Lời cảm ơn
Trong thời gian thực tập tại Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, chuyên đề thực tập tốt nghiệp đã được hoàn thành. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Khoa học quản lý; các cán bộ trong Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội và phòng Nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là cô giáo Trần Thuý Sửu - Khoa Khoa học quản lý; TS Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Huy Dương - Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong việc chọn đề tài, viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp, ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn cũng như trong công tác nghiên cứu khoa học.
Em xin chân thành cảm ơn.
lời nói đầu
Cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động đầu tư nước ngoài đang có xu hướng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Quá trình hợp tác hoá diễn ra trên thế giới với tốc độ nhanh, mạnh và bền vững. Do vậy, không một quốc gia nào đứng ngoài vòng của sự phát triển chung. Hội nhập - hợp tác - phát triển là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật tự nhiên. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nhận định: "Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia... Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế - thương mại.."
Đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài, là một hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Đây là một hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển, đặc biệt là sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong tình hình hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra những cơ hội và thách thức chưa từng có cho các nước đang phát triển, nơi thiếu vốn - công nghệ - kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến. Vì vậy, hiện nay không chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển đều cố gắng tranh thủ thu hút vốn FDI nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trên cơ sở tạo ra bước đột phá trong một vài lĩnh vự quan trọng.
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Luật đầu tư nước ngoài ra đời thì hoạt động FDI ngày càng được đánh giá cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội. Trong thực tế, FDI đã đem lại những đóng góp đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, FDI có xu hướng giảm sút. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì trong giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cần phát triển vững chắc, tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Do vậy, đề tài: "Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010" là một vấn đề bức xúc và mang tính thời sự trong hoạt động kinh tế của Thủ đô. Đề tài này được lựa chọn và nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến nghị góp phần khắc phục những tồn tại và đẩy mạnh công tác huy động và sử dụng nguồn vốn FDI.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực về vai trò, nội dung, đặc điểm của nguồn vốn FDI.
- Phân tích và đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn FDI ở Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu và mạng tính khả thi để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng FDI nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng tong giai đoạn 2001 - 2010.
Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề được nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, sử dụng tổng hợp các quan điểm đổi mới của Đảng và nhà nước thể hiện trong các nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, các nghị quyết của các hội nghị trung ương sau Đại hội, các nghị quyết của Thành uỷ Hà Nội, phương hướng phát triển kinh tế của Thành phố Hà Nội. Bên cạnh các phương pháp truyền thống như: phương pháp logic, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp nghiên cứu và khảo sát thực địa, phương pháp đồ hoạ, phương pháp so sánh, phương pháp toán kinh tế còn sử dụng một số phương pháp mới: phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia.
Nội dung kết cấu của chuyên đề:
Đề tài: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương i: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoaì trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Chuyên đề có các bảng số liệu, sơ đồ và phụ lục.
Do thời gian và trình độ có hạn nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, bạn bè và những người quan tâm tới vấn đề này để cho đề tài được hoàn thiện hơn.
Lời cam đoan: Em xin cam đoan nội dung chuyên đề là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác, nếu sai phạm em xin chịu kỷ luật của nhà trường.
Hà Nội ngày 5/ 6 / 2000
Sinh viên
Trần Thị Thanh Hương
Chương 1
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhưng đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài vẫn còn là một vấn đề hết sức mới mẻ . Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được những mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo.
1. Đầu tư nước ngoài
1.1 Đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Vốn đầu tư bao gồm:
- Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý..
- Hiệnvật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng..
- Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phát minh, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá...
- Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các chứng từ có giá khác.
Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính (đó là việc sử dụng tiền vốn nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu).
- Thời gian đầu tư thường tương đối dài (từ 2-70 năm hoặc lâu hơn nữa).
Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm thường không gọi là đầu tư.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong hiện tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng cao khi nhà đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài.
Phân loại đầu tư:
- Theo phạm vi quốc gia:
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư ngoài nước.
- Theo thời gian sử dụng:
+ Đầu tư ngắn hạn.
+ Đầu tư trung hạn.
+ Đầu tư dài hạn.
- Theo lĩnh vực kinh tế:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư vào sản xuất công nghiệp.
+ Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
+ Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên.
+ Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ.
+ Đầu tư vào lĩnh vực tài chính.
- Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
+ Cho vay (tín dụng).
Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
1.2 Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Vốn đó có thể là vốn nhà nước, vốn tư nhân hoặc vốn của các tổ chức tài chính quốc tế.
Các hình thức đầu tư nước ngoài:
- Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn (viện trợ không hoàn lại) hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, họ được hưởng lợi tức thông qua phần vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp bao gồm:
+ Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official Development assistance - ODA). Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu mức lãi xuất thấp còn thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng dự án. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính trị.
+ Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Government organization- NGO): Tương tự như nguồn vốn ODA nhưng do các tổ chức phi chính phủ viện trợ cho các nước đang thiếu vốn. Đó là các tổ chức như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)...
+ Tín dụng thương mại: là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia.
+ Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cố phiếu...Đây là nguồn vốn thu được thông qua hoạt động bán các chứng từ có giá cho người nước ngoài. Có quốc gia coi việc mua chứng khoán là hoạt động đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, hoặc hợp tác liên doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu được lợi nhuận.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nươc ngoài là một trong những nguồn vốn tài chính đưa vào một nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức hợp tác kinh doanh giữa các quốc gia trên thế giới, với những đặc thù riêng về mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào hoạt động sản xuất kinh doanh, về sự gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý, về tính chất lâu dài của dự án...
2.1. Khái niệm.
FDI đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi hình thức này mới xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
- Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977):
Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó.
- Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991): Đầu tư trực tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận.
- Theo Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 )
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ.
- Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 12/11/1996, tại Điều 2 Chương 1:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
2.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ quản lý...Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và công nghệ).
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án” (Trừ những trường hợp do chính phủ quy định).
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quảnlý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia (chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới). Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp (vì họ có mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó.
- Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF (official Development Foreign) thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp.
2.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức, nhưng về cơ bản chính sách các hình thức sau:
2.3.1 Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Enterprise).
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa một bên hoặc các bên nước ngoài với một bên hoặc các bên nước nhận đầu tư để đầu tư, kinh doanh tại nước sở tại.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập và theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Vốn góp của bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, tuy nhiên không hạn chế mức vốn góp tối đa.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không được thấp hơn 30% vốn đầu tư, trừ một số trường hợp: Dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng tại các vùng sâu, vùng xa...tỷ lệ vốn pháp định có thể là 20% vốn đầu tư nhưng phải được sự chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép đầu tư.
- Thời gian hoạt động của doanh nghiệp liên doanh không quá 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm.
- Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh. Số người tham gia Hội đồng quản trị của các bên căn cứ vào tỷ lệ vốn góp của mỗi bên trong vốn pháp định nhưng ít nhất là hai người. Các bên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình trong vốn pháp định.
