Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản tại Công ty XNK tổng hợp 1

Lời nói đầu Lời nói đầuViệt nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đang ra sức đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả. Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy Đảng cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khảng định tầm quan trọng đặc biệt của

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1183 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản tại Công ty XNK tổng hợp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công tác xuất khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện. Có đẩy mạnh xuất khẩu mở cửa nền kinh tế Việt Nam mới khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tề quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho dân cư. Từ đặc điểm nền kinh tế là một nước nông nghiệp lạc hậu với 70% dân số sống bằng nghề nông, Việt nam xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu cần thiết để nhâpj khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cũng góp phần đảy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là một trong những công ty hàng đầu về kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam, mặt hàng kinh doanh của công ty rất đa dạng trong đó nông sản là một trong những mặt hàng được công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I chú trọng trong cơ cấu mặt hàng của mình. Xuất phát từ thực tiễn trên qua thực tế thực tập tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I em nhận thấy công ty đã tìm ra cho mình hướng đi đúng trong hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên bên cạnh những thành công mà công ty dã đạt được thì vẫn còn những hạn chế nhất định trong khâu tìm nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu, dự trữ và bảo quản hàng hoá... Vì vậy đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I" được chọn để nghiên cứu. Đề tài tổng kết những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu một số mặt hàng nông sản tại công ty . Trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số kiến nghị và biện pháp cơ bản để đảy mạnh xuất khẩu hàng nông sản của công ty. Với mục đích đặt ra ở trên, luận văn tốt nghiệp ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 chương: ChươngI: Lí luận chung về hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I . Chương III: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I . Qua luận văn này em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thừa Lộc, Thầy giáo............................ và tập thể cán bộ công tác tại phòng nghiệp vụ 5, phòng tổ chức cán bộ công ty đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo em hoàn thành luận văn này. Với thời gian thực tế còn ít, tư liệu tổng kết và thống kê chưa đầy đủ, sự hiểu biết của bản thân còn hanj chế, do vậy luận văn này không tránh khỏi những sai xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I Lý LUậN CHUNG Về HOạT Động xuất khẩu Mặt HàNg NÔNG SảN của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i I. Vai trò hoạt động xuất khẩu nông sản đối với hoạt động kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp I . Khái niệm hoạt động xuất khẩu . Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc buôn bán hàng hoá, dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và cả công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Hoạt động xuất khẩu còn diễn ra trên phạm vi rất rộng về cả không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một nước hay nhiều nước khác nhau. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh. 2.1. Đối với nền kinh tế thế giới: Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa những người sản xuất nước này với người tiêu dùng nước khác. Nền kinh tế xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinhdoanh này, Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế thế giới nói chung thể hiện qua các sau: Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ giúp nền kinh tế của các quốc gia có điều kiện “xích lại” gần nhau hơn góp phần vào xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, có thể khai thác được lợi thế của mình, sử dụng tốt nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực. Hoạt đông xuất khẩu sẽ tạo ra cơ hội cho các quốc gia cùng nhau trao đổi phương pháp quản lý, trao đổi thành tựu khoa học tiên tiến... Đây là yếu tố then chốt trong quá trình CNH- HĐH đất nước, không những cho phép tăng khối lượng sản phẩm mà còn tăng chất lượng sản phẩm, tăng tính đa dạng của sản phẩm, tiết kiệm chi phí lao động xã hội. Hoạt động xuất khẩu góp phần tạo nên sự liên kết các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại như: dịch vụ thương mại, bảo hiểm, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính tín dụng quốc tế hay kinh doanh du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế. Thông qua lao động xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Từ đó làm cho khối lượng sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế thế giới tăng lên. 2.2.Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có 4 điều kiện là: nhân lực, tài nguyên, vốnvà kĩ thuật. Song không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các điều kiện ấy. Trong thời kỳ hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu thốn kĩ thuật nhưng lại thừa lao động. Để giải quyết tình trạng này buộc phải tiến hành nhập khẩu những trang thiết bị từ bên ngoài mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng. Những vấn đề đặt ra là làm thế nào có đủ ngoại tệ cần thiết cho việc nhập khẩu. Thực tiễn cho thấy để có nguồn vốn nhập khẩu, các nước có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau: +Đầu tư nước ngoài +Vay nợ, viện trợ +Thu từ hoạt động xuất khẩu. Nhưng đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nguồn vốn vay nợ, viện trợ trong tình hình hiện nay ở các nước kém hoặc đang phát triển huy động khó, nhất là sau khi có cuộc khủng hoảng tiền tệ vừa qua. Hơn nữa khi sử dụng nguồn vốn này, các nước thường phải chịu những thiệt thòi và những điều kiện ràng buộc nhất định...Bởi vậy nguồn vốn quan trọng nhất mà các nước có thể trông chờ vào đó là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu có thể nói xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ của nhập khẩu Thông qua hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng hạn như phát triển ngành công nghiệp thực phẩm thì ngành trồng trọt, chăn nuôi cũng có cơ hội phát triển hoặc khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho phát triển ngành sản xuất nguyên liệu bông hay thuốc nhuộm phát triển. Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu, sẽ thu hút được hàng triệu lao động, tạo thu nhập ổn định, cải thiện đời sống của nhân dân từ đó góp phần giải quyết hàng loạt các vấn đề về xã hội kéo theo. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước và tạo ra những tiền đề kinh tế kĩ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác xuất khẩu chính là cơ sở tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài thúc đẩy thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế đóng sang nền kinh tế hướng ngoại. Bởi vì xuất phát từ những nhu cầu của thị trường thế giới để sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường thế giới cần. Việc đó có tác động tích cực từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước một cách hợp lí hơn từ đó góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề thiết yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá sản xuất và còn giúp các nước khai thác triệt để lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quá trình phát triển nền kinh tế của mỗi nước. 2.3 Đối với doanh nghiệp. Qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả chất lượng mẫu mã của sản phẩm mình đưa vào thị trường quốc tế. Chính yếu tố này buộc các doanh nghiệp phải năng động sáng tạo để tìm cho mình hướng đi đúng, phù hợp để có thể tồn tại trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh đồng thời tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư quá trình sản xuất không những cả chiều rộng mà cả chiều sâu. Doanh nghiẹp tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó có điều kiện tiếp thu học hỏi kinh nghiệm quản lí tiên tiến của đối tác, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho các thành viên trong doanh nghiệp. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của cán bộ công nhân viên, trong doanh nghiệp, vừa thu hút được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu. Mục tiêu chung của hoạt động xuất khẩu không hoàn toàn giống với mục tiêu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp xuất khẩu là để hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hoá với giá cao hơn trong nước hay để được một khoản lợi nhuận từ việc chênh lệch tỉ giá khi chuyển đổi qua lại giữa các đồng tiền. Còn đối với một quốc gia xuất khẩu được dùng để trả nợ, để chi cho các hoạt động ngoại giao...nhưng mục tiêu quan trọng nhất của xuất khẩu là để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế là rất đa dạng: phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước, cho tiêu dùng, tạo việc làm cho người lao động, xuất khẩu là để nhập khẩu, phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng thích hợp. Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài nguyên, cơ sở vật chất...) Hai là: Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Ba là:Tạo ra những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và khách hàng về số lượng, chất lượng, phẩm chất sản phẩm hàng hoá phải có sức hấp dẫn, khả năngg cạnh tranh cao. Bốn là: Không ngừng phát triển những quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác trên thế giới. II. Nội dung hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài diễn ra phức tạp tới những vấn đề như: ngôn ngữ bản sắc dân tộc, sự vận động của thị trường, đồng tiền thanh toán, điều kiện vận chuyển hàng hoá, pháp luật, chính trị, tập quán, thông lệ quốc tế. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu nghiên cứu điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lập phương án kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng điều khiển phương thức thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ theo đúng bước, đúng thủ tục, phải tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt kết quả cao nhất. Nội dung chính bao gồm các bước sau: 1. Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ những thông tin cần thiết về vấn đề thị trường, từ đó có thể đưa ra những quyết định chính xác.Vì vậy nghiên cứu thị trường đóng vai trò hết sức quan trọng giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thực ra không chỉ đối với kinh doanh thương mại quốc tế mà bất cứ trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có đầy đủ những thông tin hiểu biết về thị trường mà mình đang hướng tới. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể phải có những quy luật riêng, quy luật này đòi hỏi sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả trên thị trường. Việc nghiên cứu trên thị trường sẽ giúp các nhà kinh doanh hiểu được các quy luật vận động trên thị trường đó. Điều này trong kinh doanh quốc tế càng đòi hỏi phải nghiên cứu công phu và tỷ mỷ hơn vì giá cả và khối lượng thường lớn hơn so với thương mại trong nước, hơn nữa là các nhà kinh doanh trong nước phải tiếp xúc với môi trường kinh doanh mới có yếu tố quốc tế... Chính vì vậy nghiên cứu thị trường phải có kế hoạch nhất định bao gồm: Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu: Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên các doanh nghiệp có ý định ra nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì trước tiên phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra . Mục đích của việc lựa chọn các mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp năng lực và khả năng của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng nhu cầu của thị trường, từ đó mới mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Mặt hàng được lựa chọn ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp. Chính điều này đòi hỏi phải có sự phân tích đánh giá đúng khả năng nội tại của doanh nghiệp cũng như dự đoán được thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp khi đưa ra mặt hàng này vào thị trường quốc tế. Khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu các nhà kinh doanh phải nghiên cứu vấn đề sau: - Mặt hàng thị trường đang cần là gì? Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén, biết sử dụng, thu thập, phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng được các quan hệ bán hàng để từ đó có được thông tin cần thiết về mặt hàng, chủng loại , quy cách, mẫu mã... Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Việc tiêu dùng mặt hàng thường tuân thủ theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt hàng đó. Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Chu kỳ sống của mặt hàng bao gồm bốn giai đoạn : triển khai, tăng trưởng, bão hoà, suy thoái. Do vậy các nhà xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để từ đó có biện pháp thích hợp nhằm tăng doanh thu. 1.2 Lựa chọn thị trường xuất khẩu: Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu sự vận động của thị trường trong nước còn phải nghiên cứu một số vấn đề khác như: điều kiện tiền tệ, tín dụng, điều kiện vận tải của thị trường nước ngoài mà mình hướng tới. Doanh nghiệp cần phải xác định được khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này cần có những dịch vụ gì kèm theo và nếu cần phải có hính thức marketing như thế nào?... Chính vì vậy phải có một sự khách quan, tinh tế khi lựa chọn thị trường. Vậy nên lựa chọn thị trường phải chú ý những vấn đề sau: Thị trường và dung lượng thị tường: Nhà xuất khẩu phải tìm hiểu và nắm được các thông tin về nhân tố làm thay đổi thị trường và dung lượng thị trường như: + Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ, đó là sự vận động của tình hình kinh tế và các nước xuất khẩu , tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá. Việc nghiên cứu ảnh hưởng này có ý nghĩa quan trọng quyết định việc định thời gian và đia điểm , đối tác giao dịch. + Các nhân tố ảnh hưởng đến lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường như các nhân tố cơ bản sau: Các biện pháp, chính sách của chính phủ hoặc các tập đoàn tư bản lớn cũng có ảnh hưởng lớ tới sự thay đổi dung lượng thị trường. Thị hiếu, tập quán tiêu dùng của thị trường là giới hạn quan trọng đối với sự biến đổi dung lượng thị trường, đây là yếu tố mà nhà kinh doanh có thể tác động bằng các biện pháp để hướng dẫn thị hiếu hoặc làm thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. + Các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời tới dung lượng thị trường đó là việc đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và sự biến động của các chính sách chính trị xã hội và các yếu tố tác động của thiên nhiên. Vấn đề biến động giá cả trên thị trường: Việc phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là cơ sở để giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Do đó người xuất khẩu phải nắm vững và có đầy đủ thông tin về sự biến động giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước để có biện pháp thích hợp tăng hiệu quả trong việc xuất khẩu hàng hoá. Trong buôn bán quốc tế việc xác định giá cả của hàng hoá càng trở nên phức tạp, do hàng hoá vận chuyển trong thời gian dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với các điều kiện khác nhau (thuế quan, chi phí vận chuyển...) để thích ứng với sự biến động của giá cả thị trường , các nhà kinh doanh phải luôn linh hoạt trong việc định giá cho hàng hoá. Thông thường các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường định giá bán hàng hoá dựa trên 3 căn cứ: + Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác ( vận chuyển...) + Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu đùng. + Căn cứ vào giá cả hàng hoá cạnh tranh. Nghiên cứu giá cả được coi là một vấn đề chiến lược bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá hàng hoá đúng sẽ giúp cho các nhà kinh doanh giành thắng lợi trong kinh doanh. Lựa chọn đối tác kinh doanh: Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập được vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp phải thông qua một hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó, họ có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lí để đảm bảo cho 2 bên hoạt động một cách thuận lợi. Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới: Quan điểm kinh doanh của đối tác. Lĩnh vực kinh doanh của đối tác. Khả năng về tài chính. Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh. Những người đại diện cho công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của công ty. Khi lựa chọn đối tác giao dịch, phương án tối ưu là trực tiếp giao dịch, kí kết hợp đồng với bạn hàng kinh doanh hạn chế những hoạt động trung gian. Nên ưu tiên những bạn hàng đã có quan hệ làm ăn quen thuộc . Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có hiệu quả đó là khi chúng ta thâm nhập vào thị trường mới. Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để dẫn tới thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu: 3.1 Chiến lược xuất khẩu: Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu các khâu nêu trên, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng chiến lược kế hoạch xuất khẩu cụ thể, đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ để dự đoán về diễn biến quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Chiến lược xuất khẩu phản ánh những đánh giá của doanh nghiệp về điều kiện cơ hội thị trường và khả năng lợi dụng những cơ hội ấy của doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả đánh giá doanh nghiệp sẽ quyết định mở rộng hơn, thu hẹp lại, duy trì như trước hay chuyên môn hoá ở một bộ phận chiến lược nào đó. 3.2 Kế hoạch xuất khẩu: Kế hoạch xuất khẩu là phương tiện để phối hợp thống nhất các nỗ lực của các thành viên trong doanh nghiệp, là sự cụ thể hoá những công việc cần được thực hiện trong chiến lược xuất khẩu. Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch gồm: 3.2.1 Xác định mục tiêu và lập kế hoạch xuất khẩu: Trước tiên doanh nghiệp phải xác định rõ các mục tiêu cụ thể khi tiến hành xuất khẩu hình thành ở các cấp quản trị, ở các nghiệp vụ, ở các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp: mục tiêu xuất khẩu chung của doanh nghiệp; mục tiêu xuất khẩu của các chi nhánh, các phòng nghiệp vụ, các cá nhân trong hệ thống xuất khẩu; mục tiêu tài chính. Tương ứng với các yêu cầu quản trị và các kế hoạch cần lựa chọn các mục tiêu phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ xuất khẩu của doanh nghiệp. Các mục tiêu có thể trình bày dưới dạng định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng là sự cụ thể hoá các mục tiêu định tính vào các kế hoạch xuất khẩu. Các mục tiêu này thường được gọi là chỉ tiêu xuất khẩu. Các chỉ tiêu xuất khẩu sẽ được trình bày một cách hệ thống trong các kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể xây dựng kế hoạch xuất khẩu của mình theo các dạng khác nhau, kế hoạch xuất khẩu theo cấp quản lí, theo sản phẩm, theo khu vực địa lí, theo thời gian. Quá trình xác định các chỉ tiêu xuất khẩu đồng thời cũng là quá trình dự đoán triển vọng xuất khẩu. Các chỉ tiêu xuất khẩu có thể trở thành cơ sở cho sự thành công khi nó được xây dựng dựa trên kết quả của dự báo xuất khẩu. Dự báo xuất khẩu có thể dự báo ngắn hạn hay dự báo dài hạn. Dự báo ngắn hạn có thể dựa trên sự phân tích của dự báo dài hạn. Trong điều kiện hạn chế tốt nhất cần và nên đặt trọng tâm vào dự đoán ngắn hạn. 3.2.2. Lựa chọn hình thức xuất khẩu thích hợp: Trong hoạt động xuất khẩu có rất nhiều hình thức xuất khẩu tùy thuộc vào điều kiện, khả năng và mặt hàng xuất khẩu cụ thể mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn khi tiến hành xuất khẩu Xuất khẩu trực tiếp: Trong hình thức này các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và kí kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiẹep và cá nhân nước ngoài được nhà nước và pháp luật cho phép. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có thể tận dụng được hết tiềm năng, lợi thế để sản xuất hàng xuất khẩu, chủ động trong mọi tình huống với đối tác và lợi nhuận thu được không phải phân chia. Nhưng hình thức xuất khẩu trực tiếp này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một số điều kiện sau: phải có khối lượng hàng hoá lớn, có thị trường ổn định, có năng lực thực hiện xuất nhập khẩu. Xuất khẩu uỷ thác: Xuất khẩu uỷ thác được tiến hành trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu nhưng không có điều kiện để tham gia. Khi đó họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu làm nhiệm vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Bên nhận uỷ thác sẽ thu được phí uỷ thác. Theo hình thức này quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lí và môi giới). Việc thực hiện hình thức này có ưu điểm là: + Giúp cho doanh nghiệp có thể xuất khẩu được những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không có điều kiện thực hiện xuất khẩu. Người trung gian có những hiểu biết về thị trường, pháp luật tập quán địa phương...do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và giảm bớt rủi ro cho người uỷ thác. + Giúp người uỷ thác tiết kiệm được khoản tiền đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là : Lợi nhuận bị phân chia, thông tin chậm hoặc đôi khi thiếu chính xác, ngoại tệ thu được không cao. Do đó hình thức xuất khẩu uỷ thác chỉ nên sử dụng trong trường hợp cần thiết như : Khi thâm nhập vào thị trường mới khi đưa ra thị trường một loại sản phẩm mới. Buôn bán đối lưu: Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương. ở đây, xuất khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị xuất khẩu. Buôn bán đối lưu bao gồm các loại nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ, nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn nghiệp vụ mua lại. Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao đổi hàng hoá, sự cân bằng đó thể hiện cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau, cân bằng về điều kiện giao hàng. Gia công xuất khẩu: Đây là phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Gia công xuất khẩu ngày nay khá phổ biến trong buôn bán thương mại của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp cho lợi dụng giá rẻ và nguyên liệu phụ. Đối với bên nhận gia công phương thức này giúp cho họ giải quyết được công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước. Giao dịch tái xuất khẩu: Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. 3.2.3 Mục tiêu và chính sách giá: Các kế hoạch xuất khẩu luôn phải được liên kết với các mục tiêu định giá và chính xác giá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các mục tiêu định giá sau để hỗ trợ xuất khẩu: Định giá bảo đảm mức thu nhập định trước. Định giá nhằm mục tiêu doanh số xuất khẩu. Định giá nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường. Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu. Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả. 3.2.4 Quảng cáo và xúc tiến: Các công cụ này thường được sử dụng nhằm gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu thông qua việc tạo dựng hình ảnh uy tín và sự hấp dẫn của doanh nghiệp. Để quảng cáo cho sản phẩm, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều loại phương tiện quảng cáo như: panô, áp phích, bao bì sản phẩm, báo chí,... Xúc tiến bán hàng có nhiều nội dung đa dạng và phong phú . Tuy nhiên để hoạt động xúc tiến có hiệu quả cần xây dựng mối quan hệ tốt giữa doanh nghiệp với khách hàng nhằm tạo ra sự tin cậy giữa khách hàng với doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể xây dựng mối quan hệ này bằng cách tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức hội thảo và tặng quà... Tổ chức tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu. Tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, bao gồm các khâu từ nghiên cứu thị trường đến thu mua, vận chuyển, bảo quản, xuất kho. Phần lớn các hoạt động nghiệp vụ này chỉ làm tăng chi phí thuộc chi phí lưu thông chứ không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm giảm chi phí lưu thông để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thương mại, thông qua hệ thống các đại lí thu mua hàng xuất khẩu chủ động được nguồn hàng, chủ động và ổn định trong kinh doanh buôn bán, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng, đến tiến độ giao hàng, thực hiện hợp đồng xuất khẩu uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu mạnh không chỉ lắm tiền nhiều vốn mà phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống đại lí thu mua rộng hoạt động thường xuyên bám sát thị trường. Tuỳ theo tình hình riêng của mỗi doanh nghiệp mà có những hình thức tạo nguồn và thu mua hàng xuất khẩu khác nhau như tạo nguồn và mua hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với kí kết hợp đồng; tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu theo hợp đồng, không theo hợp đồng, thông qua liên doanh liên kết với đơn vị sản xuất, thông qua đại lí thu mua, thông qua hàng đổi hàng. Công tác tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu là hệ thống các công việc bao gồm. 4.1 Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Đây là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định chủng loại mặt hàng kich cỡ, mẫu mã công dụng, chất lượng, giá cả thời vụ, những đặc điểm tính năng riêng của từng mặt hàng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải xác định được yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chi tiêu kinh tế, kĩ thuật hay không? Đồng thời nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả của hàng hoá trong nước so với giá cả quốc tế, lợi nhuận thu được sau khi trừ đi giá mua và chi phí khác là bao nhiêu. Người làm công tác này cũng cần tìm hiểu chính sách quản lí nhà nước về mặt hàng đó như thế nào? Tất cả những công việc này nhằm giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro của thị trường, tiến hành khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp lí, làm cơ sở chắc chắn cho việc kí kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 4.2 Tổ chức hệ thống hàng thu mua cho xuất khẩu: Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua đại lý và chi nhánh của mình doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được hệ thống thu mua, nâng cao năng xuất và hiệu qủa thu mua. Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở địa phương. Chi phí này khá lớn do vậy doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc trước khi chọn đại lí và xây dựng kho, nhất là những kho đòi hỏi trang bị nhiều phương tiện đắt tiền. Hệ thống thu mua đòi hỏi phải gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương. 4.3 Kí kết hợp đồng mua hàng cho xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với các nhà sản xuất hoặc các chân hàng thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công...Do vậy việc kí kết hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác thu mua hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện, các bên kí kết hợp đồng kinh tế, là cơ sở pháp lí cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cung cấp hàng. 4.4 Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi kí kết hợp đồng với các chân hàng và đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải l._.ập được kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận làm việc theo kế hoạch. Cụ thể gồm phần việc sau: đưa hệ thống kênh thu mua đã được và thiết lập vào hoạt động, chuẩn bị đầy đủ các thủ tục giấy tờ giao nhận hàng theo hợp đồng đã kí, tổ chức hệ thống kho hàng tại điểm nút. Các kênh tổ chức vận chuyển hàng theo địa điểm đã quy định. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp ngoại thương phải ghi bảng biểu để theo dõi tiến độ thực hiện nhằm kịp thời phát hiện những ách tắc, trì trệ để có những biện pháp xử lí kịp thời. 4.5 Tiếp nhận và bảo quản hàng xuất khẩu: Phần lớn hàng hoá trước khi xuất khẩu đều phải qua một hoặc một số kho để bảo quản, phân loại, đóng gói, chờ làm thủ tục xuất khẩu. Hàng hoá phải được bảo quản ở môi trường thích hợp để tránh hư hỏng, mất mát việc phân loại đóng gói hàng hoá phải phù hợp với yêu cầu của bên nhập khẩu. 5. Kí kết hợp đồng xuất khẩu và thực hiện hợp đồng xuất khẩu: 5.1 Kí kết hợp đồng xuất khẩu: Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Nội dung hợp đồng phải thể hiện đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết. Hợp đồng thể hiện dưới hình thức văn bản là hình thức bắt buộc với các đơn vị xuất nhập khẩu nước ta, đây là hình thức tốt nhất được pháp lý công nhận trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên. Nó được xác định rõ ràng trách nhiệm của bên mua, bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ, quan niệm. Ngoài ra hợp đồng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống kê, theo dõi kiểm tra việc thực hiện hợp đồng theo quy định chung của quản lý nhà nước: Một hợp đồng xuất khẩu hàng hoá thông thường bao gồm những nội dung chính sau: - Số hợp đồng - Ngày, tháng, năm và nơi ký kết hợp đồng - Các điều khoản bắt buộc phải có của hợp đồng: +Điều khoản 1: Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, bao bì, ký mã hiệu. +Điều khoản 2:Giá cả, tổng giá trị. +Điều khoản 3:Thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng. +Điều khoan 4:Giám định hàng hoá. +Điều khoản 5: Điều kiện xếp hàng và thưởng phạt. +Điều khoản 6:Những chứng từcần thiết cho lô hàng xuất khẩu. +Điều khoản 7:Thanh toán. +Điều khoản 8: Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng. +Điều khoản 9: Thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng. +Điều khoản 10: Hiệu lực của hợp đồng. Khi ký kết các hợp đồng cần lưu ý các điểm sau: - Văn bản của hợp đồng thường do một bên soạn thảo, bên kia cần nghiên cứu kỹ lưỡng và cho ý kiến. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ thông dụng. - Người ký kết hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội dung đã ký. - Hợp đồng phải được trình bày rỏàng, phản ánh đúng nội dung thoả thuận, không để tình trạng mập mờ có thể suy luận nhiều cách khác nhau. - Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các bên tham gia ký kết. 5.2 Tổ chức hợp đồng xuất khẩu: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Xin giấy phép Kiểm tra Chuẩn bị Uỷ thác Kiểm nghiệm Xuất khẩu L/C hàng hoá thuê tàu hàng hoá Giải quyết Làm thủ tục Mua bảo Giao hàng Làm thủ tục Khiếu nại thanh toán hiểm lên tàu hải quan Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá Theo xu hướng tự do hoá mậu dịch ngày cang phát triển thì số lượng mặt hàng cần xin giấy phép xuất khẩu cũng giảm dần. Đơn xin giấy phép xuất khẩu bao gồm: Phiếu hạng ngạch (nếu là hàng hạn ngạch) bản sao hợp đồng xuất khẩu, L/C và một số giấy tờ khác có liên quan. Sau đó khi đã được chấp nhận thì nhận được một số giấy phép có nội dung về tên, địa chỉ của người bán, người mua, các chỉ tiêu về chủng loại hàng hoá, thời hạn hiệu lực của hàng hoá. Kiểm tra L/C Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu được ký kết bỏi hai bên mua và bán người xuất khẩu cần kiểm tra xem L\C do người nhập khẩu mở tại ngân hàng có đúng nội dung hợp đồng đã kí không. Nếu có yêu cầu sửa đổi thì phải thông báo cho người mua sửa lại L/C tại ngân hàng mở L/C. Chuẩn bị hàng hoá: Người xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng hoá đễk. Công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: + Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu. + Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: việc đóng gói bao bì là căn cứ theo yêu cầu của hợp đồng đã kí kết. Bao bì vừa phải đảm bảo giữ được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, phù hợp với mặt hàng và yêu cầu của hàng hoá xuất khẩu. + Kẻ kí mã hiệu xuất khẩu: là những kí hiệu bằng số hay bằng chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho giao nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hoá. Uỷ thác thuê tàu: Trên thực tế đơn vị xuất khẩu có đứng ra thuê tàu hay không phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng dã thoả thuận trong hợp đồng. Việc thuê tàu phải có hợp đồng giữa bên vận chuyển và bên thuê. Kiểm nghiệm hàng hoá: Mọi hàng hoá xuất khẩu đều phải có giấy tờ chứng nhận hàng đã qua kiểm tra chất lượng. Việc kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu được tiến hành ở 2 cấp: ở cơ sở và ở cửa kẩu. Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng chuẩn bị đóng gói xuất khẩu tại cơ sở sản xuất, còn kiểm tra ở cửa khẩu là do khách hàng trực tiếp kiểm tra hoặc cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Làm thủ tục hải quan: Đây là qui định bắt buộc đối với bất cứ loại hàng hoá nào công tác này được tiến hành qua 3 bước: + Khai báo hải quan: chủ hàng có trách nhiệm kê khai đầy đủ các chi tiết về hàng hoá một cách trung thực và chính xác lên một tờ khai để cơ quan kiểm tra thuận tiện theo dõi. + Xuất trình hàng hoá và nộp thuế: hàng hoá xuất khẩu phải được sắp xếp một cách trật tự, thuận tiện cho việc xuát trình và phải nộp thuế đầy đủ. + Thực hiện các quyết định của hải quan: đây là công việc cuối cùng trong quá trìng hoàn thành thủ tục hải quan. Đơn vị xuất khẩu có nghĩa vụ phải thực hiện một cách nghiêm túc các quyết định của hải quan đối với lô hàng như: cho phép xuất hoặc không cho phép xuất khẩu lô hàng hoá... Giao hàng lên tàu: Công việc giao hàng lên tàu phải được tiến hành theo trình tự như sau: + Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng kí hàng chuyên chở. + Xuất trình bản đăng kí hàng chuyên chở cho người chuyên chở để lấy hồ sơ xếp hàng. + Bố trí chuyên chở hàng vào cảng và bốc xếp hàng lên tàu + Lấy biên lai thuyền phó sau khi xếp hàng lên tàu, sau đó lấy biên lai thuyền phó đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn này có giá trị về mặt pháp lí vì đó là cơ sở để giải quyết các vụ tranh chấp có thể xảy ra. Còn nếu hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt hay thuê container để vận chuyển hàng hoá. Mua bảo hiểm: Trong kinh doang xuất nhập khẩu hàng hoá thường được mua bảo hiểm để tránh những rủi ro khi vận chuyển. Việc xác định bên mua bảo hiểm và số tiền bảo hiểm còn tuỳ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng và điều kiện bảo hiểm. Có 2 loại hợp đồng bảo hiểm đó là hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cần phải nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Làm thủ tục thanh toán: Thanh toán là một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp nhất trong việc thực hiện hợp đồng. Hiệu quả trong kinh doanh xuất khẩu một phần nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu cần phải chú ý đến vấn đề như: tỉ giá hối đoái, tiền tệ trong thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức và hình thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái. Giải quyết tranh chấp: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi hàng hoá có tổn thất, mất mát...dẫn đến tranh chấp về kinh tế, hai bên căn cứ vào điều khoản 9 trong hợp đồng xuất khẩu để chọn trọng tài hay toà án kinh tế xét xử vụ tranh chấp. Các bên nên tôn trọng sự phán quyết của cơ quan thụ lí vụ án, tránh khiếu nại nhiều lần gây tổn thất về kinh tế, thời gian và suy giảm mối quan hệ truyền thống. 6. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu: Sau khi đã kết thúc một hợp đồng xuất khẩu, để đánh giá kết quả cụ thể của một hợp đồng. Nhà quản lí phải qua khâu đánh giá nghiệm thu kết quả của hợp đồng . Qua bước này người ta sẽ xác định được chính xác kết quả thu được : lợi ích kinh tế lợi ích xã hội...từ việc tổng hợp chi phí và doanh thu xuất khẩu. Ngoài việc hạch toán lỗ lãi của quá trình kinh doanh xuất khẩu các nhà quản lí còn phải đánh giá về bạn hàng , về thị trường hàng hoá trên thế giới và đặc biệt là mối quan hệ tiếp theo giữa các doanh nghiệp với người mua hàng . Nhiệm vụ của người quản lí xuất khẩu là phải củng cố niềm tin với khách hàng, biến họ từ khách hàng mới thành khách hàng truyền thống. Sau đây là một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá: a) Hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế: Chi phí đầu vào (1) Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra Chi phí đầu vào = Chi phí Sản xuất + Chi phí bán hàng + Chi phí giao hàng Kết quả đầu ra TR = P.Q Trong đó TR: Tổng doanh thu P : Giá cả hàng hoá Q : Số lượng hàng hoá Công thức (1) phản ánh xuất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nghĩa là để có một đơn vị kết quả đâù ra cần hao hết bao nhiêu đơn vị chi phí (vốn) ở đầu vào. b) Tỉ suất ngoại tệ của mặt hàng xuất khẩu: Chẳng hạn dự định xuất mặt hàng giá quốc tế FOB (tại Hải Phòng) 1000USD/tấn. Tổng chi phí là 8.350.000 đồng 1000 USD =1USD/ 8350 đồng 8.350.000 Tức là khi xuất khẩu mặt hàng đó bỏ ra 8350 đồng thì thu được 1 USD. Tỉ giá hối đoái ngân hàng quy định tại đó là 1 USD = 15 000 VNĐ vậy 15 000 – 8350 = 3650 tiền lãi c) Tỉ xuất doanh lợi ( tỉ suất lợi nhuận): Là % lợi nhuận đem về so với vốn bỏ ra ban đầu P P’ = % C Trong đó P’ : tỉ lệ lãi P : Lợi nhuận C: vốn bỏ ra ban đầu. d) Thời gian hoàn vốn: Là thời gian mà doanh nghiệp thu về được số vốn bỏ ra (cả vốn tự có và đi vay) C T = P +K + R Trong đó: C : Vốn bỏ ra kinh doanh P : Mức doanh lợi K : Mức khấu hao R : Mức hoàn trả vốn + lãi vay. Tuy nhiên phần vốn đi vay phải tính cả lãi suất phải trả, tính theo lãi suốt kép . Nếu vốn đi vay ban đầu là C0 thì vốn phải trả tại thời điểm t là : Ct = C0 .( 1+ r) t-1 Trong đó: t: thời gian kinh doanh r : lãi suất ngân hàng. e) Điểm hoà vốn: Là điểm mà tại đó chi phí kinh doanh bằng với doanh thu gọi X là số lượng sản phẩm bán ra để đạt tới điểm hoàn vốn thì F X = P – V Trong đó: F: Chi phí cố định V: Chi phí biến đổi cho 1 đơn vị sản phẩm P: Giá đơn vị sản phẩm g) Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu: Hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng xuất khẩu đó ( giá trị dân tộc của hàng hoá). Chỉ tiêu này cho biết số thu ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước. Tx Hx = Cx Trong đó : Hx : hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu Tx : Doanh thu bằng ngoại tệ Cx : Chi phí sản xuất sản phẩm xuất khẩu (bao gồm cả việc vận chuyển đến cảng xuất hàng, giá trong nước ) h) Doanh lợi xuất khẩu: Doanh lợi xuất khẩu phản ánh kết quả tài chính của hoạt động xuất khẩu, nghĩa là nó phản ánh những kết quả bằng tiền thực tế thu được và những chi phí thực tế bỏ ra cho những kết quả đó, giá tính doanh lợi được tính trên cở sở giá hiện hành (giá tính toán của kế toán doanh nghiệp). Vì vậy về mặt lượng nó không trùng hợp với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đã xem xét. Tx Dx = . 100% Cx Trong đó Dx :Doanh lợi xuất khẩu Tx :Thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của ngân hàng ngoại thương (Sau khi trừ đi mọi chi phí bằng ngoại tệ) Cx :Tổng chi phí cho việc xuất khẩu. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hàng nông sản. Các nhân tố khách quan. Các nước khác nhau có tính chất thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu có liên quan tới nền kinh tế của nước mình. Nếu không có nhà nước điều tiết vĩ mô hoạt động này thì nền kinh tế nước đó sẽ bị lệch lạc, đi không đúng hướng, mất cân đối về cung cầu, gây ra các cú sốc về kinh tế. Do vậy, để khắc phục hạn chế đó đối với sự phát triển của đất nước và đời sống nhân dân. Nhà nước luôn phải quản lí hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu thông qua các công cụ chính sách của mình mà cụ thể là các chính sách ngoại thương. Chính sách ngoại thương nước ta có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất khẩu nhằm đạt được các mục tiêu và các nhu cầu về kinh tế, chính trị xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Tuỳ thuộc vào tình hình và định hướng phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn mà chính sách ngoại thương được thực hiện ở mức độ khác nhau. Những công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản: 1.1 Biến động thị trường hàng nông sản thế giới: Biến động thị trường hàng nông sản thế giới do cung cầu nông sản không ổn định. Cung không ổn định do đây là ngành mà điều kiện sản xuất cũng như kết quả của sản xuất chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện thời tiết, khí hậu. Trong điều kiện thời tiết thời tiết thuận lợi thì cung nông sản tăng nhanh. Ngược lại thì sản lượng giảm Cầu nông sản biến động là do xu hướng biến động của nó được xác định theo quy luật tiêu dùng sản phẩm của E.Engel. Quy luật này cho rằng xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cơ bản tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. ở các nước công nghiệp phát triển, mức tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm chỉ xấp xỉ bằng một phần hai mức tăng thu nhập. Quy luật này làm cho cầu nông sản có xu hướng giảm đó là khoa học kinh tế phát triển, ngày càng có nhiều sản phẩm nhân tạo thay thế sản phẩm tự nhiên. 