Mở đầu
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đ
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy Xuất khẩu hàng nông sản của Công ty Vilexim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản là mặt hàng được Công ty XNK với Lào (VILEXIM) hết sức chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trên lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản công ty đã đạt được những thành công, song bên cạnh những thành công đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM ” đã được chọn để nghiên cứu trong luận văn.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở tổng kết những lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Công ty trong giai đoạn 1997 - 2001 để đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty VILEXIM
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh hàng nông sản của công ty giai đoạn 1997-2001.
Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới.
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản.
Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu.
Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa (hoặc dịch vụ) cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán theo nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong mối quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hóa mang lại lợi ích cho các quốc gia do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia.
Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố đó là: vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố này đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Mô hình:
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu vốn thế nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Ngược lại trình độ sản xuất thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất. Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là: Làm thế nào để có một lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau:
Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Nguồn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vay nợ, viện trợ.
Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng , du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại như hiện nay thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử trong nền kinh tế thế giới chỉ có hai quốc gia Việt Nam và Đài Loan sản xuất hai loại mặt hàng là thép và vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Quốc gia
Hàng hóa
Việt Nam
Đài Loan
Thép ( kg/1 công )
1
6
Vải ( m/1h công )
4
3
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản xuất thép năng suất lao động của Đài Loan lớn hơn năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên trong ngành sản xuất vải thì Việt Nam lại có năng suất lao động lớn hơn. Do vậy Việt Nam có lợi thế trong sản xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau đấy hai nước sẽ mang trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở khoảng giữa. Tức là: 6/3 > Tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) > 1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam và Đài Loan là 6 thép lấy 6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ được lợi 3 mét vải tương đương với tiết kiệm được một giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18 mét vải tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động. Qua phân tích ở trên cho thấy hoạt động xuất khẩu sẽ phát tạo cơ hội cho một quốc gia phát huy được lợi của mình.
Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển; ngành dệt may phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng phát triển.
Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập, nâng cao mức sống và trình độ của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng tăng. Hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động. Thêm vào đó do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 điều kiện đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán do vậy là một trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia : Cao hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hóa của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu làm tiền đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác liên doanh...và làm cho quan hệ giữa các nước trở nên chặt chẽ hơn.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm quản lý của đối tác.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong doanh nghiệp.
Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa hoặc dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là : Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp do giảm chi phí trung gian.
Xuất khẩu ủy thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình thức này là: Đơn vị có hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh là không cao. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường phải đáp ứng những yêu sách của bên nhận ủy thác.
Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh thư.
Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công họ khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
Tái xuất khẩu.
Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ một nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp song cũng có thể tạo ra những khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những hoạt động quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh rất phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thành các nhóm sau:
Các nhân tố vĩ mô:
Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình. Công cụ này thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ sung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà nước nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng gía bán hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất một mặt hàng hay một nhóm hàng doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ khác tinh vi hơn ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi đẻ họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào cản thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm.... Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế.
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến lượng cung hàng xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ gặp thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước bị giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn để chọn được hàng hóa có chất lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản xuất nước ngoài phát triển, nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ bị giảm sút, nhu cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thới cơ để doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả mới tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã, chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng quốc gia.
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có can thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực dù doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực nào. Một hệ trong thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh nghiệp vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga, các cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
Các nhân tố vi mô
Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao, mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm. Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí vận chuyển - đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách địa lý nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động xuất khẩu. Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn vị thế tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự tin tưởng mà khách hàng dành cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín cao, đối với khách hàng nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên chất lượng hàng của doanh nghiệp. Vì vây, uy tín cũng quyết định đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương có những nét đặc trưng, phức tạp hơn nhiều so với hoạt động thương mại trong nước. Vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu muốn tiến hành hoạt động của mình có hiệu quả thì phải tuân theo các bước sau:
Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Công việc này bao gồm nghiên cứu hàng hóa thế giới, lựa chọn mặt hàng, nắm bắt dung lượng thị trường và giá cả hàng hóa.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Như vậy, thị trường có thể nhìn thấy cũng có thể không nhưng nó bao gồm các quan hệ mua bán hàng hóa , dịch vụ và dung lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa để các nhà kinh doanh biết được các quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hóa cụ thể có những quy luật riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hóa trên thị trường. Nắm vững các quy luật thị trường hàng hóa để vận dụng và giải quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường đối với hàng hóa, hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, đặc biệt là khi muốn kinh doanh xuất khẩu thành công công việc nhận biết sản phẩm phù hợp với thị trường và năng lực xuất khẩu là không thể thiếu được đối với doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải xác định được các vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là mặt hàng gì?
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mặt hàng đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại nhất định, mỗi khoảng thời gian này được thể hiện qua bốn pha của chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm: pha triển khai, pha tăng trưởng, pha bão hoàphải pha suy thoái:
Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng kinh doanh đang ở giai đoạn nào thì mới xác định được các biện pháp thích hợp để nâng cao doanh thu.
Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt hàng doanh nghiệp đang quan tâm. Đặc biệt doanh nghiệp phải tập trung vào yếu tố cung hàng hóa các yếu tố đó bao gồm: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mặt hàng đó.
Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường thường biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Gồm: sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là khác nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng hóa cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như: các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều , chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị trường rất dài. VD: tiến bộ khoa học cong nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung lượng thị trường. Bao gồm sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cung, cầu trên thị trường , sự biến động của các chính sách chính trị - xã hội, sự biến động của thiên nhiên.
Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Giá cả hàng hóa trên thị trường sẽ phản ánh quan hệ cung cầu hàng hóa đó trên thị trường thế giới. Xác định đúng đắn giá cả hàng hóa có ý nghĩa to lớn đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu. Trong kinh doanh quốc tế việc xác định giá cả hàng hóa rất phức tạp do việc buôn bán diễn ra trong một thời gian dài, hàng hóa vận chuyển qua nhiều nước khác nhau với chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải theo dõi, nghiên cứu sự biến động của giá cả đồng thời phải có biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác, khoa học để._. giá thực sự trở thành một công cụ trong kinh doanh quốc tế. Thông thường các nhà kinh doanh xuất khẩu xác định giá bán hàng hóa dựa trên ba căn cứ:
Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận chuyển, mua bảo hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...).
Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
Căn cứ và gía cả của hàng hóa cạnh tranh.
Lựa chọn đối tác giao dịch.
Lựa chọn đối tác giao dịch bao gồm các vấn đề lựa chọn nước để giao dịch và lựa chọn thương nhân để giao dịch.
Khi lựa chọn nước để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa chúng ta phải tìm hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hóa của nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc đối tượng mặt hàng nghiên cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ để biết được khả năng nhập khẩu, phương hướng nhập khẩu của nước này và có thể dự đoán đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương mại đối với nước lựa chọn làm đối tác giao dịch để lường trước mọi việc có thể xảy ra.
Chọn thương nhân để giao dịch. Trong điều kiện cho phép thì lựa chọn những người nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên trong trường hợp muốn thâm nhập vào thị trường mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý hay môi giới lại rất có ý nghĩa. Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để dẫn tới thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Lập kế hoạch kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm:
Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh nghiệp sẽ phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những mục tiêu. Đó có thể là các biện pháp trong nước (Đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng sản phẩm...) và những biện pháp ngoài nước (quảng cáo, tăng cường lập chi nhánh ở nước ngoài tăng cường quan hệ bạn hàng...).
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích chuẩn xác và đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết định nhiều đến thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng doanh nghiệp cần phải căn cứ vào:
Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế độ và các chuẩn mực kinh tế hiện hành.
Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hợp đồng kinh tế của mỗi bên.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi lý hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng.
Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu sẽ được thể hiện ở hình sau:
Hình 1: Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Kiểm ngiệm hàng hóa
Làm thủ tục hải quan
Xin giấy phép xuất khẩu
Thuê tàu
Chuẩn bị hàng hóa
Mua bảo hiểm
Giải quyết khiếu nại
Giao hàng lên tàu
Hoàn thành bộ CTTT
Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản.
Đặc điểm của mặt hàng nông sản.
Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Chính vì vậy, đối với mối doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản, việc nghiên cứu thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài) từ đó đưa ra những dự báo phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ là thực sự cần thiết. Nếu doanh nghiệp đáp ứng được đơn đặt hàng vào lúc trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với lúc chính vụ sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoach hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Với đặc tính này buộc doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua rộng khắp và phải chuẩn bị đủ vốn để thực hiện công tác thu mua có hiệu quả.
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mưa thuận gió hoà, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao, hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào, khu vực nào có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không cao, gía cao. Căn cứ vào đặc tính này các doanh nghiệp có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình. Chẳng hạn: Khu vực thị trường nào có các doanh nghiệp xuất khẩu cùng một mặt hàng với doanh nghiệp, là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì khu vực ấy sẽ bị mất mùa hàng nông sản. Doanh nghiệp phải tận dụng ngay cơ hội này để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì vậy để xâm nhập vào các thị trường khó tính này buộc doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu mà họ đặt ra.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dễ ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản này sẽ quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng gạo. Trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính, mỗi loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều nhóm. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: Thị trường Châu âu và quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài song thị trường Châu á lại quen tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, hạt dài. Thị trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung Đông quen tiêu dùng gạo thơm, thị trường Lào quen tiêu dùng gạo nếp...
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp.
Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới.
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn, uống của con người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng nông sản có phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp thấp ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản. nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Nước nhập khẩu hàng nông sản có thể là các nước chậm phát triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với hàng nông sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm lương thực có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay đối nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội địa dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1996, 1997 số tiền trợ giá cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng số tiền trợ giá của tất cả các thành viên thuộc WTO. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông sản ở các nước đang phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn chế tác động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh tranh hàng nông sản của các nước đang phát triển vốn nhờ vào lao động rẻ. Cơ chế này không những làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các nước phát triển phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng tự do hoá thị trường nông sản thế giới ở một cuộc họp tại Mỹ vào tháng 11 năm 2000. Điều này dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa hơn cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển lại phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là những quy định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong nhiều trường hợp người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng nông sản của các nước đang phát triển tràn vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn nhưng khả năng thanh toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên Hợp Quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn cung cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đẩy kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới đang bị thu hẹp, nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế biến lại để xuất khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển lại phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này, ưu thế cạnh tranh trên thị trường thế giới thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở thành người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy nhiên theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) với tốc độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao nhưng đất đai sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá) thì đến năm 2010 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt xa cung. Điều này mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói chung và Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong tương lai.
Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam.
Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam.
Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu thu mua, chế biến thì Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng nông sản lớn. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở các điểm sau:
Về đất đai:
Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10 - 11,157 triệu ha với 8 triệu ha cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm) hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Chúng ta có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như Cao su, hạt tiêu, cà phê.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy chúng ta vẫn có thể khai thác được vùng Đồng Bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh dưỡng cao kết hợp với sự đa dạng và phong phú về chủng loại (có 64 loại thuộc 14 nhóm) đây là một điều kiện rất tốt cho nhiều loại cây trồng phát triển.
Về khí hậu.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2001 Mỹ/nămlà điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Vị trí địa lý và các cảng khẩu.
Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.
Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển nước ta có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt. Và gần đường hàng hải quốc tế.
Về nguồn nhân lực.
Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tình hình kinh tế của Việt Nam với các chính sách nông nghiệp.
Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và đã ký kết các văn kiện của hiệp hội như hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập WTO. Ngoài ra Việt Nam còn tiến hành các cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại OSAKA và ROMA.
Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam, xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản cũng được chú trọng và quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo được những bước đột phá.
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động kết hợp với đường lối, chủ trương đúng đắn của nhà nước hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ đạt được những bước lớn góp phần quan trọng của sự phát triển đất nước.
Tình hình sản xuất hàng nông sản Việt Nam.
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi mới, ngành nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong sự phát triển chung ấy nổi bật nhất là sự phát triển trong sản xuất lương thực. Những năm qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân là 5%/năm do vậy không những đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia mà còn biến nước ta từ một nước nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, việc đa dạng hoá cây trồng, mở rộng diện tích trồng trọt, thực hiện theo phương châm đất nào trồng cây ấy trong những năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nông nghiệp. Chẳng hạn: Đối với cây cà phê năm 1986 diện tích trồng mới là 65,6 nghìn ha trong đó chỉ có 19 nghìn ha cho sản phẩm có sản lượng là 18,5 nghìn tấn thì các năm sau đó sản lượng tăng rất nhanh. Năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 92 nghìn tấn, năm 1996 sản lượng đạt 218 nghìn tấn thì đến năm 1998 sản lượng đã đạt 400 nghìn tấn; Đối với cây cây cao su. Năm 1986 sản lượng mới chỉ đạt 50 ngìn tấn thì năm 1999 sản lượng đã là 190 nghìn tấn, tăng gấp 3,8 lần so với năm 1986; Đối với cây chè năm 1998 diện tích đạt 78,6 nghìn ha cho sản lượng 47000 tấn chè búp khô thì năm 1999 sau khi thanh lý 7982 ha, trồng mới 26000 ha thì diện tích chè còn khoảng 73000 ha, cho sản lượng trên 50.000 tấn chè búp khô.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào trong sản xuất nông nghiệp đã được cải thiện do vậy năng suất cây trồng đã tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là đối với cây lúa. Năm 1986 năng suất lúa mới chỉ đạt 28,1 tạ/ha thì năm 1999 năng suất đã là 39,6 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình 38,05 tạ/ha của thế giới và 23tạ/ha của Thái Lan. Năng suất cao su của Việt Nam năm 1999 đạt 1tấn/ha cao hơn mức 916 tạ/ha của thế giới, gấp 1,3 lần năng suất của Indonexia. Năng suất cà phê của Việt Nam cao gấp 1,5 lần của Brasin, gấp 1,7 lần Colombia và gấp 2,17 lần Indonexia.
Tuy đã có những tiến bộ như đã nêu ở trên song ngành sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn không ít hạn chế. Điển hình là: Chất lượng hàng nông sản của ta chưa cao, hiện nay còn nhiều vùng, nhiều địa phương nông dân còn chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm. Việc mở rộng quá mức diên tích trồng lúa vụ 3 ở Đông Bằng Sông Cửu Long, cũng như sử dụng lúa lai ở Trung Quốc cho năng suất cao nhưng chất lượng thấp ở các tỉnh phía Bắc, sử dụng quá nhiều phân bón hoá học và thuốc kích thích tăng trưởng trong sản xuất cũng là một trong những lý do làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt Nam chưa cao.
Tình hình chế biến một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi những người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách hợp lý, đồng bộ, chưa được quan tâm một cách đúng mức nên sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do tạp chất nhiều, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và là một trong những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.
Có thể nói rằng từ năm 1990 trở lại đây, hơn 10 thực hiện chủ trương phát triển xuất khẩu, ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng nông sản nói riêng đã có những chuyển biến lớn. Điều đó được thể hiện ở một số nét sau:
Hoạt động xuất khẩu nông sản có tốc độ tăng trưởng nhanh. Đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo, cà phê, cao su. Sản lượng xuất khẩu của các mặt hàng này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1997 - 2001 ĐV:1000tấn,%
STT
Mặt hàng
Năm 1997
TĐ
TT
Năm 1998
TĐ
TT
Năm 1999
TĐ
TT
Năm 2000
TĐ
TT
Năm 2001
TĐ
TT
1
Gạo
3047
48
3682
21
3800
3
4500
18
3500
-22
2
Cà phê
281
14
392
39
382
-0,3
488
28
640
31
3
Cao su
194
41
195
0.3
197
1
265
35
325
23
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT, 2001.