- Các bên tham gia liên doanh được chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định.
- Doanh nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Hội đồng quản trị quyết định việc tăng vốn đầu tư, vốn pháp định thay đổi theo tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh và được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận.
Đây là hình thức đầu tư phổ biến nhất vì nó đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia; phạm vi, lĩnh vực, địa bàn hoạt động của doanh nghiệp liên doanh rộng.
2.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Capital Enterprise)
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các tổ chức cá nhân, nước ngoài do tổ chức cá nhân nước ngoài thành lập tại nước nhận đầu tư, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm, tuân theo pháp luật của nước nhận đầu tư.
- Toànbộ vốn đầu tư để duy trì sản xuất kinh doanh - kể cả phần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ban đầu do nhà ĐTNN bỏ ra.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp không thấp hơn 30% vốn đầu tư. Trong thời gian hoạt động không được giảm vốn pháp định. Việc tăng vốn pháp định phải được cơ quan cấp giấy phép chuẩn y.
- Quyền quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh do chủ ĐTNN trực tiếp tham gia, nên họ sẽ tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2.3.3 Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh Contrctual Business Cooperation)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt đông sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả sản xuất kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc điểm:
- Hình thức này không thành lập pháp nhân mới. Hoạt động kinh doanh được thực hiện trên cơ sở ký kết văn bản thoả thuận giữa các bên. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
- Các bên liên doanh tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trước pháp luật của nước nhận đầu tư và phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tài chính theo quy định của nước sở tại.
- Các bên hợp doanh thành lập Ban điều phối để giám sát mọi hoạt động hợp tác kinh doanh. Ban điều phối không phải là đại diện pháp lý của các bên hợp doanh.
Hình thức này chỉ áp dụng trong một số lĩnh vực nhất định: thăm dò, khai thác dầu khí, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch, bưu chính viễn thông...
2.3.4 Hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build-Operate-Transfer) (BOT).
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước nhận đầu tư với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để xây dựng, khai thác, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lãi. Hết thời hạn, tổ chức, cá nhân nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đặc điểm:
- Đối tượng đầu tư chủ yếu là các công trình cơ sở hạ tầng cần vốn lớn và thời gian thu hồi vốn lâu.
- Không thành lập pháp nhân riêng, thường là 100% vốn nước ngoài.
- Nhà đầu tư nắm quyền sở hữu, quản lý công ty BOT.
2.3.5 Các hình thức đầu tư khác
- Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO).
Hợp đồng BTO là văn bản ký kết giữa nước chủ nhà và các nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng và chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà cho phép nhà ĐTNN được tiến hành kinh doanh để thu hồi vốn và đạt được một khoản lãi nhất định.
- Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT):
hợp đồng BT là văn bản ký kết giữa nước chủ nhà với nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (nhà đầu tư tài trợ về tài chính và xây dựng công trình). Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Ngược lại, nước chủ nhà có thể tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có một khoản lợi nhuận hợp lý.
- Hình thức cho thuê - nâng cấp - kinh doanh công trình (Lease - Develop - Operate: LDO)
Nước chủ nhà cho thuê công trình, nhà ĐTNN nâng cấp và khai thác, kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định sau đó sẽ chuyển giao cho nước chủ nhà
- Hình thức xây dựng - cho thuê - chuyển giao (Build - Lease - Transfer: BLT)
Nhà đầu tư xây dựng công trình, tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua hình thức cho thuê công trình trong một thời gian nhất định và sau đó chuyển giao cho nước chủ nhà.
- Hợp đồng phân chia sản phẩm (Production Sharing Contract- PSC)
Nhà đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn để tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở nước sở tại. Nếu tìm và khai thác được thì phân chia theo nguyên tắc: Nước chủ nhà được hưởng 50- 70% tiền bán sản phẩm đối với mỏ có trữ lượng lớn. Những mỏ có trữ lượng nhỏ thì nước chủ nhà được hưởng 30-40% tiền bán sản phẩm. Nếu không tìm thấy hoặc không đủ sản lượng công nghiệp để khai thác thì nhà ĐTNN chịu rủi ro 100%.
- Hình thức hợp đồng cấp giấy phép công nghệ và quảnlý:
Là thoả thuận ký kết giữa nhà ĐTNN và nước sở tại trong đó chủ sở hữu bằng phát minh (thường là bên nước ngoài) cung cấp bằng phát minh với sự cố vấn thêm về kỹ thuật, bí quyết công nghệ, kỹ năng quản lý. Ngược lại, việc thanh toán được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (phí cả gói, % lợi nhuận, tỷ lệ % giá bán hàng, ưu tiên mua hàng với giá ).
II.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tính tất yếu khách quan của FDI
Trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế giữa hai bên hay giữa nhiều quốc gia là một xu hướng mang tính quy luật khách quan. Mỗi quốc gia đều phải đặt mình trong bối cảnh thế giới, từ đó dựa trên cơ sở lợi thế so sánh mà khai thác triệt để thế mạnh của mình nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để có thể tận dụng được lợi thế so sánh, các quốc gia đều phải dựa vào các nguồn lực.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển, nguồn gốc của sự tăng trưởng được chứng minh thông qua hàm sản xuất. Hàm sản xuất nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của yếu tố đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động , tài nguyên và khoa học công nghệ
Y=f(K, L, R. T)
Trong đó:
Y: Đầu ra ( chẳng hạn GDP )
K: Vốn sản xuất.
L: Lượng lao động.
T: Khoa học công nghệ.
R: Tài nguyên thiên nhiên (đất đai...)
Vốn đầu tư là một yếu tố cần thiết cho việc mở rộng quy mô và cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế xã hội. Sự thiếu vốn và kỹ thuật cao sẽ làm cho các quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo, đó là:
Thu nhập bình quân thấp
Năng suất thấp
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tăng trưởng chậm
Đây chính là cái ngưỡng mà các nước đang phát triển phải vượt qua để đưa đất nước tiến kịp với sự phát triển kinh tế thế giới. Khâu đột phá để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn chính là việc tạo ra mức sản lượng và nguồn thu nhập ngày càng tăng. Do vậy, yếu tố cần thiết và quan trọng nhất là vốn và kỹ thuật. Bởi các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, thị trường tiêu thụ khá lớn. Với năng lực hiện có, các nước này không thể tự giải quyết vấn đề mà đòi hỏi phải có sự tác động từ môi trường bên ngoài để tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế ở mức cao. Cụ thể, môi trường bên ngoài chính là các nguồn lực, nguồn lực này bao gồm các hình thức: ODA, FPI, FDI. Trong đó, theo các nước đang phát triển: "Việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp chỉ giải quyết được nguồn vốn đang khan hiếm cho các quốc gia, nó chỉ dừng lại ở mức giới hạn mua cổ phiếu trái phiếu của công ty. Đặc biệt là nó sẽ gây ra hiện tượng tháo lui đầu tư mỗi khi nền kinh tế có dấu hiệu chững lại. Nó sẽ thúc đẩy thêm sự khủng hoảng tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia". Như vậy, hình thức này chỉ thực đối với những nước có nền kinh tế khá mạnh và có thị trường chứng khoán phát triển. Bên cạnh đó, nguồn ODA là các khoản vốn vay phải trả, FDI là khoản vốn "vay" nhưng không phải trả bằng vốn cơ bản mà là trả cho người nước ngoài quyền tự kiếm lấy lợi nhuận để có thể thu hồi vốn và có lãi ngay trên mảnh đất mà họ bỏ vốn đầu tư.