1.2 Chính sách của chính phủ đối với sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản: * Thuế quan Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ đối ngoại. Thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu qủa và do mức tiêu dùng trong nước giảm. Do vậy mà chính phủ khi thực hiện các chính sách thuế cần phải hết sức thận trọng trong việc xác định biểu thuế với từng loại mặt hàng cụ thể để đảm bảo cho sự hài hoà các mục tiêu do thuế quan tác động đến để đem lại sự thuận lợi trong kinh doanh. Nhìn chung công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ xung nguồn thu cho ngân sách nhà nước. * Hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu được sử dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong hàng hoá xuất khẩu. Hạn ngạch được hiểu như quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu từ một thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Mục đích của chính phủ khi sử dụng hạn ngạch xuất khẩu và nhằm quản lý kinh doanh hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơ và thông qua đó điều chỉnh loại hàng hoá xuất khẩu, bảo vệ sản xuất hàng hoá trong nước, tài nguyên thiên nhiên cũng như điều chỉnh cán cân thanh toán. Hạn ngạch xuất khẩu cũng tác động đến các hoạt động kinh tế nhưng có những điểm khác so với thuế quan. Hạn nghạch không đem lại những khoản thu ngân sách cho nhà nước nhưng việc phân bổ hạn nghạch râts quan trọng. Do vậy để hạn nghạch phân bổ đúng và phù hợp thì đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nắm chắc tình hình xuất nhâp. khẩu hàng hoá của công ty mà phân bổ hạn nghạch hợp lý. * Trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp xuất khẩu là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu đối với những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi ro cao hơn so với tiêu thụ trong nước. Việc trợ cấp cho các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể dưới hình thức: Trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu hay cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình. 1.3 ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái : Nhân tố này quyết định việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ dẫn đến những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn như đồng tiền trong nước mà giảm giá so với đồng ngoại tệ sẽ gây thiệt hại cho hoạt động xuất khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu và duy trì tỷ giá tương đối ổn định. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá hối đoái tương quan với chi phí và giá cả trong nước. 1.4 ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên sản xuất hàng nông sản: Như ta đã biết hàng nông sản của nước ta là đặc sản của vùng nhiệt đới nên chịu ảnh hưởng lớn cuả tính thời vụ bởi vậy nó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết, khí hậu. Nếu như điều kiện tự nhiên không thuận lợi, mưa nhiều sẽ làm cho việc dự trữ và bảo quản dể bị ẩm mốc, năng suất lao động không cao và chất lượng cũng không được đảm bảo. Điều kiện thời tiết thuận lợi giúp cho các mặt hàng nông sản phát triển tốt, việc đóng gói bảo quản diễn ra thuận lợi góp phần nâng cao năng suất, chất lượng. Vì vậy điều kiện tự nhiên cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hàng nông sản. 2. Các yếu tố chủ quan. Các yếu tố chủ quan là những đặc điểm, tiềm năng của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm năng phản ánh thực lực của mình trên thị trường. 2.1 Khả năng về vốn cho hoạt động xuất khẩu: Để hoạt đông kinh doanh có hiệu quả nhất thiết phải xây dựng chiến lược kinh doanh. Trong kinh doanh thuật ngữ “chiến lược” được hiểu là hệ thống đương lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đến mục tiêu đã định. Chiến lược bao gồm: các đường lối tổng quát, các chủ trương mà doanh nghiệp sẽ thực thị trong một thời hạn đủ dài, các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, các nguồn lực, tiềm năng được sử dụng để đạt được mục tiêu đó và các chính sách điều hành việc thu hút, phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng cần thiết để đạt được mục tiêu này. Bên cạnh một số yếu tố khác thì vốn chính là nhân tố quyết định đến mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu có khả năng vốn mạnh doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút khả năng lao động chất lượng cao, tăng quy mô kinh doanh từ đó tạo thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường. Có thể nói hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn đến khả năng về vốn của doanh nghiệp. 2.2 Khả năng đội ngũ cán bộ nhân viên làm hoạt đông xuất nhập khẩu: Con người luôn là chủ thể của mọi quan hệ xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng về chuyên môn, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế có khả năng ứng phó linh hoạt trước những biến động của thị trường và đặc biệt là có lòng say mê nhiệt tình trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất kượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động đẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy khả năng đội ngũ cán bộ công nhân viên quyết định hoạt động của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp muốn hoật động xuất khẩu có hiệu quả thì nhất thiết phải quan tâm đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ lao động thực sự có năng lực đồng thời chú trọng tới công tác quản lý nhằm tạo động lực cho nguồn lao động làm việc có hiệu qủa. 2.3 Uy tín của công ty: Uy tín của công ty được đo bằng những lá phiếu mà khách hàng dành cho sản phẩm của doanh nghiệp. Quyết định mua hàng của người tiêu dùng ngoài một số nhân tố khách quan, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả sản phẩm sau bán hàng của công ty. Như vậy uy tín của công ty là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh, vị thế trên thị trường. 2.4 Trình độ tiếp thu công nghệ làm công tác xuất khẩu hàng nông sản: Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo những cơ hội, nhưng cũng gây ra những nguy cơ đối với tất cả những ngành nghề nói chung và đơn vị sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu nói riêng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu tìm tòi, áp dụng những công nghệ mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của chính mình trên thị trường. Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng những công nghệ mới, những thành tựu mới của khoa học kỹ thấtẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm sẽđược kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đồng thời nó cũng giúp hoạt đông xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả hơn thông qua việc tác động tới hệ thống ngân hàng, bảo hiẻm, vận tải... Tuy vậy hiệu quả công nghệ còn phụ thuộc rất lớn vào tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp. Hiên nay Việt Nam không ít những doanh nghiệp chỉ quan tâm chạy theo khẩu hiệu “Hiện đai hoá” đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết hiệu quả công nghệ do sự hạn chế về khả năng sử dụng cuả người lao động. Vì vậy nhập công nghệ hiện đại nhưng cần phải phù hợp với trình độ người lao động thì mới hiệu quả. Đặc biệt trong quá trình chuyển giao công nghệ cần có cán bộ kỹ thuật có trình độ hay những chuyên gia giỏi để tránh bị thua thiệt trước “tiểu xảo” của đối tác nước ngoài. Nói tóm lại trình độ tiếp thu công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. chương ii thực trạng hoạt động xuất khẩu một số mặt hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i I. Khái quát chung về công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. 1. Sự hình thành và phát triển của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. 1.1 Sự hình thành: Đầu những năm 80, khi nhà nước ban hành chủ trương chính sách nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu, trong đố việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành các địa phương , quyền được sử dụng các ngoại tệ thu được do xuất khẩu các mặt hàng vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ tiêu giao nộp thì công tác xuất nhập khẩu ở các địa phương trở nên sôi động, phong phú hơn. Bên cạnh những kết quả thu được thể hiện trong nhịp độ tăng kim ngạch lại phát sinh hiện tượng tranh mua, tranh bán ở các thị trường trong nước và ngoài nước gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh làm phá giá thi trường dẫn đến nguy cơ mất thị trường. Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra cho các cấp chính quyền đặc biệt là nhà nước là phải làm thế nào chấm dứt tình trạng tranh mua, tranh bán, giảm thiểu sự tự do buôn bán ngoài kiểm soát của nhà nước phá hoại thị trường đảm bảo nền kinh tế trong nước không trệch hướng CNXH, mặt khác cũng khuyến khích công tác xuất khẩu của các địa phương. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ trước bộ ngoại thương (nay là bộ thương mại) góp phần giải quyết vấn đề trên bằng các biện pháp kinh tế để thu hút được các đầu mối đã bung ra nhằm tập trung về cùng một mối. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I chính thức thành lập ngày 15/12/1981 theo quyết định số 1356/ TCCB của bộ thương mại nhưng thực tế đến tháng 3/1982 công ty mới chính thức đi vào hoạt động theo chế độ tự hạch toán kinh doanh có tư cách pháp nhân, vốn và tài khoản riêng tại ngân hàng. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I có tên giao dịch là: Việt Nam National General Export- Import Coporation. Viết tắt là: Generalexim. Trụ sở tại : 46 Ngô Quyền- Hà Nội Điện thoại: ( 84-4 ) 8264009 Fax : 84 –4- 8259894. Tháng 7/1983 theo quyết định số 858/ TCCB của Bộ Thương mại quyết định hợp nhất công ty Promexim vào Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I thì phạm vi hoạt động của Công ty ngày càng được mở rộng trong cũng như ngoài nước, mặt hàng cũng như thị trường. 1.2 Quá trình phát triển của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I: Công ty ra đời và phát triển trong tình hình kinh tế đất nước có nhiều biến đổi và phân cách bởi quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước năm 1986. Do quá trình hoạt động và phát triển của Công ty có thể chia thành 2 giai đoạn lớn. 1.2.1 Giai đoạn 1982- 1986: Đây là giai đoạn đầu của Công ty, với biên chế gồm 50 cán bộ công nhaan có trtình độ nghiệp vụ không cao, cơ sở vật chất nghèo nàn với số vốn ban đầu được nhà nước cấp 139.000 đồng. Hơn nữa trong thời gian này với cơ chế chính sách quản lý kinh tế quan liêu. Đường lối đổi mới đang là tư duy, chưa được cụ thể hoá bằng văn bản, nhất là đối với quản lý về kinh tế. Từ những khó khăn trên công ty đẫ dần khắc phục từng vấn đề một cách rõ ràng: Đối với vốn: Công ty chủ động kiến nghị để lãnh đạo 2 cơ quan liên bộ ( Ngân hàng và ngoại thương) họp , ra được văn bản nêu rõ những nguyên tắc riêng về hoạt động của công ty trong phương thức kinh doanh, các tài khoản được mở, vấn đề sử dụng vốn ngoại tệ, vấn đề lập quỹ hàng hoá... làm cơ sở cho việc hoạt động kinh doanh của Công ty như thế này. Đồng thời công ty xây dựng cho mình một số vốn đẩm bảo cho hoạt động ngày một phát triển hơn. Từ việc vay vốn nước ngoài và xây dựng một quỹ hàng hoá phong phú và đa dạng. Đối với đội ngũ cán bộ: Công ty chú trọng tổ chức bồi dưỡng quỹ đi vào đào tạo ở nước ngoài khi có chỉ tiêu chấn chỉnh lại tư tưởng ỷ lại theo lối mòn của kinh doanh bao cấp. Trong thời kỳ này nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng đổi mơi, nhưng hoàn toàn chưa có thực tế để xây dựng thành các quy định chính thức, nề nếp suy nghĩ trong công tác quản lý của cơ chế bao cấp chưa dễ thay đổi. Do đó công ty cần vận dụng cơ chế thích hợp để vừa phù hợp với thực tế, vừa an toàn vừa hiệu quả. Đối với những cố gắng trên, Công ty đã đạt được những kết quả nhất định, điều này đã chứng minh được hướng đi đúng đắn của Công ty cũng như khả năng phát triển trong tương lai. Bảng II. 1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty (1982-1986) Năm Kim ngạch XNK (USD) Hoàn thành % kế hoạch Đóng góp ngân sách (VNĐ) Kế hoạch Thực hiện 1982 11.800.000 11.800.000 100 6.174.204 1983 12.278.000 12.647.000 103 71.889.790 1984 18.021.000 19.463.000 108 93.940.138 1985 31.193.000 35.560.000 114 2.624.995 1986 40.356.000 46.813.000 116 81.109.952 Nguồn: Báo cáo 20 năm phát triển của GENERALEXIM. Qua bảng II.1 ta thấy rằng trong suốt 5 năm Công ty đều hoàn thành và vượt mức kế hoạch. Đặc biệt có sự tăng đột biến về kim nghạch xuất nhập khẩu năm 1985 so với năm 1984 tăng gần gấp đôi. Đó là dấu hiệu mở ra một thời kỳ phát triển mới của Công ty . 