối các doanh nghiệp lớn, ngành kinh tế quan trọng.
* Quy trình CPH
- Xác định danh sách các DNNN có đủ điều kiện CPH (kinh doanh có lãi không nằm trong diện DNNN cần phải nắm giữ 100% vốn)
- Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp
- Tuyên truyền quảng cáo hoàn thiện chính sách để mọi người nắm được thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phần.
- Lựa chọn phương thức bán cổ phần rộng rãi cho công chúng hay bán cho các đối tượng đã xác định trước, mức giá bán cổ phiếu ưu đãi
- Giải quyết các vấn đề hậu CPH
6.2. CPH ở một số nước ASEAN
Các nước ASEAN có đặc điểm chung là hầu hết nền kinh tế các nước đều có tốc độ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường là chính chỉ có một bộ phần nhỏ là hoạt động công ích chính vì vậy hiệu quả kinh doanh được đặt lên hàng đầu, nếu các DNNN mà hoạt động không hiệu quả thì sẽ bị giải thể hoặc phá sản. Mục đích chính của CPH ở các nước ASEAN là: nâng cao hiệu._. Nhà nước. Về mặt tài chính, công khai hoá thông tin tài chính bao gồm thông tin về cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản, hiệu quả kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu nhập, dự đoán xu thế vận động của các chi tiêu trong tương lai. Để thực hiện điều này về phía Nhà nước phải đưa ra các quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tài chính gồm nội dung công khai, hình thức công khai, thời gian công khai và các chế tài xử lí nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi phạm; về phía doanh nghiệp phải tuyết đối tuân thủ các quy định của Nhà nước, số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán công nhận. Các doanh nghiệp phải nhận thấy công khai hoá tài chính doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện CPH. Bên cạnh đó nên hình thành tạp chí về CPH thuộc Bộ Tài chính. Tạp chí là nơi phản ánh đầy đủ nhất về hoạt động các doanh nghiệp trong việc chuẩn bị cho quá trình CPH cũng như những thông tin chi tiết về tình hình tài chính của doanh nghiệp, là diễn đàn trao đổi kinh doanh và quảng bá kiến thức CPH tới mọi đối tượng quan tâm.
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp
Công nợ của các DNNN hiện nay rất lớn làm cản trở tiến trình CPH, số nợ của các DNNN hiện nay không ngừng tăng lên. Ước tính các DNNN hiện nay nợ khoảng gần 80 nghìn tỷ đồng chưa kể nợ các ngân hàng Thương mại, riêng Công ty TPXK Bắc Giang số dư nợ lên tới hơn 20 tỷ đồng. Nếu công nợ không được giải quyết được thì không một nhà đầu tư nào lại muốn “ thừa kế” các khoản nợ của doanh nghiệp. Còn nếu dùng giải pháp trừ vào giá trị DNNN thì sẽ làm thiệt hại cho Nhà nước vì trong cơ cấu nợ đó có có nợ do nguyên nhân chủ quan và nợ do nguyên nhân khách quan. Như vậy là cần phải phân loại các khoản nợ của doanh nghiệp để có các biện pháp xử lí.
2.2.1. Đối với các khoản nợ phải thu khó đòi:
Do nguyên nhân khách quan: doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy từ chứng minh rằng số nợ đó không còn khả năng thu hồi do con nợ đã bị giải thể, bị phá sản, con nợ đã bỏ chốn…đối với các khoản nợ này doanh nghiệp được phép dùng quỹ dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi để bù đắp, nếu không đủ thì dùng lợi nhuận trước thuế để bù đắp hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi CPH. Các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn có trách nhiệm theo dõi và thu hồi các khoản nợ này nộp về quỹ hỗ trợ CPH DNNN.
Đối với các khoản nợ do nguyên nhân chủ quan: doanh nghiệp phải xác định được trách nhiệm bồi thường thuộc về cá nhân, tổ chức nào, mức độ bồi thường là bao nhiêu. Nếu như phần bồi thường của cá nhân tổ chức không đủ thì số còn lại được xử lí như nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan.