Hiện nay các mặt hàng này đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chẳng hạn: từ năm 1998, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua cũng tăng lên rõ rệt. Tỷ trọng gạo 25% tấm giảm từ 60% như trước đây xuống còn 30% như hiện nay, gạo chất lượng cao 5% tấm tăng từ 20% lên 50-60% trong thời gian tương ứng, cà phê loại một tăng từ 15% năm 1995 lên 72% năm 1999. Chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên làm cho gía hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng tăng. Chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam với Thái Lan giảm từ 50 đến 60 USD/tấn năm 1996 xuống còn xuống còn 10 đến 15 USD/tấn năm 1999, chênh lệch giá với cà phê Braxin từ 600 USD/tấn năm 1996 xuống còn 150 USD/tấn năm 1999.
Trong những năm qua hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng ngày càng được cải thiện, tuy nhiên do chịu sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nông sản trên thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng, giảm không ổn định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu giai đoạn 1997 - 2001. ĐV: triệu USD,%
STT
Mặt hàng
Năm 1997
TĐ
TT
Năm 1998
TĐ
TT
Năm 1999
TĐ
TT
Năm 2000
TĐ
TT
Năm 2001
TĐ
TT
1
Gạo
868
64
891
3
1100
24
1080
-2
668
38
2
Cà phê
420
-30
498
19
594
19
592
-0.3
480
19
3
Cao su
163
-16
195
19
128
-35
145
14
178
23
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày càng mở rộng. Nếu những năm trước đây hàng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và các nước Đông Âu thì nay hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt ở khắp các châu lục. Hàng nông sản của Việt Nam đã gây được sự chú ý và đã bắt đầu thâm nhập vào những thị trường khó tính như Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Pháp, Hồng Kông...và những thị trường xa lạ như Mỹ la tinh và Châu Phi. Ngoài ra một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết được với một số cơ sở chế biến nông sản nổi tiếng trên thế giới. VD: Cà phê đã xây dựng được mối quan hệ với 60 khách hàng thuộc 40 quốc gia, trong đó có sự hiện diện của các hãng cà phê nổi tiếng như Nestle (Mỹ), Newman (Đức), ED và Fman (Anh), Vocate (Thuỵ Sĩ), Adirat (Pháp), Itochu (Nhật Bản); cao su đã xây dựng thành công mối quan hệ truyền thống với 20 khách hàng từ các quốc gia Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trên đây là những thành tựu mà ngành nông sản xuất khẩu Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Tuy nhiên ngành vần còn không ít những tồn tại trong quá trình hoạt động của mình. Những tồn tại gồm:
Tuy tốc độ tăng trưởng ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tương đối cao nhưng so với tiềm năng phát triển của ngành và so với kết qủa xuất khẩu hàng nông sản của một số quốc gia khác trên thế giới thì kết quả đạt được như trên còn quá khiêm tốn. Chẳng hạn: Năm 1999. Đối với mặt hàng Cà phê lượng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ bằng 38,35% lượng xuất khẩu của Braxin và bằng 60% lượng xuất khẩu của Colombia; Đối với Cao su lượng xuất khẩu mới chỉ bằng 12% của Indonexia và bằng 10,75% lượng xuất khẩu của Thái Lan.
Tuy Việt Nam có nhiều thị trường nhập khẩu hàng nông sản nhưng số lượng thị trường nhập khẩu truyền thống chỉ khoảng 10 quốc gia trong đó hầu hết là các quốc gia Châu á. Đa số thị trường nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam là những thị trường nhập khẩu với khối lượng nhỏ, không ổn định.
Trên thị trường thế giới hàng nông sản Việt Nam chủ yếu tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, bao bì, mẫu mã lạc hậu, thiếu sức hấp dẫn nên gía hàng nông sản Việt Nam không cao, hàng nông sản Việt Nam còn phải chấp nhận lấy mức giá trung bình trên thị trường thế giới làm tiêu chuẩn và mức phấn đấu của mình. Thêm và đó, hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam rất yếu nên khả năng thâm nhập vào những thị trường chính ngạch (thị trường đòi hỏi chất lượng cao, tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt) của hàng nông sản của Việt Nam rất thấp, hàng Việt Nam chưa có chỗ đứng trong siêu thị của các thị trường này. Chình vì vậy, trong thời gian qua hàng nông sản Việt Nam chủ yếu phải xuất khẩu qua môi giới trung gian, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp rất thấp.
Hoạt động thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường còn bộc lộ nhiều yếu kém. Thông tin thu thập được chưa cập nhật, biến động giá cả, tình hình cung, cầu trên thị trường chưa nắm được nên lúc giá trên thị trường cao thì lại không có hàng xuất khẩu còn khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa dẫn đến việc bị hách hàng ép giá, phải xuất khẩu với giá thấp, hiệu quả xuất khẩu không cao.
Qua phân tích tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thời gian qua ta thấy những thành tựu mà ngành đạt được trong thời gian qua thật đáng khích lệ ... Tuy nhiên vẫn còn không ít các vấn đề tồn tại cần được giải quyết. Chính vì vậy, trong thời gian tới để tiếp tục phát triển Việt Nam phải phát huy những thành tựu đã đạt được và tìm ra giải pháp cho những tồn tại của mình.
Vai trò của hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản.