1.2.2 Giai đoạn 2 (1987- 2001): Từ 1987- 1989: Đây là thời kỳ Công ty phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, đã được bộ kinh tế đối ngoại cũng như bộ nội vụ tặng 5 bằng khen, 2 lá cờ đơn vị thi đua xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động của mình. Bảng II.2 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty từ 1987- 1989 Năm Kim ngạch xuất nhập khẩu (USD) Hoàn thành % kế hoạch Đóng góp ngân sách VNĐ Kế hoạch Thực hiện 1987 43.516.000 51.349.000 118% 852.835.115 1988 42.832.000 49.257.000 115% 2.294.617.070 1989 40.751.000 44.428.000 109% 2.084.271.142 Nguồn: Báo cáo 20 năm phất triển của GENERALEXIM Kim ngạch xuất khẩu uỷ thác lên 18 triệu USD tăng gấp 45 lần so với năm 1982 là 400.000 USD. Công ty đã có một đội ngũ cán bộ có năng lực và chuyên môn cao hơn thời kỳ đầu rất nhiều. Thời kỳ này Công ty tập trung xây dựng tiếp một số vấn đề được xem là trọng điểm, là nhân tố thắng lợi trong hoạt động của Công ty đó là: -Vấn đề phương thức kinh doanh, quan hệ hữu cơ giữa Công ty với các cơ sở. Kể cả mối quan hệ với thị trường nước ngoài. -Vấn đề xây dựng quỹ hàng hoá, cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình kinh doanh. -Cải thiên đời sống cho cán bộ công nhân viên. Từ 1990- 1992: tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có những biến động lớn ảnh hưởng trục tiếp đến các ngành kinh tế trong đó có lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá bị tác động mạnh mẽ. Đây là giai đoạn cơ chế thị trường ngày càng rõ nét, vấn đề cạnh tranh xảy ra giữ dội, các khách hàng cũ của Công ty trong nước không còn như trước nữa, hầu hết các đơn vị tỉnh đã trực tiếp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy mà thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu bị thu hẹp, mất thị trường các nước XHCN, khu vực thị trường TBCN bắt đầu bị các đơn vị khác cạnh tranh. Các mặt hàng xuất khẩu uỷ thác lớn của Công ty không còn nhiều, tình trạng thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau tổ chức kinh doanh khá phổ biến… Tóm lại giai đoạn này Công ty hoạt động trong tình hình chung diễn biến phức tạp, nên việc giữ vững được và phát triển thoát khỏi vòng bế tắc là một nỗ lực lớn. Bảng II.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty từ 1990- 1992: Năm Kim ngạch XNK (USD) Hoàn thành % kế hoạch Đóng góp ngân sách VNĐ Kế hoạch Thực hiện 1990 38.858.000 40.655.000 102 6.751.825.946 1991 37.000.000 37.000.000 100 6.526.543.703 1992 39.806.000 41.000.000 103 7.784.665.440 Nguồn : Báo cáo 20 năm phát triển của GENERALEXIM Từ 1993- 20001 Công ty bắt đầu bước vào một giai đoạn mới với việc bắt đầu mở rộng đối tượng kinh doanh ra các đơn vị nhỏ lẻ như quận, huyện kể cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chuyển dần từ xuất nhập khẩu uỷ thác sang tự doanh. Triển khai kinh doanh gia công xuất nhập khẩu, khai thác việc nhập hàng phi mậu dịch phục vụ cho đối tượng người Việt Nam công tác, lao động, học tập ở nước ngoài được hưởng chế độ miễn thuế, xây dựng kho chứa hàng xuất nhập khẩu… Nhờ hàng loạt các biện pháp kịp thời, đúng lúc có hiệu quả nên Công ty vẫn đứng vững._.g các quan hệ kinh doanh và tích lũy kinh nghiệm xuất khẩu , Công ty phải từng bước chủ động trong việc tìm kiếm thị trường và tổ chức mạng lưới phân phối ngắn nhất có thể có. Công ty cần có chính sách marketing hỗn hợp phù hợp trên thị trường xuất khẩu. Họat động Marketing ngày càng phát triển và được thực hiện hoàn thiện hơn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay khi mà có rất nhiều các dơn vị cùng tham gia hoạt động xuất khẩu. Marketing mix được coi là công cụ quan trọng để công ty đạt được những mục tiêu đề ra. Nếu việc áp dụng marketing mix không phù hợp thì không những không mở rộng thị trường mà còn mất thêm cả khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi công ty phải xây dựng chính sách marketing phù hợp, phải biết kết hợp hài hoà giữa các tham số giá cả, sản phẩm, phân phối xúc tiến một cánh linh hoạt, thích hợp với đặc điểm của mỗi thị trường để đạt được hiệu quả cao với mức chí phí hợp lý nhất mà vẫn lôi kéo được khách hàng từ thị trường đó. Chính sách sản phẩm xuất khẩu Vấn đề đầu tiên, quan trọng nhất là sản phẩm nông sản xuất khẩu phải thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường nưóc ngoài về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, bao gói của sản phẩm. Chỉ có những sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao mới có thể đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế, Công ty còn khó biết được một cách trực tiếp và chính xác sản phẩm của họ đáp ứng nhu cầu thị trường ở mức độ nào. Vấn đề thứ hai trong chính sách sản phẩm xuất khẩu là Công ty cần thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các cấp độ nhu cầu khác nhau của khách hàng mục tiêu, tận dụng năng lực hiện có và phân tán rủi ro. Vấn đề thứ ba là phát triển sản phẩm mới nhằm tăng cường khả năng nắm bắt các cơ hội thị trường mới để giảm thiểu rủi ro gắn liền với những thay đổi của nhu cầu và thị trường. Vấn đề thứ tư, đối với những sản phẩm xuất khẩu trực tiếp hoặc có chất lượng cao, cố gắng sử dụng nhãn hiệu của người sản xuất kết hợp với nhãn hiệu của nhà nhập khẩu, phân phối. Chiến lược giá cả Hiện nay, Công ty áp dụng giá gia công và xuất khẩu FOB trên cơ sở thoả thuận với khách hàng nước ngoài. Để tránh tình trạng ép giá, cần thiết phải xây dựng một khung giá cho từng loại sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở phân tích và nghiên cứu chi phí, giá cả thị trường quốc tế và giá sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Theo vị thế cạnh tranh hiện nay, công ty có thể duy trì mức giá bán sản phẩm trên cơ sở cải tiến chất lượng nhờ đó tạo ra một quan hệ giá cả- chất lượng cao hơn, có lợi hơn cho khách hàng và do đó nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu của Công ty. Như vậy, chính sách sản phẩm xuất khẩu của công ty trong thời gian tới cần phải vận động theo hướng tăng giá trị của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở giữ vững cạnh tranh về giá. Công ty cần phấn đấu xuất khẩu trực tiếp bán theo giá CIF. Đẩy mạnh truyền tin và xúc tiến hỗn hợp Trong chính sách xúc tiến hỗn hợp các sản phẩm xuất khẩu , cần đặc biệt quan tâm đến quảng cáo và tuyên truyền. Biện pháp khuyến mại bán hàng cá nhân và Marketing trực tiếp có vẻ chưa phù hợp vào giai đoạn phát triển quốc tế hiện nay của Công ty, vì vậy công ty cần mở rộng hơn nữa việc tham gia hội chợ, quảng cáo trên mạng Internet, gửi đơn đặt hàng đến nhà nhập khẩu nước ngoài…tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu, khuyếch trương uy tín về sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, một vấn đề khác cũng cần được đề cập đến là chọn đúng sản phẩm tham gia, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định tham gia…Kết thúc hội chợ, cần phải dành thời gian thích đáng để củng cố các quan hệ đã thiết lập hoặc tiếp tục chào bán sản phẩm…Thư chào hàng tiếp sau hội chợ góp phần quan trọng trong việc đẩm bảo thành công quá trình xúc tiến bán trên thị trường xuất khẩu . 2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn. Công tác tạo nguồn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nguồn hàng tốt đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu của thị trường, giúp thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng cao sẽ là nhân tố quyết định đem lại sự thành công trong thương vụ và nâng cao uy tín của doanh nghiệp . để có nguồn hàng tốt, Công ty thực hiện các nhiệm vụ: mở rộng các hình thức tạo nguồn, nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiên tốt khâu bảo quản dự trữ. 2.1 Mở rộng hình thức tạo nguồn. Các hình thức tạo nguồn ở Công ty hiện nay còn nhiều hạn chế. Hình thức chủ yếu Công ty sử dụng là mua từ các đầu mối khác nhau ở các địa phương hoặc thu mua tập trung qua các trung gian. Hình thức này có ưu điểm là nhanh gọn, không phải đầu tư trong thời gian dài, Công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là không chủ động được về chất lượng, chi phí… Công ty cần phải đa dạng hơn nữa các hình thức thu mua, cụ thể: - Tổ chức tốt mạng lưới thu mua hàng nông sản, giảm bớt hình thức thu mua qua trung gian vừa làm tăng giá, vừa khó kiểm soát về chất lượng. - Tăng đầu mối thu mua ở ngay tại vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại các cơ sở chế biến nông sản để chủ động hơn về chất lượng, giảm chi phí, chủ động về thời gian nhập hàng. - Mở rộng phạm vi thu mua nguyên liệu, thiết lập thêm đại lý mua ở miền trung và miền nam. - Xây dựng thêm các xí nghiệp chế biến nông sản để tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó công ty còn có thể sử dụng các hình thức liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất và chế biến. 2.2 Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố canh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Chất lượng nông sản phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thường phải mua hàng nông sản dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh các vấn đề sau: - Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. đây là điều rất dễ xảy ra khi thuê nhiều đơn vị chế biến mà mỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này gây bất lợi lớn, dễ làm mất uy tín của Công ty đối với các đối tác nước ngoài. - Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng, lợi nhuận giảm. Mặt khác, nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ bị mất khách hàng. Chính vì vậy việc xây dựng thêm cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay Công ty đã có một số cơ sở chế biến riêng hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp Quế, xí nghiệp chế biến hạt điều…càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn. Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá. 2.3 Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Để hàng hoá tốt thực hiện cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiên tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ và bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc, mối mọt, mục nát hàng… Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đật yêu cầu, do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt hệ thống mới máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhân viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản từng loại hàng hoá. Trong công tác dự trữ hàng hoá, cần có kế hoạch dự trữ cụ thể theo từng kỳ hoặc theo thời vụ đối với từng loại mặt hàng. Việc dự trữ đúng, đủ, kịp thời về thời gian cho phép giảm tối đa chi phí bảo quản, tránh việc ứ đọng hàng hoá trong kho gây ra các thiệt hại về kinh tế. Đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu . Để đảm bảo 3 mục tiêu: lợi nhuận , vị thế và an toàn, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu . * Xuất khẩu tự doanh: với hình thức xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ tự tìm kiếm giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Tăng cường hoạt động tự doanh có nghĩa là công ty phải năng động sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây sẽ phải là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu của Công ty, nó phù hợp với xu thế phất triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chức năng kinh doanh. Muốn có bạn hàng thường xuyên, Công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong nghiệp vụ nghiên cứu thị trường , đàm phán giao dịch, thu hút sự quan tâm khách hàng, củng cố uy tín. Với loại hình xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, tìm kiếm thị trường và điều quan trọng hơn cả là nó khẳng định sức sống của Công ty trong nền kinh tế thị trường tranh mua, tranh bán. * Xuất khẩu uỷ thác: bên cạnh hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khai thác để thu chi phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình kinh doanh xuất khẩu này các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, Công ty chỉ phải thực hiện các vấn đề kí kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với bên nước ngoài và làm những thỏa thuận cần thiết với các đơn vị sản xuất trong nước. Loại hình xuất khẩu này đem lại lợi nhuận không cao song tương đối an toàn, ít rủi ro, đặc biệt phù hợp với thời điểm vốn chưa thu hồi kịp. Là một doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu hàng hoá thì việc thực hiện dịch vụ uỷ thác trong xuất khẩu là phù hợp với Công ty và góp phần tăng doanh thu của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . * Xuất khẩu đối lưu: xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu cũng là một hình thức xuất khẩu lớn của Công ty. Với chức năng xuất nhập khẩu tổng hợp, Công ty có thể tham gia vào bất cứ lĩnh vực nào miễn là lợi nhuận cao. Với hình thức này, Công ty có thể đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá nào đó và Công ty sẽ là người tìm kiếm giúp họ. Sau đó hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Những hàng hoá nhập về được Công ty đem bán ở các cửa hàng hoạc có thể bán lại cho khách hàng trong nước. Ưu điểm của loại hình này là Công ty sẽ thu được lợi nhuận từ cả 2 khâu xuất khẩu và nhập khẩu, Công ty phải xuất ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá. * Xuất khẩu gia công uỷ thác: hiện nay công ty đang dự kiến tham gia xuất khẩu dưới dạng liên doanh chế biến nông sản gia công và liên doanh với một số Công ty của Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó phía Công ty góp một phần nguyên liệu, sức lao động. Còn phía nước ngoài thì cung cấp dây chuyền, máy móc, công nghệ sản phẩm sản xuất sẽ được xuất sang Nhật Bản, Đài Loan hay Singapore. Đây là hình thức có triển vọng, tạo thuận lợi cho Công ty trong việc tìm kiếm thị trường , giảm cạnh tranh với các nước ASEAN. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu . Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Điều quan trọng là Công ty nên sử dụng những biện pháp nào để tăng sức cạnh tranh hàng hoá của chính mình và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Như đã nói trên chất lượng, giá cả hàng hoá là công cụ chính để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên bên cạnh các nhân tố này, việc đa dạng hoá phương thức kinh doanh cũng là rất quan trọng để tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty. Đa dạng hoá phương thức kinh doanh bao gồm: Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu , các mặt hàng nông sản xuất khẩu và đa dạng hoá mối quan hệ kinh doanh. Với tình hình Công ty hiện nay nên trú trọng vào việc đa dạng hoá các mặt hàng. Bên cạnh những mặt hàng nông sản truyền thống như gạo, lạc nhân, cao su, hạt tiêu… Công ty có thể xúc tiến một số mặt hàng khác như chè , ngô, vừng, mây, cói, tơ tằm… là các sản phẩm nông sản khá phổ biến và chất lượng tương đối cao của Việt Nam. Ngoài các giải pháp trên công ty cần có những giải pháp cụ thể trong thời gian tới: * Tăng cường đầu tư cho khâu chế biến Khâu chế biến là khâu quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành của hàng nông sản xuất khẩu . Do vậy để tăng cường công tác chế biến đòi hỏi Công ty phải đầu tư thoả đáng để tập trung để đưa tiến độ kỹ thuật vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất hao hụt sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. * Đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ cho khâu sản xuất. * Khâu lưu thông vận chuyển : Đầu tư đóng hoặc nhập khẩu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng phương tiện kho lạnh, nâng cấp thiết bị vận chuyển để đảm bảo hàng không bị hư hao, mất mát, đổ vỡ và suy giảm chất lượng trên đường vận chuyển; khôi phục hệ thống vận tải đông lạnh bằng đường biển trên một số luồng quan trọng. Nhà nước cần có chính sách tháo gỡ ách tắc giao thông trên các trục đường vận chuyển hàng ra cảng đảm bảo hàng không bị nằm lâu trên đường vận chuyển, đảm bảo không những về chất lượng hàng hoá mà cả thời hạn giao hàng. Về cam kết thực hiện đúng thời hạn giao hàng với khách hàng nước ngoài, cần tổ chức tốt một số các tác nghiệp cụ thể sau: Ký hợp đồng lâu dài với các cơ sở và người sản xuất, nắm vững và thường xuyên kiểm tra luồng hàng; đa dạng hoá và ổn định nguồn hàng xuất khẩu, tổ chức khâu thu mua kịp thời, tránh tình trạng tàu đã nhập cảng mà vẫn tập trung hàng để xếp và phải chờ hàng, thực hiện chế độ thưởng cho các nhà cung cấp hàng thực hiện tốt cam kết hợp đồng cho xuất khẩu. Khai thác các luồng vận chuyển hợp lý, thuận tiện, thuê các hãng tầu có phương tiện vận tải tốt và có uy tín, tránh tình trạng hàng phải chờ tầu. Cải tiến khâu thủ tục giấy tờ phiền hà, tốn thời gian, để hàng phải chờ lâu vì các khâu thủ tục rườm rà tại các điểm bốc xếp hàng tại cảng. Thông tin kịp thời về tình hình hàng hoá từ khi ký hợp đồng đến khi giao hàng, nhất là các trường hợp bất khả kháng, giữ uy tín với khách hàng về cam kết giao hàng đúng thời hạn đã thoả thuận. * áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 Một doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc liên tục giảm giá thành và cải tiến chất lượng là điều tấ yếu không thể không quan tâm. Chính vì vậy vấn đề chất lượng ngày nay trên thế giới không chỉ đặt ra ở cấp độ công ty mà còn là mối quan tâm của cả quốc gia. Chất lượng đã và đang trở thành một trong những mục tiêu có tầm chiến lược quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế của nhiều nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp Việt Nam là một vấn đề có thể nói là sống còn. Khả năng xuất khẩu của Việt Nam có thể cao hơn hiện tại nếu hàng xuất khẩu có hàm lượng chế biến cao hơn. Quan trọng hơn là khi hoàn thành xong chương trình CEPT, khi chính thức là thành viên của WTO, về lý thuyết Việt Nam có cơ hội xuất khẩu hàng lớn hơn nhưng thực tế điều đó không dẽ xẩy ra khi chất lượng hàng hoá của các nước thành vieen, thậm chí trong nước khi đó còn tràn ngập hàng giá rẻ với chất lượng cao, bóp chết các ngành công nghiệp non trẻ trong nước. Làm thế nào để tăng chất lượng sản phẩm mà lại giảm được giá thành ? Cách tốt nhất là áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO được cả thế giới công nhận. Nói cách khác, một doanh nghiệp Việt Nam đạt được tiêu chuẩn ISO 9000 là áp dụng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM. Hàng ngàn công ty thành đạt trên thế giới nhờ vào cách làm ăn trung thực, giữ uy tín, không chụp giật đã tạo ra lợi nhuận để phát triển bền vững theo cách quản lý hệ thống theo ISO 9000 và TQM xây dựng và làm theo các quá trình thiết kế nhằm phòng ngừa sự không phù hợp ở tất cả các giai đoạn từ thiết kế đến dịch vụ sau khi bán. Đây là hình thức để các doanh nghiệp Việt Nam tăng sức cạnh tranh sản phẩm của mình trong quá trình hội nhập cùng khu vực và thế giới. Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường được nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đè vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Vốn có thể được huy động bằng nhiều hình thức: * Công ty có thể tự bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh cuẩ mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện quy mô của Công ty. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất khẩu lại yêu cầu một lượng vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn. Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết sao cho có lợi cho Công ty mà không ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Ngoài ra, cũng cần phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, tỉ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động v.v…Trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác của thị trường nông sản, các chính sách pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hiện. * Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính tín dụng: Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống ngân hàng và hoạt động ngân hàng của nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại quốc tế. Mặc dù có nhiều khó khăn để tiếp cận nguồn vốn này nhưng Công ty cũng phải coi đây là một nguồn quan trọng để khai thác. Hiện nay ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay nên rất thuận lợi cho các Công ty vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng để thu mua nông sản, chế biến, xuất khẩu. Vốn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn để bế tắc bởi có nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn một cách lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn tránh ứ động vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi vòng vốn bỏ ra. 5. Nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên. Trình độ cán bộ là một trong những nguồn lực cơ bản của Công ty xuất nhập khẩu thi. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ thông tin về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hiện tại lao động gián tiếp của Công ty chỉ có 9% trong tổng số cán bộ công nhân viên, trong đó có tới 90% là đại học và trên đại học. Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ chuyên môn thực sự am hiểu về nghề nghiệp, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên, cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ xung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận công việc. Để đảm bảo cho Công ty có đội ngũ cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn ngày do các giáo sư, tiến sỹ trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra, Công ty cũng cần có những chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý phần nào cũng khuyến khích được cán bộ công nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thực hiện nghiệp vụ và thu nhập. Công ty vẫn cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là khâu giao chỉ tiêu và gắn nó vào chương trình đẩy mạnh xuất khẩu. III. Kiến nghị với Nhà nước và bộ chủ quản. Đối với Việt Nam trong tương lai, xuất khẩu nông sản là hoạt động quan trọng nhằm tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế đất nước, nó xứng đáng được đặt lên vị trí ưu tiên trong chính sách và chiến lược kinh tế của nhà nước ta. Nhằm đưa quy mô hoạt động xuất khẩu lên ngang tầm với tiềm năng của đất nước. Điều đó cần có sự lỗ lực lớn từ phía nhà nước và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản. Từ đó em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp Việt Nam. 1. Đẩy mạnh sản xuất và chế biến mặt hàng nông sản Việt Nam. Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu, nó ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Việt Nam cần phải đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm: * Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân: Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng dược diện tích gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất đòi hỏi phải có những chi phí không nhỏ mà nhiều người nông dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi diễn ra dàn trải dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm ngàn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay vốn tín dụng thông thường lại gặp khó khăn tronh vấn đề thế chấp tài sản. Để khắc phục hạn chế này, thời gian tới nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi đối với ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản, khuyến khích các cơ sở chế biến, các nhà kinh doanh nông sản ứng trước vốn để mua nông sản. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực này. * Cải tạo giống cây trồng nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản: Cần ưu tiên đầu tư cao cho lĩnh vực giống, tạo đột phá về năng suất, chất lượng của hàng nông sản nước ta trên thi trường thế giới và khu vực. - ứng dụng sinh học hiện đại và công nghệ sinh học để bảo tồn quỹ đen quốc gia, tạo giống mới có năng suất và chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. - Đầu tư và hiện đại hoá hệ thống viện nghiên cứu khoa học ở các vùng sinh thái để đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ trên và cung cấp giống lúa tốt cho xuất khẩu . - Chính phủ nên có một chương trình trọng điểm về công tác giống để tiến tới đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, đuổi kịp các nước trong khu vực về giống. * Tổ chức thu mua nông sản cho người nông dân: về khả năng vốn có hạn các điều kiện về kho hàng cất giữ còn hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch, trong khi Nhà nước lại chưa kịp thu mua nông sản cho người dân. Điều này dẫn đến tình trạng tư thương lợi dụng ép giá người nông dân. Để tránh tình trạng này Nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho tàng mạng lưới thu mua,…tạo điều kiện để cho các Công ty vay vốn ngân hàng thu mua nông sản xuất khẩu. 2. Đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Trước hết chủ trương đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà Nước ta trong điều kiện nước ta hiện nay vì một mặt khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam, tạo cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu quy mô lớn và phong phú về chủng loại sản phẩm. Mặt khác do quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển đang diễn ra mạnh mẽ, tác động mạnh đến thị trường hàng nông sản thế giới theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của các nước để lấp lỗ hổng nhu cầu của thị trường. Để thực hiện giải pháp này, chính phủ cần có thu hoạch tổng thể, lâu dài về phát triển nông nghiệp hàng hoá phù hợp với yêu cầu phát triển đối với từng vùng trong sự hài hoà với các vùng khác, đặc biệt là phù hợp với triển vọng buôn bán của sản phẩm trên thị trường thế giới. đa dạng hoá nông nghiệp đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu . Chính phủ cần xây dựng các chính sách làm giảm bớt các rủi ro của thị trường như quy định về giá sàn đối với sản phẩm nông sản, sử dụng ngân sách để can thiệp kịp thời khi giá cả bị sụt xuống dưới mức giá sàn quy định và có trợ giúp ban đầu, xây dựng hình thức bán bảo hiểm cho cây nông sản. Cần phát triển và nâng cao chất lượng thông tin, nhất là các thông tin dự báo triển vọng thị trường chung và dài hạn đối với hàng nông sản. 3. Tăng cường năng lực chế biến hàng xuất khẩu nông sản. * Khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô giá trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu có giá trị cao thông qua việc phát triển công nghiệp chế biến, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đánh thuế cao đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có cơ sở chế biến. * Đầu tư đồng bộ xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các cơ sở, hệ thống sơ chế, chế biến thành phẩm và kho bảo quản chuyên dùng tại nơi sản xuất và cảng xuất hàng nông sản. * Kêu gọi đầu tư nước ngoài, liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng trung, dài hạn để đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, bao bì đẹp và hấp dẫn. *Thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng yêu cầu đã kí kết trong hợp đồng. * Nghiên cứu chế tạo nhập khẩu, phổ biến các loại máy móc, thiết bị với công nghệ tiên tiến để nâng cao các khâu phơi sấy, bảo quản, chế biến nông sản. 4. Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Mặc dù nước ta đã có nhiều thành công trong việc xây dựng hệ thống tín dụng nông thôn nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu vay vốn của nông thôn. Nhiều hộ gia đình chưa tiếp cận được nguồn vay của các tổ chức tín dụng chính thức, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao. Bởi vậy hướng tín dụng trong thời gian tới là: * Tăng vốn cho khu vực nông thôn, không phân biệt tín dụng giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh để hộ nông dân có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. * Đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đặc biệt là đối với các hộ nông dân. *Nghiên cứu áp dụng các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong những trường hợp cần thiết, cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng, hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng nông sản Việt Nam. * Nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng quỹ tài trợ xuất khẩu cho những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu (có phạm vi sản xuất rộng và là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân) bằng các nguồn khác nhau từ ngân sách Nhà Nước và đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. 5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách về thị trường . Những quy định về xuất nhập khẩu và hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới hoàn thiện. Cụ thể là: *Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ: hệ thống các văn bản pháp lý quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích và tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường và xuất khẩu nông sản trên cơ sở giảm bớt các hạn chế đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu về thủ tục thành lập, kinh doanh và giải thể. * Điều chỉnh linh hoạt hạn ngạch xuất khẩu gạo để đảm bảo ổn định nguồn lương thực và giá cả trong nước nhưng không cản trở các doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao, từng bước chuyển sang điều hành bằng thuế, có dự trữ để đảm bảo an ninh lương thực thay vì hạn chế thương mại. *Hoàn thiện chính sách thuế: Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. Điều chỉnh tỉ lệ thuế để lại cho địa phương để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Miễn thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần phất triển mở rộng quy mô, để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị máy móc sản xuất chế biến nông sản. Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thiết lập quỹ bảo hiểm các nông sản lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn… để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, trợ giúp sản xuất trong trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. * Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thị trường các nước ASEAN cũng sẽ bị hạn chế đối với các nông sản xuất khẩu của Việt Nam do cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam và các nước ASEAN khác tương tự nhau, hơn nữa các nông sản xuất khẩu Việt Nam thường là sản phẩm thô ít qua chế biến nên việc cắt giảm thuế theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước này không có tác động lớn đến khối lượng xuất khẩu các nông sản của Việt Nam trong tương lai. Bởi vậy một mặt tiếp tục duy trì thị trường các nước ASEAN (chủ yếu là sản phẩm ngũ cốc), mặt khác mở rộng xuất khẩu cả về số lượng và trị giá sang thị trường các nước Châu á khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản. Ngoài ra tiếp tục tháo gỡ vướng mắc để khôi phục thị trường Nga và Đông Âu vì đây là thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu chất lượng sản phẩm không khắt khe, đồng thời xâm nhập sâu vào thị trường mới như EU và Mĩ. * Chuẩn bị lộ trình tham gia tự do hoá thương mại theo cam kết với AFTA, APEC và WTO. Khai thác hiệu quả các cơ hội thị trường quốc tế, đồng thời bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34264.doc
Tài liệu liên quan