2.2.2. Nợ ngân sách Nhà nước
Doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ đọng ngân sách Nhà nước trước khi tiến hành CPH
Nếu DNNN hoạt động có hiệu quả nhưng khó khăn trong vấn đề tài chính do đầu tư quá lớn vào tài sản cố định thì doanh nghiệp có trách nhiệm lập phương án trả nợ, phải huy động hết các nguồn vốn hiện có (qũy đầu tư phát triển, nguồn vốn khấu hao, thu hồi công nợ…) để bù đắp các khoản chiếm dụng của ngân sách Nhà nước. Trong trường hợp nếu đã huy động hết mà vẫn không đủ để thanh toán hết nợ thì phải báo cáo nên cấp trên có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh làm ăn thua lỗ không còn khả năng thanh toán nợ thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền xem xét cho giãn nợ, xoá nợ.
2.2.3. Đối với các khoản nợ ngân hàng thương mại
Doanh nghiệp có thể thoả thuận với các ngân hàng thương mại để được giãn nợ, khoanh nợ, giảm lãi suất hoặc chuyển số nợ thành cổ phần của công ty.
2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ
Chúng ta đang trong tình trạng công nợ “lòng vòng” vì công cụ thương phiếu và hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu chưa phát triển. Vì vậy phải tiến hành pháp chế hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử dụng các công cụ thương phiếu để họ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính và lành mạnh về tài chính khi CTCP đi vào hoạt động. Bên cạnh đó việc hình thành các công ty mua bán nợ là giải pháp quan trọng để xử lí triệt để các khoản công nợ. Thực tế CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang cho thấy việc thu và trả nợ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy khi có công ty mua bán nợ đứng ra làm trung gian mua lại những khoản nợ phải thu còn dây dưa của doanh nghiệp rồi tìm cách thu xếp thanh toán với các con nợ (là doanh nghiệp có nợ phải trả). Việc làm như vậy vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho công ty mua bán nợ bởi vì doanh nghiệp sẽ không phải mất thời gian đi thu các khoản nợ tập trung vào giải quyết các vấn đề khác còn các công ty mua bán nợ sẽ có khoản thu nhập từ phần trăm số nợ thu hồi được của các doanh nghiệp bán nợ.
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp khi CPH
Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay là khâu khó khăn và chiếm nhiều thời gian nhất trong thực hiện CPH. Thực tế cho thấy thời gian xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty TPXK Bắc Giang chiếm hơn nửa trong toàn bộ quá trình CPH. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để xác định đúng giá trị doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất để đảm bảo lợi ích cho cả Nhà nước (người bán) và các nhà đầu tư (người mua). Việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với việc xác định đúng giá trị cổ phần tức là mở đường cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Theo điều 15,16,17 của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ban hành ngày 19/6/2002 “về chuyển DNNN thành CTCP” quy định “giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua và người bán đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi”. Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp:
+ Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH
+ Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm CPH
+ Tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá cả thị trường tại thời điểm thực hiện CPH
+ Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lí, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, về mẫu mã, thương hiệu nếu có.
+ Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Việc xác định tài sản căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản; đảm bảo chất lượng sản phẩm và môi trường. Giá trị quyền sử dụng đất vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. Giá trị lợi thế kinh doanh được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp trên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bình quân ba năm liền kề trước khi cổ phần hóa so với lãi suất của vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Theo những quy định trên đối chiếu vào trong quá trình CPH của doanh nghiệp làm nảy sinh các vấn đề sau:
- Thứ nhất, giá trị doanh nghiệp bao gồm cả các yếu tố vô hình như uy tín, thương hiệu, vị trí địa lí…đây là nhưng yếu tố rất khó xác định giá trị. Hơn thế việc quy định tất cả những lợi thế kinh doanh đều tính vào giá trị doanh nghiệp là chưa phù hợp gây thiệt thòi cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nên chăng nếu được thì chỉ nên tính giá trị lợi thế kinh doanh mang yếu tố khách quan vào giá trị doanh nghiệp như vị trí địa lí, độc quyền…còn các yếu tố lợi thế mang yếu tố chủ quan do doanh nghiệp xây dựng lên như do trình độ quản lí giỏi, khả năng và ý thức của người lao động cao, dịch vụ và phong cách hoạt tốt nên có khách hàng truyền thống làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp … thì không tính vào giá trị doanh nghiệp.