Trong hơn 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, nông nghiệp nước ta đã đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển trong những năm tiếp theo. Vai trò của hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta trong những năm qua được thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần đáng kể vào việc tích luỹ vốn cho quá trình công nghiệp hoá đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu cầu tiêu thụ nông sản thừa trong nước. Khi thực hiện xuất khẩu, một lượng hàng nông sản dư thừa trên thị trường nội địa sẽ được giải quyết, lập lại quan hệ cung cầu ở mức giá cao hơn, nông dân không những bán được nông sản mà còn bán được giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập cao hơn từ đó làm tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với 80% dân số. Đây chính là một động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối đa lợi thế của Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất nước, nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện nay Đảng và nhà nước ta đang thực hiện xây dựng các mô hình kinh tế mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới ... thì hoạt động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, hoạt động này sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.
Kết luận chương I
Hiện nay, trên thế giới hoạt động xuất khẩu đang diễn ra vô cùng sôi động, ở nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực, từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất , công nghệ kỹ thuật cao,... Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất khẩu cũng c._.tin, tiếp xúc với các doanh nhân để chọn cho mình hướng kinh doanh thích hợp. Thực tiễn cho thấy các năm qua, qua các cuộc viếng thăm, công ty đã ký kết được những hợp đồng xuất khẩu hàng với khối lượng lớn.
Đa dạng hoá mặt hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu bên cạnh việc duy trì những mặt hàng xuất khẩu truyền thống tại các thị trường truyền thống.
Các nước thuộc ASEAN như: Lào, Philipin, Indonexia, Singapo là những thị trường truyền thống tiêu thụ sản phẩm công ty. Tại những thị trường này công ty thường cung cấp các mặt hàng ổn định cho những bạn hàng ổn định. Vì vậy bạn hàng tại đây đã biết đến sản phẩm và uy tín của công ty. Hơn thế nữa công ty đã có nhiều kinh nghiệm kinh doanh, đã có các cơ sở bảo quản, chế biến hàng phục vụ xuất khẩu tại các thị trường này. Do vậy trong thời gian tới khu vực này vẫn nên được xem là thị trường trọng điểm của công ty.
Thị trường này có yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao nhưng một sự thay đổi về giá sẽ có thể tác động đến mức độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Vì vậy trong thời gian tới, để duy trì và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại khu vực này thì việc xây dựng một chính sách giá cả hợp lý phải được công ty đặc biệt quan tâm. Đối với những mặt hàng tương tự với đối thủ cạnh tranh, công ty nên khuyến khích khách hàng mua hàng của công ty thông qua hình thức giảm giá cho những người mua hàng với khối lượng lớn hoặc đối với những người là khách hàng mới của công ty. Còn đối với những mặt hàng được xem là độc đáo của mình thì công ty có thể áp dụng mức giá linh hoạt sao cho vừa đảm bảo được có lãi, vừa tiêu thụ được nhiều sản phẩm.
Ngoài ra trong sự biến động mạnh mẽ của tình hình cung cầu một số mặt hàng nông sản trên thế giới như hiện nay, để hạn chế rủi ro và tăng kim ngạch xuất khẩu thì việc đa dạng hoá mặt hàng và mở rộng thị trường xuất khẩu đối với công ty là thực sự cần thiết. Những thị trường mà công ty có thể hướng tới trong tương lai là: thị trường EU, thị trường Nhật Bản, thị trường Mỹ. Đây là những thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản rất lớn, có khả năng chi trả cao nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã bao bì hàng hóa cũng cao. Vì vậy, để thâm nhập vào những thị trường này buộc công ty phải cải tiến mẫu mã bao bì và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tăng cường huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa của bất kỳ một công ty nào. Đối với công ty VILEXIM cũng thế. Chính vì vậy trong thời gian tới để tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh, ngoài nguồn vốn của mình công ty phải huy động thêm từ các nguồn trong và ngoài nước. Cụ thể công ty có thể huy động từ các nguồn sau:
Vốn vay từ các ngân hàng.
Hiện nay việc vay vốn tại các ngân hàng đã thuận lợi hơn. Công ty có thể vay vốn ngắn hạn hoặc dài hạn với các mức lãi suất khác nhau. Tuy nhiên công ty cần phải tính toán xem nên vay như thế nào để phục vụ cho công tác kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty mang tính thời vụ nên công ty nên vay các nguồn vốn ngắn và trung hạn. Tuy nhiên trong thời gian tới, trước những yêu cầu là phải tiến hành đầu tư xây dựng các cơ cở bảo quản, chế biến, liên doanh liên kết để sản xuất hàng hóa thì công ty nên vay vốn dài hạn với lãi suất thấp.
Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty.
Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong lực lượng lao động này là khá lớn. Sử dụng nguồn vốn này công ty có thể phải trả lãi suất cao hơn một chút nhưng lại thu được lợi về nhiều mặt. Thời hạn thanh toán nợ cho các cán bộ công nhân viên không bị khắt khe như tại các ngân hàng, công ty có thể chủ động hơn trong kinh doanh. Hơn thế nữa với hình thức vay vốn này công ty có thể huy động được một cách tối đa năng lực và lòng nhiệt của cán bộ công nhân viên.
Huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được của công ty.
Đây là nguồn vốn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của công ty.
Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn trong nước thì vay vốn nước ngoài cũng là giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà công ty cần lưu ý. Nguồn vốn có ưu điểm lớn nhưng huy động lại khó vì các chủ hàng nước ngoaì thường đòi hỏi công ty phải có những tài sản đáng tin cậy như tài sản thế chấp, tình hình sản xuất và xuất khẩu của công ty. Công ty có thể huy động vốn nước ngoài thông qua các hình thức sau:
Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của công ty: đặc biệt là đối tượng khách hàng có khối lượng mua lớn, đã có quan hệ truyền thống với công ty. Để có được vốn vay này công ty phải đảm bảo được chữ “tín” trong kinh doanh. Có nghĩa là công ty phải thường xuyên chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản về chất lượng, giá cả, thời gian và cách thức giao hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng kinh doanh.
