Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam

lời mở đầu Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với cơ chế thị trường mở rộng của nước ta như kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nền kinh tế đó, cùng với cơ chế quản lý, điều hành và các chính sách ban hành đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Trong quá trình đi lên của nền kinh tế đất nước, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu n

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư là một cầu nối liên kết giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã không ngừng lớn mạnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể như mang lại nguồn ngoại tệ to lớn về cho đất nước, góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất kinh tế cũng đứng trước không ít khó khăn do cơ chế thị trường gây ra, sức mua đồng tiền trong nước giảm, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp cũng như một số vấn đề bức xúc đặt ra trước các nhà doanh nghiệp là: làm thế nào tìm hiểu và áp dụng được những kỹ thuật nghiệp vụ thích hợp để tiếp cận và tạo lập được thị trường trong sản xuất kinh doanh. Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam cũng không nằm ngoài các doanh nghiệp đó. Sau đợt thực tập thực tế và đã nắm bắt được một số tình hình cụ thể tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam, em mạnh dạn chọn đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam". Vì đây là một đề tài thú vị, mang tính cấp thiết và đặc biệt quan trọng đối với Tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam hiện nay. Từ lý luận và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam, cùng với một số sách báo, tài liệu tham khảo, kết hợp với những phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh tế chính trị, ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: Thống kê, xử lý số liệu, tổng hợp, phân tích đối chiếu, so sánh lô gíc, kết hợp lý luận và thực tiễn... nhằm rút ra những vấn đề có tính khái quát, phổ biến. Từ đó đưa ra những định hướng và biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam. Tổng Công ty hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiều mặt hàng. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu lĩnh vực xuất khẩu hàng súc sản của Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam giai đoạn 1997-2000. Như vậy, các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác của Tổng Công ty sẽ không đề cập trong đề tài. Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành 3 chương: * Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp . * Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam. * Chương III: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam. Do thời gian có hạn,kinh nghiệm cũng như trình độ còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót em rất mong được sự quan tâm chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Qua đây em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tiến sĩ Nguyễn Thị Hường,các thầy cô giáo, các cô chú phòng xuất nhập khẩu Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. I – Khái niệm và Vai trò hoạt động xuất khẩu. 1. Khái niệm. Xuất khẩu là việc bán hàng cho người nước ngoài và các dịch vụ kèm theo việc bán hàng hoá, xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất khẩu, đó là việc bán sản phẩm hàng hoá trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong một không gian vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá được vận chuyển ra ngoài biên giới quốc gia (trừ một số trường hợp đặc biệt). Do vậy, các quốc gia khi tham gia vào hoạt động buôn bán giao dịch quốc tế đều phải tuân theo các thông lệ quốc tế hiện hành. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia. a) Đối với nền kinh tế quốc dân. Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu của họ cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc gia chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư va người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ. Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: - Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thê nhờ quy mô. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó. + Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới. + Xuất khẩu cần có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần. - Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa: Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không cơ cơ hội phát triển. Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. b) Đối với doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng... Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của Công ty. Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, masketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia. II.Các Hình thức xuất khẩu chủ yếu . Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu... Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu chủ yếu sau: 1. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp: Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến). Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì các doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá. Khi tiến hành theo hình thức xuất khẩu trực tiếp, doanh nghiệp ngoại thương có thể căn cứ vào nguồn hàng, vào khách hàng, đó là: - Doanh nghiệp có thể tiến hành thu gom hàng hoá trước sau khi tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng. Cách này chỉ nên áp dụng cho trường hợp nguồn hàng khó khăn và đầu ra chắc chắn. - Doanh nghiệp có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng nước ngoài trước, sau đó tiến hành thu gom hàng tại các đơn vị chân hàng trong nước. Nói chung đây là cách các doanh nghiệp thường thực hiện vì đầu ra hiện nay khó khăn và khả năng tài chính của các đơn vị còn hạn chế. 2. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác: Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ còn nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh. Doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện hình thức xuất khẩu uỷ thác theo các bước sau: - Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị trong nước có hàng hoá xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. Sau đó tiến hành giao hàng và thực hiện thanh toán tiền hàng. - Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị uỷ thác. Trong thực tế, doanh nghiệp ngoại thương cũng có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với nước ngoài, sau đó tiến hành ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị có hàng trong nước. Hình thức xuất khẩu uỷ thác có thể áp dụng khi doanh nghiệp thiếu hàng cho khách hàng và các đơn vị cung cấp không muốn bán hàng cho doanh nghiệp mà họ chỉ muốn doanh nghiệp làm vai trò trung gian. 3. Buôn bán đối lưu: 3.1. Khái niệm: Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương, ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì những đặc điểm này người ta gọi hình thức này là xuất nhập khẩu liên kết hoặc phương thức đổi hàng. 3.2. Các loại hình buôn đối lưu. -Nghiệp vụ hàng đổi hàng:Hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. -Trong nghiệp vụ bù trừ : Hai bên đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sổ sách, đối chiếu giữa giá trị hàng hoá giao với giá trị hàng hoá nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Trong nghiệp vụ bù trừ có các loại hình sau: - Bù trừ theo nghĩa thực của nó. - Bù trừ trước. - Bù trừ song hành. -Trong nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ :Bên nhập khẩu hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ 3. Nghiệp vụ này bảo đảm cho các công nghiệp khi nhận hàng đối lưu không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình có thể bán hàng đó đi. Nghiệp vụ buôn bán đối lưu này doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. -Trong giao dịch bồi hoàn : Người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu hệ trong đầu tư hoặc giúp đỡ bàn sản phẩm). Giao dịch bồi hoàn hiện nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng buôn bán đối lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. 4. Đấu giá quốc tế: 4.1. Khái niệm. Đấu giá quốc tế là một phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua tự do cạnh tranh giá cả và cuối cùng, hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất. 4.2.Cách thức tiến hành. - Chuẩn bị đấu giá, bao gồm: + Chuẩn bị hàng hoá: hàng được phân thành từng lô căn cứ theo chất lượng, kích cỡ của chúng. + Xây dựng thể lệ đấu giá: trong đó, người ta thường quy định về trách nhiệm của người mua phải xem hàng trước (người bán không chịu trách nhiệm về phẩm chất hàng), về khoản tiền ký quỹ khi tham dự đấu ta, về mức mặc cả đặt giá... + in ca-ta-lô về những lô hàng sẽ đem ra đấu giá. + Đăng quảng cáo để thông báo về ngày, giờ, địa điểm tiến hành, số lượng mặt hàng đấu giá, thể lệ đấu giá... - Trưng bày hàng hoá để người mua không xem hàng thì sau này cũng mất quyền khiếu nại về chất lượng hàng. - Tiến hành đấu giá: nơi bán đấu giá thường có hình thức của một hội trường. Trên bục cao, nhân viên đấu giá điều khiển cuộc đấu giá với tư cách đại diện cho bên bán. Cuộc đấu giá tiến hành theo một trong hai phương pháp sau: + Phương pháp nâng giá: nhân viên đấu giá nên giá khởi điểm thấp nhất của lô hàng, sau đó khách hàng có mặt nâng giá dẫn theo một mức mặc cả quy định. + Phương pháp hạ giá: nhân viên đấu giá nêu giá khởi điểm cao nhất rồi hạ giá dẫn tới khi có người đồng ý mua. - Ký kết hợp đồng và giao hàng: sau cuộc đấu giá người thắng cuộc đến Ban Tổ chức ký kết hợp đồng và trả một phần tiền hàng. Sau một thời gian ngắn thường từ 3 đến 14 ngày người mua phải trả tiền nốt và lấy hàng đi. 5. Giao dịch tái xuất. 5.1. Khái niệm. Tái xuất là xuất khẩu những hàng hoá ngoại quốc từ kho hải quan, chưa qua chế biến ở nước mình. Hay tái xuất là lại xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giai đoạn này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. 5.2. Các loại hình tái xuất. Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: - Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền cả nước nhập khẩu. - Chuyển khẩu, trong đó hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước nhập khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. 5.3. Ký kết hợp đồng tái xuất. Người kinh doanh tái xuất thường ký một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Hai hợp đồng này về cơ bản không khác những hợp đồng xuất nhập khẩu thông thường, song chúng có liên quan mật thiết với nhau. Chúng thường phù hợp với nhau về hàng hoá, bao bì, mẫu hiệu, nhiều khi cả về thời gian giao hàng và các chứng từ hàng hoá. Việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu phải tạo cơ sở đầy đủ và chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tí xuất quy định dùng phương thức thư tín dụng giáp lưng (back to back L/C). Người tái xuất thường có dàn xếp để chậm trả tiền hàng nhập và nhanh chóng thu tiền hàng xuất. Nhờ những biện pháp đó, người tái xuất thu được cả lợi tức về tiền hàng trong khoảng thời gian chênh lệch. Như vậy, có thể có rất nhiều các hình thức xuất khẩu khác nhau. Các doanh nghiệp ngoại thương nên lựa chọn thực hiện các hình thức xuất khẩu phù hợp với doanh nghiệp mình. Chủ trương là tận dụng tối đa khả năng sẵn có cũng như tăng khả năng đó để da dạng hoá các loại hình xuất khẩu hàng hoá. III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp. Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như các bước tiến hành có những nét đặc trưng riêng. song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thì nộ dung cơ bản có thể được thực hiện theo các bước sau. 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu . a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới, lựa chọn bạn hàng giao dịch: a.1 Nhận biết mặt hàng xuất khẩu. Việc nhận biết mặt hàng đề xuất khẩu, trước tiến phải dựa vào nhu cầu của người sản xuất và tiêu dùng về quy cách phẩm chất, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu tập quán của từng vùng từng lĩnh vực sản xuất. Về khía cạnh thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng, các đặc tính của nó, quy cách phẩm chất mẫu mã. Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ, phục vụ cho hàng hoá như bảo hành, cung cấp phụ tùng, sửa chữa thiết bị, hướng dẫn sử dụng. Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, phải tính đến tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu là số lượng bản tệ phải chi ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất tính ra lớn hơn tỷ giá hối đoái thì không thể xuất khẩu được. a.2 Nghiên cứu dung lượng của thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng và khu vực, từng lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm: Việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Một vấn đề cũng cần được quan tâm, nắm bắt đó là tính chất thời vụ của sản xuất (cung) và tiêu dùng (cầu) hàng hoá trên thị trường thế giới để có biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn bảo đảm cho việc xuất nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có thể chia ra làm 3 loại sau: Loại 1: Là các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ. Đó là sự khủng hoảng có tính chất chu kỳ của kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Loại 2: Là nhân tố tiến bộ khoa học - kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế. Loại 3: Là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, bão lụt và hạn hán, động đất, các yếu tố về chính trị - xã hội như đình công... a.3 Lựa chọn đối tượng giao dịch. Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến cung cấp hàng hoá. Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch dựa trên cơ sở nghiên cứu: Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt hàng và liên kết kinh doanh. Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán. Thái độ và quan điểm kinh doanh là vươn tới chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh. Tìm hiểu uy tín và quan hệ trong kinh doanh cũng là một điều kiện quan trọng cho phép đi đến những quyết định trong mua bán một cách nhanh chóng và cơ hiệu quả hơn. Lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất nên chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian. Song trong một số trường hợp như muốn thâm nhập vào một thị trường mới tới tư cách đại lý, môi giới là rất có hiệu quả. Hoặc cũng có một số mặt hàng do đặc tính kinh doanh hay truyền thống kinh doanh thì sử dụng trung gian có nhiều ưu thế trong việc nắm bắt các thông tin về hàng hoá, thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung là hết sức cần thiết và quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để nghiên cứu thị trường nước ngoài có thể áp dụng nhiều biện pháp như sử dụng các loại báo chí, ấn phẩm hay nghiên cứu trực tiếp ở thị trường. b) Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế quốc dân như mối quan hệ giữa cung và cầu về hàng hoá, tích luỹ - tiêu dùng, công nghiệp, nông nghiệp. Giá cả luôn gắn liền với thị trường, là một yếu tố cầu thành thị trường. Giá cả thị trường luôn biến động và chịu tác động của nhiều nhân tố. Giá cả có thể gồm các yếu tố: Giá trị hàng hoá đơn thuần, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo từng bước giao dịch và sự thoả thuận của các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm, các loại giá trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Một số nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường hàng hoá thế giới: - Nhân tố chu kỳ: Là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế. - Nhân tố lũng đoạn của các công ty siêu quốc gia: Thị trường thế giới có giá lũng đoạn cao và lũng đoạn thấp. Giá lũng đoạn cao là giá bán sản phẩm công nghiệp của những nhà tư bản ở những nước phát triển, giá lũng đoạn thấp là giá bán ở những loại hàng nguyên liệu của những nước kém phát triển. - Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo các xu hướng khác nhau, nó phụ thuộc vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay bán. Cạnh tranh giữa người bán với nhau xảy ra khi lượng cung trên thị trường cao hơn lượng cầu, kết quả là giá sẽ giảm xuống. Cạnh tranh giữa người mua với nhau xảy ra khi lượng cầu trên thị trường cao hơn lượng cung, kết quả là làm cho giá tăng lên. - Nhân tố cung cầu: Nếu cung vượt quá cầu thì sẽ thúc đẩy xu hướng giảm giá và ngược lại. - Nhân tố lạm phát: Trên thị trường thế giới, giá cả được biểu hiện bằng đồng tiền của những nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch quốc tế. Giá cả của những đồng tiền này cũng luôn thay đổi và việc thay đổi ấy gắn liền với lạm phát. - Nhân tố thời vụ: Là nhân tố luôn tác động với xu hướng biến động giá, nhất là những loại hàng hoá có tính chất sản xuất hoặc tiêu dùng mang tính thời vụ. 2. Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Cơ sở để thực hiện thu gom hàng xuất khẩu là hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu với các chân hàng. Những loại hợp đồng kinh tế thường được sử dụng để huy động hàng xuất khẩu là: a) Thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký hợp đồng: Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, cỡ loại, có ghi rõ số lượng, thời gian giao hàng. Lập đơn hàng phải đảm bảo chính xác về số lượng, thời gian giao hàng. Muốn lập được đơn hàng, phải xác định được nhu cầu của khách hàng, phải nắm được khả năng sản xuất của các đơn vị có nguồn hàng. b) Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng: Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên đạt được những thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được luật bảo vệ. Tuỳ theo đặc điểm của các quan hệ giao dịch và đối tượng giao dịch, mà người ta áp dụng các loại hợp đồng trong thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. - Hợp đồng mua đứt bán đoạn, là hợp đồng mà người mua nhận hàng và trả tiền, còn người bán giao hàng và nhận tiền. - Hợp đồng gia công, là loại hợp đồng mà người gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm, nhận sản phẩm và trả phí gia công. Còn người nhận gia công nhận nguyên liệu hoặc bán thành phẩm, gia công, trả thành phẩm và nhận phí gia công. - Hợp đồng hàng đổi hàng: Đơn vị ngoại thương giao một hàng để đổi lấy hàng khác phù hợp với yêu cầu xuất khẩu. c) Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng: Là hình thức mua bán "trao tay", sau khi người bán giao hàng, nhận tiền và người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán. Đây là hình thức mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường chủ yếu là những hàng nông sản chưa qua sơ chế. Hình thức này nhằm bổ sung cho các nguồn khác khi chưa có đủ số lượng hàng xuất khẩu. Nhưng chất lượng hàng thu mua theo hình thức này không đồng đều, không cao. d) Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất: Liên doanh, liên kết để sản xuất hàng xuất khẩu, là hình thức doanh nghiệp ngoại thương đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho doanh nghiệp sản xuất, sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Vốn có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tín dụng cho vay. Trong đó, với hình thức tín dụng cho vay doanh nghiệp ngoại thương có cơ sở hoạch toán lỗ lãi đồng thời tăng thêm tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất. e) Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua các đại lý để làm công tác thu mua hàng: - Đại lý toàn quyền: Là đại lý có toàn quyền giải quyết mọi quan hệ mua bán. - Đại lý đặc biệt: Là đại lý chỉ được giao một số quyền mua một lô hàng, một mặt hàng. - Tổng đại lý: Là người được uỷ quyền làm một phần việc nhất định của người uỷ thác. - Đại lý thu uỷ: Là người được chỉ định để hành động thay cho người uỷ thác, với danh nghĩa và chi phí của người uỷ thác. - Đại lý hoa hồng: Là người được uỷ thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình, nhưng với chi phí của người uỷ thác. - Đại lý kinh tiêu: Là người đại lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao của người này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. f) Hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu: Đơn vị ngoại thương nhận hàng thay mặt cho đơn vị có hàng xuất khẩu, ký kết hợp đồng xuất khẩu những mặt hàng được uỷ thác và trên cơ sở đó nhận một khoản thù lao, gọi là phí uỷ thác xuất khẩu. 3. Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. a) Đàm phán hợp đồng xuất khẩu: Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Thường người ta dùng các hình thức sau: - Đàm phán qua thư tín. - Đàm phán qua điện thoại. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. b) Ký két hợp đồng ._.xuất khẩu: Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương có thể thực hiện bằng một trong các hình thức sau: - Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản). - Người xác nhận bằng văn bản là người mua đã đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết. - Người bán xác nhận bằng văn bản chấp nhận đơn đặt hàng của người mua. - Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều kiện thoả thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều kiện đã đạt được thoả thuận). Trước khi ký cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết. Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo, trước khi ký kết bên kia phải xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán. Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành của nước bán hoặc nước mua. Người đứng ra ký kết phải đúng là người có thẩm quyền. Ngôn ngữ hợp đồng nên là ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng, doanh nghiệp cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm, cố gắng không thể xẩy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc. Thông thường trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Sơ đồ: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Thuê tàu Chuẩn bị hàng hoá Ký hợp đồng XK Xin giấy phép XK Kiểm tra L/C Kiểm tra hàng hoá Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục hải quan Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại (nếu có) Đây là trình tự những công việc chung nhất, cần tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng có thể bỏ qua một vài công đoạn. a) Xin giấy phép xuất (nhập) khẩu: Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép xuất (nhập) khẩu, doanh nghiệp phải trình những hồ sơ gồm: - Hợp đồng xuất (nhập) khẩu. - Phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch). - Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu (nếu là trường hợp xuất nhập khẩu uỷ thác). - Giấy báo trúng thầu của Bộ Tài chính (nếu là hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài)... b) Chuẩn bị hàng để giao: Để thực hiện cam kết, chủ hàng phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất theo ba khâu chủ yếu sau: - Thu gom tập trung thành từng lô hàng xuất khẩu. Chủ hàng phải chủ động tìm kiếm và thu gom các nguồn hàng để được những lô hàng cần thiết phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng đã ký. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. Chủ hàng phải lựa chọn bao bì đóng gói phù hợp với hàng hoá vật tư, phù hợp với các quy cách đã cam kết trong hợp đồng. Lựa chọn bao bì phải tính đến những điều kiện về khí hậu, vận tải, luật pháp, thuế quan và chi phí vận chuyển. Bao bì đóng gói phải đáp ứng được các yêu cầu về thẩm mỹ, an toàn chi phí thấp. - Kẻ mã ký hiệu hàng hoá. Mã ký hiệu hàng hoá phải ghi rõ ràng bằng sơn hoặc mực không phai, ghi đúng địa chỉ, ghi đủ và lưu ý cả ký hiệu cần thiết (tránh ẩm, tránh nắng, dễ vỡ...). Tuân thủ nguyên tắc: dễ làm, dễ thấy, dễ viết, dễ kiểm tra. Không ảnh hưởng đến chất lượng, mùi vị hàng hoá vật tư. c) Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu: Trước khi giao hàng, người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất số lượng, trọng lượng, bao bì (tức kiểm nghiệm do tổ chức kiểm tra chất lượng, sản phẩm KCS tiến hành) hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động vật, thực vật thì còn phải qua kiểm dịch ở cấp cơ sở, phòng bảo vệ động thực vật (quận, huyện hoặc nông trường) kiểm tra ở cấp cửa khẩu do chi nhánh hoặc các trung tâm thuộc cơ quan Trung ương tiến hành, thông thường chậm nhất là 7 ngày trước khi bốc hàng lên tàu, người xuất khẩu phải khai báo cho các cơ quan liên quan, sắp xếp hàng hoá thuận tiện để kiểm tra. d) Thuê tàu lưu cước: Việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào những điều khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm của hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải. Tuỳ theo điều kiện cơ sở giao hàng mà người mua (nếu là FOB) hay người bán (nếu là CIF hoặc C and F) phải thuê tàu. Tàu thuê có thể là tàu chợ hay tàu chuyến nhưng đều phải ký hợp đồng vận tải. Chủ hàng xuất khẩu cũng có thể uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải, khi đó hợp đồng uỷ thác thuê tàu phải được thiết lập. e) Mua bảo hiểm. Do hợp đồng quy định mà người mua hay người bán phải mua bảo hiểm. Hiện nay trên thế giới người ta áp dụng rộng rãi điều khoản bảo hiểm Luân Đôn (áp dụng từ ngày 01/01/1982), gồm: Điều kiện A (ICCA), B B(ICCB), C(ICCC), điều kiện bảo hiểm chiến tranh, điều kiện bảo hiểm đình công. Việt Nam chỉ áp dụng ba điều kiện A,B,C. Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa vào các căn cứ sau: - Điều khoản hợp đồng: Chẳng hạn khi bán CLF, chúng ta chỉ mua bảo hiểm theo điều kiện "C". - Tính chất hàng hoá. - Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng. - Loại tàu chuyên chở. - Tình hình chính trị xã hội... Tuỳ theo kế hoạch chuyên chở mà mua bảo hiểm năm hay chuyến, trả tiền và lấy giấy bảo hiểm cho phù hợp. f) Làm thủ tục hải quan: f.1 Làm thủ tục xuất khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan hải quan địa phương. Chủ hàng xuất khẩu làm giấy khai hải quan gồm: Giấy phép xuất khẩu; bản sao hợp đồng hoặc L/C; Hoá đơn để tính thuế; bảng kê chi tiết hàng hoá. f.2 Kê khai tại kho hàng: Chủ hàng phải sắp xếp hàng hoá thuận tiện cho kiểm tra cung cấp nhân công và dụng cụ đóng mở hàng hoá. Hải quan phải đối chiếu hàng hoá khai trên giấy tờ với thực tế. f.3 Quyết định xử lý của hải quan. Sau khi kiểm tra, đối chiếu, cán bộ hải quan sẽ quyết định xử lý. g) Giao nhận hàng hoá với tàu. Nắm vững chi tiết hàng hoá và nộp bản đăng ký hàng chuyên chở gồm: - Tên hàng, ký mã hiệu, số lượng, trọng lượng, kích thước, bao bì, tên địa chỉ người nhận, trao bản đăng ký này cho chủ tàu để đổi lấy hồ sơ xếp hàng. - Theo dõi thường xuyên để biết ngày giờ đến lượt tàu mình. - Xem xét và đưa hàng vào cảng. - Bốc hàng lên tàu dưới sự giám sát của hải quan và kiểm nghiệm. - Đổi lấy vận đơn hoàn hảo. h) Làm thủ tục thanh toán: Thanh toán trong xuất nhập khẩu là khâu rất quan trọng. Thanh toán là bước đảm bảo cho nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thu được tiền về và nhận được hàng hoá. Thanh toán trong xuất nhập khẩu có thể được hiểu là việc chi trả những khoản ngoại tệ, tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế. Vì vậy việc thanh toán trong xuất nhập khẩu cần phải xét đến các vấn đề như: Tỷ giá hối đoái; tiền tệ trong thanh toán quốc tế, thời hạn thanh toán; các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế; các điều kiện đảm bảo hối đoái và các điều kiện đảm bảo tín dụng. Khi làm thủ tục thanh toán cũng cần xem xét: - Nếu hợp đồng thanh toán bằng L/C thì nhà xuất khẩu phải đôn đốc người nhập khẩu mở L/C đúng hạn. Khi nhận được L/C phải tiến hành kiểm tra về ngân hàng mở L/C, số tiền trong L/C, thời hạn hiệu lực của L/C và đối chiếu với hợp đồng các điều khoản khác. Nếu L/C không đáp ứng đủ các yêu cầu cần đặt ra thì cần yêu cầu nhà nhập khẩu sửa đổi lại rồi mới giao hàng. Chứng từ thanh toán phải quán triệt những nguyên tắc: nhanh chóng, chính xác, phù hợp với những yêu cầu của L/C cả về hình thức lẫn nội dung. - Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng việc đòi tiền. Chứng từ thanh toán cần lập hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu hồi vốn nhanh. i) Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có): Khi thực hiện hợp đồng, nếu chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường thì cần có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng. Việc giải quyết phải khẩn trương, kịp thời và có tình có lý. Nếu khiếu nại của khách hàng là có cơ sở thì nhà xuất khẩu có thể giải quyết bằng cách: Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng; sửa chữa hàng hỏng; giao bù hàng thiếu. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau ra hội đồng trọng tài hoặc toà án kinh tế... là kết quả xác nhận các bước thực hiện hợp đồng nên rất có ý nghĩa trong việc thanh, quyết toán, trong việc giải quyết tranh chấp khiếu nại. IV- Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu. 1. Các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô. a) Thuế quan: Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu, nó làm tăng tương đối giá của hàng xuất khẩu so với giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. Nhìn chung, công cụ này chỉ được các nước áp dụng đối với một số ít các mặt hàng xuất khẩu bổ sung cho nguồn thu của ngân sách Nhà nước. b) Các công cụ phi thuế quan: Chính phủ sử dụng công cụ phi thuế quan xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh hang xuất khẩu có hiệu quả. Hơn thế nữa có thể bảo hộ sản xuất trong nước về tài nguyên thiên nhiên và cải thiện cán cân thanh toán. - Hạn ngạch là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu từ thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua các hình thức cấp giấy phép. - Các tiêu chuẩn về sản phẩm như các tiêu chuẩn về chất lượng, tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn về kỹ thuật... c) Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan: Tỷ giá hối đoái duy trì ở mức thấp và tương đối ổn định sẽ có lợi cho xuất khẩu, còn ngược lại sẽ chỉ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng được Nhà nước khuyến khích. Trợ cấp xuất khẩu thể hiện dưới các hình thức như: miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay để sản xuất hàng xuất khẩu, cho nước ngoài vay ưu đãi để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình... Nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh trong nước hướng ra thị trường nước ngoài thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế có tính chất bảo hộ đối với ngành được ưu đãi và tranh thủ quy định hạn ngạch nhập khẩu. Lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cũng phải giữ ở mức độ phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thống nhất với tất cả các mặt hàng. d) Chính sách cân đối với cán cân thanh toán và thương mại: Trong hoạt động kinh tế thương mại, giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Nhưng không phải bằng cách hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn để giữ cho cán cân thanh toán cân bằng. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời mở rộng quy mô xuất khẩu và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng đến những mặt hàng chủ lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất khẩu. Vậy là, vô hình chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. 2. Các quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng, các mối quan hệ kinh tế quốc tế có tác động ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Khi xuất khẩu hàng hoá sang một nước nào đó, người nhập khẩu thường phải đối mặt với những rào cản thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Các rào cản này lỏng hay chặt là phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ song phương giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu. Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, các hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các nước, các khối liên minh kinh tế liên tục được ký kết với mục tiêu xoá bỏ, giảm bớt hàng rào thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực vào toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào những liên minh kinh tế và hiệp định thương mại ấy thì đó sẽ là tác nhân tích cực đảy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Ngược lại, nó sẽ trở thành rào chắn đối với việc thâm nhập thị trường nước ngoài của hàng hoá nước đó. 3. Các yếu tố khoa học công nghệ. Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự ra đời của thương mại điện tử, hoạt động xuất khẩu hàng hoá ngày càng phát triển và ngày càng hiệu quả hơn. Điều này thể hiện rất rõ ràng, chẳng hạn như các đơn vị ngoại thương có thể giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng trực tiếp với khách hàng thông qua mang Internet hay qua điện thoại, điện tín... làm giảm bớt chi phí đi lại, chi phí giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng và các chi phí khác. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng... Đó cũng là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. 4. Các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp. Đây là nhân tố thuộc về bản than doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể tác động làm thay đổi nó để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Có thể kể đến các nhân tố sau: - Trình độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp: Đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban giám đốc công ty cho phép công ty có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình. -Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh trong doanh nghiệp: Cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công việc của quá trình xuất khẩu hàng hoá. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả kinh doanh của toàn công ty. - Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả năng huy động vốn của công ty. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở rộng các khả năng khác của công ty, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của công ty. IV. Đặc điểm của thị trường thế giới về mặt hàng súc sản. 1. Đặc điểm của mặt hàng súc sản. Bất kỳ một loại hàng hoá nào đều có những đặc điểm riêng biệt của chúng, chính đặc điểm này làm cho chúng ta phân biệt được giữa loại hàng hoá này với loại hàng hoá khác. Hàng súc sản là loại hàng thực phẩm nên nó hội đủ các đặc điểm chính như dễ tiêu huỷ, bảo quan khó, không thích hợp với nhiệt độ cao… Chính vì vậy, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng súc sản cần phải chú ý đến những đặc điểm riêng biệt của nó từ đó đưa ra những giải pháp kinh tế hiệu quả cho doanh nghiệp, nhưng khi xuất khẩu hàng súc sản doanh nghiệp phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn kiểm dịch và vệ sinh thực phẩm. Để đạt được điều này thì doanh nghiệp phải hiểu biết về đặc điểm của mặt hàng này để bảo quản đạt kết quả cao. Nếu bảo quản không đúng qui cách nó sẽ gây ra nhiều bệnh dịch lây lan hoặc không đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng. Điều này có quan hệ rất lớn đến hoạt động xuất khẩu hàng súc sản. Vì thế khi kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng súc sản xuất doanh nghiệp cần đảm bảo được vệ sinh an toàn thực phẩm, nếu không đáp ứng được điều đó sẽ rất khó đứng được trên thị trường xuất khẩu. Bởi hai lý do chính sau: - Do chính sách bảo hộ người tiêu dùng trong nước của Chính phủ nước nhập khẩu. - Mặc dù đã có kiểm dịch nhưng tâm lý người tiêu dùng lo âu về bệnh dịch sẽ lây lan của gia súc đối với họ. 2. Tình hình thị trường thế giới về mặt hàng súc sản. Mặt hàng súc sản là mặt hàng thực phẩm nên nó chịu rất nhiều tác động của tình hình cung cầu trên thị trường. Nó chịu tác động của các yếu tố kinh tế khác như tỷ giá hối đoái hạn ngạch ,thuế quan,chính sách bảo hộ,kiểm dịch,môi trường luật pháp,văn hoá… Khi các nước xuất khẩu mặt hàng súc sản này không lường hết được những biến động của thị trường thường gây nên hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Như trên thị trường Thế giới vừa qua có cuộc khủng hoảng bò điên,bệnh lỡ mồm long móng ở các đàn gia súc,nạn dịch lây lan giữa các đàn gia súc đã dẫn đến những thiệt hại vô cùng to lớn của các nhà xuất khẩu mặt hàng súc sản này. ở Việt Nam cũng chính cuộc khủng hoảng bò điên,nạn dịch lây lan giữa các đàn gia súc tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu làm thiệt hại rất lớn đối với ngành chăn nuôi Việt Nam ,chính vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam thời gian 1998-2000 .ở Anh,Pháp và một số nước khác có khối lượng hàng súc sản xuất khẩu lớn, bị ảnh hưởng làm thiệt hại hàng 100 triệu USD.Chính vì cuộc khủng hoảng này,khối lượng tiêu thụ sản phẩm hàng súc sản ở các nước có mức tiêu dùng bình quân đầu người về mặt hàng súc sản giảm rõ rệt. -Năm 1997: +ở Nga bình quân đầu người tiêu thụ thịt lợn là 42kg/người/năm,thịt bò là 37kg/người/năm;thịt dê là12 kg/người/năm. +ở Nhật bình quân đầu người tiêu thụ thịt lợn là 45 kg/người/năm;thịt bò là 40 kg/người/năm;thịt dê là 10 kg/người/năm. ở Trung Quốc bình quân đầu người tiêu thụ thịt lợn là 38 kg/người/năm;thịt bò là 36 kg/người/năm. -Năm 1998: +ở Nga : Thịt lợn:34kg/người/năm;Thịt bò :30 kg/người/năm;Thịt dê:8 kg/người/năm. + ở Nhật: Thịt lợn:39 kg/người/năm;Thịt bò:32 kg/người/năm;Thịt dê:10 kg/người/năm. + ở Trung quốc: Thịt lợn: 43kg/người/năm;Thịt bò30 kg/người/năm. Không những cuộc khủng hoảng này đã làm ảnh hưởng đến khối lượng thịt gia súc bình quân đầu người giảm rõ rệt,mà nó còn làm cho giá cả mặt hàng này cũng giảm theo.Đây là do nguyên nhân của cuộc khủng hoảng làm ảnh hưởng làm cho tâm lý người tiêu dùng không tin tưởng vào chât lượng hàng hoá này. Tóm lại,mặt hàng súc sản là mặt hàng thực phẩm nên nó chịu rất nhiều tác động của nền kinh tế,rất dễ biến động theo các uếy tố kinh tế và môi trường xung quanh. Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này cần chú ý đến những biến động rất nhỏ của thị trường để đưa ra những quyết định chính xác có hiệu quả. Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. I.Khái quát về Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. 1. Sơ lược về Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. Tên doanh nghiệp:Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. Tên giao dịch tiếng Anh:Viet Nam National Livestock Corporation. Tên viết tắt:VINALIVESCO. Tổng công ty được thành lập vào tháng 6năm 1996,căn cứ luật doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo lệnh số 39L/CTN ngày 30/04/1995 của chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên Tổng công ty xuất nhập khẩu súc sản và gia cầm thành Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam,có bổ sung thêm chức năng sản xuất và chăn nuôi vào hoạt động chính của công ty. Quyết định thành lập Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại: Tổng công ty xuất nhập khẩu súc sản và gia cầm. Liên hiệp xí nghiệp gia cầm Việt Nam. Công ty gia súc và thức ăn gia súc khu vực I. Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc. Công ty chăn bò thịt sữa. Công ty trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn,có trụ sở chính đặt tại số 519 phó Minh Khai,phường Vĩnh Tuy,quận Hai Bà Trưng,thanh phố Hà Nội. Tổng công ty được đặt các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh,Hải Phòng,Đà Nẵng và nước ngoài phù hợp với luật pháp Việt Nam. Điện thoại :8.626763-8.621688-8.624011 Tel:411553 VINALIVESCOVT Fax:84.4.8623645-84.4.623183 Tài khoản tiền Việt Nam (VND):01_100025-011-011/64 VETNAMCREDITLYONNAIS-10 Tràng Thi,Hà Nội. Tài khoản ngoại tệ (USD):01-100025-010-000/64 VIETNAM CREDIT LIONNAIS-10 Tràng Thi,Hà nội. Lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty gồm các lĩnh vực chính sau: Xuất nhập khẩu gia súc và gia cầm. Sản xuất và chăn nuôi gia súc và gia cầm. Chế biến súc sản và gia cầm xuất khẩu. Thị trường xuất nhập khẩu của Tổng công ty gồm:Nga,Pháp ,Hồng Kông,Thái Lan,Singapor,Nam Triều Tiên,Đài Loan,Nhật Bản… Tiền thân của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam là Tổng công ty xuất nhập khẩu súc sản và gia cầm Việt Nam (ANIMEX) thành lập từ năm 1997 với chức năng chủ yếu giúp Nhà nước hoàn thành hợp đồng xuất nhập khẩu theo kế hoach,thị trường chủ yếu là thị trường Nga.Trong suốt thời kỳ từ năm 1979 đến năm 1993,Tổng công ty xuất nhập khẩu gia súc và gia cầmViệt Nam hoạt động dưới sự chỉ đạo của Nhà nước về kế hoạch xuất nhập khẩu trực tiếp sang các thị trường.Tuy nhiên ,trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu thì hàng do Nhà nước giao vẫn còn chiếm phần trăm đáng kể. Tháng 6 năm 1996 ,ANIMEX sát nhập với một số các công ty khác để hình thành Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam.Từ năm 1998,nền kinh tế thế giới,khu vực và trong nước gặp nhiều khó khăn (Nga,Nhật và các nước Đông Nam á),những thị trường nhập khẩu lớn của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực Đông Nam á,đồng tiền bị phá giá,hệ thống ngân hàng bị rối loạn,hoạt động thanh toán bị đình trệ.Vìvậy các chỉ tiêu phát triển của Tổng công ty không đạt được như dự kiến ban đầu. 2.Chức năng và nhiệm vụ. a.chức năng: Tham gia xây dựng quy hoạch,kế hoạch ngành chăn nuôi. Cung ứng dịch vụ chăn nuôi gia súc và gia cầm. Tổ chức sản xuất , chăn nuốiản xuất và chế biến thức ăn chăn nuôi. Kinh doanh xuất nhập khẩu ,bán buôn,ban lẻ các sản phẩm chăn nuôi,thức ăn chăn nuôi và các vật tư liên quan đến nghành chăn nuôi. b.Nhiệm vụ: Chăn nuôi gia súc,gia cầm và các hoạt động khác.Sản xuất chế biến kinh doanh nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi. Sản xuất chế biến kinh doanh bán buôn,bán lẻ các sản phẩm chăn nuôi và thực phẩm bao gồm cả đồ uống và rau quả,các mặt hàng nông,lâm,thuỷ,hải sản khác. Sản xuất cung ứng dịch vụ chăn nuôi,chuyển giao kỹ thuật tiến bộ,vật tư thiết bị,bao bì,máy móc,dược phẩm và hoá chất các loại.Trồng trọt cây làm thức ăn chăn nuôi,cây lương thực ,cây ăn quả,cây công nghiệp và môi sinh. Trực tiếp xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi,nông,lâm,thuỷ hải sản,công nghệ thực phẩm các loại máy móc thiết bị chuyên dụng,phương tiện vận tải dùng trong chăn nuôi. Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ về những vấn đề có liên quan đến công nghiệp hoá và hiện đaị hoá nghành chăn nuôi. Tư vấn và đầu tư phát triển chăn nuôi,đào tạo bồi dưỡng cán bộ,nhân viên,công nhân kỹ thuật chăn nuôi. Hợp tác liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế,các cơ quan khoa học đào tạo trong và ngoài nước để sản xuất kinh doanh nghành chăn nuôi. c.Quyền hạn: Tổng công ty có tư cách pháp nhân,có điều lệ tổ chức,hoạt động,có bộ máy quản lý,điều hành,có con dấu riêng. Tổng công ty có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh,chủ động hợp tác liên doanh,liên kết với các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước . Tổng công ty có quyền lựa chọn tìm kiếm bạn hàng,lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp. Tổng công ty có quyền quyết định mục tiêu,nội dung phương hướng hoạt động phát triển công ty. Tổng công ty có quyền được mở tài khoản riêng tại kho bạc Nhà nước và các ngân hàng trong và ngoaì nước theo quy điịnh của pháp luật. d.Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận,giữa các bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau,được phân thành các khâu và các cấp quản lý với những chức năng và quyền hạn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Sơ đồ1: cơ cấu tổ chức của tổng công ty chăn nuôi việt nam. Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc kinh doanh Phó tổng giám đốc về gia cầm Phó tổng giám đốc về gia súc Phó tổng giám đốc phụ trách phía Nam Phòng hành chính Phòng XNK 1 Chi nhánh TP HCM Phòng tổ chức cán bộ Chi nhánh Đà Nẵng Phòng XNK 2 Phòng kế toán tài chính Phòng XNK 3 Chi nhánh Hải Phòng Phòng kỹ thuật Phòng XNK 4 II. Tình hình xuất khẩu hàng súc sản của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam thời gian qua. 1.Kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản của Tổng công ty . Tháng 6 năm 1996,ANIMEX xát nhập với một số công ty khác hình thành Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam,hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu dựa trên nền tảng đã có trước đây.Năm 1997là năm đầu tiên Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam hoạt động kinh doanh đã đạt được kế quả đáng khích lệ,kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản tăng đáng kể so với Tổng công ty xuất nhập khẩu súc sản và gia cầmViệt nam (ANIMEX) và cũng là năm đạt kết quả cao nhất so với các năm1998,1999,2000. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản. Năm 1997 1998 1999 2000 Khối lượng (Tấn) 6.542 3.827 4.936 4.787 Kim ngạch xuất khẩu (Nghìn đồng) 12.952.000 5.248.700 6.345.610 6.046.561 Nguồn: Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. So với năm 1997,khối lượng hàng súc sản xuất khẩu giảm mạnh qua các năm. Cụ thể năm 1998 khối lượng giảm 2715 tấnso với năm 1997, năm 1999 kém hơn năm 1997 là 1.109 tấn.Năm 2000 giảm 149 tấn so với năm 1999 và ít hơn năm 1997 là 1.755 tấn nhưng ở mức cao hơn năm 1998. Như vậy năm 1998 là năm có khối lượng kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản là thấp nhất và chỉ đạt 29% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản của Tổng công ty đã tăng lên nhưng năm 2000 lại giảm sút mặc dù tăng trưởng kinh tế của cả nước ta vẫn đạt ở mức cao. Giá cả mặt hàng này trên thị trường thế giới trong hai năm1999-2000 chỉ biến động nhỏ, không đáng kể. Điều đó chứng tỏ rằng mặt hàng súc sản trong thời gian qua không phải là mặt hàng nhà nước quan tâm, ưu tiên phát triển. Nhà nước chỉ quan tâm ưu tiên phát triển một số ngành mũi nhọn có tiềm lực kinh tế mạnh theo định hướng chiến lược dài hạn đã định. Vì vậy, muốn đứng vững được trong nền kinh tế thị trường ngày nay, Tổng công ty phải tự đứng trên đôi chân của chính mình chứ không thể chỉ dựa vào những “nghị định thư” của chính phủ 2. Cơ cấu hàng súc sản xuất khẩu của Tổng công ty. - Về các mặt hàng súc sản xuất khẩu tổng công ty thời gian qua còn eo hẹp, số lượng mặt hàng còn ít, chất lượng không ổn định, so với tiêu chuẩn xuất khẩu của các nước khác thì còn thấp hơn rất nhiều nên dẫn đến mức độ cạnh tranh còn thấp. Vì vậy để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì việc nghiên cứu tạo nguồn và cân đối mặt hàng xuất khẩu là rất quan trọng trong việc tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu ổn định, chất lượng bảo đảm đồng đều hơn. Bảng2: Các mặt hàng súc sản xuất khẩu của Tổng công ty. Mặt hàng Năm 1997 Số lượng (tấn) Năm 1998 Số lượng (tấn) Năm 1999 Số lượng (tấn) Năm 2000 Số lượng (tấn) Thịt lợn 2130 1056 1430 1087 Thịt bò 1975 1008 1750 1806 Thịt trâu 741 613 346 358 Thịt dê 1264 889 575 604 Các mặt hàng phụ phẩm khác 432 261 835 932 Tổng 6542 3827 4936 4787 Nguồn: Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam Số lượng mặt hàng thịt lợn, thịt bò qua cá năm tương đối giữ mức ổn định, không có sự thay đổi lớn, chỉ riêng năm 1997 số lượng có cao hơn hẳn các năm khác. Còn mặt hàng thịt trâu và thịt dê có biến động đáng kể lên xuống thất thường. Điều này chứng tỏ mặt hàng thịt trâu và thịt dê ở thị trường xuất khẩu luôn biến động theo thị hiếu, theo mùa vụ. Các mặt hàng thực phẩm khác đó là da trâu, da bò, da lợn, sừng động vật (chóp sừng, sừng thỏi), xương động vật (dạng bột, hạt), sữa mở động vật … chiếm một tỷ lệ tương đối cao, điều này cho thấy Tổng Công ty sử dụng cả mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. - Về cơ cấu hàng súc sản xuất khẩu được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3: Cơ cấu hàng súc sản xuất khẩu . Đơn vị:Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm Hàng súc sản chưa chế biến Hàng súc sản đã chế biến Phụ phẩm Tổng 1997 Tuyệt đối 12343,256 440,368 168,376 12952,000 Tương đối% 95,3 3,4 1,3 100 1998 Tuyệt đối 4792,063 272,932 183,705 5248,700 Tương đối% 91,3 5,2 3,5 100 1999 Tuyệt đối 4295,978 780,510 1269,122 6345,610 Tương đối% 67,7 12,3 20,0 100 2000 Tuyệt đối 3180,491 1263,731 1602,339 6046,561 Tương đối% 52,6 20,9 26,5 100 Nguồn Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. Mặt hàng súc sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế năm 1997 chiếm 95,3% trong tổng số hàng súc sản xuất khẩu .Đến năm 1998 chiếm 91,3%,năm 1999 giảm xuống còn 67,7% và năm 2000chỉ chiếm 52,6%.Qua ba năm 1998,1999,2000,Tổng công ty đã đưa tỷ trọng mặt hàng súc sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế xuống chỉ còn hơn một nữa trong tổng số hàng súc sản xuất khẩu . Mặt hàng súc sản đã qua chế biếnnăm 1997 chỉ chiếm 3,4% trong tổng số hàng súc sản xuất khẩu của Tổng công ty.Năm 1998 là 5,2%,năm 1999 là 12,3% và năm 2000 đạt 20,9%.Hiện nay,tuy mặt hàng súc sản đã qua chế biến chỉ chiếm 1/5 trong tổng số hàng súc sản xuất khẩu nhưng đó là cả một sự nỗ lực hết mình của ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty. Đối với mặt hàng phụ phẩm năm 1997 là 1,3%trong tổng số hàng súc sản xuất khẩu của Tổng công ty, nhưng đến năm 2000 đã đạt 26,5%. Để đạt được thành công này, mặt hàng phụ phẩm đã phải trải qua hai lần tăng tỷ trọng, đó là 3,5% năm 1998 và 20% năm 1999. Nhìn chung, ta thấy năm 1999 là năm đánh dấu bước ngoặt lịch sử đối với sự chuyển đổi cơ cấu mặt hành súc sản xuất khẩu của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam. Tỷ trọng của hàng súc sản xuất khẩu đã qua chế biến và phụ phẩm trong năm này tăng nhanh đột ngột so với năm 1998. Cụ thể là đối với mặt hàng súc sản đã qua chế biến tăng 7,1%, còn mặt hàng phụ phẩm tăng 16,5%. Điều này đã làm cho tỷ trọng hàng súc sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế giảm mạnh so với năm 1998(giảm 23,6%). Sự chuyển đổi cơ cấu này cho thấy rằng tổng công ty đã có hướng đi đúng đắn theo định hướng chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung của nhà nước. 3. Nguồn hàng xuất khẩu của Tổng công ty. Nguồn hàng xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Vì vậy, việc tổ chức thu mua tạo nguồn hang là một vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay Tổng công ty tổ chức thu mua hàng xuất khẩu từ các địa phương, các cơ sở sản xuất nằm rải rác trên cả nước. Việc mở rộng thị trường thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của Tổng công ty trong thời gian qua là