Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế (PSSME)

Tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế (PSSME): ... Ebook Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế (PSSME)

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế (PSSME), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Giáo Dục Đào Tạo Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Khoa Kinh Tế và Kinh Doanh Quốc Tế & Luận văn tốt nghiệp Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế Sinh viên: Nguyễn Gia Thái Lớp: Kinh Tế Quốc Tế 41 Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Như Bình HÀ NỘI THÁNG 3 - 2003 Em xin chân thành cám ơn thầy Nguyễn Như Bình đã tận tình chỉ bảo trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu này. Xin được cảm ơn ông Nguyễn Lê Trung về sự giúp đỡ tài liệu trong quá trình viết bài. Mục lục: Mục lục 3 Bảng chữ viết tắt 6 Lời nói đầu 7 Chương I: Những vấn đề cơ bản về PSSMEs và hội nhập quốc tế 9 I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân ......................... 9 1. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................... 9 2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ..................... 10 3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.................................. 12 4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ............................... 14 5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ................................. 15 6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 19 II. Hội nhập quốc tế...................................................................... 21 1. Sơ lược về hội nhập quốc tế................................................ 21 2. Hội nhập quốc tế đối với doanh nghiệp ............................. 22 III. Năng lực cạnh tranh................................................................ 24 1. Cạnh tranh, cạnh tranh hữu hiệu: các định nghĩa ............. .... 24 2. Các đường lối tiếp cận khái niệm........................................ ...... 25 3. Các chỉ số đo lường và các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ........................................................................... 26 Chương II: Thực tiễn hội nhập quốc tế của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam ...................................................... 33 I. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam .......................... 33 1. Tình hình thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ ........... 33 2. Các loại hình doanh nghiệp ............................................. 34 a. Các hộ kinh doanh cá thể............................................. 34 b. Các doanh nghiệp tư nhân chính thức thuộc diện vừa và nhỏ ........................................................................... 36 II. Những đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế ............................................................................... 38 1. Đóng góp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân trong GDP ................................................................. 38 2. Đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực kinh tế tư nhân về mặt lao động.................................................. 40 a. Về mặt lao động nói chung............................................. 40 b. Về lao động trong các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp ............................................................................ 42 III. Các đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân ..................................................................................... 43 IV. Thực trạng hội nhập quốc tế của các PSSME....................... 45 1. Thực trạng hội nhập quốc tế............................................... 45 2. Những mặt mạnh mặt yếu của các PSSME trong quá trình hội nhập quốc tế.................................................................. 51 a. Trình độ nguồn nhân lực và chất lượng quản lí............. 51 b. Thuế đánh vào các doanh nghiệp .................................. 53 c. Thanh tra, kiểm tra của nhà nước .................................. 53 d. Trình độ kỹ thuật, công nghệ, chất lượng sản phẩm và dịch vụ ........................................................................... 54 e. Khả năng tiếp cận nguồn vốn......................................... 56 Chương III: Giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam hội nhập quốc tế.................................. 59 I. Lịch trình hội nhập quốc tế và tác động của nó tới việc hội nhập quốc tế của các PSSME của Việt Nam ....................... 59 1. Lịch trình hội nhập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN.............. 60 2. Lịch trình tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO... 62 3. Hiệp định song phương Việt-Mỹ................................................ 64 II.             Các giải pháp thúc đẩy PSSMEs hội nhập quốc tế............... 67 Các giải pháp thuế quan ......................................................... . 67 2. Giảm thiểu sự quản lý quá mức của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.......................................................... 68 3. Phát triển các làng nghề và làng nghề truyền thống................. 70 4. Tăng cường nghiên cứu , phát triển chiến lược khai thác thị trường “ngách” ........................................................................ 71 5. Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ........................................................... 74 6. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân lực và quản trị trong doanh nghiệp vừa và nhỏ........................................................... 76 7. Thương mại điện tử .................................................................. 78 Kết luận 84 Phụ lục Tài liệu tham khảo Bảng Chữ Viết Tắt PSSMEs: Private Sector Small and Medium Enterprises Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân SMEs: Small and Medium Enterprises Doanh nghiệp vừa và nhỏ NAFTA: North America Free Trade Agreement Khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ WTO: World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới ASEAN: Association of South East Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AFTA: ASEAN Free Trade Area Khu vực Thương mại Tự do ASEAN WB: World Bank Ngân hàng Thế giới IMF: International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế SOE: State-owned Enterprise Doanh nghiệp Nhà nước GATT: General Agreement on Tariffs and Trade Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại Lời nói đầu Nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá giữa bối cảnh quốc tế hoá và khu vực hoá diễn ra cao độ. Trong hoàn cảnh như vậy, Đảng và Nhà nước đã chọn con đường hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, hội nhập mà không hoà tan. Để hội nhập có hiệu quả, khu vực kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được chú ý hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân - PSSMEs - đang là đối tượng nghiên cứu của các tổ chức chính phủ cũng như các nhà khoa học. Tuy nhiên đây là một đề tài mới chưa được đi sâu khai thác mà không kém phần quan trọng. Nhằm đóng góp vào quá trình nghiên cứu tìm hiểu PSSMEs em thực hiện bài nghiên cứu này trong phạm vi một bài luận văn tốt nghiệp. Qua thời gian thực tập tại Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp thuộc Vụ Doanh nghiệp Bộ Kế hoạch Đầu tư, được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Như Bình, cùng với sự giúp đỡ tận tình của TS Nguyễn Lê Trung và các cán bộ nhân viên của Trung tâm, em đã hoàn thành đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế”. Đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận, được chia làm 3 chương chính: Chương I: Những vấn đề cơ bản về PSSMEs và hội nhập quốc tế Chương II: Thực tiễn về sự hội nhập quốc tế quốc tế của khu vực tư nhân Việt Nam Chương III: Giải pháp thúc đẩy các PSSME hội nhập quốc tế Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm tổng hợp tài liệu nghiên cứu có sẵn và các báo cáo của các cơ quan nhà nước về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, phân tích các bảng biểu, sơ đồ, tài liệu điều tra đã được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước. Các tài liệu nghiên cứu được sử dụng được ghi rõ nguồn gốc ngay sau khi trình bày và tại mục Tài liệu Tham khảo. Ở cuối luận văn có phần Phụ lục là phần em để một số bảng biểu hoặc có kích cỡ không phù hợp với khung của luận văn, hoặc có nội dung mang tính tham khảo. Đây là công trình nghiên cứu của một sinh viên nên các kiến thức và hiểu biết không khỏi còn nhiều giới hạn. Em rất mong nhận được nhiều hơn nữa những chỉ bảo của mọi người. Chương I: Những vấn đề cơ bản về PSSMEs và hội nhập quốc tế Doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rõ ràng phải dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trình phát triển khác nhau. Ở Việt Nam đã giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vì vậy, tiếp theo đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9 nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh nghiệp nhỏ. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: Số lao động: có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế; Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại; Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này). Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. Còn một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước. Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. Bảng 1.1: Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước TÊN NƯỚC TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ ÚC Sản xuất : dưới 100 LĐ Phi sản xuất: dưới 20 LĐ MỸ Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ NHẬT Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên CHLB ĐỨC Dưới 500 LĐ ĐÀI LOAN Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu, dưới 50 LĐ (Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng) Tính lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ. Như vậy trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kì khác nhau. Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau tuỳ theo mục đích công việc phân loại. Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau: F(Sba) = Ib* Ia*Sa/ Id Trong đó: F(Sba): quy mô một doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một lãnh thổ cụ thể. Ib,Ia,Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp; Sa : quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế một quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các ưu thế và nhược điểm của loại hình doanh nghiệp này sẽ được trình bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhìn sâu vào bản chất của loại hình này, cho phép ta định ra hướng đi rõ ràng trong việc xác định hướng phát triển cho loại hình này. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn (do quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng vì mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh: Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh nên có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm. Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp. Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế. Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động. Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung cấp sản phẩm. Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường. Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh. Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngàcác doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường. Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt động. Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng người chuyển về thành phố tìm việc làm. Thứ hai, do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý bất tài mà bởi vì doanh nghiệp lớn thì khó xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động. Bảng 1.2: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước Châu Á TÊN NƯỚC THU HÚT LAO ĐỘNG (%) GIÁ TRỊ GIA TĂNG (%) Singapore 35.2 26.6 Malaysia 47.8 36.4 Hàn Quốc 37.2 21.1 Nhật Bản 55.2 38.8 (Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh, 1996) Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số lượng và chủng loại Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mình. Chưa đầy 30 năm sau đã trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình. Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là: Điều hành kinh doanh Quan hệ với khách hàng Kiểm soát và quản lý nhân viên Quy định xuất nhập khẩu Quản lý thời gian Công nghệ thông tin hiện đại Điều hành văn phòng Các quy định về thuế Hậu cần Hệ thống cung cấp và phân phối Bán hàng và tiếp thị Luật lệ công ty Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ Bán hàng Định giá và lợi nhuận Quan hệ với quan chức chính phủ Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được bổ sung. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc Trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một thợ thủ công hay vài người thì không thể đương đầu được với các doanh nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm đến các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp. Cụ thể hơn ta hãy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này àcầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Bảng 1.3: Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan doanh nghiệp vừa và nhỏ Tên của luật và chính sách Luật bị thay thế Nội dung chính Nghị định số 90/NĐ-CP về chính sách trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa (2001) Nghị định đưa ra một chính sách đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Luật Doanh nghiệp (1999) Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (21-12-1990), Nghị định số 66/HĐBT ngày 2-3-1992 cho các hộ kinh doanh cá thể Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số 02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước: Luật quy định việc thành lập các công ty qua việc đăng ký kinh doanh tự giác, hơn là thông qua phê chuẩn và cấp phép của chính phủ. Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và tuyên bố phá sản doanh nghiệp Luật Thuế giá trị gia tăng Luật Thuế doanh thu Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng, là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (1999) Luật Thuế lợi tức Các đối tượng chịu thuế thu nhập của doanh nghiệp được quy định bởi luật này là thu nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế thu nhập của doanh nghiệp theo quy định của Luật là 32 % ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Bộ luật Lao động (1999), Nghị định 77/2000/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1-1- 2001 Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam là 210 000 VNĐ Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994) Xác định những ưu đãi đầu tư trong nước vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xã hội và các hoạt động kinh tế chiến lược, bao gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới. Luật Thương mại (1997) Văn bản luật pháp quy định hoạt động thương mại tại Việt Nam Sắc lệnh về hợp tác chuyển giao công nghệ (1998). Nghị định 45/1998/NĐ-CP Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động chuyển giao công nghệ, quy định những chi tiết của việc chuyển giao công nghệ. Hội nhập quốc tế: Trong phần này em cố gắng trình bày các khái niệm về các hình thức hội nhập trong đó có hội nhập kinh tế. Trên thực tế các khái niệm này còn gây rất nhiều tranh cãi và bất đồng, chưa có được một ý kiến thống nhất. Vì vậy các ý kiến của em đưa ra có thể hơi thiếu một sự nhất trí. Sơ lược về hội nhập quốc tế: Hội nhập là một phạm trù quan hệ lịch sử quốc tế. Nó vừa là trạng thái vừa là quá trình. Mặc dù có nhiều bất đồng về khái niệm này nhưng người ta nhất trí rằng Hội nhập Quốc tế có 3 mặt chính: Hội nhập kinh tế Hội nhập văn hoá Hội nhập chính trị Hội nhập kinh tế được hiểu một cách chung nhất là xoá bỏ sự khác biệt về kinh tế giữa các nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau. “Hội nhập chính trị là sự hội nhập của các chủ thể chính trị hay các đơn vị chính trị...” theo Karl W.Deutsch. Kết quả của quá trình này là một đơn vị chính trị thống nhất thay cho nhiều đơn vị chính trị riêng lẻ trước kia. Liên minh Châu Âu là một có thể nói là một ví dụ Hội nhập văn hoá có thể đư._.ợc hiểu là một quá trình xoá bỏ dần các điểm dị biệt của các nền văn hoá để đi đến hình thành một nền văn hoá chung, văn hoá toàn cầu, mà không tiêu diệt hoàn toàn các nền văn hoá bản địa đặc sắc. Hội nhập quốc tế đối với doanh nghiệp: Hội nhập là một quá trình cũng như một trạng thái. Đối với doanh nghiệp, quá trình này gồm nhiều bước tiến hành, nhiều trạng thái cần đạt tới. Trong hội nhập kinh tế có nhiều mặt có liên quan tới hoạt động, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như là: Thương mại quốc tế Đầu tư quốc tế Cạnh tranh quốc tế: Nước chủ nhà C Doanh nghiệp sở tại: c a >< c a><b Nước chủ nhà A Doanh nghiệp sở tại: a Nước chủ nhà B Doanh nghiệp sở tại: b a >< b Hình 1.4 Cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp địa phương, doanh nghiệp nước ngoài, các đối thủ nước sở tại và các đối thủ nước thứ ba. Phân công lao động quốc tế: hoạt động kinh doanh với mức độ chuyên biệt cao, tận dụng sự khác biệt về lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối giữa các nền kinh tế để sản xuất các thành phần của sản phẩm sao cho có lợi nhất. Kết quả của quá trình là một doanh nghiệp đa quốc gia sản xuất các thành phần của sản phẩm của mình ở nhiều nước để có được chi phí thấp nhất. Thị trường toàn cầu: hoạt động của doanh nghiệp sẽ tiến đến mức coi cả thế giới là một thị trường khổng lồ thống nhất. Các sản phẩm sản xuất ra sẽ tính đến phản ứng của khách hàng nhiều nước nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là các sản phẩm bán qua mạng Internet như là sản phẩm phần mềm và phần cứng máy tính (software và hardware)... Biến động của một số các nhà sản xuất của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tổng cung của toàn thế giới. (Ví dụ minh hoạ: người tiêu dùng hàng máy tính nói chung nếu để ý đều thấy có mối liên hệ này trong lĩnh vực phần cứng máy tính. Nếu các nhà sản xuất máy tính Đài Loan gặp phải tai nạn như là thiên tai, bão lớn thì giá máy tính trên thế giới đều tăng rõ rệtà trường hợp năm 2000-2001). Hội nhập văn hoá: Vấn đề có liên quan đến hội nhập văn hoá trong doanh nghiệp là vấn đề Văn hoá công ty-văn hoá đa quốc gia. Trong điều kiện hình thành các doanh nghiệp đa quốc gia, diễn ra các hoạt động thương mại đầu tư quốc tế, một kết quả tất yếu là sẽ hình thành các đội ngũ nhân viên đa quốc tịch trong một công ty. Đây là nơi thử nghiệm đầu tiên cho khái niệm văn hoá toàn cầu và văn hoá đa quốc gia mà sự tồn tại của nó nhằm để thoả mãn yêu cầu hoạt động kinh doanh một cách trôi chẩy của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp, một đội ngũ nhân viên có cách thức thu xếp sao cho các thành viên thuộc các nền văn hoá khác nhau có thể hoạt hoạt động, sống cạnh nhau, tồn tại và phát triển, thì doanh nghiệp đó, đội ngũ nhân viên đó có thể hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp khác có cùng điều kiện. Các doanh nghiệp không thoả mãn được việc hình thành môi trường văn hoá đa quốc gia bên trong công ty của mình sẽ hoạt động kém hiệu quả, nhiều trường hợp phải đưa nhân viên từ nước mình ra