Tận dụng nguồn vốn của các bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm hoặc xin ứng trước vốn trước khi xuất hàng. Hình thức này thường chỉ được thực hiện khi công ty xuất hoặc nhập khẩu một số lượng lớn hàng hóa và là bạn hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ “tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán.
Hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với đối tác nước ngoài: đây cũng là một giải pháp hữu hiệu mà công ty có thể áp dụng trong tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu thiết trường hợp công nghệ như hiện nay. Với phương thức này công ty phải dựa trên quan điểm “cả hai bên cùng có lợi’’ có như vậy thì quan hệ của công ty và đối tác liên doanh mới được bền lâu.
Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh lớn.
Thực hiện tốt hơn công tác thu mua hàng nông sản xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty hiện còn nhiều bất cập. Công ty chưa thiết lập được một mạng lưới thu mua hàng ổn định ngay tại địa phương, do vậy nguồn hàng cung cấp cho công ty bấp bênh, chất lượng chưa đảm bảo. Công tác kiểm tra chất lượng hàng khi thu mua thực hiện chưa nghiêm túc, bảo quản và sơ chế hàng ngay sau khi thu mua chưa tốt, quá trình vận chuyển hàng về kho chưa được giám sát chặt chẽ. Chính vì vậy trong thời gian tới để cải thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu công ty nên thực hiện một số công việc sau:
Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt với các địa phương sản xuất hàng xuất khẩu của công ty. Khi đó, quá trình thu mua của công ty sẽ thuận lợi hơn, khối lượng thu mua được sẽ nhiều hơn. Muốn xây dựng được mối quan hệ tốt này, công ty nên tiến hành các công việc như: Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc và ký hợp đồng, hỗ trợ một phần cho sản xuất như hỗ trợ vốn, hỗ trợ phân bón. Đồng thời công ty có thể hỗ trợ địa phương một phần vào việc xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như: Bệnh viện, trường học, hệ thống giao thông, thủy lợi. Hiện tại đối với công ty để làm được việc này thì chi phí không phải là nhỏ nhưng đó là một sự đầu tư thích đáng trong chiến lược phát triển lâu dài của công ty, nó tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa công ty và địa phương đồng thời cũng tạo nên sự ràng buộc về kinh tế giữa công ty và địa phương.
Công ty cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt động thu mua có hiệu quả như: Quy định một tỷ lệ hoa hồng mà cán bộ thu mua được hưởng nếu khối lượng mua được lớn, chất lượng đảm bảo. Đồng thời xử lý nghiêm túc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm chất lượng và uy tín hàng xuất khẩu của công ty.
Cải tiến công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua.
Hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua sẽ quyết định cơ bản đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Hiện tại, hoạt động này được thực hiện ở công ty còn hạn chế. Hầu như chưa có một thiết bị hiện đại nào trợ giúp cho cán bộ thu mua trong công việc này. Chất lượng sản phẩm khi thu mua chủ yếu được kiểm tra bởi kinh nghiệm của cán bộ công thu mua. Với cách thức kiểm tra này, tuy chưa có một vụ khiếu kiện nào về chất lượng hàng hóa chưa đảm bảo từ phía đối tác nước ngoài đối với công ty song điều đó không đồng nghĩa với việc công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua của cán bộ thu mua đã được thực hiện tốt, các cán thu mua đã lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt mà điều này là do yêu cầu về chất lượng hàng hóa của các đối tác nước ngoài đối với công ty chưa cao. Chẳng hạn: trong kiểm tra chất lượng Lạc. Các cán bộ công thu mua chủ yếu dựa vào mầu sắc và độ tróc của lụa Lạc để nhận biết độ ẩm của Lạc. Với cách kiểm tra này chỉ một khối lượng nhỏ Lạc được kiểm tra, một số các tiêu thức khác mà những thị trường khó tính thường yêu cầu như độ mối mọt, số lượng hạt Lạc/100g ... công ty không thể kiểm soát được.
Do vậy trong thời gian tới, muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, đưa mặt hàng thâm nhập sâu vào những thị trường khó tính thì việc cải tiến công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ khâu thu mua đối với công ty là thực sự cần thiết. Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau công ty sẽ phải đề ra những tiêu chuẩn để kiểm tra khác nhau đồng thời sử dụng các loại máy kiểm tra chất lượng tiên tiến để trợ giúp cho cán bộ thu mua.
Chẳng hạn đối với mặt hàng Lạc xuất khẩu, công tác kiểm tra chất lượng sẽ phải dựa vào một số chỉ tiêu sau:
Kiểm tra về mối mọt: Đây là một chỉ tiệu mà khách hàng nước ngoài thường hay quan tâm nên công ty nhất thiết phải kiểm tra thật kỹ khi thu mua.
Độ ẩm Lạc: Đây là một chỉ tiêu để xác định chế độ bảo quản. Khi độ ẩm của lạc từ 7% trở xuống thì có thể bảo quản ở kho bình thường từ một đến hai tháng vẫn không bị mốc. Tuy nhiên khi độ ẩm của lạc trên 7% thì cần thiết phải tiến hành sấy khô lạc ngay bằng hơi nóng và đảo trộn ( không được phơi nắng vì làm như vậy lạc sẽ bị chảy dầu).