kết quả đáng mừng và nó sẽ giúp cho công tác thu mua tạo nguồn hàng đạt kết quả cao Nếu tổng công ty biết khai thác một cách triệt để. Địa bàn thu mua tạo nguồn hàng súc sản của Tổng công ty được phân bố the._. tạo uy tín lâu dài coh đối tác ký kết hợp đồng nhập khẩu. 2. Đa dạng hoá sản phẩm Phương thức phát triển đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng đã qua chế biến như thức ăn chín và các đồ hộp với bao bì, mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, Công ty chăn nuôi Việt Nam mới chỉ xuất khẩu những mặt hàng chưa qua chế biến, sản phẩm đã qua chế biến và phụ phẩm còn ít chưa xứng với tiềm lực vốn có của Tổng Công ty, vì vậy việc sản xuất kinh doanh chưa đạt kết quả cao, doanh thu còn thấp so với tiềm năng của Tổng công ty. Do đó, hiện tại và tương lai Tổng Công ty sẽ hướng vào sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến, từ đây cũng nâng cao hơn nữa về chất lượng sản phẩm đồng thời vận dụng triệt để các phụ phẩm tinh chế với chất lượng cao để xuất khẩu. 3. Mở rộng thị trường kinh doanh Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, việc nắm vững thị trường là rất quan trọng. Chính vì vậy, Tổng công ty cần tiến hành nghiên cứu thị trường, nằm chắc nhu cầu của khách hàng để từ đó đáp ứng tối đa nhu cầu này. Có như vậy, Tổng Công ty mới mở rộng được thị trường và kinh doanh có lãi. Ngoài các thị trường truyền thống, Tổng Công ty đã và đang tìm cách thâm nhập vào các thị trường mới ở khu vực Đông Nam á. Cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm để thâm nhập vào thị trường Châu Âu. Để làm được điều đó, Tổng Công ty cần phải nắm được những thông tin về thị trường này phải chính xác, kịp thời. Mục đích của Tổng công ty về mở rộng thị trường kinh doanh là không chỉ mở rộng thị trường ngoài nước hướng về xuất khẩu mà còn mở rộng thị trường trong nước để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh, tạo động lực thúc đẩy xuất khẩu. 4. Nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất khẩu hàng súc sản. Đây là định hướng hiện tại và tương lai của Tổng Công ty, vì chính kim ngạch xuất khẩu sẽ quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển hay thất bại trong kinh doanh là do khả năng kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty cao hay thấp. Năm 2001, Tổng Công ty đặt ra chỉ tiêu xuất khẩu hàng súc sản đạt hơn 6 ngàn tấn và các năm tiếp theo phải cao hơn năm trước là 25%. Để đạt được điều này chính là nhờ vào sự nỗ lực hết mình của ban lãnh đạo cũng như cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty phải páhệ thống huy thế mạnh của mình và biết tận dụng mọi nguồn lực sẵn có trong nước, cũng như ưu thế vốn có của ngành chăn nuôi Việt Nam. II- Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản của Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam. 1. Đối với Tổng công ty . a. Tổ chức nghiên cứu thị trường, phát triển mạng lưới thông tin Nghiên cứu thị trường là vấn đề đặt ra đối với hoạt động kinh doanh ở mọi cấp khác nhau từ quản lý Nhà nước đến tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp ở các quy mô lớn nhỏ vì thị trường là xuất phát điểm của mọi hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá. Mục đích của nghiên cứu thị trường là nắm bắt, thu nhập những thông tin về sản phẩm hàng hoá dịch vụ như nhu cầu, thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng...của người tiêu dùng về sản phẩm hay nhóm sản phẩm. Ngoài ra còn phải tìm hiểu xem số lượng đối thủ cạnh tranh là bao nhiêu, thị phần, quy mô, tiềm năng của đối thủ cạnh tranh như thế nào? Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường là vô cùng quan trọng vì có sự di chuyển của dòng hàng hoá ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia. Thị trường nước ngoài có những đặc điểm khác nhau khác xa thị trường trong nước về địa lý tự nhiên, nhu cầu, thói quen, tập quán tiêu dùng, giá cả...Vì thế, việc nghiên cứu thị trường trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải tiến hành thật chính xác, chi tiết, rõ ràng nhằm tránh những rủi ro có thể gặp phải khi nhâm nhập thị trường nước ngoài. Trên thương trường, doanh nghiệp nào nắm được thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời thì doanh nghiệp đó có một sức mạnh vô cùng to lớn. Thông tin đầy đủ về thị trường, về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường thành công. Thậy vậy, đối với một Công ty kinh doanh trên thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới, nơi có nhiều cơ hội làm ăn nhưng nhiều rủi ro thì thông tin đóng một vai trò quan trọng. Đó là chìa khoá, là cơ sở cho việ hoạch định chiến lược, chiến thuật kinh doanh, là nguồn gốc của thắng lợi và vì vậy, thông tin là quyền lực quyết định sự tồn tại của Công ty trên thương trường. Thông tin cần có về một thị trường hàng hoá trên thế giới rất đa dạng và phức tạp. Muốn có được thông tin, nhà kinh doanh phải coi việc công nghệ thị trường là một công việc hàng đầu và thị trường tất yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Việc nghiên cứu đó phải được tiến hành nhằm thu thập thông tinvề tât cả các khẩu trong quá trình tái sản xuất của một ngành hàng hoá (sản xuất - lưu thông - phân phối - tiêu dùng). Tìm thị trường là khó khăn nhưng sẽ trở nên dễ dàng nếu Công ty có được những thông tin chính xác về tình hình thị trường hàng hoá thế giới. Từ nhiều năm nay, Tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam thực hiện xuất khẩu hàng súc sản theo cơ chế cũ với những ban hàng quen thuộc là các nước xã hội Chủ nghĩ dễ tính, việc trao đổi hàng hoá thông qua nghị định thư của Chính phủ. Còn các thị trường khác thì chưa có quan hệ làm ăn nhiều, thông tin ít chưa phát huy được hết thế mạnh tiềm năng của mình. Việc thu thập và xử lý thông tin còn chậm, hiệu quả chưa cao, vì vậy đã bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn. Do đó, Tổng Công ty cần phải thiết lập ngay một mạng lưới thu thập và xử lý thông tin đồng thời phải tăng cường tuyên truyền quảng cáo để hào nhập vào thị trường thế giới. Tích cực xây dựng hình ảnh của Tổng Công ty nhằm tạo lòng tin về sản phẩm của mình với các bạn hàng. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, không có thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời thì không thể kinh doanh có hiệu quả. Xuất phát từ nguồn lực về vốn và con người của Tổng Công ty còn hạn chế nên phương pháp áp dụng chủ yếu là phương pháp nghiên cứu taị văn phòng. Các nguồn thông tin về thị trường thế giới và khu vực mà Tổng Công ty quan tâm có thể khai thác trên các báo cáo hàng ngày, các tuần báo kinh tế, thương mại, các tạp chí kinh tế, các bản tin ... Những tài liệu này có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau trong và ngoài nước hay có thể thông qua các sứ quán nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế. Phương pháp này vừa tiết kiệm được thời gian, vừa tiết kiệm được chi phí phù hợp với mức độ nghiên cứu của Tổng Công ty. Mặt khác, Tổng công ty cũng có thể tiến hành công tác thị trường kết hợp phương pháp tại chỗ, tham khảo ý kiến chuyên gia... Trong tương lai gần nên mở một vài chi nhánh hay văn phòng đại diện ở nước ngoài để có thể nắm bắt tốt hơn các thông tin về thị trường và để quảng mã tên tuổi cũng như sản phẩm của Tổng công ty. Muốn vậy, phải kết hợp đa phương hoá với đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế. Tóm lại, công tác thu nhập, xử lý thông tin và tiếp cận thị trường là cực kỳ quan trọng không thể bỏ qua. Nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới không cho phép doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới mà không trang bị đầy đủ thông tin và nghệ thuật thương mại. Nếu thiếu một trong các yếu tố trên, thất bại là điều khó tránh khỏi. Đặc biệt đối với hàng súc sản mà chất lượng đặt lên hàng đầu, nếu thông tin thị trường không đầy đủ thì không thể có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. b. Chủ động tìm kiếm những bạn hàng mới. Trong thời gian qua, Tổng Công ty thường xuyên bị động trong hoạt động xuất khẩu hàng súc sản, ta có thể thấy rõ: - Thị trường truyền thống là Liên Bang Nga, nhưng Tổng Công ty xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là để trả nợ cho Chính phủ theo nghị định thư. - Tổng công ty chỉ xuất khẩu hàng theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp nước ngoài, chưa tự mình tìm hiểu, thăm dò, tìm kiếm thị trường nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh khá thuận lợi. - Tổng Công ty chưa đào tạo hàng tự do cho đến các doanh nghiệp Nhà nước mà chỉ thụ động làm theo đơn đặt hàng. Vì vậy, ngoài việc cố gắng duy trì thị trường truyền thống (Liên Bang Nga, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan), Tổng Công ty cần phải mở rộng thị trường, chủ động tìm kiếm những bạn hàng mới ở thị trường ASEAN, thị trường EU. Thêm nữa, hiệp định thương mại Việt - Mỹ mới được ký kết sẽ tạo ra những cơ hội làm ăn lớn cho Tổng Công ty nếu Tổng Công ty có ý định thâm nhập vào thị trường Mỹ. Thị trường chung Châu Âu (EU) là một thị trường với khoảng 370 triệu người tiêu dùng và là một thị trường chất lượng cao. EU là một thị trường lớn với doanh số khoảng 1.500 tỷ USD mỗi năm, trong đó có 50% doanh số là buôn bán với các nước bên ngaòi các nước thành viên. Thị trường EU là thị trường rất khó tính, đặc biệt đối với hàng súc sản vì có các tiêu chuẩn kiểm dịch và vệ sinh thực phẩm rất khắt khe. Vì vậy, thâm nhập vào thị trường này rất khó, đòi hỏi Tổng công ty một mặt phải có chiến lược, chính sách thâm nhập phù hợp, mặt khác phải đảm bảo các tiêu chuẩn và kiểm dịch và vệ sinh thực phẩm đối với hàng hoá của mình. Đổi lại, do đồng EURO được đưa vào lưu hành từ ngày 1/1/1999 sẽ làm đơn giản hoá các thủ tục trong kinh doanh, thúc đẩy trong kinh doanh, thúc đẩy tự do hoá thương mại. Thị trường ASEAN là thị trường của 10 nước thành viên hiệp hội các nước Đông Nam á ( Thái Lan, Singapore, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Myanma, Brunây, Việt Nam, Lào, Campuchia). Đây là một thị trường năng động với khoảng 