Trong một thế giới biến đổi nhanh như hiện nay, giải pháp tốt nhất là tăng khả năng huy động và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài để nâng cao năng lực đầu tư cho nền kinh tế. Trên thực tế, việc huy động FDI là tận dụng điều kiện khách quan mà thế giới tạo ra, thúc đẩy thực hiện thành công chiến lược "rượt đuổi" nhờ "mượn sức" của những nước đi trước. Do vậy, việc huy động và sử dụng nguồn vốn FDI mang tính tất yếu khách quan đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
2. Tác động của FDI.
Hoạt động FDI cũng có những mặt tích cực và những mặt tiêu cực, để tận dụng được những ưu điểm và hạn chế được những nhược điểm, chúng ta cần xem xét tác động của FDI đối với nền kinh tế như thế nào, qua đó thấy được FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước và khẳng định thêm tính tất yếu của việc thu hút và sử dụng FDI.
2.1 Tác động tích cực
- FDI tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng.
Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải có vốn. Vốn đầu tư là nguồn đầu vào quan trọng, thiếu vốn mọi hoạt động kinh tế - xã hội sẽ bị ngưng trệ, những lĩnh vực cần nhiều ưu tiên không được đáp ứng đầy đủ. Nguồn vốn đầu tư bao gồm: vốn trong nước và vốn ngoài nước. Đối với các nước đang phát triển khả năng tích luỹ còn thấp, thị trường vốn trong nước còn yếu và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường bên ngoài, nguồn vốn ĐTNN có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế. Huy động vốn FDI góp phần tăng thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển, bổ xung vào lượng vốn đang bị thiếu hụt mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện chính trị, tránh được tình trạng nợ nần. Mặc khác, khi xảy ra rủi ro, FDI ít ảnh hưởng đến nguồn mặt tài chính vì các nhà ĐTNN sẽ phải gánh chịu phần lớn thiệt hại khi xảy ra rủi ro. Hiện nay, trên thế giới có nhiều nước đang nắm giữ một số lượng vốn khổng lồ và muốn đầu tư ra nước ngoài thì đây chính là cơ hội để các nước đang thiếu vốn có thể tranh thủ vốn ĐTNN. Trên thực tế, ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Nics và ASEAN, nhờ có FDI mà đã giải quyết được phàn nào những khó khăn về vốn trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Lượng vốn FDI ngày càng chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn ĐTNN của các quốc gia, trong đó một số quốc gia hoàn toàn lệ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt ở giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. Theo nghiên cứu của tổ chức VNTAD, FDI đã góp một phần đáng kể vào nguồn vốn đầu tư của các nước đang phát triển.
Bảng 1. Tỷ trọng FDI trong tổng số vốn đầu tư cơ bản
trong nước của một số nước đang phát triển
(Đơn vị tính:%)
Giai đoạn
Nước
71-75
76-80
81-85
86-90
Malayxia
15.2
11.9
10.8
9.7
Thái Lan
3.0
1.5
3.1
6.3
Hàn Quốc
1.9
0.4
0.5
1.1
Singapore
15
16.6
17.4
27.4
Mexico
3.5
3.6
2.7
7.0
Braxin
4.2
3.9
4.3
1.7
Nguồn: VNTAD, 1993
Bên cạnh là nguồn vốn bổ xung quan trọng, FDI còn tác động tích cực tới việc huy động các nguồn vốn khác của nước chủ nhà. Các ngân hàng tư nhân, chính phủ các nước đang phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế khác luôn tin tưởng vào các nước tiếp nhận được nhiều vốn đầu tư, do vậy họ sẽ cung cấp nhiều vốn cho các nước này. Đây là một xu thế phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, xu hướng tăng cường hợp tác sản xuất và liên kết kinh tế giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Xu hướng này xuất phát từ lợi ích của các quốc gia, khi tham gia váọ phân công lao động quốc tế, các nước sẽ phát huy được lợi thế của mình và khai thác được thế mạnh của các quốc gia khác để phát triển.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thông thường, mục tiêu đầu tiên khi nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài là lợi nhuận. Họ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn, ở Đài Loan, theo cuộc điều tra thực nghiệm trong ngành công nghiệp điện tử:
Hãng
Chỉ số hiệu quả (%)
Chỉ số phi hiệu quả (%)
Doanh nghiệp nước ngoài hướng về xuất khẩu
71.95
0.329
Doanh nghiệp nước ngoài hướng về thay thế hàng nhập khẩu
60.40
0.504
Như vậy, mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế và đầu ra tiềm năng bị thu hẹp lại. Xét về nguyên tắc: số chênh lệch phi hiệu quả của từng nhóm càng nhỏ thì càng có hiệu quả cao.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả đối với các chủ đầu tư, FDI còn tạo điêu kiện cho các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư có điều kiện học hỏi kinh nghiệm...và chịu sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao trình độ quản lý, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, vốn... làm chất lượng sản phẩm tăng, giá thành hạ, chiếm lĩnh thị trường nội địa và có thể xuất khẩu, tăng thêm lợi nhuận cho các doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động.
- Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý.
Hoạt động đầu tư không chỉ diễn ra thông qua hình thức chuyển vào nước sở tại vốn bằng tiền mà còn bằng cả vốn hiện vật: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình: kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, năng lực tiếp cận thị trường, bí quyết quản lý, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp...(còn gọi là công nghệ mềm). Hơn nữa, chuyển giao công nghệ không chỉ đơn thuần là nhập khẩu công nghệ, mà còn nắm vững các nguyên lý hoạt động vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, mô phỏng và phát triển nó. Thông qua hoạt động FDI, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả hai bên đối tác.