nước ngoài để thành lập các công ty chỉ có người một nướcà kém hiệu quả, tăng chi phí. Hơn nữa, thông qua môi trường văn hoá đa quốc gia, các bài học kinh nghiệm về hình thành văn hoá toàn cầu có thể được đúc rút và tích luỹ. Hội nhập chính trị: Hội nhập chính trị ảnh hưởng tới các chính sách của chính phủ và các hiệp định ký kết nhằm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế quốc tế. Mặc dù nó có ảnh hưởng khá trực tiếp tới các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân, các PSSMEs chưa đủ khả năng tác động tới quá trình này một cách trực tiếp và có hiệu quả. Đối với chính phủ, hội nhập chính trị nghĩa là các cuộc thương lượng để hình thành một cơ cấu chính trị mới có tầm lớn hơn. Đó còn là sự hình thành các khu vực kinh tế/chính trị/văn hoá mới với các biên giới địa lý lớn hơn biên giới một quốc gia. Chính phủ các nước có thể họp bàn tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế có tầm quan trọng vượt quá mức một nước có thể xử lý: xung đột vũ trang trong một nước giữa hai hay nhiều nhóm sắc tộc có dính dáng đến nước ngoài; xung đột giữa các nước về các vấn đề kinh tế, chính trị; chủ nghĩa khủng bố quốc tế; mất cân bằng sinh thái: ô nhiễm hệ thống sông, nạn phá rừng... Bên cạnh đó các đơn vị chính trị đa quốc gia mới thay thế cho chính phủ nhiều nước cũng đang hình thành với đơn vị đầu tiên là EU. Đối với doanh nghiệp ảnh hưởng của hội nhập chính trị thể hiện qua ảnh hưởng của các chính sách phát sinh từ quá trình hội nhập này. Các chính sách này bao gồm: sự giảm thiểu các rào cản thương mại, đầu tư giữa các nước; sự nới lỏng các quy chế liên quan tới sự đi lại, vận chuyển qua các biên giới; sự hình thành và mở rộng các thị trường tiêu thụ hàng hoá như là thị trường khu vực, thị trường châu lục, với ví dụ đáng chú ý nhất là sự hình thành một thị trường châu Âu thống nhất.... Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khá nhiều và trực tiếp từ các hoạt động hội nhập chính trị nhưng các ảnh hưởng của doanh nghiệp lên quá trình này là không nhiều lắm, trong trường hợp các PSSMEs là không đáng kể. Quá trình hội nhập chính trị, trái ngược với hội nhập văn hoá và khác với hội nhập kinh tế, diễn ra chủ yếu ở mức chính phủ. Sản phẩm của quá trình là các hiệp định được ký kết và thực thi, là các tổ chức chính trị mới được hình thành với quy mô và ảnh hưởng ngày càng lớn lên chính sách một quốc gia. Tuy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tác động một mức nào đó đến hội nhập chính trị nhưng chỉ ở mức độ gián tiếp như là tạo ra trào lưu, áp lực xã hội lên quá trình ra quyết định của chính phủ, không thể có tác động trực tiếp được. Bởi vậy bài nghiên cứu này sẽ không tính đến khía cạnh hội nhập chính trị của các PSSMEs mà chỉ xem xét đến các khía cạnh hội nhập kinh tế và văn hoá mà thôi Năng lực cạnh tranh: Cạnh tranh và Cạnh tranh hữu hiệu: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tiến ra các thị trường nước ngoài hay cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoại quốc ở thị trường trong nước cần phải có một chiến lược kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả. Các chiến lược như vậy đặt trên một nền tảng là sự hiểu thấu hai khái niệm là Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Từ việc hiểu thấu hai khái niệm này mới có thể phát triển lên thành các sách lược phát triển kinh doanh đầy đủ, các biện pháp ứng phó với tình hình mới, v.v... Cạnh tranh có nhiều cách hiểu. Ở đây em tìm hiểu nó theo hai cách là: cách hiểu thông dụng đại chúng (thông qua từ điển ngôn ngữ đại chúng) và cách hiểu chuyên ngành (thông qua từ điển chuyên ngành). Sau đây là các trích dẫn: Cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau để giành phần hơn, phần thắng về mình. (Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin) Cạnh tranh là là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được. (Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học, Nxb Từ điển Bách khoa Hà nội Còn định nghĩa Cạnh tranh hữu hiệu được nêu ra như sau: Cạnh tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà mục đích là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thoả mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất trong thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý. (Đại Từ Điển Kinh Tế Thị Trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến Tri thức Bách khoa, 1998) Ở trên là các định nghĩa về Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Để hiểu rõ hơn về hai niệm này em xin đi vào làm rõ từng khái niệm theo các cách tiếp cận khác nhau ở phần tiếp theo. Đường lối tiếp cận khái niệm cạnh tranh. Lối tiếp cận theo hướng thương mại mang tính phổ biến nhất: Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh chỉ xuất hiện ở tầm công ty, tập đoàn trong các hoạt động buôn bán; cạnh tranh là sự va chạm không thể tránh khỏi giữa các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế có tính tự do. Các công ty cố gắn hết sức để đạt được lợi nhuận thông qua việc mua và bán hàng hoá. Lối tiếp cận khác lại cho rằng cạnh tranh còn có thể hiểu ở tầm vĩ mô, ở mức khu vực hay đất nước, gắn liền với các khái niệm như là sức mạnh cạnh tranh tổng hợp của một nền kinh tế, một địa phương hay một quốc gia. Cụ thể hơn, nếu một quốc gia có nguồn lao động chất lượng cao với mức giá rẻ hơn tương đối so với nước láng giềng thì các công ty của nước đó sẽ lợi thế hơn so với các công ty nước khác và hàng hoá của họ sẽ rẻ hơn tương đối trong loại hàng hoá cùng một mức giá trên thị trường quốc tế. Kết quả là hàng của họ có thể được tiêu thụ tốt hơn. Nếu một quốc gia A có lợi thế hơn các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, dân số, trình độ công nghệ, các quy định tài chính v.v... thì các công ty của nước A có khả năng cạnh tranh cao hơn các công ty khác trên thị trường toàn cầu. Nói cách khác là nước A có sức mạnh cạnh tranh tổng hợp cao hơn. Lối tiếp cận theo hướng ngành (Cạnh tranh giữa các ngành của một quốc gia với các ngành của quốc gia khác): Sự cạnh tranh có thể xuất hiện ở lĩnh vực như tài chính-tiền tệ, hành chính (minh hoạ: với hai quốc gia giống nhau trong hầu hết các lĩnh vực, quốc gia nào có các quy định hành chính cởi mở thuận tiện cho kinh doanh hơn sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn à cạnh tranh trong thu hút FDI) hay bất kỳ lĩnh vực nào ta để ý đến. Thông qua lợi thế trong các ngành mà một đất nước trở nên hùng mạnh, thịnh vượng hơn. Các chỉ số đo lường và các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh Các công ty, tổ chức, chính phủ và cá nhân đã nghiên cứu để tìm ra các thành tố tạo nên khả năng cạnh tranh. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) có tám nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của các quốc gia với các mức độ khác nhau: Bảng 1.5: Các nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của một quốc gia Chính phủ Tài chính Độ mở cửa Lao động Công nghệ Cơ sở hạ tầng Thể chế Quản lý (%) 17 17 16 16 11 11 6 6 Theo cách nhìn nhận này hàng năm WEF xếp hạng thứ hạng cạnh tranh và đánh giá năng lực cạnh tranh theo mối quan hệ đa biên. Theo số liệu của Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2000-2001 & 2002 Việt Nam xếp thứ: 48/59 (năm 1999), 53/59 (năm 2000) và 60/75 (năm 2001-2002). Tuy nhiên, từ năm 2000 do tính quan trọng ngày càng tăng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các chỉ số đo lường sức mạnh cạnh tranh quốc gia đã được sắp xếp lại, nhân tố khoa học công nghệ đã chiếm trọng số 1/3 trong tỷ trọng cân bằng nhau của ba tiêu chí: tính quốc tế hoá, tài chính và sáng tạo khoa học công nghệ. Để đánh giá mức sáng tạo khoa học công nghệ người ta nghiên cứu các khía cạnh theo bảng bªn. Cụ thể hơn, ta có các nhóm chỉ số : Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh (Growth Competitive Index-GCI) và Chỉ số cạnh tranh hiện tại (Current Competitive Index-CCI) đã tiếp cận các nguyên nhân và động cơ tăng trưởng cạnh tranh trên cả hai giác độ vi mô và vĩ mô. Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh được sử dụng nhằm đo lường các nhân tố đóng góp vào sự tăng trưởng tương lai của một nền kinh tế, và được đo bằng tỷ lệ thay đổi GDP trên đầu người, những nhân tố này giải thích tại sao một vài nền kinh tế có khả năng hưng thịnh hơn một số quốc gia khác. GCI năm 2001-2002 bao gồm ba chỉ số nhỏ: mức độ công nghệ của nền kinh tế, chất lượng của các thể chế công và các điều kiện vĩ mô liên quan đến việc tăng trưởng. Bảng 1.6: Thứ hạng các chỉ số thành tố tăng trưởng cạnh tranh - GCI 2001-2002 Quốc gia/Nền kinh tế Thứ hạng GCI Thứ hạng chỉ số công nghệ Thứ hạng chỉ số thể chế công Thứ hạng chỉ số môi trường vĩ mô Phần Lan 1 3 1 10 Hoa Kì 2 1 12 7 Canada 3 2 11 13 Singapore 4 18 6 1 Đài Loan 7 4 24 15 Hồng Kông 13 33 10 4 Nhật Bản 22 23 19 18 Malaixia 30 22 39 20 Trung Quốc 39 53 50 6 Việt Nam 60 65 63 37 Nga 63 60 61 57 Zimbabwe 75 72 69 75 (Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002, Diễn đàn Kinh tế Thế giới.) Chỉ số cạnh tranh hiện tại (CCI) nhằm xác định các nhân tố nền móng tạo ra năng suất hiện tại cao và củng cố kết quả kinh tế hiện tại, được đo lường bằng mức GDP/đầu người. Những nhân tố này cũng có thể góp phần giải thích tại sao một vài quốc gia lại có thể đảm bảo mức hưng thịnh hơn các quốc gia khác. CCI là phương pháp tổng hợp năng lực cạnh tranh vi mô với hai nhóm chỉ số nhỏ: chỉ số về chiến lược và hoạt động của công ty và chỉ số chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia, đánh giá những điều kiện cơ bản xác định mức năng suất hiện tại của các quốc gia. Bảng 1.7: Thứ hạng các chỉ số thành tố cạnh tranh hiện tại-CCI năm 20001-2002 Quốc gia/Nền kinh tế Thứ hạng GCI Thứ hạng chỉ số chiến lược và hoạt động của công ty Thứ hạng chỉ số môi trường kinh doanh quốc gia Phần Lan 1 2 1 Hoa Kỳ 2 1 2 Hà Lan 3 3 3 Đức 4 4 4 ... ... ... ... Singapore 10 15 9 Canada 11 14 11 ... ... ... ... Nhật Bản 15 8 18 ... ... ... ... Hồng kông 18 21 16 ... ... ... ... Đài Loan 21 20 21 ... ... ... ... Malaixia 37 37 38 ... ... ... ... Trung Quốc 47 39 47 ... ... ... ... Nga 58 54 56 ... ... ... ... Rumani 61 63 61 Việt Nam 62 64 64 Pêru 63 65 62 ... ... ... ... Bangladesh 73 72 73 ... ... ... ... Bolivia 75 75 74 Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002. Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2002. Đối với cấp ngành và cấp công ty, cạnh tranh được xem xét trên một số nhóm yếu tố chủ yếu sau: - Số lượng các công ty mới tham gia vào ngành. - Mức độ có sẵn của các các sản phẩm thay thế. - Vị thế đàm phán của bên cầu - Vị thế đàm phán của bên cung. - Mức độ hiện diện của các bên của các công ty cạnh tranh trong ngành. Để đáp ứng và theo đuổi được cạnh tranh, từng công ty tuỳ thuộc vào loại hình sản phẩm với nhóm thị trường trọng điểm của mình sẽ khai thác lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và công nghệ vì chi phí sản xuất thấp hiện vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh., thêm vào đó các chỉ số về chi phí còn cho phép xác định mức độ phúc lợi xã hội mà ngành, công ty đóng góp cho nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh của một ngành và công ty trên giác độ hiệu ứng của các chính sách và biện pháp lại được xem xét trên cơ sở tạo ra và duy trì khả năng sinh lời và bảo tồn, tăng trưởng thị phần tại các thị trường hiện hữu và mở các thị trường mới. Để minh hoạ ý tưởng này, một loạt các chỉ số đã được đưa lên bàn cân: Chỉ số về năng suất: năng suất lao động tổng hợp và năng suất của từng yếu tố tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm. Chỉ số về công nghệ: chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D), mức độ hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ. Chỉ số đánh giá kết quả sản xuất-kinh doanh và các chính sách marketing của công ty: Sản phẩm: chỉ số về chất lượng, sự khác biệt hoá sản phẩm, giá trị vô hình của sản phẩm, mức độ cải tiến, phát triển và cung ứng sản phẩm mới Giá: chiều dài, chiều rộng của các mức giá hoạch định trên các tuyến sản phẩm, độ linh hoạt về giá và sự mềm dẻo trong quyết định điều chỉnh giá. Hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm: khả năng thiết kế và kiểm soát kênh phân phối, hiệu quả hoạt động của các nhà phân phối- các trung gian phân phối, hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có hỗ trợ quá trình vận chuyển phân phối hàng hoá. Các dịch vụ hỗ trợ, xúc tiến và khuyếch trương thương mại khác. Các chỉ số đánh giá sự ổn định nguồn cung ứng đầu vào và ảnh hưởng bên ngoài khác. Ứng dụng cách đánh giá trên, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) và Viện Chiến lược Phát triển (DSI) thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư, tháng 4/1998 đã thực hiện và công bố kết quả điều tra về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. Điều tra được thực hiện trên tổng mẫu 254 doanh nghiệp ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam, trong các ngành sản xuất: cà phê, gạo, rau quả, hải sản, dệt, may, xe đạp, cơ khí nông nghiệp, phụ tùng ô tô, điện tử, với ba loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước trung ương, doanh nghiệp Nhà nước đóng tại địa phương, Liên doanh, các hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân. Kết quả điều tra cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp (đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 3: 1- Không quan trọng, 2- Trung bình, 3- Mạnh mẽ) như sau: Bảng 1.8: Ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Tiêu thức ảnh hưởng Cà phê Gạo Hải sản Rau quả Dệt May Ô tô Xe đạp Cơ khí NN Điện tử 1. Gia nhập mới Thị trường 2.3 2.0 1.8 2.2 2.4 1.7 1.7 2.0 1.8 2.4 2. Sp thay thế 1.5 1.8 1.8 1.9 1.6 1.5 1.8 1.7 1.6 1.8 3. Cạnh tranh với sản phẩm nhập 1.5 1.0 1.0 1.8 2.3 1.6 2.6 2.4 2.6 2.4 4. Chiến lược Marketing 2.0 1.8 2.4 2.4 2.0 2.1 2.3 2.2 2.4 2.3 5. Nhà cung cấp 2.0 2.5 2.6 1.9 1.8 2.4 1.7 2.2 1.8 2.2 6. Khách hàng 2.3 2.5 2.6 2.4 2.0 2.4 2.3 2.0 1.7 2.3 (Báo cáo Điều tra Cạnh tranh Công nghiệp Việt Nam, 1998). Kết quả điều tra cũng đưa ra một cách chi tiết những lĩnh vực chủ yếu có ảnh hưởng mạnh đến năng lực cạnh tranh, bao gồm: Chất lượng sản phẩm Năng lực nghiên cứu thị trường Sự tin tưởng của khách hàng Giao hàng đúng hạn Giá Sự hỗ trợ của chính phủ Sự tin cậy của các nhà cung cấp Mạng lưới phân phối Chuyên môn hoá sản phẩm Năng lực tài chính Tổ chức sản xuất Dịch vụ hậu mãi Năng lực nghiên cứu và phát triển Liên kết với các đối tác nước ngoài Kĩ năng của nhân viên Cấu trúc sở hữu Các nhân tố khác. Thông qua những hình ảnh cụ thể đó, các nhà quản trị có thể nhìn thấy rõ nét hơn vị trí của công ty, các điểm mạnh/yếu trong quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh để hoạch định các chương trình chiến lược và sách lược hữu hiệu gắn với thể trạng thực của công ty. Theo quan điểm hội tụ vấn đề từ cấp vĩ mô đến vi mô, có thể khẳng định rằng năng lực cạnh tranh là một hàm số của nhiều biến trong đó bao gồm những biến chủ yếu: Cơ sở kinh tế vĩ mô của khả năng cạnh tranh. Các hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp. Các điều kiện thị trường về thương mại (khuyến khích và hạn chế xuất/nhập khẩu), đầu tư nước ngoài, tài chính, vai trò và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, hệ thống đào tạo nguồn nhân lực và các vấn đề về công nghệ. Với những kiến thức lý luận trình bày trên đây, ta có thể tạm thời coi như đã chuẩn bị được một phần cần thiết cho công việc nghiên cứu các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân tại Việt Nam và công cuộc hội nhập quốc tế. Ta đã nắm được các kiến thức về hội nhập quốc tế với doanh nghiệp, các kiến thức về cạnh tranh hữu hiệu và cách tính toán các chỉ số đo lường cạnh tranh dưới góc độ vĩ mô, các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh. Ở phần đầu của chương chúng ta đã hiểu được định nghĩa của Việt Nam về doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cách phân loại chúng, các ưu thế và hạn chế của loại hình doanh nghiệp này và các điều khoản pháp luật chi phối. Sau đây ta sẽ đi vào chương II, phần tìm hiểu thực tế quá trình hội nhập quốc tế cũng như tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Chương II: Thực tiễn hội nhập quốc tế của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Tình hình thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các năm: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm dưới sự sở hữu mọi thành phần kinh tế và trải rộng ra toàn bộ các ngành kinh tế. Có cả doanh nghiệp vừa và nhỏ do nhà nước sở hữu, có những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành như năng lượng và công nghệ thông tin... Đối tượng của bài này tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân, nghĩa là sẽ loại bỏ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc tập thể. Theo số liệu ở bảng dưới đây ta thấy các PSSMEs thuộc về khu vực phi nông nghiệp bao gồm ba nhóm doanh nghiệp: hộ kinh doanh tập thể, các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh chính thức (sau đây sẽ gọi là doanh nghiệp tư nhân chính thức) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các nghiên cứu về khu vực kinh tế tư nhân cũng như về khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cho phép ta đánh giá một cách khái quát rằng ở Việt Nam doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm hầu như toàn bộ khu vực hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc diện có đầu tư nước ngoài rất ít, có thể bỏ qua không nghiên cứu. Như vậy để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng ta sẽ chỉ tập trung xem xét các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể. Bảng 2.1: Cơ cấu doanh nghiệp phi nông nghiệp tại Việt Nam (1992-2001) Năm Doanh nghiệp nhà nước Hợp tác xã Hộ kinh doanh cá thể Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp đăng ký hàng năm 1992 6365 - 106000 106 3985 1993 6427 - 1196000 168 7421 1994 6372 - 1279000 344 7176 1995 5784 - 1783000 556 6158 1996 5343 - 1457000 717 5485 1997 5242 - 1557000 787 4636 1998 4819 - 1596000 979 4252 1999 4740 - 1704000 1076 5782 2000 5500 - 1810000 - 14413 2001 4291 2100000 18000 (ước tính) Nguồn:tổng hợp từ Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001 Ghi chú: Theo số liệu thống kê của Bộ Tài Chính, vào 30 tháng 9 năm 2001 có 66071 doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp đã đăng ký mã thuế. Các loại hình doanh nghiệp được xem xét đến trong nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các hộ kinh doanh cá thể Ở nước ta các hộ kinh doanh cá thể là đơn vị kinh doanh được điều chỉnh theo Nghị định 66/HĐBT ban hành ngày 02-03-1992. Gần đây Nghị định nay được thay thế bằng Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 18-02-2000. Không giống với những người bán hàng rong và những người cung cấp dịch vụ với thu nhập thấp – khu vực phi chính thức, hộ kinh doanh cá thể vẫn phải đăng ký kinh doanh và nộp thuế kinh doanh. Trước khi thực thi Nghị định số 02/2000/NĐ-CP, nếu hộ kinh doanh cá thể muốn thành lập doanh nghiệp họ phải có mức vốn pháp định không thấp hơn mức vốn pháp định được chính phủ quy định cho doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân. Do tính pháp nhân không đầy đủ nên có thể xem các hộ kinh doanh cá thể như khu vực “bán chính thức”. Các cuộc khảo sát đã cho ta thấy các con số khác nhau về hộ kinh doanh cá thể trong giai đoạn 1995-1997 như: gần 1.9 triệu hộ (tháng 7-1995) và 1.4 triệu (tháng 12-1996). Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, tổng số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tăng từ 1 triệu năm 1992 lên tới 1.7 triệu năm 1999. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới từ 1990-1995, do nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn, lao động việc làm của khu vực nay đã được phân bổ về các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể. Nhìn chung khu vực này phát triển rất nhanh và có xu hướng ngày càng tăng, trừ giai đoạn 1995-1996. Số lượng hộ kinh doanh cá thể ở nước ta giảm một cách đáng kể trong vòng 1 năm (1995-1996) là do có một số hộ đăng ký thành doanh nghiệp chính thức. Ngoài ra còn có 2 nguyên nhân khác, đó là việc thi hành Nghị định 36/CP ngày 29-5-1995 của Chính phủ yêu cầu đảm bảo an toàn và trật tự giao thông đô thị không cho phép một loạt các kinh doanh cá thể tiến hành công việc kinh doanh ven đường hoặc ở những nơi đặc biệt. Lý do thứ hai là phương pháp thống kê ở hai cuộc điều tra có những điểm khác nhau. Số liệu điều tra năm 1995 được thực hiện bằng phương pháp tổng điều tra và cán bộ điều tra đến từng hộ kinh doanh cá thể để phỏng vấn. Số liệu năm 1996 dựa vào điều tra bằng phiếu phỏng vấn do chính các hộ kinh doanh cá thể điền và một số hộ đã không gửi lại phiếu. Theo thống kê của Tổng Cục Thống Kê, tổng số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã lên tới 1.8 triệu hộ vào năm 2000 và đạt 2.1 triệu năm 2001. Việc tốc độ gia tăng số lượng các hộ kinh doanh cá thể ngày càng giảm đã chỉ ra một số khuynh hướng phát triển, trong đó có việc các hộ kinh doanh cá thể chuyển dần thành những doanh nghiệp chính thức mới do nhu cầu phát triển, nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên xu hướng này không hoàn toàn phổ biến. Trong thời gian này môi trường kinh doanh và khung pháp luật được cải thiện đã khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp dưới hình thức doanh nghiệp chính thức hơn là hộ kinh doanh cá thể. Từ khi thực khi Luật Doanh nghiệp 1999 (từ 1-1-2000) chỉ có 9% trong số các doanh nghiệp mới đăng ký chính thức được chuyển từ hộ kinh doanh cá thể. Số còn lại là các doanh nghiệp được thành lập mới hoàn toàn. Trung bình hộ kinh doanh cá thể tuyển dụng (kể cả chủ) khoảng 3.3 người cho một doanh nghiệp ở nông thôn, và 6.3 công nhân trong một doanh nghiệp ở khu vực thành thị. Tóm lại hầu hết các hộ kinh doanh cá thể là các doanh nghiệp cực nhỏ. Đa số hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là bán lẻ (xin xem bảng 2.2). Vì vậy phần đóng góp của hộ kinh doanh cá thể trong tổng sản phẩm công nghiệp chỉ có 12.3%, theo kết quả của Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp năm 1998, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999. Bảng 2.2: Phân bố các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và hộ kinh doanh cá thể theo hoạt động, 1997-1998 (Đơn vị %) Hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp 1997-1998 Doanh nghiệp tư nhân chính thức (năm 1998) Cả nước Nông thôn Thành thị Thương mại và dịch vụ 55.0 47.1 70.6 53.9 - Bán lẻ 36.6 33.3 43.2 Sản xuất và công nghiệp 26.3 31.1 16.5 27.6 - Chế biến thực phẩm 9.5 12.1 4.4 - Dệt may 6.9 6.4 8.0 Nông nghiệp, khai khoáng và các ngành nghề khác 18.7 21.8 12.9 18.5 Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 Nguồn: MPDF : Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam: Trên đường tiến tới phồn vinh, Leila Webster, Hà Nội, 1999. Các doanh nghiệp tư nhân chính thức thuộc diện vừa và nhỏ : Doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam được thành lập theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 199o. Các bộ luật này đã được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000. Luật Doanh nghiệp đưa ra 4 hình thức pháp lý cơ bản của doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Phần lớn các doanh nghiệp đăng ký dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Cho đến nay việc phân loại các doanh nghiệp theo quy mô vẫn chưa được thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Những tiêu chí phân loại theo quy mô đôi khi cũng rất khác nhau khiến cho việc tổng hợp số liệu cũng không thẻ thực hiện được một cách có hệ thống. Ta có thể xem xét cơ cấu của khu vực kinh tế tư nhân thông qua ba bảng dưới đây: Bảng 2.3: Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chính thức theo quy mô, 1998 1-100 lao động Trên 100 lao động Tổng cộng Số lượng 25399 622 26021 Số phần trăm 97.6 2.4 100.0 Nguồn: Tổng Cục Thống Kê năm 1999 Bảng 2.4: Phân loại cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại các vùng nông thôn theo quy mô (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) 1-10 lao động 11-50 lao động 51-100 lao động Trên 100 lao động Tổng cộng Cơ sở kinh doanh 52.7 37.2 4.6 4.5 100.0 Hộ kinh doanh phi nông nghiệp 98.7 1.2 0.6 - 100.0 Nguồn: Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn: Các ngành nghề nông thôn Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 1998. Bảng 2.5: Phân loại doanh nghiệp công nghiệp theo quy mô (không bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) 1-9 lao động 10-49 lao động 50-200 lao động Trên 200 lao động Tổng cộng Tổng cộng 34.41 32.89 18.90 13.80 100.0 Khu vực ngoài quốc doanh 46.33 39.77 9.77 4.14 100.0 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp năm 1998, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999. Từ 3 bảng trên ta thấy chúng minh chứng cho một kết luận là: doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa số trong khu vực kinh tế tư nhân. Nghiên cứu sự phân bố của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế tư nhân cho ta thấy một đặc điểm: sự không đồng đều và mất cân bằng. Phân bố theo địa lý: Miền Nam chiếm ¾ tổng số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam và chiếm hơn 80% số doanh nghiệp sản xuất; Riêng thành phố Hồ Chí Minh chiếm ¼ tổng số doanh nghiệp (12% doanh nghiệp sản xuất) và gần 1/3 số lao động trong các khu vực kinh tế tư nhân; Khoảng 18% các khu vực kinh tế tư nhân đặt tại Miền Bắc. Phân bố theo ngành: doanh nghiệp tư nhân phần lớn tập trung vào một số ngành; năm 1999 các doanh nghiệp làm thương mại chiếm gần một nửa trong tổng số doanh nghiệp tư nhân, sau đó là các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp xây dựng chiếm khoảng 27.6%. Những đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế: Đóng góp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân trong GDP: Đánh giá mức đóng góp của các doanh nghiệp nói trên trong GDP cả nước là rất khó tính toán vì cho đến nay số liệu về các khoản đóng góp vào GDP do Tổng cục Thống kê tính toán không được phân loại theo quy mô doanh nghiệp. Tuy nhiên như đã kết luận ở trên, tính về số lượng cơ sở kinh doanh thì hầu hết các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân đều là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thông qua đánh giá phần đóng góp vào GDP của các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể ta có thể đánh giá tương đối chính xác đóng góp của các PSSMEs. (tỷ lệ phân bố của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và hộ kinh doanh cá thể đã được trình bày trong bảng 2.2) Bảng 2.6 cho thấy phần đóng góp vào GDP của doanh nghiệp tư nhân chính thức thường xuyên giữ mức 7.5%. Phần đóng góp của hộ kinh doanh cá thể và trang trại vào GDP có giảm một ít từ 36% năm 1995 xuống còn 33.18% năm 1999. Phần đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước tăng lên 41.4% năm 1997 và giảm xuống 41% năm 1999. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7% lên hơn 10% GDP trong 5 năm cuối. Thực tế phần đóng góp 40.5% vào GDP của hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân chính thức (năm 1999) bao gồm phần đóng góp của các trang trại nông nghiệp và hộ kinh doanh nông nghiệp. Ước tính phần đóng góp của hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp là 19% GDP (số liệu không chính thức của Tổng cục Thống kê). Do vậy toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 26.31% GDP. Bảng 2.6: Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 1995-1999 (giá so sánh 1994) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổn._. coi là chính thức). Các tiêu chí để áp dụng mức thuế cũng không rõ ràng. Hy vọng rằng các giải pháp thuế quan này sẽ làm giảm bớt chi phí không đáng có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn trong môi trường quốc tế. Giảm thiểu sự quản lý quá mức của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Thanh tra kiểm tra: Như đã nói ở trên, trong ba loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì lạo hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân bị thanh tra kiểm tra nhiều nhất. Các cuộc thanh tra kiểm tra đó, không chỉ chồng chéo lên nhau gây lãng phí cho xã hội, chúng còn ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Đề nghị các cơ quan Nhà nước xem xét và tìm cách áp dụng một cách thích hợp kinh nghiệm của các nước khác trong vấn đề thanh tra, kiểm tra. Đặc biệt là kinh nghiệm của Nhật Bản trong vấn đề này: các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản tự nguyện xin được thanh tra và các thanh tra viên giúp họ chuẩn đoán công việc kinh doanh, khắc phục các vấn đề đang nẩy sinh và sắp nẩy sinh để tránh những hậu quả ngoài ý muốn. Bảng 3.1: So sánh môi trường kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp A: Thuận lợi B: Bình thường C: Khó khăn STT Tiêu chí so sánh Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp tư nhân 1 Về thành lập và đăng ký kinh doanh C B A 2 Về giải thể doanh nghiệp C B A 3 Về phá sản doanh nghiệp C B A 4 Về vay vốn và tham gia và tham gia vào thị trường vốn A B C 5 Tuyển dụng lao động B C A 6 Chính sách tiền lương, tiền công C B A 7 Thuế và các chính sách tài chính B A C 8 Chính sách đất đai A B C 9 Chuyển giao công nghiệp và sở hữu công nghiệp C A B 10 Hợp