Kiểm tra về mức các tạp chất có trong Lạc như vụn than, cành lá và các loại tạp chất khác. Cần đặc biệt chú ý đến các loại vi sinh vật cũng như sâu mọt có trong lạc khi bao gói.
Kiểm tra về tiêu chuẩn Lạc: với hàm lượng hạt/100g xem có bao nhiêu hat đủ tiêu chuẩn.
Ngoài các công việc trên, việc chuẩn bị đủ vốn cho quá trình thu mua cũng phải được công ty quan tâm. Hàng xuất khẩu của công ty hiện chủ yếu là nông sản, đặc điểm của loại hàng hóa này là thu mua mang tính thời vụ. Trong điều kiện ‘’tranh mua, tranh bán‘’ như hiện nay, nếu thiếu vốn trong dịp thu mua thì công ty không thể mua được hàng hoặc nếu có thì quá trình thu mua cũng bị gián đọan. Khi ấy đối thủ cạnh tranh sẽ ngay lập tức thế chỗ công ty. Sau đó kể cả công ty có chuẩn bị đủ tiền thì nhà cung ứng cũng chưa chắc đã muốn bán cho công ty do họ đã quen với đối tác khác. Chính vì vậy việc chuẩn bị đầy đủ vốn cho quá trình thu mua hàng của công ty là rất quan trọng. Nhưng chuẩn bị bao nhiêu cho phù hợp lại cũng là một câu hỏi mà công ty cần đặt ra. Bởi nếu chuẩn bị thiếu vốn thì công ty sẽ gặp phải khó khăn còn nếu chuẩn bị quá thừa thì công ty lại phải mất một khoản tiền vô ích để trả lãi suất (trong trường hợp công ty phải vay vốn của ngân hàng). Chính vì vậy mà việc dự đoán lượng tiền cần chuẩn bị phải dựa trên sự dự đoán về biến động của giá cả, sự cung, cầu về hàng hóa trên thị trường. Công việc này cần được đảm nhiệm bởi những người có năng lực và có đầu óc kinh doanh.
Tăng cường đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản.
Hàng nông sản là một mặt hàng chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khí hậu, thời tiết. Đặc biệt với khí hậu nóng, ẩm như của Việt Nam sẽ là một điều kiện thuận lợi cho các loại nấm mốc, sâu bệnh trong hàng nông sản phát triển.
Ngoài ra, trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, người tiêu dùng có xu hướng giảm tiêu dùng các loại nông sản có chất lượng thấp và tăng tiêu dùng các loại nông sản có chất lượng cao, các yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm và về hình thức sản phẩm cũng ngày càng cao. Vì vậy việc đầu tư cho công tác chế biến, bảo quản hàng sau thu mua đối với mỗi công ty tham gia xuất khẩu nông sản là thực sự cần thiết.
Hiện tại công ty VILEXIM đã có một số cơ sở để bảo quản và chế biến hàng hóa như: cơ sở chế biến ở Hà Nội, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên máy móc, thiết bị hiện đang sử dụng tại các cơ sở này đã lỗi thời, lạc hậu nên có năng suất chế biến không lớn và chất lượng hàng đã qua chế biến không cao. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty cần phải nâng cấp và xây dựng thêm những cơ sở sản xuất chế biến có trang thiết bị phù hợp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động chế biến, bảo quản hàng nông sản.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV.
Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất, quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định sự thanh công hay thất bại của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách thường xuyên, liên tục.
Đối với công ty VILEXIM, vấn đề nguồn nhân lực là một vấn đề nan giải và khó giải quyết trong thời gian ngắn. Hiện tại, nếu phân theo trình độ văn hoá thì có tới 45% số người trong công ty có trình độ dưới đại học, nếu phân theo độ tuổi thì có 78% số người có độ tuổi trên 35. Đây là độ tuổi ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp nên mặc dù đã cố gắng rất nhiều song họ vẫn thiếu tính năng động, sáng tạo, không giám mạo hiểm và gặp khó khăn khi phải thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Những hạn chế về nguồn nhân lực như trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Vì vậy, trong thời gian tới việc nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên cần phải được công ty đặc biệt chú trọng. Sau đây là một số giải pháp:
Thường xuyên gửi các cán bộ kinh doanh trẻ có triển vọng tới các trung tâm đào tạo KDQT ở trong hoặc ngoài nước.
Tạo điều kiện để các nhân viên còn yếu và thiếu về nghiệp vụ đi học các lớp đào tạo bổ sung hoặc đào tạo tại chức.
Đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa.
Bố trí để các nhân viên trẻ, có năng lực, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công ty cùng làm việc với những nhân viên lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để các nhân viên trẻ học hỏi thêm kinh nghiệm.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân khác.
B. Kiến nghị với nhà nước.
Tăng cường hỗ trợ các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản.
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty VILEXIM nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính nhưng có khả năng chi trả lớn. Do vậy hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và chế hàng nông sản để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp tiến hành bao gồm:
Hỗ trợ vốn ban đầu cho nông dân.
Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết vì để thay đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học và quản lý vào trong sản xuất đòi hỏi những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không thể tự trang trải nổi.