Trên con đường phát triển, các nước đang phát triển gặp phải một trở ngại lớn nhất, đó là trình độ kỹ thuật - công nghệ lạc hậu. Hiện nạy với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc các nước đang phát triển tự nghiên cứu đề phát triển công nghiệ cho kịp với thế giới là một việc làm tốn kém và khó khăn. Dovậy, con đường nhanh nhất đố với các nước đang phát triển là chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là phươ._.ng thức tốt nhất để các nước đang phát triển thu được công nghệ có trình độ cao, nhưng mức độ hiện đại đến đâu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Mặc khác, chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho công nghệ nhanh chóng trở lên lạc hậu. Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển cũng đòi hỏi phải có những công nghệ tiên tiến, hiện đại, do vậy họ muốn thay thế những công nghệ cũ bằng những công nghệ mới. Việc thải những công nghệ cũ này lại dễ dàng được nhiều quốc gia chấp thuận. Và chính sự "lan toả" thường xuyên những thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật.
Đi kèm với chuyển giao công nghệ là chuyển giao kỹ thuật, kỹ năng quảnlý. Thông qua hoạt động FDI, các quốc gia đã tạo môi trường và điều kiện tốt để tiếp thu những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và nhân viên những kỹ năng quản lý tiên tiến, kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính kế toán, quản lý công nghệ, kinh nghiệm xây dựng - đánh giá dự án, nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, quảng cáo, mạng lưới dịch vụ... hình thành tác phong sản xuất công nghiệp hiện đại. Một trong những thành công của Nhật Bản là khả năng tiếp thu công nghệ và mô phỏng công nghệ của các nước tiên tiến, trong đó có phần tiếp thu kỹ năng quản lý công nghệ. ở Hàn Quốc, các nhà ĐTNN (như Mỹ, Tây Âu) luôn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với đối tác nước sở tại bằng cách thường xuyên trao đổi thông tin về sản phẩm mới, hướng dẫn nâng cao chất lượng và đổi mới công nghệ, quan tâm tới bí quyết công nghệ.
-Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Để thực hiện mục tiêu hàng đầu của các quốc gia là tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi các nước đang phát triển phải tranh thủ được vốn và công nghệ của nước ngoài. Đây là điểm nút để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Kinh nghiệm cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở, biết tranh thủ và phát huy nhân tố bên ngoài biến nó thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.Theo đánh giá, tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với khối lượng vốn FDI huy động và sử dụng, gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu.Do vậy FDI là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác các tiềm năng trong nước nhằm phát triển kinh tế. Đối với các nước đang phát triển, mức tăng trưởng kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào mức tăng vốn đầu tư, nhờ đó các nhân tố khác như số lượng lao động, năng suất lao động...cũng tăng lên.
Để đánh giá vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế, các chuyên gia của ADB đã đưa ra 2 phương trình phản ánh mối quan hệ giữa tăng trưởng và tiết kiệm:
GR =a0 + a1.AID + a2.FPT +a3.S + a4.CX + a5.CLF
S = a6 +a7 + a8.FPT + a9.CX + a10.GDPN + a11.GR
Trong đó:
GR: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế của GDP.
AID: Vốn chính thức, % của GDP.
FPT: Đầu tư nước ngoài tư nhân.
CX: Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP.
S: Tỷ lệ tiết kiệm.
CLF: Gia tăng lực lượnglao động.
GDPN: GDP/ người.
Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn các quốc gia đang phát triển ở châu á trong thập kỷ 80- 90, các chuyên gia đưa ra kết quả như sau:
Bảng 2. ảnh hưởng nhân quả khi tăng 1% của các nhân tố
Chỉ tiêu
AID
FPI
CX
CLF
GDPN
GR
S
Nhịp độ tăng trưởng
0, 074
0,119
0,097
0,137
-
-
0,803
Tỷ lệ tiết kiệm
-0,016
0,032
0,016
-
0,40
0,053
-
Nguồn: Tuyển tập báo cáo hội thảo"Một số vấn đề kinh tế vĩ mô"- Trung tâm nguyên cứu hệ thống và quản lý.
Từ kết quả trên ta thấy, vai trò to lớn của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và cả đối với cả tỷ lệ tiết kiệm. Khi tăng trưởng 1% FDI sẽ làm nhịp độ tăng trưởng lên 0,119% và tỷ lệ tiết kiệm tăng 0,032%. Đây mới chỉ là mức tăng về mặt số lượng, chúng chưa phản ánh hết tác dụng to lớn về mặt chất của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại, FDI góp phần thúc đẩy các quốc gia vào sự phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung của thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại, FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sở dĩ như vậy vì, FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và nhiều ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư, trình độ khoa học ở nhiều ngành phất triển nhanh chóng nên năng suất của các ngành này tăng và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, cơ cấu phân bổ của FDI đã làm thay đổi cơ cấu ngành trong nội bộ nền kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, các nước ASEAN (1970-1987) trung bình 50-70% tổng vốn FDI tập trung vào công nghiệp chế tạo chế biến đã làm biến đổi giá trị và tỷ trọng của ngành công nghiệp chế tạo trong toàn bộ nền kinh tế. ở Việt Nam, luật Đầu tư nước ngoài ra đời ( 1987 ) đã xuất hiện một số ngành mới như điện tử, láp ráp và sản xuất ô tô, xe máy.
- FDI tạo việc làm và thu nhập cho người lao động:
Nhà ĐTNN tiến hành đầu tư vào nước sở tại thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước đó, vì thế để khai thác lợi thế so sánh của nước chủ nhà, nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác, tăng hiệu quả đầu tư thì nhà ĐTNN phải thuê nhân công của nước chủ nhà. Do đó, FDI đã tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút một lượng lớn lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Điều này góp phần đáng kể vào việc giải quyết tình trạng thất nghiệp -một vấn đề nan giải đối với mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển là nơi có nguồn lao động lớn, giá nhân công rẻ, nhiêu tài nguyên thiên nhiên nhưng trình độ lao dộng thấp thiếu vốn, công nghệ -kỹ thuật nên chưa có điều kiện khai thác và sử dụng do đó FDI là chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn đề. Theo báo cáo của WB (1987) các nước đang phát triển chỉ 1% dân số ở tuổi lao động có việc làm do các công ty đa quốc gia tạo ra thì ở các nước ASEAN tỷ lệ này lớn hơn nhiều: Indonexia 6,8% (1977), Malayxia 5,9% (1975), Philippin 8,6% (1976), Singapore 54,6% (1982). Bên cạnh đó, FDI cũng góp phần đào tạo đội ngũ công nhân có thể tiếp thu được những tiến bộ của khoa học kỹ thuật -công nghệ mới và rèn luyện tác phong công nghiệp, nhờ đó đã rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước đang phát triển và phát triển. Mặt khác, mức chênh lệch về thu nhập của người lao động trong nước cũng khá lớn, thông thường thu nhập của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cao hơn 20-55% mức thu nhập của lao động làm trong các doanh nghiệp khác.