tác liên doanh với nước ngoài A B C 11 Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương mại A B C 12 Thanh tra kiểm tra doanh nghiệp B A C (Nguồn: Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền cạnh tranh, NXB Giao thông Vận tải, 2002 thuộc Dự án Hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/016) Các chi phí vật chất và tinh thần phát sinh trong quá trình thanh tra sẽ làm giảm đi các nguồn lực mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dành cho hoạt động kinh doanh quốc tế. Bằng việc làm giảm bớt các hoạt động thanh tra và trao quyền tự chủ hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước đã làm tăng thêm khả năng hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp này, giúp họ có thêm cơ hội và hội nhập quốc tế tốt hơn. Phát triển các làng nghề và làng nghề truyền thống Hiện nay cả nước có 1450 làng nghề trong đó có 300 làng nghè truyền thống, thu hút khoảng 4 triệu lao động thu hút khoảng 4 triệu lao động. Mô hình về sự phát triển thành công của làng nghề Bát Tràng là một ví dụ điển hình của sự phát triển kết hợp công-nông-tiểu thủ công nghiệp tại các vùng nông nghiệp. Cùng lúc mô hình này đã giải quyết được cả các vấn đề kinh tế và xã hội tại các vùng nông nghiệp, duy trì và phát triển văn hoá, bản sắc dân tộc trong kinh doanh , khôi phục thị trường trong nước và tạo hình ảnh của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tại một số tỉnh Miền Bắc như Hà Tây, Bắc Ninh, mô hình làng nghề cũng đang được nhân rộng. Bên cạnh mô hình một nghề, Bắc Ninh còn xây dựng các cụm công nghiệp đa nghề. Hiện nay đã có cụm sản xuất thép Đa Hội – Châu Khê, cụm sản xuất đồ gỗ mĩ nghệ Đông Quang và cụm Tân Hồng - Từ Sơn và các cụm khác đang được hình thành. Những hình ảnh về làng nghề đang dần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và sửa sang cho bộ mặt của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân ở nông thôn. Tuy nhiên việc phát triển các làng nghề hiện nay đang gặp phải nhiều khó khăn. Tại các tỉnh, các làng nghề vẫn chưa được qui hoạch phát triển dài hạn, chủ yếu vẫn mang tính tự phát, quy mô sản xuất nhỏ bé, phân tán và chưa được sự quan tâm đúng mức của các cơ quan chính quyền địa phương. Cơ sở hạ tầng hiện tại chưa tương xứng với sự phát triển làng nghề, thiếu mặt bằng sản xuất, đường giao thông nông thôn xuống cấp, điện sản xuất không đủ công suất. Vốn cho phát triển làng nghề bị hạn chế, thêm vào đó khi cần vay vốn các thủ tục còn kéo dài, khó huy động các nguồn vốn khác vào sản xuất kinh doanh.Thiết bị công nghệ tại các làng nghề chủ yếu vẫn là thủ công nửa cơ khí nên năng suất và chất lượng không cao, và chưa đồng đều, ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của hàng hoá. thị trương tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến, khả năng cạnh tranh thấp. Ngoài ra các vấn đề về môi trường vẫn chưa được xem xét một cách đầy đủ khi xây dựng phát triển làng nghề. Để tạo thuận lợi cho việc phát triển các làng nghề, ngoài việc trông mong vào các chính sách khuyến khích của Nhà nước, các làng nghề nên tập hợp sức mạnh nội lực, thành lập các hiệp hội theo ngành hàng. Theo đó từng bước quy hoạch phát triển mở rộng thị trường theo làng nghề, giúp lẫn nhau về thông tin thị trường, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến thương mại qua nhiều mối quan hệ trong và ngoài nước, thành lập các tổ chuyên môn giới thiệu sản phẩm, quảng bá sản phẩm trên mạng, xây dựng nhãn hiệu hàng hoá của làng nghề. Các làng nghề là nơi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hình thành và hoạt động có hiệu quả và tận dụng được các nguồn lực địa phương. Bằng việc tổ hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp trong một làng nghề, các doanh nghiệp đó có thể làm giảm thiểu chi phí trông việc quảng bá hình ảnh sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế và cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Đây là môi trường thuận lợi nhất để các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ của nước ta hoạt động mà vẫn có thể cạnh tranh với nước ngoài. Tăng cường nghiên cứu , phát triển chiến lược khai thác thị trường “ngách”. Thị trường “ngách” là cách gọi những khoảng trống, khe hở trên thị trường chính, tồn tại nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó mà các công ty tập đoàn chiếm lĩnh thị trường đó không phát hiện ra hoặc cho rằng đầu tư vào đó không có lợi thế. Các khe hở đó bao giờ cũng được các doanh nghiệp vừa và nhỏ tận dụng triệt để ,vì đó có thể nói là “nguồn sống” của họ khi họ không thể cạnh tranh với các tập đoàn bá chủ thị trường lớn. Thị trường ngách phù hợp với kích cỡ quy mô không lớn của các doanh nghiệp nhỏ, không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn, tránh được cạnh tranh trực tiếp hết sức nguy hiểm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chuyên môn hoá phục vụ một nhóm khách hàng cụ thể hoặc chuyên môn hoá môt hay vài khâu theo chiều dọc của một chu kì sản xuất-phân phối, chuyên môn hoá theo khu vực địa lý, theo mặt hàng và/hoặc một vài đặc tính chuyên nghề của một số nhóm sản phẩm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hạn hẹp về tài chính,, khả năng xâm nhập thị trường lớn tương đối thấp, khả năng điều tiết các mối quan hệ có lợi cho mình về giá cả và số lượng gần như không có, mạng lưới thông tin thị trường gần như không có, đầu tư cho R&D thấp nên việc phát triển thị trường ngách đặc biệt quan trọng. Sự phù hợp trong việc nhắm đích vào thị trường ngách còn thể hiện ở chỗ: với lượng vốn đầu tư nhỏ, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng thấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ đầu tư kinh doanh đáp ứng nhóm nhu cầu nhỏ, mức rủi ro thấp, có khả năng kiểm soát dòng vốn thuận tiện. Hơn nữa do có sự gần gũi thị trường nên những biến động trong nhu cầu dễ được doanh nghiệp phát hiện ra và điều chỉnh cung ứng, thêm vào đó do quy mô nhỏ nên sự chuyển giao công nghệ cũng được tiến hành gọn gàng và ít phức tạp. Điều này tạo lợi thế lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực cạnh tranh, linh hoạt và năng động thích nghị nhanh với đòi hỏi của thị trường. Tại một số địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ thương sử dụng những lao động thuộc chuyên môn làng nghề hoặc lao động trong thời kì nông nhàn và kết hợp chặt chẽ lao động thủ công với công nghệ hiện đại, điều này các doanh nghiệp lớn khó thực hiện do biên chế và bộ máy cồng kềnh. Do quy mô nhỏ nên chi phí cho bộ máy quản lý, hạ tầng cơ sở và các khoản chi phí hành chính khác cũng đỡ tốn kém hơn. Với các khoản chi phí đã tiết kiệm được , doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tập trung cho sản xuất nâng cao chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Thực tế trên thương trường trong nước và quốc tế đã cho thấy những bài học kinh nghiệm trong khai thác thành công thị trường ngách của các công ty Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai khi cạnh tranh với các công ty của Mỹ và Châu Âu, sự phát triển từng bước của Sony đặc biệt với sản phẩm Walkman. Các quốc gia khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong, Singapore... cũng đã chú ý áp dụng thị trường ngách để khẳng định vị thế của mình trên thương trường quốc tế. Việt Nam với đặc điểm phát triển kinh tế của mình đang gặp phải những thách thức to lớn. Các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải tiếp cận các thị trường nước ngoài đã có người làm chủ là những tập đoàn lớn có sức mạnh hùng hậu về kỹ thuật, công nghệ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm... Thị trường ngách là câu trả lời hợp lý nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta. Tư tưởng nhất quán trong việc khai thác thị trường này là phải kinh doanh những sản phẩm/dịch vụ mà khách hàng cần chứ không bị bó chặt vào những năng lực có sẵn của doanh nghiệp. do vậy doanh nghiệp cần phải lấy việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng làm bước khởi phát cho mọi hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khai thác nắm bắt nhu cầu khách hàng có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: hỏi trực tiếp khách hàng, quan sát thị trường và hoạt động kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh, khai thác thông tin từ hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc qua mối quan hệ bạn bè, gia đình. Các chủ doanh nghiệp cần có khả năng nhìn ra những vấn đề mà người chưa nhìn ra, nhận ra những nhu cầu tiềm năng mà thậm chí ngay cả khách hàng còn chưa hình dung được một cách đầy đủ. Tiếp đó phải tận dụng mọi thời cơ và nguồn lực cho việc khai thác thị trường, ở điểm này sự cẩn trọng và quyết đoán nhanh là những đức tính cần thiết nhất đối với chủ doanh nghiệp. Chi phí cơ hội phải trả sẽ là rất lớn cho những ai không nắm bắt đúng thời cơ. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt, phần thắng sẽ thuộc về những ai “biết mình biết người”, linh hoạt lúc công lúc thủ, biết chọn người để hợp tác kinh doanh và biết giữ chữ tín trong làm ăn. Với thực lực của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần định hướng khu vực thị trường mục tiêu tại những nơi mà đối thủ cạnh tranh lớn bỏ qua, hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu, phần thị trường có mức cạnh tranh thấp hoặc nơi mà đối thủ cạnh tranh ít quan tâm đổi mới, cải tiến mẫu mã sản phẩm. Khi phán đoán xác định mức cầu tại các thị trường này, doanh nghiệp cần làm rõ cấu trúc của cầu, tỷ trọng thu nhập dân cư và sức mua tiềm năng; sự chuyển biến về quy mô và cơ cấu người tiêu dùng thường là thời điểm tốt nhất để doanh nghiệp nhận ra thị trường ngách. Với vùng thị trường ngách, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải lựa chọn và quyết định phương án kinh doanh. Một phương án kinh doanh tốt phải có tính khả thi cao, đáp ứng những yêu cầu về kinh tế (doanh thu, lợi nhuận), xã hội (công ăn việc làm, chất lượng cuộc sống, môi trường) và khả năng tồn tại lâu dài. Trong các phương án kinh doanh được lựa chọn, dựa vào đặc trưng của nhóm khách hàng mục tiêu, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dự tính các cách thức đáp ứng với các giải pháp markerting hữu hiệu, như thiết kế các sản phẩm đảm bảo các đặc tính, lợi ích tiêu dùng, chất lượng thích hợp, có chính sách định giá hợp lý, thiết kế các kênh phân phối nhằm kiểm soát được sức tiêu thụ của hàng hoá và hỗ trợ bán hàng bằng các hạot động xúc tiến thương mại (quảng cáo, khuyến mại, tuyên truyền cổ động...). Trong khi xây dựng các giải pháp marketing, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nỗ lực xây dựng năng lực chủ chốt của mình để làm cơ sở cho sự khác biệt hoá, tạo ra tính đơn nhất của sản phẩm/dịch vụ và danh tiếng uy tín của thương hiệu. Trong kinh doanh cho dù mọi trù tính có cẩn trọng đến đâu cũng không phải lúc nào cũng thành công như ý muốn. Trong những tình thế khó khăn doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần lưu ý đến những rủi ro có thể, và tính đến đường rút an toàn cho doanh nghiệp. Thông thường việc rút lui cũng phải vấp phải một số khó khăn do phải thanh lý các tài sản cố định, hoặc mất một số khách hàng quen thuộc, thậm chí ảnh hưởng cả đến nhãn hiệu hàng hoá. Nhưng chủ động đối phó vẫn luôn được coi là đơn thuốc trị bệnh hiệu quả hơn cả. Điều quan trọng là nhu cầu thị trường luôn biến động, nếu một phần thị trương này bị lấp đầy thì chắc chắn sẽ có những lỗ hổng thị trường khác chưa được đáp ứng, điều này sẽ tạo thêm sự tự tin và sức hấp dẫn khai phá thị trường của các chủ doanh nghiệp. Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Giống như rất nhiều các nước đang phát triển trên thế giới, ở Việt Nam thị trường vốn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hai kênh cơ bản: kênh chính thức và kênh phi chính thức. Kênh tài chính chính thức có các nhà cung cấp vốn vay là các ngân hang thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh , chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính và công ty thuê mua tài chính. Trong các đơn vị này thì các ngân hàng thương mại quốc doanh gần như thống trị thị trường vốn vay. Về vấn đề thế chấp tài sản : có hai vấn đề ảnh hưởng nặng đến việc vay ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ có liên quan đến thủ tục thế chấp tài sản. Thứ nhất là thị trường bất động sản kém phát triển. Thứ hai là công tác đánh giá chất lượng tài sản thế chấp nằm trong tay ngân hàng nên ngân hàn đã lợi dụng để đánh giá thấp giá trị tài sản so với giá thực của nó. Về các quy định chi phối việc cho vay: các quy định này do Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng quy định. Chúng cụ thể tới mức các doanh nghiệp có thể tự xác định xem mình có hy vọng tiếp cận nguồn vốn đó hay không. Trong rất nhiều trường hợp doanh nghiệp không nỗ lực gì vì họ biết ngay là mình chẳng có hy vọng gì. Chẳng hạn như quy định về doanh nghiệp phải có uy tín với ngân hàng (doanh nghiệp vay lần đầu chịu chết) hay doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp (doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ gặp khó khăn). Kết cục của vấn đề là doanh nghiệp đói vốn còn ngân hàng thì ứ đọng vốn. Để giải quyết vấn đề người viết xin đề xuất hai điều sau: Thành lập một cơ quan riêng rẽ với ngân hàng có nhiệm vụ đánh giá tài sản thế chấp. Cơ quan này sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu đánh giá sai. Nới lỏng các quy định liên quan đến các khoản vay dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháo bỏ các điểm bất hợp lý và nói chung là thoáng hơn. . Một ví dụ về hội nhập quốc tế là việc thâm nhập vào một thị trường mới của một quốc gia khác. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cần có vốn để tiến hành điều tra thị trường mở rộng, thiết lập mạng lưới phân phối hàng thông qua các cửa hàng sẵn có của địa phương, tiến hành quảng cáo... Tất cả các hoạt động đó đòi hỏi một lượng vốn mà nói chung là vượt xa các nguồn dự trữ sẵn có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam. Các vấn đề về vốn là rào cản đầu tiên đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc mở rộng kinh doanh và xâm nhập thị trường mới. Để hội nhập quốc tế thành công, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân cần có một số vốn ban đầu nhất định. Bằng việc tạo điều kiện cho các PSSME có thể vay vốn dễ dàng, Nhà nước cũng đã khiến cánh cửa hội nhập quốc tế của họ mở ra. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân lực và quản trị trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Nâng cao năng lực kinh doanh : Nguồn nhân lực là một trong những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tồn tại được trên thị trường với hạn chế về nguồn lực do đặc trưng quy mô nhỏ, đội ngũ cán bộ quản trị của doanh nghiệp phải có một tư duy năng động và có năng lực kinh doanh tốt. Để nâng cao được năng lực kinh doanh bằng việc phát triển các kĩ năng quản trị chiến lược, các nghiệp vụ về marketing, kế toán tài chính, nhân sự và thông tin. Với tư duy marketing, việc lựa chọn chuẩn xác thị trường mục tiêu để theo đuổi sẽ mở đầu cho một loạt các cơ hội đầu tư đúng, định vị sản phẩm trong các nhóm khách hàng trọng điểm, tổ chức chủ động đáp ứng nhu cầu khách hàng. Với tiêu điểm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu khách hàng , các công cụ marketing-sản phẩm phù hợp, mức giá thoả đáng, hệ thống phân phối tiện lợi, khuyếch trương hợp lý- sẽ giúp công ty kiểm soát tốt hoạt động sản xuất kinh doanh . Cùng với các hoạt động marketing, công tác tài chính-kế toán nhằm tạo ra sự lưu thông trong hệ thống huyết mạch của công ty, sẽ cho phép công ty kiểm soát đầy đủ sự vận động của các dòng tiền và tính chi tiết của các dạng chi phí. Quản trị tốt về tài chính là một yêu cầu quan trọng cho phép doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận định về thời điểm có thể tạo ra những bước đột phá trong danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đồng thời nhân nhanh giá trị của vốn đầu tư. Năng động trong tiếp thu các tri thức mới Nhu cầu tri thức cho phát triển cần thiết tất cả mọi người, thuộc mọi tầng lớp, nghề nghiệp, mọi lĩnh vực kinh tế xã hội của quốc gia. Tri thức phục vụ phát triển bao gồm cả tri thức bản địa và tri thức hiện đại du nhập từ bên ngoài. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các quốc gia cũng như các doanh nghiệp cần có chương trình hành động sử dụng tri thức cho phát triển với một môi trường thể chế kích thích kinh tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học , nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường trao đổi thông tin, phổ biến tri thức và công nghệ tới khu vực sản xuất và dịch vụ, chuyển giao tri thức và công nghệ hiện đại, khai thác kết cấu hạ tầng viễn thông, mở rộng khả năng truy cập các nguồn thông tin trên thế giới mà trong đó Internet là một phương tiện chính. Những dấu hiệu tích cực trong thời gian gần đây cho thấy mức độ sử dụng máy tính cá nhân của Việt Nam tăng đáng kể, số lượng truy cập Internet cũng đang có chiều hướng gia tăng. Từ khi chính thức đi vào hoạt động tháng 11 năm 1997 , đến nay số điểm truy cập Internet đã phủ kín các tỉnh trên toàn quốc, với trên 70 000 thuê bao. Theo số liệu của Ban Khoa giáo Trung ương Đảng (9/2000) tỷ lệ sử dụng kết cấu hạ tầng bình quân trên 100 dân của Việt Nam (so với thế giới) là : (trên 100 dân) Điện thoại Điện thoại di động Máy thu hình Máy tính cá nhân Thuê bao Internet Việt Nam 2.1 0.2 18 0.5 0.001 Thế giới 14.4 4.0 28 5.8 0.01 Dịch vụ thông tin liên lạc hiện nay của Việt Nam còn hạn chế trong khu vực kinh tế nhà nước, do Nhà nước nắm độc quyền phát triển và khai thác các mạng thông tin liên lạc, nắm sở hữu hoàn toàn các cổng (gateway), nắm quyền định giá thống nhất. Do vậy, so với các nước trong khu vực giá cước dịch vụ còn rất cao : giá thuê bao đường truyền 64Kb của Việt Nam cao gấp 1.5 lần so với Thái lan, 3.1 lần so với Malaysia và 4.2 lần so với Singapore. Ngày 8/2/2002 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định QĐ 33/2002/QĐ-TTg Phê duyệt kế hoạc phá triển Internet Việt Nam 2001-2005, theo đó đến năm 2005, tỷ lệ dân sử dụng Internet là 4-5%, mật độ bình quân là 1,3-1,5 người thuê bao Internet/100 dân và đến 2010 tỷ lệ dân sử dụng Internet đạt mức trung bình trong khu vực. Để tạo điều kiện cho người dân nói chung và nguồn lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam nói riêng có thể tiếp cận và sử dụng các tri thức mới đặc biệt là các tri thức liên quan tới Internet, nhà nước cần giảm chi phí sử dụng các dịch vụ liên lạc viễn thông đặc biệt là các dịch vụ Internet. Về phần các doanh nghiệp, để xây dựng tinh thần năng động trong tiếp thu cái mới thì họ cần phải chủ động thực hiện điều này. Đây là một việc mà kết quả của nó không phải là hữu hình và thấy ngay được nên đòi hỏi xí nghiệp phải kiên nhẫn và kiên trì thực hiện. Điểm quan trọng nhất đối với doanh nghiệp là phải quyết tâm xây dựng tinh thần này. Sau đó thì mỗi doanh nghiệp có thể tìm thấy con đường riêng cho mình. Trong thời đại hiện nay, các thông tin về thị trường biến đổi liên tục cùng với sự thay đổi của công nghệ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam khi hội nhập quốc tế sẽ phải đối mặt với một thực tế là sự biến động nhanh chóng của thị trường và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ ở đội ngũ cán bộ và người chủ doanh nghiệp. Bằng việc nâng cao năng lực kinh doanh với một tinh thần sẵn sàng tiếp thu các tri thức mới, các doanh nghiệp này sẽ có một cơ hội tốt hơn khi cạnh tranh ở nước ngoài trong một