- Thứ hai, các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp khó mà áp dụng được khi các tài sản của các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay đã rất lạc hậu không còn lưu thông trên thị trường nên không có căn cứ để xác định. Bên cạnh đó việc quy định tất cả các tài sản của doanh nghiệp hiện có vào thời điểm CPH là chưa phù hợp nên chăng chỉ tính vào giá trị doanh nghiệp những tài sản phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh của CTCP còn các tài sản không phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh thì thanh lí hoặc điều chuyển cho các doanh nghiệp khác
- Thứ ba, người định giá doanh nghiệp không xác định được là người mua hay người bán nên thường xuyên nảy sinh việc xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực tế vì tâm lí cho rằng tài sản đem bán là tài sản Nhà nước nên đánh giá thấp một ít cũng không sao.
Từ thực tế trên cho thấy việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp là không hề đơn giản. Vì vậy trong thời gian tới muốn đẩy nhanh tốc độ CPH thì cũng cần xây dựng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp làm cho công tác định giá doanh nghiệp linh hoạt hơn và khách quan hơn phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp. Việc có ít phương pháp định giá tuy tạo nên sự thống nhất cao nhưng khó áp dụng cho nhiều doanh nghiệp nếu có sai sót thì công việc kiểm tra cũng khó. Khi có nhiều phương pháp các doanh nghiệp có thể lấy một phương pháp phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình nhất để xác định giá trị doanh nghiệp, đồng thời sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc định giá như vậy đã phù hợp chưa, mức chênh lệch có nhiều không. Tiến tới sử dụng phương pháp đấu thầu vì phần lớn các doanh nghiệp CPH hiện nay chưa đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khi đó chương trình CPH trong thời gian tới sẽ được tiến hành khẩn trương hơn sẽ có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn chi phí và mất nhiều thời gian. Vì vậy việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình CPH do cơ chế định giá khách quan hơn, chính xác hơn và đơn giản hơn.
4. Giải quyết tốt lợi ích cho người lao động
Người lao động trong doanh nghiệp là người phải chịu tác động trực tiếp nhất từ chính sách CPH. Họ cũng là lực lượng quyết định việc CPH diễn ra nhanh hay chậm. Thực tế đã chứng minh muốn CPH nhanh thì phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động khi thực hiện CPH thể hiện chủ yếu ở những mặt sau: quyền được mua cổ phiếu ưu đãi, quyền được mua cổ phần ưu đãi trả chậm với lao động nghèo trong doanh nghiệp, quyền được hưởng từ quỹ phúc lợi, vấn đề mua bán chuyển nhượng cổ phiếu. Được mua cổ phần ưu đãi là nhu cầu chính đáng của người lao động do cống hiến đóng góp của họ trong những năm trước đó và thể hiện sự ưu việt chế độ của ta. Sự ưu đãi này đã được quy định rất rõ trong Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ban hành ngày 19/6/2002 “người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp CPH tại thời điểm quyết định CPH được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực Nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 nghìn đồng”. Làm một phép tính đơn giản cũng thấy được quy định như vậy là gây khó khăn cho người lao động để mua được hết cổ phần ưu đãi mà Nhà nước dành cho người lao động trong doanh nghiệp. Cứ một năm công tác một người lao động phải bỏ ra số tiền là: 10*70.000 =700.000đ giả sử một người lao động có thâm niên làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước trong 20 năm thì số tiền phải bỏ ra để mua hết số cổ phần ưu đãi là: 700.000*20 = 14.000.000đ. Việc bỏ ra số tiền 14 triệu đồng cùng một lúc để mua cổ phần ưu đãi là quá khó cho người lao động trong khi mức thu nhập chỉ 550.000-600.000đ/tháng. Như vậy là đánh đố người lao động có ưu đãi mà thực sự trả ưu đãi tí nào. Một điều không hợp lí nữa là số cổ phần mua ưu đãi trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi dành cho người lao động trong doanh nghiệp. Điều này thật khó cho Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp ở các doanh nghiệp nông nghiệp khi lên danh sách những người nghèo vì khó có thể nhặt ra trong số toàn thể cán bộ công nhân viên ra số lao động nghèo hơn để được mua ưu đãi 20% số cổ phần ưu đãi trả chậm. Nếu được thì Nhà nước cần có chính sách riêng cho các doanh nghiệp nông nghiệp, Nhà nước đưa ra quy định như thế nào là nghèo sau đó các doanh nghiệp theo đó mà xem ai thuộc diện nghèo thì cũng được mua cổ phần ưu đãi trả chậm không hạn chế số cổ phần loại này.