Trong thời gian qua các chương trình trợ giúp vốn cho nông dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế, người nông dân vay vốn lãi suất diễn ra dàn trải, thiếu tập trung, thời gian hoàn vốn ngắn điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được một vài trăm ngàn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay lới lãi suất tín dụng thông thường thì lai gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp trong khi đấy các ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới nhà nước cần đưa ra chính sách ưu đãi đối với những ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản để họ cung cấp vốn cho nông dân nhiều hơn, hiệu quả hơn.
Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho người nông dân.
Hiện tại, nhiều nông dân Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các kiến thức về nông nghiệp như: Giống cây trồng nào phù hợp với loại đất nào, được trồng ở khu vực có điều kiện khí hậu nào và mức độ sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu ra sao... để cho ra các loại sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, có hiện tượng nông dân gieo các loại giống cây trồng cho năng suất cao nhưng chất lượng không đảm bảo, hoặc quá lạm dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón phân bón hoá học. Chính vì vậy nhà nước nên hỗ trợ nông dân các loại giống tốt, cho năng cao, chất lượng đồng bộ. Hiện tại ngân sách của nhà nước còn hạn hẹp do vậy nhà nước không thể cung cấp miễn phí giống cho mọi nông dân. Vì vậy, nhà nước có thể sử dụng hình thức bán giống tốt cho nông dân với giá ưu đãi hoặc bán chịu hoặc nông dân, cuối vụ thu hoạch nhà nước sẽ nhận tiền... .Đồng thời nhà nước cũng cần có các chương trình phổ biến kiến thức cho nông dân.
Tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân.
Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đấy nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân, điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dân... để hạn chế bớt sự ép giá của tư thương đối với nông dân vào những lúc chính vụ. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho công ty tham gia xuất khẩu.
Tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung.
Vùng nguyên liệu tập trung là một vùng mà ở đó tập trung trồng các loại cây phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, điều kiện kinh tế, xã hội của vùng. Ví dụ: Một vùng nguyên liệu trồng mía phải được đặt ở những nơi có loại đất, khí hậu phù hợp với cây mía, có cơ sở hạ tầng thuận để vận chuyển mía từ nơi thu hoạch đến các kho chưa đã và các cơ sở chế biến. Với nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiện nay thì đây có thể là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng và đồng bộ hoá sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề là phải xác định được đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng.
Đầu tư mạnh cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản.
Đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôi khi là quá sức đối với các công ty tham gia xuất khẩu mặt hàng này bởi công việc này đòi hỏi công ty phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy nhà nước nên đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng nông sản. Chẳng hạn nhà nước sẽ đầu tư lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm xuất khẩu của của công ty có thể đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Bên cạnh đó nhà nước nên khuyến khích các công ty xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến thông qua các chính sách như: giảm thuế xuất khẩu, ưu tiên hạn ngạch xuất khẩu... để thúc đẩy hoạt động chế biến trong nước phát triển.
Trợ giúp cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản.
Trợ giúp vốn.
Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vố đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến.
Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá phức tạp nhưng các công ty xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thường rất thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, về sự biến động giá cả, về các đối thủ cạnh tranh....Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu.
Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả.
Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty.
Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi và mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn giảm thuế.
Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường .
Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn:
Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý.
Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn: Hiện nay nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách ưu đãi đối với các đon vị này.
Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu .
Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu.
Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà nước.
Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho goại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1999, ngân hàng nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên 12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giắt giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của nhà nước.
Kết luận:
Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, nhà nước, tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của các công ty hiện đang tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước yêu cầu đó, công ty VILEXIM đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đẩy mạnh xuất khẩu phục vụ các chương trình kinh tế của Đảng và nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Luận vă tốt nghiệp này đã trình bày nội dung, thực tiễn và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở công ty VILEXIM. Em hy vọng những kiến thức thực tế thu nhận tại công ty trong thời gian thực tập sẽ góp phần bổ xung cho kiến thức được trang bị ở trường.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty VILEXIM các năm 1997-2001.
Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”: chủ biên PTS Đỗ Đức Bình, NXB Giáo dục, 1998.
Giáo trình “ Marketing quốc tế ”: biên soạn PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Thống kê, 2000.
Giáo trình “ Kinh tế học quốc tế ”: chủ biên GS -PTS Tô Xuân Dân, NXB Giáo dục, 1996.
Sách: “Mấy vấn đề kinh doanh lương thực ở Việt Nam ”. Tác giả :
Sách: “Lương thực Việt Nam - đổi mới hướng xuất khẩu ” Tác giả : Nguyễn Trung Văn, NXB Chính trị Quốc gia, 1998.
Tạp chí Thương mại số 12-2001. Bài “ Một số vấn đề đặt ra với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” .
Tạp chí Phát triển kinh tế :
Số 105-2000. Bài “ Tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam” Tác giả : TS Lê Khoa .
Số 107-2000. Bài “ Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” Tác giả : Th.S Nguyễn Thị Minh Tâm .
Số 124-2002. Bài “Xuất khẩu Việt Nam năm 2001 - nhìn lại cơ cấu mặt hàng” Tác giả :
Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 38-2001. Bài “10 năm xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam từ 1991-2001”. Tác giả : TS Đỗ Đức Hạnh - Trần Mai Phương.
Tạp chí Kinh tế và dự báo.
Số 9-2000. Bài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”. Tác giả : Nguyễn Văn Nam .
Số1-2001. Bài “Thành tựu 10 năm nông nghiệp nước ta”.
Tác giả : Bùi Văn Can.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0411.doc