môi trường có mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn trong nước rất nhiều. Thương mại điện tử Thương mại điện tử là hoạt động sử dụng các giải pháp điện tử trên nền Internet/website để thực hiện các quan hệ giao dịch và trao đổi thương mại. Thông thường các quan hệ giao dịch và trao đổi được thực hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và giữa doanh nghiệp với khách hàng (B2C). Về cơ bản, thương mại điện tử có các hoạt động sau: àQuảng cáo. àĐặt hàng trực tuyến. (giao hàng qua các con đường bình thường) àMua bán hàng hoá và dịch vụ trên mạng (các sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó là các phần mềm). àCác nghiệp vụ Marketing được tiến hành qua mạng. àCác dịch vụ hậu mãi tiến hành được trên mạng (Các dịch vụ hỗ trợ kĩ thuật...). àCác dịch vụ giúp khách hàng phản hồi lại ý kiến về doanh nghiệp. àCác dịch vụ luân chuyển tiền trên mạng Thương mại điện tử là một trong những công cụ hữu hiệu trong thời đại “kinh doanh thành công nhờ tư duy tốc độ”, nó giúp cho cả người mua và người bán có thông tin rộng rãi về các loại hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ, thông tin giá cả, tạo cơ hội cho sự lựa chọn mua sắm hiệu quả của người tiêu dùng. Nhờ có kinh doanh điện tử khách hàng sẽ dễ dàng thực hiện các giao dịch với công ty, rút ngắn thời gian giao dịch, cải thiện dịch vụ với khách hàng, thoả mãn cao hơn nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cung cấp những thông tin cơ bản về sản phẩm và dịch vụ của mình 24/24h và 7 ngày/tuần, đồng thời các doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng truy cập vào trang web của mình để tìm hiểu thêm nhu cầu của khách hàng, về nhữgn thói quen và hành vi mua sắm của khách, điều này giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội bán hàng với các loại sản phẩm, đồng thời chủ động tiếp thị các sản phẩm mới. Mặt khác thương mại điện tử không chỉ giúp công ty có thêm khách hàng mà còn giúp công ty có thêm các mối quan hệ bạn hàng(lựa chọn nhà cung cấp) tốt hơn nhờ hoạt động mua hàng trực tuyến (e-procurement). Một doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng thông tin từ Internet để so sánh giá cả từ nhiều nàh cung cấp, cho phép họ thương lượng với những điều kiện tối ưu về giá, và thông qua Internet để đơn giản hoá các thủ tục mua hàng, hoá đơn, giấy biên nhận, hồ sơ đơn đặt hàng. Trong tương lai, với sự hỗ trợ của thương mại điện tử, các ngành kinh doanh điện toán, viễn thông, tài chính, bán lẻ, du lịch và công nghiệp năng lượng sẽ có nhiều thay đổi về phương thức quản lý, kinh doanh, giảm chi phí giao dịch, đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng. Việt Nam, trong một cuộc điều tra năm 2001 của Bộ Thương mại tiến hành trên 70 000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cho thấy, chỉ có 3% doanh nghiệp quan tâm đến thương mại điện tử, 7% bắt đầu triển khai thương mại điện tử và 90% doanh nghiệp không có chút khái niệm gì về thương mại điện tử. Theo báo cáo tại Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực về thương mại điện tử trong khu vực sông Mêkông” ngày 8/10/2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chỉ có 2% doanh nghiệp Việt Nam có website, 8% tham gia có tính chất phong trào, còn lại 90% chưa tham gia, chưa biết sử dụng. Năm 198 KPMG cũng đã tiến hành một điều tra về khả năng áp dụng thương mại điện tử ở Việt Nam, hơn 90% cho rằng trở ngiạ chính cho việc áp dụng thương mại điện tử là sự thiếu niềm tin về độ an toàn, 90% cho rằng xây dựng trang web cho doanh nghiệp là để mở rộng kênh truyền thống hiện có và tạo kênh mới cho các hoạt động marketing, bán sản phẩm và giảm chi phí. Hoạt động của Internet tại Việt Nam chính thức từ tháng 11/1997, đến nay số điểm truy cập Internet đã phủ kín toàn quốc, có trên 70 000 thuê bao, 1 nhà cung dịch vụ truy cập Internet độc quyền VDC, 5 nhà cung cấp dịch vụ Internet và 16 nhà cung cấp nội dung Internet (theo “Một khuôn khổ cho kế hoạch hành động về tri thức của Việt Nam giai đoạn 2001-2005” TS. Lê Đình Tiến, trong Kỉ yếu hội thảo quốc tế-Sử dụng tri thức phục vụ phát triển đối với Việt Nam. NXB Văn hoá Thông tin) , hiện cả nước có hơn 4000 trang web (theo Thương mại điện tử với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB Thống kê) 38% các trang web thuộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh, và dự báo năm 2003 doanh thu của thương mại điện tử Việt Nam đạt mức 10% tổng doanh thu thương mại. Bảng 3.4: So sánh giữa Việt Nam và thế giới (Phương tiện giao tiếp viễn thông) Bình quân /100 dân Điện thoại Điện thoại di động TV PC Internet Việt Nam 2.1 0.2 18 0.5 0.001 Trung bình thế giới 14.4 4.0 28 5.8 0.01 Nguồn: Ban Khoa giáo Trung ương Đảng 9/2000 Sự phát triển của thương mại điện tử là một trong những bước tiến lớn nhằm làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi chi phí để tổ chức thương mại điện tử vẫn còn cao, kinh nghiệm sử dụng thương mại điện tử chưa nhiều, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần lưu ý một số điểm để nâng cao hiệu quả sử dụng thương mại điện tử: Thứ nhất: ý thức đầy đủ vai trò tiềm năng thực sự của Internet và tiến hành tận dụng chúng. Trong khi xây dựng và sử dụng các trang web đội ngũ cán bộ quản lý nên có hiểu biết về thương mại điện tử để chủ động hơn, không nên “khoán trắng” cho các thông tin viên, trong việc lựa chọn các công cụ, giải pháp, tiện ích, thông tin và nguồn thông tin thích hợp cho mục đích của mình trên Internet. Thứ hai: không chỉ xây dựng một trang web thôi mà còn phải nâng cấp, cập nhật thông tin thường xuyên. Đây là một lỗi hay mắc phải của các doanh nghiệp chưa hiểu rõ lắm về Internet và e-commerce. Sự đổi mới thông tin liên tục trên trang web không chỉ có ý nghĩa cụ thể về kinh doanh (thông báo kịp thời các thông tin cho khách hàng...), nó còn tạo ra một bộ mặt trên mạng của doanh nghiệp. Thứ ba: Website không thay thế được các công cụ truyền thống của kinh doanh như marketing và các kỹ thuật khác. Song song với việc sử dụng website cần phải sử dụng các kĩ thuật kinh doanh khác để bổ sung cho nó. Trong tương lai e-commerce có thể sẽ tiến hoá đến mức thay thế cho các nghiệp vụ truyền thống nhưng hiện tại thì vẫn cần đến marketing. Những rào cản hiện nay đối với sự phát triển của thương mại điện tử là : Chi phí sử dụng và truy cập Internet quá cao so với khu vực và quốc tếà Chi phí cơ hội của khoản đầu tư vào website doanh nghiệp cao. Số người sử dụng Internet ở Việt Nam tuy nhiều nhưng chưa thể bằng các nước khác, số giờ và số lần trên mạng (websurf) . Lượng chưa đủ để biến thành chất An toàn trên mạng (Security): mối đe doạ của tin tặc (Breakers, Phreakers), virus máy tính... Sự phát triển của hệ thống tài chính: các giao dịch trên mạng trong nhiều trường hợp có đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng... (tài chính điện tử) Các công cụ của thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm bớt chi phí kinh doanh trong một số hoạt động. Khi tiến hành các hoạt động kinh tế quốc tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam sẽ có thêm được cơ hội. Họ có thể cạnh tranh với các công ty tập đoàn lớn thông qua mạng mà không gặp nhiều cản trở như ở trên các môi trường kinh doanh khác. Các chủ doanh nghiệp phải có một thái độ tích cực trong việc tiếp thu và tận dụng các kiến thức mới cũng như Chính phủ phải có biện pháp giúp các doanh nghiệp tiếp cận các tri thức này một cách hữu hiệu nhất, đó là nền tảng cốt lõi hiện nay của giải pháp Thương mại điện tử. Kết Luận Đối với một bài luận văn tốt nghiệp, đây là một đề tài khá lớn. Những điều nói đến trong này là những nghiên cứu mà em thực hiện trong thời kì gần đây. Một đề tài lớn như vậy mà lại chỉ do một sinh viên thực hiện thì điều không tránh khỏi là khá nhiều mảng của đề tài này đã bị bỏ qua, hoặc do em không đủ khả năng thực hiện toàn bộ hoặc do kiến thức không đủ. Tuy nhiên những điều em viết ra là những điều em đã tìm hiểu, đã rất tâm đắc trong quá trình nghiên cứu của mình. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế là rất to lớn. Khu vực này giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng rất lớn lao động và đóng góp vào GDP Việt Nam một khoản đáng kể. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này còn tận dụng được các nguồn lực địa phương mà các doanh nghiệp lớn có thể đã bỏ qua. Tuy nhiên, dù có nhiều ưu điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân vẫn còn các hạn chế, khó khăn cả về chủ quan và khách quan. Các khó khăn này khiến cho họ không thể hội nhập môi trường quốc tế một cách hoàn toàn đầy đủ và hiệu quả được. Luận văn này đã nêu lên các hạn chế, khó khăn đó. Các giải pháp được đề nghị sử dụng để giải quyết các khó khăn hạn chế đó có một số đã và đang được áp dụng như giải pháp Làng nghề truyền thống. Các giải pháp mới như Thị trường “ngách” đang được các cơ quan nghiên cứu. Tuy nhiên giải pháp này và giải pháp Thương mại điện tử là hai giải pháp em rất tâm đắc. Hai điều này phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù là của Việt Nam hay của thế giới, cho phép tập trung nguồn lực có hạn vào các mục tiêu hẹp để đạt được hiệu quả lớn nhất. Các giải pháp em nêu lên trong bài có một đặc điểm là hơi thiên về tầm vĩ mô. Tuy một số giải pháp có thể được doanh nghiệp sử dụng nhưng phần lớn chúng đều đòi hỏi sự thực hiện của các cơ quan Chính phủ. Điều này có khó khăn là các doanh nghiệp nếu chỉ dựa vào các giải pháp đó sẽ không chủ động được. Đó là hạn chế của em vì không tìm được các giải pháp tốt hơn. Hy vọng trong tương lai em có thể trở lại đề tài này với sự chín chắn hơn về kinh nghiệm và kiến thức để hoàn thiện nghiên cứu này. Hà Nội ngày 28 tháng 5 năm 2003 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37147.doc
Tài liệu liên quan