Mua bán cổ phần là nhu cầu chính đáng của các cổ đông song cũng cần phải lưu ý vấn đề này tránh tình trạng số cổ phần tập trung quá lớn vào một người hoặc một nhóm người dẫn đến thay đổi bản chất của CTCP. CTCP phải theo dõi kiểm tra việc mua bán cổ phần khuyến khích những người có nhu cầu bán cổ phần bán cho những cổ đông trong Công ty.
Xung quanh vấn đề ưu đãi dành cho người lao động còn nhiều vấn đề đáng bàn và cần có giải pháp tháo gỡ để người lao động yên tâm khi chuyển sang làm việc cho CTCP. Trước mắt Nhà nước cùng doanh nghiệp tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Nhà nước nên có quy định riêng mức ưu đãi dành cho lao động trong nông nghiệp. Chúng ta luôn xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là lĩnh vực cần ưu tiên phát triển vậy tại sao trong vấn đề này chúng ta lại không thể có những chính sách ưu ái hơn cho các doanh nghiệp nông nghiệp. Việc ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nông nghiệp là tạo điều kiện cho các DNNN trong nông nghiệp sang CTCP tức là chuyển sang loại hình doanh nghiệp làm ăn có hiêu quả hơn điều đó tác động tích cực đến nông nghiệp nông thôn góp phần vào phát triển kinh tế xã hội. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt nhưng lại thu được lợi ích lớn hơn nhiều về lâu dài điều đó cũng đáng làm lắm chứ.
Do trong doanh nghiệp nông nghiệp có một bộ phận đáng kể người lao động không có khả năng mua cổ phần hoặc mua không hết số cổ phần ưu đãi, nguy cơ đứng ngoài tiến trình CPH của doanh nghiệp là rất rõ. Vì vậy Nhà nước cùng với doanh nghiệp phải có biện pháp tạo vốn ban đầu cho người lao động để họ mua cổ phần. Doanh nghiệp có thể đứng ra vay hoặc bảo lãnh cho người lao động vay hình thức này đã áp dụng rất thành công ở một số doanh nghiệp CPH trước đó.
5. Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH theo các văn bản hiện hành
Việc tuân thủ đúng quy trình CPH sẽ tạo nên những thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH vì các khó khăn trong quá trình CPH sẽ được tháo gỡ dần, kế hoạch đề ra sẽ được thực hiện, đảm bảo được sự chỉ đạo của cấp trên. Theo quy định hiện hành thì quá trình CPH được chia làm 4 bước:
B1. Chuẩn bị CPH
B2. Xây dựng phương án CPH
B3. Phê duyệt và triển khai phương án CPH
B4. Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách
Tuy đã có nhiều văn bản được ban hành để hướng dẫn và khắc phục những tồn tại nảy sinh trong quá trình CPH. Nhưng thực tế cho thấy là khi các văn bản mới được ban hành khắc phục được những tồn tại trước đó lại nảy sinh những vấn đề khó khăn khác. Nội dung của các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện triển khai, thiếu tính đồng bộ nhiều vấn đề chưa khẳng định được như CPH là tự nguyện hay bắt buộc, chưa có các quy định về tránh nhiệm của cán bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong triển khai CPH: cho đến nay sau khi có Nghị định số 64/2002/NĐ-CP và hàng loạt các văn bản hướng dẫn kèm theo. Thực tế đã nảy sinh những tồn tại như: xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn nhiều vướng mắc, chậm và còn nhiều lúng túng kết quả còn mang tính chủ quan chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu và khả năng sản xuất của tài sản trong tương lai; quy trình CPH phức tạp nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém, chậm được triển khai; ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động còn chung chung và chưa đủ lực…vì vậy việc hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến CPH là cần thiết để tạo ra một văn bản có hiệu lực cao thúc đẩy quá trình CPH đang chậm chạm hiện nay.