- FDI tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế:
FDI là một hình thức hợp tác quốc tế thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp. Hoạt động FDI được thực hiện chủ yếu thông qua các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Do đó, quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia thân thiện, bền vững thì càng thức đẩy mạnh mẽ hoạt động FDI. Hàng hoá của các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường dùng để xuất khẩu. Đây chính là công cụ để các quốc gia thực hiện chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu. Các nhà ĐTNN tận dụng lợi thế so sánh của nước sở tại (về nguyên liệu, nhân công...) để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm. Nước tiếp nhận đầu tư có thể xâm nhập vào thị trường thế giới, thực hiện chiến lược thị trường mở, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới. Bên cạnh đó góp phần giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, đẩy nhanh kim ngạch xuất - nhập khẩu, tăng thu ngoại tệ, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ngoài ra, FDI còn có tác dụng tích cực trong việc tăng thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế, tiền cho thuê quyền sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vùng thuật hoàn thiện, cơ sở công nghiệp và dịch vụ tỷ lệ thuận với quy mô của hoạt động đầu tư, tăng nguồn viện trợ ODA và đẩy mạnh các hoạt động phụ trợ khác.
2.2 Tác động tiêu cực:
Bất cứ hoạt động nào cũng đem lại những hậu quả cho chủ thể và đối tượng của nó, nhưng những hạn chế này có thể giảm bớt nếu chủ thể biết cách giải quyết vấn đề môt cách tốt đẹp. Đầu tư FDI cũng vậy, không phải bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác dụng tích cực đối với đời sống kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. FDI có thể phát huy tác dụng tốt trong môi trường đầu tư ổn định và hoàn thiện, đặc biệt là vai trò của quản lý nhà nước. Hoạt động FDI có thể đem lại những tiêu cực sau:
- FDI góp phần tăng sự lệ thuộc của nước chủ nhà vào nước ngoài về vốn, kỹ thuật và mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Các nước tiếp nhận đầu tư thường là các nước có trình độ công nghệ lạc hậu. Trong khi đó các nhà ĐTNN muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với công nghệ hiện đại - tiên tiến nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của thị trường, đạt lợi nhuận lớn nên hầu hết công nghệ sản xuất, tư liệu lao động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải nhập khẩu kể cả vốn sản xuất. Đồng thời, các chủ ĐTNN cũng nắm giữ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hàng hoá được sản xuất ra được bán trên thị trường nội địa và đặc biệt là xuất khẩu sang những thị trường mà chủ ĐTNN chiếm lĩnh hoặc có thể ở thị trường mới.
Như vậy, khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định mà sự lệ thuộc giữa các quốc gia tăng lên thì có thể nói rằng không một nền kinh tế nào có thể đứng ngoài vòng sự phát triển chung của thế giới.
- Nước chủ nhà không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí đầu tư theo chiến lược phát triển của mình:
Nước sở tại thu hút được FDI song trên thực tế chủ đầu tư lại là người quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của họ, mặc dù hoạt động vẫn trong khuôn khổ pháp luật của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư thường ít quan tâm đến việc tiến hành sản xuất kinh doanh vào những ngành nghề ít tạo ra lợi nhuận hoặc ở những vùng sâu, vùng xa, những nơi có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn... nên đã làm cho cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lãnh thổ bị mất cân đối, thậm chí hoạt động của các doah nghiệp có vốn ĐTNN có thể làm phá sản những ngành nghề truyền thống của nước chủ nhà. Do vậy, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận có thể bị phá vỡ hoặc thay đổi theo hướng bất lợi. Chính vì lẽ đó, cần phải có bộ máy quản lý nhà nước hoàn thiện, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức thì việc huy động và sử dụng FDI mới đem lại hiệu quả cao, đạt được mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển đất nước.
- Nhà ĐTNN lợi dụng sơ hở trong pháp luật và trong quản lý để trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường và tổn hại đến lợi ích của nước chủ nhà:
Hệ thống pháp luật là cơ sở, nền tảng cho các hoạt động. Nhưng ở nước sở tại, thường pháp luật chưa đồng bộ và hoàn thiện, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế do đó với năng lực yếu kém trong công tác quản lý, bộ máy quản lý nhà nước đã tạo ra kẽ hở trong hoạt động FDI để các nhà ĐTNN "lách" luật. Cụ thể, hệ thống thuế, công tác kiểm toán... Công tác đánh giá, thẩm định tác động môi trường của một số dự án chưa chặt chẽ, một số dự án khong phù hợp với thuần phong mỹ tục - bản sắc văn hoá của nước sở tại. Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức là tổn hại đến môi trường sinh thái, cạn kiệt các nguồn tài nguyên. Do đó các quốc gia phải có quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học.
- Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài:
Trong thực tế, kỹ thuật công nghệ mới - hiện đại chuyển giao cho các công ty 100% vốn nước ngoài để nâng cao năng lực kinh doanh, còn công nghệ hạng 2,3 thì chuyển giao cho nước chủ nhà thông qua hình thức liên doanh hoặc bán bản quyền. Hơn nữa, do trình độ yếu kém của nước chủ nhà nên công nghệ thường được đánh giá cao hơn mức bình thường. Mặc dù những thiết bị, công nghệ đó có khi còn hiện đại hơn so với thiết bị, công nghệ đang sử dụng ở nước chủ nhà nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải của các nước công nghiệp phát triển là điều hết sức nguy hiểm.
Vấn đề đặt ra là phải làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ xét duyệt dự án đầu tư, đa dạng hoá nguồn ĐTNN ngay trong từng ngành công nghiệp và qua đó chọn lọc được kỹ thuật tối ưu và nâng cao khả năng tiếp nhận kỹ thuật mới của nước chủ nhà.
- Các nhà ĐTNN lợi dụng FDI để can thiệp bất lợi vào nền chính trị của nước chủ nhà, hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị:
Không phải bất cứ nhà ĐTNN nào cũng đầu tư để thu lợi nhuận. Trong số họ có không ít cá nhân, tổ chức dưới danh nghĩa tiến hành hợp tác kinh doanh nhưng thực tế lại thực hiện các mục tiêu chính trị. Trong thế giới đa cực và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các hoạt động tình báo diễn ra ngày càng nhiều và mức độ tinh vi hơn, đòi hỏi các quốc gia phải luôn tỉnh táo trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Ngoài ra còn một số tác hại khác như: Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thu hút một số lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao, các cán bộ chuyên môn trẻ có năng lực làm cho một số doanh nghiệp địa phương thiếu đội ngũ cán bộ giỏi gây khó khăn cho quá trình hoạt động của đơn vị. Mặc khác, các doanh nghiệp nước ngoài lại lạm dụng quá đáng sức lao động của người công nhân, tạo chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc- là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội và xung đột xã hội.