500 triệu dân và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu thế giới đạt mức trung bình từ 6-7%/ năm. Do đặc điểm của thị trường này là các nước có trình độ phát triển tương đồng nhau, xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng tương tự nhau nên các nước thành viên cạnh tranh nhau rất lớn cả về xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Đặc biệt khi việc giảm thuế diễn ra, quá trình cạnh tranh này sẽ càng gay gắt hơn. Đứng trước tình hình đó, Tổng công ty muốn thâm nhập thị trường này cần phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của mình. Đồng thời lấy những thị trường cũ như Thái Lan, Singapore làm bàn đạp để bước sang các thị trường trong khu vực. c. Từng bước hiện đại hoá dây chuyền sản xuất. Dây chuyền công nghệ lạc hậu cũng là nguyên nhân chính hạn chế sự phát triển sản xuất của Tổng Công ty. Trong thời gian qua về cơ cấu mặt hàng chủ yếu Tổng Công ty xuất khẩu hàng chưa qua chế biến là chính, bởi vì dây chuyền sản xuất còn yếu kém lạc hậu nên có sản xuất cũng không đạt chất lượng kiểm dịch, vì vậy khả năng vươn rộng ra thị trường còn rất yếu, hiệu quả kinh doanh còn thấp. Do đó, Tổng Công ty phải có chính sách, biện pháp khắc phục những tồn tại của dây chuyền công nghệ hiện nay và từng bước nâng cấp dây chuyền công nghệ ngày một hiện đại hơn để đáp ứng được nhu cầu đặt ra ngày càng cao của khách hàng. Từng bước nhập khẩu những dây chuyền sản xuất chế biến với công nghệ hiện đại của các nước có nền công nghiệp phát triển, từ đó thúcđẩy phát triển sản xuất mặt hàng súc sản đã qua chế biến đạt chất lượng cao, nâng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tạo được lòng tin của khách hàng vào chất lượng sản phẩm của mình. Từ đó, sẽ đưa Tổng công ty ngày một đữngvững trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước và tạo đà cho sự phát triển vững mạnh hơn trên các thị trường này. d. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý xuất nhập khẩu. Trình độ cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam làm một trong những nguồn lực cơ bản của Tổng công ty. Để có thể tồn tại và phát triển trong mọi cơ chế cạnh tranh hiện nay, Tổng công ty cần có đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi. Dù hiện có trên 75% cán bộ có trình độ đại học, có kinh nghiệm nhưng đa phần đã lớn tuổi nên Tổng công ty cần có chính sách tuyển dụng mới. Đối tượng của chính sách này có thể là sinh viên khối kinh tế và các trường kỹ thuật mới ra trường, nhưng có trình độ, năng động và có nguyện vọng gắn bó lâu dài với Tổng công ty. Tuy chưa có kinh nghiệm nhưng với sự giúp đỡ của những cán bộ dày dạn kinh nghiệm thì chắc chắn trong tương lai họ sẽ là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay. Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Tổng công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên, cho đến nay, Tổng công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn với công việc. Vì vậy, để đảm bảo cho Tổng công ty có được đội ngũ cán bộ kinh doanh không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Tổng công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn cho các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Tổng công ty phải có kiến thức, sáng tạo và biết tạo ra bầu không khí thuận lợi trong cơ quan để tăng hiệu quả công việc. Đặc biệt là lãnh đạo cần sử dụng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần để động viên cán bộ công nhân viên. Cụ thể như quy định một khoản tiền thưởng cho cán bộ khi họ ký kết được hợp đồng hay thưởng khi Tổng công ty làm ăn có lãi, hoặc tổ chức cho nhân viên đi nghỉ mát... Bên cạnh đó cán bộ lãnh đạo còn phải có khả năng ngoại giao tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, có tính quyết đoán trong công việc. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của Tổng công ty cần giỏi về nghiệp vụ, thành thạo về ngoại ngữ, am hiểu cả kỹ thuật lẫn nghiệp vụ ngoại thương. Nhìn chung cán bộ của Tổng công ty thường chỉ được đào tạo chuyên môn về một lĩnh vực riêng như nghiệp vụ ngoại thương hay kỹ thuật. Để thực hiện tốt việc nhập khẩu thì nó đòi hỏi cán bộ phải nắm vững cả hai lĩnh vực trên. Do vậy, cán bộ trong công ty phải tự tìm tòi, nghiên cứu học tập nên gặp nhiều khó khăn. Chính vì thế Tổng công ty cần thực hiện chính sách cử cán bộ đi đào tạo trong đó các cán bộ ngoại thương đi đào tạo thêm về trình độ kỹ thuật còn cán bộ kỹ thuật được nâng cao về các nghiệp vụ ngoại thương và ngoại ngữ. Bên cạnh đó cán bộ nghiệp vụ còn phải nắm vững Luật Thương mại mới của nước ta, để vận dụng một cách có hiệu quả trong kinh doanh. Tóm lại, để vượt qua thử thách, cán bộ trong Tổng công ty cần đoàn kết thống nhất hơn nữa, không ngừng trau dồi nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ và phải đồng tâm hiệp lực cùng hướng tới một mục đích làm cho Tổng công ty lớn mạnh không ngừng. e. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Trong cơ chế thị trường việc xuất khẩu hàng súc sản cũng như mọi hàng hoá khác, đều tính theo giá cả quốc tế và thanh toán bằng ngoại tệ tự do, không bị dàng buộc với các nghị định thư. Do vậy, các hợp đồng xuất khẩu đều phải dựa trên lợi ích và hiệu quả kinh tế để quyết dịnh có thực hiện hay không. Muốn có được hiệu quả kinh tế thì việc chiếm dụng vốn, sử dụng vốn phải có hiệu quả cao. Đây là yêu cầu cấp bách trong điều kiện Tổng công ty có nhu cầu xuất khẩu cao mà trong khi đó vốn cần có lại co hẹp. Để đạt được hiệu qủa sử dụng vốn cũng như huy động vốn cao thì Tổng công ty phải làm tốt công tác quản lý và sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Cụ thể Tổng công ty cần: Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tín dụng ngoại hối của Nhà nước mà trước tiên là hoàn thành các loại thuế phải nộp. Tính toán các khả năng lỗ, lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa. Kết hợp chặt chẽ sự vận động của vốn và hàng hóa lưu thông, vốn trong kinh doanh gồm vốn cố định và vốn lưu động. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có nghĩa là nâng cao hiệu quả sử dụng cả vốn lưu động và cả vốn cố định. Là một Tổng công ty kinh doanh hướng về xuất khẩu mạnh nên lượng vốn lưu động trong kinh doanh khó lớn. Chính vì vậy, nếu Tổng công ty nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì chắc chắn hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty sẽ tăng lên. Mã trong kinh doanh xuất nhập khẩu thường hay bị rủi ro của đồng tiền mất giá đe doạ, vì vậy Tổng công ty nên huy động và chiếm dụng những đồng vốn nhàn rỗi trên thị trường nhằm tránh những rủi ro của đồng tiền sảy ra. Việc huy động vốn này ở đâu, đó là ở các ngân hàng ngoại thương, các tổ chức kinh tế khác hay ở các nhà đầu cơ tài chính, liên doanh, liên kết... Để sử dụng một cách có hiệu quả cao của một đồng vốn bỏ ra, Tổng công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Tăng nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá xuất khẩu để không cần tăng thêm lượng vốn lưu động mà hiệu quả sử dụng lại tăng lên. Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn, tránh được tình trạng ứ đọng vốn hay dây dưa trong thanh toán tiền hàng. - Đẩy nhanh xuất khẩu để tăng nhanh lượng vốn lưu động, ngoài ra còn phải quản lý tốt lượng hàng dự trữ thanh lý kịp thời hàng ứ đọng, hàng tồn kho để giải phóng vốn. - Tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu vì như vậy sẽ khai thác được hết công suất tài sản cố định và giảm chi phí tài sản cố định trên một đơn vị hàng hoá kinh doanh. - Tăng tỷ trọng tài sản cố định trong kinh doanh, giảm tỷ trọng tài sản cố định chờ thanh lý. Song song với các hoạt động trên, Tổng công ty còn cần phải: - Thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng vốn để kịp thời đề ra các phương án đối phó thích hợp - Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất đối với quá trình sử dụng vốn. Khi bỏ vốn ra kinh doanh phải xây dựng được các phương án kinh doanh để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn chương trình. f. Khai thác triệt để các lợi ích mà thương mại điện tử mang lại. * Các ưu điểm của thương mại điện tử. - Thương mại điện tử đơn giản hoá truyền thông và thay đổi các mối quan hệ. Thương mại điện tử không chỉ đơn giản là phân phối thông tin và hàng hoá mà nó còn có thể làm thay đổi các mối quan hệ giữa chúng. Điều đó dẫn tới các cơ hội mới được thể hiện ở sơ đồ sau: Khách hàng Nâng cao sự hiểu biết về thị trường Tạo ra các kênh bán hàng mới Cá nhân hóa tiếp thị Nghiên cứu thị trường Doanh nghiệp Tăng sản lượng Tăng hiệu quả của các tiến trình Chia sẻ thông tin Tạo ra các sản phẩm thông tin Các doanh nghiệp thành viên Quản lý các khâu cung cấp hàng Giảm chi phí giao dịch Tạo ra các đơn vị chức năng chuyên sâu Sơ đồ: Một số vận hội của thương mại điện tử - Tính trực tiếp giúp doanh nghiệp tiếp cận được khách hàng một cách dễ dàng và giảm bớt các khâu trung gian trong quá trình mua bán. Quảng cáo điện tử cung cấp cho khách hàng những thông tin chính xác về doanh nghiệp, thời gian và phương thức kinh doanh của Tổng công ty, thậm chí cả các đặc điểm chính của hàng hoá. Ngược lại, thông qua mạng Internet, Tổng công ty có thể biết được khách hàng của mình là ai, kinh doanh những hàng hoá gì... Nếu khách hàng của Tổng công ty không muốn tận mắt xem hàng trước khi mua, quá trình mua bán chỉ có tác vụ đặt mua, giao hàng và thanh toán điện tử. - Cơ hội giảm chi phí. Giao dịch thương mại trên cơ sở dùng Internet cho các giao dịch ngân hàng ít tốn kém hơn dùng các mạng nội bộ chuyên dụng. Hơn nữa, như đã nói ở trên, thương mại điện tử làm giảm bớt các khâu trung gian trong hoạt động ngoại thương. Điều đó tạo ra cơ hội cho phép Tổng công ty có thể tiết kiệm các chi phí tiềm ẩn, các khoản chi phí đó đôi khi rất lớn. * Lợi ích của thương mại điện tử. Các hệ thống dựa trên mạng làm giảm các công việc giấy tờ và tập trung nhiều hơn vào khách hàng. Thương mại điện tử có thể cung cấp cho Tổng Công ty cả nguồn lợi ngắn hạn lẫn nguồn lợi dài hạn. Nó không chỉ mở ra các thị trường mới, tiếp cận với nhiều khách hàng mới mà còn làm cho Tổng Công ty dễ dàng và nhanh chóng thành đạt hơn trên cơ sở những gì đã có. Thay đổi thói quen kinh doanh như cách đặt hàng, cách lập vận đơn, cách hỗ trợ khách hàng... Các hệ thống dựa trên mạng cũng có thể giảm thiểu khối lượng công việc giấy tờ giao dịch trong kinh doanh. Khi mà ngày càng có nhiều thông tin được số hoá, Tổng Công ty có thể tập trung hơn vào việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Tìm kiếm thị hiếu khách hàng, thỉnh thị phản hồi của khách hàng, trình bày các giải pháp cho khách hàng... chỉ là một phần trong các cơ hội thu được từ thương mại điện tử. 2. Kiến nghị đối với Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì chỉ những nỗ lực của Tổng công ty thôi chưa đủ mà cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhà nước cần có các chính sách, biện pháp sau: a. Thuế xuất khẩu Chúng ta đều biết rằng thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, là một biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. ở các nước phát triển thuế thu nhập có vai trò rất quan trọng còn ở nước ta thuế xuất nhập khẩu chiếm phần lớn trong nguồn thu của ngân sách. Theo đánh gía chung thì hiện nay hệ thống thuế của nước ta có nhiều vấn đề cần xem xét. Chúng ta chủ yếu tiến hành đánh thuế tính theo tỷ lệ phần trăm(%) đối với tổng giá trị hàng hoá tính theo giá CIF hoặc FOB tuỳ theo hình thức xuất khẩu. Mà Tổng công ty lại xuất khẩu với giá trị lớn nên mức thuế phải nộp khá lớn. Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến thực lãi của Tổng công ty. Vì vậy, Nhà nước nên có một biểu thuế đơn giản và ưu đãi đốivới mặt hàng xuất khẩu. Nhằm hỗ trợ, thúc đẩy phát triển xuất khẩu nói chung và phát triển xuất khẩu của Tổng công ty nói riêng. Nhằm tạo điều kiện và khả năng cạnh tranh cho mặt hàng súc sản xuất khẩu của Tổng công ty trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Tóm lại, từ những vấn đề này Nhà nước cần nghiên cứu để sửa đổi thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp để tạo điều kiện cho Tổng công ty phát triển xuất khẩu hàng súc sản cũng như các mặt hàng khác đạt kết quả cao hơn. Nhà nước nên thực hiện chính sách miễn thuế hoàn toàn đối với mặt hàng súc sản xuất khẩu trong thời gian tới. Đây sẽ là một nhân tố nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. b. Chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý. Tỷ giá hối đoái của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến việv kinh doanh của Tổng công ty. Hiện nay chủ trương của Đảng là hướng mạnh ra xuất khẩu. Từ cuối năm 1996 đầu năm 1997 đồng Đôla Mỹ lên giá không ngừng tạo điều kiện tốt cho xuất khẩu của nước ta nói chung và Tổng công ty Chăn nuôi Việt nam nói riêng. Chính vì vậy, Nhà nước nên áp dụng một chế độ tỷ giá đối với Tổng công ty. Tức là với hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty sẽ được tính theo tỷ giá riêng ưu đãi hơn. Như vậy thì hoạt động xuất khẩu sẽ có ảnh hưởng cao hơn. Nhà nước nên có những điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý có lợi cho xuất khẩu và hạn chế những biến động mạnh của tỷ giá hối đoái gây ảnh hưởng sấu đến cả nền kinh tế nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Nếu tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và nội tệ tăng đột ngột thì hàng xuất khẩu sẽ giảm, các khoản thu từ xuất khẩu sẽ giảm sẽ dẫn đến tình trạng nhập siêu cao. Điều này yêu cầu Nhà nước phải can thiệp để giữ tỷ giá hối đoái duy trì ở mức thấp và tương đối ổn định sẽ có lợi cho xuất khẩu. c. Hoàn thiện chính sách và cơ cấu quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường. Những quy định về xuất khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của Nhà nước phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là: - Hệ thống các văn bản pháp lý, các quy định phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước còn một số bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi có không ít những thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục. Đặc biệt là ngành Hải quan cần đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của mình vì đây là ngành gây phiền hà nhiều nhất cho các doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu, đề nghị áp dụng cac quy định sau đây: bỏ việc buộc phải kiểm dịch, xuất xứ hàng hoá (C/O), nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà nhằm ký kết, bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế, cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế, quốc gia; không thu thuế, kể cả tạm tính đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại đến tái chế rồi xuất khẩu. Hy vọng rằng thủ tục hải quan sẽ được tiếp tục đổi mới theo hướng đơn giản hóa, công khai hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành Hải quan đã thực hiện như phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận thực xuất, quy chế khai báo một lần, đăng ký tờ khai trên máy vi tính, phân cấp rộng hơn quyền ký tờ khai hải quan để tạo thuận lợi cho Tổng công ty. Về lâu dài, các quy định xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sử đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Hiện nay, ở Việt Nam thủ tục xuất nhập khẩu vẫn còn rườm rà, gây nên những phức tạp và lãng phí thời gian công sức cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu trong những vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. d. Các chính sách hỗ trợ khác. Song song với việc thực hiện các giải pháp trên, Nhà nước cũng cần thực hiện các chủ trương chính sách sau: - Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý và cơ chế quản lý hiện đại để giúp Tổng công ty và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong môi trường đó. - Phải có các chính sách về xuất nhập khẩu nhất quán, ổn định các hoạt động của Tổng công ty không bị sáo động và giữ được chữ tín với bạn hàng. - Đầu tư vốn công nghệ sản xuất và chế biến hàng xuất nhập khẩu: hiện nay, hàng xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là hàng thô, hàng chưa qua chế biến. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu thì Nhà nước cần khuyến khích đầu tư khoa học, công nghệ vào sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh do các đơn vị kinh tế tạo ra nguồn hàng phong phú và đa dạng đảm bảo cho xuất khẩu, cần tập trung tiếp thu chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chú ý hạn chế các công nghệ sản xuất gây tốn năng lượng nguyên liệu và gây ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. - Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu: Bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất. e. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Nhà nước chủ động đa dạng hoá hình thức hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường với khách hàng, bạn hàng một cách tốt nhất. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã ký hiệp định Thương mại với hơn 60 nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Bộ Thương mại đã trình Chính phủ cho thành lập cục xúc tiến Thương mại để giúp các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu Kết luận Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu khảo sát thị trường và định hướng cho hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Từ những đánh giá về hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của Tổng công ty và nhất là kinh doanh xuất khẩu đang từng bước được hoàn thiện tốt hơn, phù hợp với tình hình thị trường và khả năng cung ứng của Tổng công ty. Tuy nhiên, Tổng công ty gặp phải rất nhiều khó khăn do nhu cầu khắt khe của thị trường ngày càng cao. Tuy Tổng công ty thời gian qua đã rất nỗ lực trong hoạt động của mình nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng súc sản nói riêng nhưng vẫn không đạt được chỉ tiêu đề ra. Để đạt được mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài, Tổng công ty nên có chiến lượng kinh doanh lâu dài, nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nghiên cứu khả năng về nguồn hàng để có các quyết định chính xác kịp thời, đồng thời phải có các chính sách Marketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu của đề tài đề cập đến một trong những hoạt động chính của Tổng công ty đó là hoạt động xuất khẩu. Đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề còn vướng mắc trong hoạt động xuất khẩu hàng súc sản, từ đó có một số kiến nghị về mặt giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng công ty. Với hệ thống kiến thức được được trang bị ở nhà trường cùng với việc tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam trong thời gian thực tập, tôi xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu đã trình bày ở trên, mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản của Tổng công ty. Hy vọng trong thời gian tới Tổng công ty sẽ đứng vững và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế PGS.TS.Trần Trí Thành Nhà xuất bản giáo giục-1998 2.Giáo trình Giao dịch và Thanh toán thương mại Quốc tế PGS.TS.Nguyễn Duy Bột Nhà xuất bản thống kê-1998 3.Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương PGS.TS.Vũ Hữu Tửu Nhà xuất bản giáo dục-1998 4.Giáo trình thương mại Quốc tế Chủ biên: PGS.TS.Trần Văn Chu Trường đại học Quản lý Và Kinh doanh-2000 5.Kinh tế và Phân tích hoạt động doanh nghiệp PGS.Võ Thanh Thu,Nguyễn Thị Mỵ,Hà Ngọc Anh Nhà xuất bản thống kê-1997 6.Giáo trình đàm phán và ký kết hợp đồng PGS.TS.Tô Xuân Dân,ĐHKTQD 7.Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh giai đoạn 1996-2000 của Tổng công ty chăn nuôi Việt nam 8.Báo cáo phương hướng sản xuất kinh doanh trong thời gian tới của Tổng công ty chăn nuôi Việt nam 9.Báo cáo lỗ lãi giai đoạn 1996-2000 của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam 10.Báo cáo tình hình xuất khẩu hàng súc sản theo thị trường và theo cơ cấu mặt hàng của Tổng công ty chăn nuôi Việt nam giai đoạn 1996-2000. 11.Thời báo kinh tế Việt nam ,số 49,ra ngày 24/4/2000. 12.Tạp chí thương mại Quốc tế ,số4-năm2000. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0539.doc
Tài liệu liên quan