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH.
Một trong những mục tiêu của quá trình CPH là tạo động lực huy động vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện mục tiêu này phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó những ưu đãi về kinh tế được coi là động lực hàng đầu. Song một thực tế hiện nay là các ưu đãi dành cho doanh nghiệp và người lao động luôn thay đổi theo hướng ngày càng có nhiều ưu đãi hơn tạo nên tâm lý chờ đợi. Mặt khác hiện nay các quy định về mức ưu đãi là như nhau cho mọi doanh nghiệp tạo nên những thiệt thòi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, nên chăng có các văn bản quy định phân biệt mức độ ưu đãi khác nhau cho người lao động và doanh nghiệp theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh.
6.2. Là thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay
Hiện nay các doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và Công ty TPXK Bắc Giang nói riêng khi thực hiện CPH thì cổ phần của Nhà nước là 51% tức Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Như vậy xuất hiện tâm lý không phân biệt doanh nghiệp mới là DNNN hay CTCP. Việc nhà nước nắm 51% cổ phần làm cho công tác bán cổ phiếu gặp nhiều khó khăn do nhà đầu tư cảm thấy thứ họ mua không phải là cổ phần mà là “trái phiếu” nhiều rủi ro. Một CTCP Nhà nước lại giữ 51% vốn điều lệ thì Nhà nước hoàn toàn có thể duy trì sự quản lý như cũ, yếu tố đổi mới là không thể hay rất khó xẩy ra. Đối với các CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối chức danh lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp này như giám đốc điều hành hầu như vẫn được giữ nguyên… Nhiều giám đốc điều hành đã điều hành CTCP không khác gì giám đốc DNNN trước đây, cơ quan chủ quản cấp trên vẫn tiếp tục can thiệp vào công việc sản xuất kinh doanh của CTCP với một lý do đơn giản là CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn được coi là DNNN.
Việc Nhà nước giữ 51% cổ phần làm cho việc CPH mang nặng tính hình thức lãnh đạo nhiều doanh nghiệp trong danh sách CPH đã lợi dụng quy định này để tiếp tục giữ doanh nghiệp.
Tóm lại, việc xoá bỏ tình trạng “vô chủ” đối với DNNN, tăng cường sự giám sát của các nhà đầu tư, tạo động lực mới cho sự phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ cổ phần mà các cổ đông nắm giữ, nếu tiếp tục CPH kiểu như hiện nay thì mục tiêu tạo động lực mới cho doanh nghiệp khó mà đạt được.
6.3. Đơn giản hoá quy trrình thực hiện CPH
Hiện nay thủ tục tiến hành CPH còn phức tạp nên không tránh khỏi việc gây khó khăn cho Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. Bởi vì thành phần chỉ đạo đổi mới DNNN là các cán bộ lãnh đạo hoạt động có tính chất kiêm nghiệm chưa thực sự dành nhiều thời gian thoả đáng cho công tác cổ phần. Ban đổi mới của doanh nghiệp cùng một lúc phải lo hai nhiệm vụ lớn: Đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện công việc của quá trình CPH. Sự phối hợp với các cơ quan cấp trên có liên quan chưa được thường xuyên chặt chẽ. Vì vậy việc đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH là cần thiết.