Tuy nhiên, những tiêu cực do FDI sinh ra không phải là bản chất của nó mà chính là người tiếp nhận và sử dụng nó. Vấn đề quan trọng là khi tiếp nhận phải có đủ năng lực tiếp nhận và năng lực quản lý, có như vậy mới hạn chế được tiêu cực do FDI đem lại cho nước tiếp nhận. Đầu tư ở đâu, bằng hình thức nào trước hết do chủ ĐTNN lựa chọn, sự lựa chọn đó được quy định bởi khả năng sinh lời của những đồng vốn mà họ bỏ ra. Vì vậy, các nước muốn tiếp nhận vốn ĐTNN phải tự giác vận động để đáp ứng mục đích kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư. Xét cho cùng, hiệu quả sử dụng vốn sẽ quyết định khả năng huy động vốn.
III.Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động và sử dụng vốn FDI.
Để đưa ra những tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc huy động và sử dụngvốn FDI trước hết chúng ta cần xem xét những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động FDI.
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động và và sử dụng FDI.
1.1. Môi trường chính trị- xã hội.
Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định, đặc biệt là thể chế chính trị (đi liền với nó là sự thay đổi luật pháp) thì mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi. Hậu quả là lợi ích của các nhà ĐTNN bị giảm (họ phải gánh chịu một phần hay toàn bộ các thiệt hại đó) nên lòng tin của các nhà đầu tư bị giảm sút. Mặc khác, khi tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà ĐTNN, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu quả sử dụng vốn FDI rất thấp.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tình hình chính trị -xã hội bất ổn thì các nhà đầu tư sẽ ngừng đầu tư hoặc không đầu tư nữa. Chẳng hạn, sự lộn xộn ở Nga trong thời gian qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư mặc dù Nga là một thị trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng...Tuy nhiên, nếu chính phủ thực hiện chính sách cởi mở hơn nữa thì chỉ làm giảm khả năng thu hút các nhà ĐTNN, cá biệt có trường hợp trong chiến tranh vẫn thu hút được FDI song đó chỉ là trường hợp ngoại lệ ddối với các công ty thuộc tổ hợp công nghiệp quân sự muốn tìm kiếm cơ hội buôn bán các phương tiện chiến tranh hoặc là sự đầu tư của chính phủ thông qua hình thức đa phương hoặc song phương nhằm thực hiện mục đích riêng. Rõ ràng, trong trường hợp này, việc sử dụng FDI không đem lại hiệu kinh tế - xã hội cho nước tiếp nhận đầu tư.
1.2. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô.
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được FDI, nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử dụng tốt FDI.
Tính ổn định phải thoả mãn 2 yêu cầu:
Là sự ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định bất động. Một sự ổn định vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định trong ngắn hạn, nếu xét trong dài hạn, sự ổn định này tiềm ẩn một sự bất ổn. Bởi sự ổn định, về nguyên tắc, không thể đồng nghĩa với sự trì trệ.
ổn định trong tăng trưởng: tức là kiểm soát được nhịp độ tăng trưởng, không gây ra trạng thái "quá nóng" của đầu tư và đi liền với nó là lạm phát xảy ra. Tăng trưởng tức là phá vỡ thế ổn định cũ nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thể chủ động tái lập được thế cân bằng mới thì sẽ tạo cơ sở cho sự ổn định vững chắc và lâu dài.
Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua tiêu chí: chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công cụ của chính sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các công cụ thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách hoặc giữ cho ngân sách cân bằng.
1.3 Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả.
Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là:
- Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo đảm.
- Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài.
- Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất...Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao.
Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động,có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội.
1.4 Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định. Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng... tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông tin...sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.
1.5 Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại.
Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ...Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống thị trường này sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trìng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mai, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư.
1.6 Trình độ quản lý và năng lực của người lao động.
Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng xuất cao. Bên cạnh đó, các nhà ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu quả của các dự án sẽ đạt đúng theo mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính cho nhà ĐTNN và cho nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quản lý kinh tế.
1.7 Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới.
Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác, mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế - chính trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á trong thời gian qua đã làm giảm tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn hoặc không đầu tư nữa vì sợ rủi ro cao.
2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc huy động và sử dụng FDI
Mục tiêu thu hút FDI là vốn và công nghệ. Do vậy, để đánh giá hoạt động FDI các quốc gia thường đặt ra một số tiêu chí sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Đóng góp về mặt giá trị tuyệt đối trong tổng vốn đầu tư.
- Gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Giải quyết công ăn việc làm.
- Đóng góp cho ngân sách.
- Giải quyết công nghệ.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại.
Các tiêu chí này được đưa ra trên cơ sở các tiêu chí của thế giới và quan điểm của nước tiếp nhận dầu tư. Hoạt động FDI chỉ diễn ra ở nơi có lợi nhuận cao, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nước chủ nhà. Trong từng giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia chỉ nên đặt ra một số mục tiêu chủ đạo trên cơ sở nội lực vốn có của đất nước, đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội phát triển. Các mục tiêu chủ đạo có thể được điều chỉnh cho phù hợp với lợi thế của đất nước khi có sự thay đổi tương ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển. Không một quốc gia nào có thể đạt được tất cả các mục tiêu trong cùng một giai đoạncủa sự phát triển. Do vậy, cần phải biết xác định đâu là mục tiêu trọng tâm của công tác thu hút FDI trong từng giai đoạn, đồng thời có biện pháp sử dụng nguồn vốn này một cách hữu hiệu.
Xét trên quan điểm toàn bộ nền kinh tế, hiệu quả kinh tế phản ánh hiệu quả (lợi ích) chung của toàn xã hội. Đối với các nhà ĐTNN thì hiệu quả mà họ mong muốn là hoạt động đầu tư của họ đem lại lợi nhuận cao với một mức độ rủi ro thấp. Đối với nước chủ nhà thì họ muốn thông qua hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN sẽ đem lại cho đất nước họ không chỉ hiệu quả kinh tế mà còn cả hiệu quả xã hội.
Mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia là giá trị gia tăng tổng sản phẩm quốc dân. Do đó, đánh giá hiệu quả đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng. Giá trị tuyệt đối của FDI trong tổng vốn đầu tư thể hiện lượng vốn FDI thu hút được và vai trò to lớn của nó đối với nhu cầu về vốn cho sự phát triển kinh tế. Còn các chỉ tiêu về ngân sách, kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán - đây là những tiêu chí thể hiện hiệu quả của việc sử dụng FDI trong đầu tư. Hoạt động FDI tạo thêm nguồn thu cho ngân sách của nhà nước, cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Chính vì vậy, đánh giá sự phát triển của một quốc gia không chỉ xét về mặt kinh tế mà còn phải chú ý về mặt xã hội. Hai mặt này có mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ với nhau. Hiệu quả kinh tế cao góp phần tăng tỷ lệ tích luỹ, nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, trình độ văn hoá, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường sinh thái...và còn tạo điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội khác. Do vậy, kinh tế và xã hội luôn gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Khi nhấn mạnh hiệu quả kinh tế đồng thời phải quan tâm đến hiệu quả xã hội.