- Xây dựng kế hoạch triển khai quá trình CPH trong đó xác định các bước chuyển DNNN thành CTCP, các công việc cụ thể trong mỗi bước, tiến độ thời gian và lực lượng thực hiện. Về hình thức kế hoạch này nên xây dựng thành sơ đồ hoặc biểu đồ tiến độ.
- Xác định những công việc phải thường xuyên quán xuyến trong toàn bộ quá trình CPH, những công việc trọng tâm của từng giai đoạn. Từ đó bố trí công việc cho hợp lí.
- Phân chia trách nhiệm trong Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành ba nhóm dưới sự điều hành chung của Giám đốc trưởng ban: Nhóm phụ trách các vấn đề tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp; Nhóm phụ trách việc xác định phương án CPH; Nhóm phụ trách các vấn đề liên quan đến người lao động trong doanh nghiệp CPH. Từ kế hoạch chung Giám đốc trưởng ban sẽ điều hoà phối hợp chung bảo đảm sự đồng điệu trong thực hiện các công việc của quá trình CPH.
- Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp đăng kí kinh doanh cho CTCP thành lập từ chuyển hoá DNNN. Trong hồ sơ xin đăng kí kinh doanh cần tôn trọng những điểm mà CTCP kế thừa hợp lệ từ DNNN như giấy phép sử dụng đất, đăng kí trụ sở.
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp:
Một thực tế hiện nay là các DNNN thường CPH theo hình thức bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nhưng thực tế đã chứng minh hình thức này chưa phù hợp với đặc điểm riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp nông nghiệp hầu hết làm ăn không hiệu quả, thu nhập của người lao động thấp, hoạt động kinh doanh mang tính chất rủi ro cao cho nên việc bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp gặp khó khăn. Khi không bán hết cổ phần thì số cổ phần đó lại được chuyển vào vốn Nhà nước như vậy thì khó mà đạt được mục tiêu CPH. Theo kiến nghị của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp thì nên cổ phần doanh nghiệp nông nghiệp theo hình thức thứ nhất tức là: Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu không chỉ một đợt mà được tiến hành thành nhiều đợt để tăng vốn sản xuất kinh doanh và giảm dần cổ phần của Nhà nước tại doanh nghiệp. Hy vọng hình thức này sẽ sớm được áp dụng để thúc đẩy quá trình CPH trong các DNNN trong nông nghiệp hiện nay.
6.5.Tạo môi trường thức đẩy CPH
- Hình thành thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp.
-Thành lập một số trung tâm tư vấn về CPH DNNN để trợ giúp cho việc triển khai CPH DNNN.
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH
CPH chậm trễ do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, bản chất của vấn đề lại nằm ở chỗ trong quá trình CPH có nhiều cản trở mà chủ yếu lại ở chỗ, bản thân doanh nghiệp chưa nhìn thấy rõ tương lai triển vọng khi chuyển thành CTCP.
Mặc dù cả lí thuyết và thực tế đều chứng minh CPH là giải pháp hữu hiệu nhất để DNNN tự cải tổ lại chính mình và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhưng không mấy doanh nghiệp lại tin vào điều này. Thực tế đã giải thích khá rõ tại sao CPH có lợi như vậy mà rất ít DNNN tự nguyện xin CPH, Chính phủ hàng năm phải giao chỉ tiêu cho các Bộ, ngành, địa phương nhưng năm nào cũng không hoàn thành kế hoạch. Mặc dù ít được nhắc đến nhưng vấn đề giải quyết hậu CPH ở doanh nghiệp lại gặp rất nhiều khó khăn, còn tồn tại nhiều bất cập do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
+ Bài toán đầu tiên doanh nghiệp đã CPH phải đối mặt là vấn đề tiếp cận nguồn vốn. Giải quyết song vấn đề vốn tự có để sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Quy chế cho vay hiện nay dành cho các DNNN quyền vay tín dụng không cần thế chấp tại các ngân hàng quốc doanh (lực lượng kiểm soát gần 80% thị trường tín dụng Việt Nam hiện nay). Chuyển sang CTCP, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã quy định rất rõ các CTCP vẫn được tiếp tục vay vốn theo cơ chế trước đó vẫn áp dụng cho các DNNN. Cách đánh giá của các ngân hàng thương mại quốc doanh với các CTCP không thể thân thiện như họ vẫn làm với các DNNN. Đơn giản là vì trước đó các DNNN có nợ thì theo quy định hiện hành các ngân hàng có thể đưa vào diện khoanh nợ thậm chí xoá nợ. Với các CTCP thì không thể làm như thế. Và do đó dù muốn hay không muốn họ không thể tiếp cận nguồn vốn rễ ràng như trước.
+ Về mặt tổ chức quản lí còn nhiều bất cập chuyển sang CTCP mà hoạt động chẳng khác gì một DNNN. Theo quy định hiện nay các CTCP Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần thì vẫn được coi là thành viên của tổng công ty như vậy thì không khác mấy so với trước khi CPH.
+ Một bài toán đau đầu nữa mà khi hoàn thành song CPH công ty phải đối mặt đó là vấn đề giải quyết số lao động dôi dư hậu CPH. Trong quá trình CPH, để mọi sự được diễn ra một cách êm đẹp, công ty đã không tiến hành việc tinh giảm triệt để bộ máy để chuyển sang CTCP, trừ những trường hợp không thể còn phần lớn số nhân sự trước đây ở DNNN đều được chuyển sang CTCP để mọi người “hài lòng”. Việc làm bất chấp thực tế này dẫn dến sự dôi dư không tránh khỏi của lực lượng lao động khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Khi đã là CTCP thì công ty không thể khắc phục khiếm khuyết này. Điều đó đương nhiên là phức tạp, tốn thời gian, tốn chi phí và quan trọng hơn nữa là nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty.
+ Cũng không thể không nhắc đến nguy cơ làm chủ hình thức của người lao động trong Công ty. Do đặc điểm của Công ty sản xuất thủ công vẫn là chính công việc rất nặng nhọc, lao động chủ yếu là lao động hợp đồng có thời hạn nên lực lượng lao động chủ yếu là lao động trẻ khi cổ phần với số năm công tác ít họ sẽ trở thành cổ đông nhỏ tại Công ty. Biểu hiện của tình trạng là chủ hình thức trước hết là ở chỗ quyền thông tin của các cổ đông hầu như không được tôn trọng. Theo nguyên tắc đồng sở hữu tài sản, các chủ sở hữu vốn của CTCP được quyền tham gia quản lí công ty, được công ty cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, tình hình tài chính, cổ phần, tình hình lao động, đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh…nhưng có lẽ các cổ đông nhỏ phải yên vị với những thông tin hết sức sơ sài được trình bầy trước Đại hội đồng cổ đông hằng năm. Do không được cung cấp đầy đủ thông tin, hầu hết là các cổ đông nhỏ (chủ yếu là các công nhân trực tiếp sản xuất) không hiểu được CTCP, họ cảm thấy mình là cổ đông thực thụ mà phải đứng ngoài Công ty. Như vậy dễ nảy sinh tâm lí cho rằng họ không phải là chủ Công ty, họ không phải là cổ đông mà là người bị vay vốn.
Mặc dù những tồn tại trên không thuộc về bản chất của CTCP, nhưng điều này rất rễ xẩy ra nên dù muốn hay không muốn nó cũng tạo tâm lí tiêu cực cho cán bộ lãnh đạo và cả người lao động trong công ty. Lẽ đương nhiên khi tâm lí bị bi quan thì đương nhiên CPH không thể suôn sẻ được. Vậy thì giải pháp nào là hữu hiệu để phát triển doanh nghiệp hậu CPH.
+ Cơ chế tín dụng cho các doanh nghiệp CPH cần được thực hiện đúng với sự hỗ trợ khuyến khích mà các quy định của Nhà nước dành cho họ. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác chứ không nên chỉ trông chờ vào vốn của các ngân hàng.
+ Cần có những quy định về quyền thông tin cho các cổ đông dù nhỏ tại CTCP để khắc phục tâm lí bị đứng ngoài công ty của những cổ đông này. Doanh nghiệp cũng cần thực hiện đúng nghĩa vụ thông tin cho các cổ đông.
+ Trong quá trình CPH công ty cần phải triệt để tinh giảm bộ máy, chỉ giữ lại những người cần cho CTCP, CTCP cần “chất” chứ không phải là “lượng” CTCP phải có một bộ máy thực sự tinh gọn khi bước vào hoạt động sau CPH. Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến lợi ích cho người lao động phải có chế độ thoả đáng cho những lao động dôi dư trong CPH để họ có thể tìm công việc mới. Nếu như do mở rộng quy mô sản xuất sau này cần tuyển thêm lao động thì cũng cần ưu tiên những người đã từng làm việc cho công ty.
+ Nhà nước cùng các bộ ngành có liên quan cần có biện pháp hỗ trợ công ty về mặt tổ chức quản lí (thông qua việc tổ chức các chương trình tập huấn, hoặc cử chuyên gia hỗ trợ) để Công ty sau CPH có thể nhanh chóng có một cơ chế quản lí thích ứng với mô hình tổ chức mới.
+ Quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phần ưu đãi để khuyến khích, thu hút vốn. Tạo điều kiện cho người lao động trẻ, nhất là lao động đã qua đào tạo (lực lượng quan trọng của doanh nghiệp), có cơ hội được hưởng chế độ ưu đãi nhất định có lợi hơn so với các cổ đông khác. Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ trợ và sắp sếp DNNN
+ Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạo sâu sát, cụ thể, nắm chắc tình hình các doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm giúp doanh nghiệp CPH được thuận lợi, ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với doanh nghiệp CPH, thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động theo quy định tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP .
Kết luận
CPH DNNN là giải pháp hữu hiệu để đổi mới hoạt động của các DNNN nói chung DNNN trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. CPH là một yêu cầu khách quan phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay và yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Trong nông nghiệp, do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và của các hoạt động kinh tế gắn liền với sản xuất nông nghiệp mà CPH doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước mang những đặc điểm riêng, đòi hỏi có phương pháp thực hiện phù hợp.
Từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, kinh nghiệm chuyển hoá sở hữu và CPH DNNN ở các nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến CPH nhằm tạo ra động lực mới cho các doanh nghiệp nhà nước.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện CPH tuy còn nhiều vướng mắc khó khăn song về cơ bản chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước đã đem lại kết quả tốt đẹp tạo được niềm tim từ phía người lao động và các DNNN.
Qua nghiên cứu quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang thấy nổi nên những khó khăn trong khi thực hiện CPH do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan như: ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động chưa thoả đáng, xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập, còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và CTCP, tâm lí ngại chuyển sang CTCP của người lao động, đặc lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể…Từ thực tế đó để thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang Em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
+ Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên
+ Lành mạnh vấn đề tài chính trước khi CPH
+ Xác định đúng giá trị doanh nghiệp
+ Giải quyết tốt vấn đề lợi ích cho người lao động
+ Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH
+ Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
+ Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH
Danh mục tài liệu tham khảo
Phần sách:
1. PGS.TS. Đỗ Hoài Nam CPH DNNN cơ sở lí luận và kinh nghiệm thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
2. PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn. Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các DNNN thuộc thành phố Hà Nội. Nhà xuất bản chính trị quốc gia
3. Các văn bản pháp luật về CPH DNNN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia
4. PGS.TS . Ngô Quang Minh. Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Phần tạp chí:
1.Tạp chí Kinh tế và phát triển số 4/2004
2.Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 3/2004
3.Tạp chí lí luận chính trị năm 3/2001
4.Tạp chí Cộng sản số 1/2002
5.Tạp chí Ngân hàng số 1/2001
6.Tạp chí Thị trường chứng khoán số 2/1999
7.Tạp chí Tài chính số 18 năm 2000
Cùng nhiều loại sách báo và tạp chí khác
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23185.doc