IV. Xu hướng vận động, kinh nghiệm huy động và sử dụng FDI của một số nước trên thế giới
1. Xu hướng vận động của FDI trong thời gian gần đây.
FDI xuất hiện là một tất yếu kinh tế gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trên thế giới. FDI không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí đáng kể trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, FDI cũng có những thay đổi đáng kể theo những xu hướng sau:
1.1 Tốc độ gia tăng dòng FDI khá cao và lượng vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn thế giới
Tổng vốn lưu chuyển quốc tế trong những năm gần đây tăng nhanh, khoảng 20-30%/ năm. Điều đó phản ánh xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tích cực vào quá trình liên kết và hợp tác kinh tế. Theo thống kê: những năm 70 vốn FDI trên thế giới hàng năm khoảng 25 tỷ USD, đến thời kỳ 80 - 85 khoảng 50 tỷ USD.
Bảng 3. Tình hình gia tăng FDI trên thế giới (1986-1999).
Năm
Vốn FDI(tỷ USD)
Tỷ lệ tăng
86
78
-
87
133
82,1
88
159
19,5
89
195
22,6
90
184
-5,6
91
149
-19,1
92
168
12,7
93
195
16
94
222
13,8
95
325
46,3
96
400
23
97
520
13
98
640
20
99
800
25
( Tỷ lệ % năm trước là 100)
Nhìn chung FDI tăng cả về giá trị tuyệt đối và tương đối, chỉ có 3 năm (90-92) FDI giảm.
Số lượng vốn FDI tăng lên trong những năm gần đây và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng vốn đầu tư toàn thế giới. Vào cuối thập kỷ 70 chiếm 5%, năm 1980 chiếm khoảng 200 tỷ USD (khoảng 13% trong tổng vốn đầu tư 1500 tỷ USD).
Nguyên nhân:
- Nền kinh tế thế giới có những thay đổi đáng kể: các nước tư bản đi vào giai đoạn phục hồi, các nước đang phát triển có bước tăng trưởng nhanh và mạnh.
- Môi trường chính trị - xã hội của nhiều nước và quốc tế thuận lợi.
- Sự cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia để chiếm lĩnh khu vực đầu tư và thị phần, sự sát nhập giữa các công ty và các tập đoàn lớn diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng có.
- Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật làm cho hệ thống thông tin liên lạc, giao thông... diễn ra thuận tiện , nhanh chóng.
1.2 Vốn FDI hướng vào các nước phát triển.
Theo thống kê: Những năm 50 - 60, tỷ lệ FDI đầu tư vào các nước đang phát triển chiếm 70% tổng vốn FDI toàn thế giới, phần còn lại (khoảng 30% hướng vào các nước phát triển). Đến đầu thập kỷ 90, FDI vào các nước đang phát triển dưới 30%, thậm chí năm 90 là 16,8%.
Trong mấy năm cuối thập kỷ 90, dòng FDI đổ vào các nước đang phát triển đạt 118,5 tỷ USD năm 1999 (giảm 10,5% so với năm 1998, và 17% so với năm 1997 ) (Theo đánh giá của IMF). Lượng vốn FDI vào châu á giảm mạnh nhất (11% năm 1998). Bên cạnh đó vốn thu hút vào các nước đang phát triển lại chủ yếu đổ vào các nước có trình độ kinh tế tương đối cao như nước Nics chiếm 65-70% tổng vốn FDI, đặc biệt là Trung Quốc có lượng vốn FDI tăng liên tục qua các năm và đạt 45,6 tỷ USD (1998), 40 tỷ USD (1999). Mỹ thu hút được 300 tỷ USD (1999) tăng 50% so với năm 1998, chiếm 37% dòng FDI trên toàn thế giới. Các nước EU: năm 1998 đạt 230 tỷ USD, năm 1999 đạt 340 tỷ USD (tăng 50%).
Nguyên nhân:
Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật đã dẫn đến sự thay đổi từ những ngành nghề truyền thống sang những ngành nghề có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu, sử dụng ít nhân công nhưng có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi nhuận hấp dẫn như điện tử, vật liệu mới...Các nước đang phát triển không đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu đó.
Sự cạnh tranh giữa các nước tư bản công nghiệp.
Các nước phát triển tăng lãi suất, thả nổi tỷ giá, tạo ra thị trường hấp dẫn.
Môi trường chính trị - kinh tế - xã hội tương đối ổn định hơn so với các nước đang phát triển.
1.3 Cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến và dịch vụ.
Trong giai đoạn hiện nay, FDI có xu hướng tâp trung vào hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ, còn các ngành truyền thống như khai khoáng và nông nghiệp giảm đi. Một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại khi các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn. Đây là xu hướng có tính phổ biến trên thế giới và xu hướng này chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư nước ngoài.
Số vốn FDI vào ngành dịch vụ chiếm hơn 50% tổng vốn FDI toàn thế giới tro._.. Nhà đầu tư tiếp xúc với nước nhận đầu tư thông qua những người đại diện cho nhà nước để làm chức năng này (đó là cơ quan quản lý đầu tư), mà cụ thể đối với Hà Nội là UBND Thành phố, Sở KH & ĐT Hà Nội và các ngành có liên quan. Nếu cơ quan đầu tư làm tốt chức trách của mình, giảm thiểu thủ tục hành chính, bộ máy gọn nhẹ; cán bộ có năng lực, năng động, không tham nhũng với các chính sách cởi mở sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho nhà ĐTNN nhanh chóng đưa các dự án đi vào hoạt động cũng như thực hiện tốt những mục tiêu đề ra trong các dự án. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý FDI không chỉ nhằm cải thiện thủ tục nhanh để có giấy phép đầu tư mà trước hết là ở những thủ tục sau giấy phép để dự án được triển khai nhanh chóng; đồng thời tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư khi dự án đi vào vận hành; kiểm tra giám sát việc thực hiện có đúng tiến độ không và khi cần có thể điều chỉnh ngay, tránh phiền hà, lãng phí. Công tác kiểm tra tài chính không quá 1 lần/ năm. Cần có sự phối hợp chặt chẽ dưới sự chỉ đạo chung của Bộ KH & ĐT để đảm bảo vừa đơn giản thủ tục vừa thống nhất quản lý chung trong cả nước.Kiên quyết từ chối những dự án không bảo đảm cac tiêu chuẩn mà pháp luật quy định (đặc biệt là về môi trường) hoặc không có tác dụng tích cực cho sự nghiệp CNH - HĐH.
Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng việc nối mạng Internet để cập nhật thông tin, hiểu thêm về đối tác và giới thiệu Việt Nam với thế giới, hơn nữa thông qua mạng máy tính để nhà nước thống nhất quản lý hoạt động này.
Tiến hành nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành trong hoạt động FDI thông qua việc cơ cấu lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, thực hiện nguyên tắc thống nhất về "một cửa", " một mối", Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ngành học quản lý ĐTNN vào chương trình đào tạo ở bậc Đại học (Trường KTQD, Thương mại, Ngoại thương, Tài chính - Kế toán) để có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất.
Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo của Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong cho cán bộ chủ chốt ở Ban quản lý dự án, ở các doanh nghiệp là đối tác với nước ngoài thực hiện các dự án ĐTNN; cán bộ ở các ngành, địa phương có liên quan đến công tác quản lý FDI tại Thành phố.
Mạnh dạn gửi các cán bộ chuyên trách ra nước ngoài hoặc thuê chuyên gia nướcc ngoài vào làm việc ở những khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu (như công tác kiểm toán..). Đó cũng là cách để nhanh chóng tiếp cận được những kỹ năng trong hoạt động đầu tư, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công việc trước mắt và lâu dài.
Tăng cường chỉ đạo mở rộng mô hình đào tạo theo địa chỉ theo đơn đặt hàng của các nhà ĐTNN để có người lao động làm việc có hiệu quả ở các dự án FDI. Đây cũng là biện pháp hạn chế các nhà đầu tư sử dụng lao động ngoại tỉnh vào làm việc trong các doanh nghiệp FDI ở Hà Nội.
Không chỉ có việc đào tạo chuyên môn, cần nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận gắn với thực tiễn về chuyên ngành kinh tế đối ngoại. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Lựa chọn những cán bộ có trình độ chuyên môn vững, giỏi ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để nhanh chóng, trực tiếp nắm bắt được các vấn đề cũng như có khả năng giải quyết chúng. Chú trọng người trẻ tuổi, thử thách, sàng lọc ngay trong hoạt động thực tiễn để tạo ra một lớp người có năng lực đáp ứng được tình hinhf thực tế.
Xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của từng cá nhân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của họ phải được Thủ trưởng trực tiếp thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, ngăn chặn hiện tượng gây phiền hà, sách nhiễu hoặc bê trễ nhiệm vụ. Cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm kinh tế, hình sự đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động ĐTNN, tránh tình trạng trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy và quy trách nhiệm một cách chung chung. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN, duy trì hoạt động của các tổ chức này.
7. Nâng cao trình độ, năng lực và bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
Hiện nay, lao động rẻ không còn có sức hấp dẫn các nhà ĐTNN, đặc biệt là trong các ngành đầu tư mũi nhọn. Trong quá trình hội nhập và phát triển, công tác chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh, khoa học - công nghệ được áp dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh. Do đó, một đội ngũ lao động có tay nghề cao, cần cù, chịu khó, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, có tác phong công nghiệp... mới là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư. Thành phố cần kiến nghị cải cách hệ thống giáo dục, cân đối giữa đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề và sinh viên đại học, xây dựng một số trung tâm dạy nghề có chất lượng cao, có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ lao động trực tiếp làm việc trong lĩnh vực kinh tế đốii ngoại nói chung để đội ngũ lao động có trình độ cao, ngang bằng với các nước trong khu vực và thế giới. Nhà nước cần quy định chặt chẽ chế độ bảo hiểm y tế, xã hội, điều kiện làm việc, điều kiện an toàn lao động...Các quyền lợi và nghĩa cvụ của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải được xác định rõ trên quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, ngăn chặn các hiện tượng vi phạm trách nhiệm vật chất, tinh thần và quyền con người của người lao động. Sớm hoàn thiện thị trường lao động chất xám, tạo điều kiện cho người lao động và nhà đầu tư tự do lựa chọn trong khuôn khổ luật định.
Bên cạnh đó, cán bộ nắm giữ những cương vị chủ chốt trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh, hầu hết đều chưa có kiến thức và kinh nghiệm về ĐTNN, ít hiểu biết pháp luật và ngoại ngữ kém nên họ không hiểu rõ chức trách, quyền hạn, nhiệm vụ và nghiệp vụ chuyên môn lại phải đối mặt với các nhà kinh doanh sừng sỏ nên không thể tránh khỏi thua thiệt trong quá trình hợp tác và đầu tư với nước ngoài. Thành phố nên giao trách nhiệm này cho đội ngũ cán bộ đã hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại tiếp nhận quản lý doanh nghiệp FDI, xúc tiến đào tạo một lớp các nhà doanh nghiệp trẻ có năng lực vào làm việc trong lĩnh vực này.
8. Đẩy mạnh công tác khuyến khích lợi ích kinh tế.
Để thu hút được nhiều nhà ĐTNN, huy động được số lượng vốn lớn và tạo điều kiện cho hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài có hiệu quả cao; bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên, Hà Nội phải có nhiều biện pháp ưu đãi, khuyến khích lợi ích kinh tế cho các nhà ĐTNN.
Về thuế, thực hiện nới lỏng chính sách thuế: miễn giá thuê đất trong 3 năm đầu và giảm tối thiểu 50% giá thuê đất trong 5 năm tiếp theo (đối với các KCN cần có mức ưu đãi cao hơn, thậm chí gấp đôi), thực hiện nguyên tắc "không hồi tố", giảm thuế lợi tức xuống 5%; các doanh nghiệp FDI có quyền quyêta địnhlập quỹ dự phòng, không bắt buộc phải trích từ lợi nhuận; thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài giảm; cho phép các phương tiện vận tải đồng bộ sản xuất hoặc không sản xuất ở Việt Nam; nguyên vật liệu không sản xuất ở Việt Nam được miễn thuế VAT. Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nâng cao mức thu nhập chịu thuế cho người nước ngoài và giảm mức thuế suất.
Chính phủ cho phép các nhà ĐTNN được chuyển nhượng quyền sở dụng đất, tuyển lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN không hạn chế để chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm quản lý, bí quyết công nghệ...rút ngắn thời gian tuyển lao động của Sở lao động thương binh và xã hội. Sở lao động thương binh và xã hội nên thoả thuận với các nhà đầu tư về các tiêu chuẩn đối với người lao động. Trong quá trình xét tuyển, Sở lao động thương binh và xã hội nên phối hợp cùng nhà đầu tư để lựa chọn lao động cho phù hợp bằng cách doanh nghiệp có vốn ĐTNN cử cán bộ chuyên trách sang tham gia phỏng vấn, kiểm tra hồ sơ...Khi đó sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tuyển dụng lao động, tìm kiếm được lao động phù hợp, giúp cho các dự án được triển khai đúng tiến độ, chất lượng dự án được nâng cao.
Cho phép các nhà ĐTNN mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, có thể ở cả các ngân hàng nước ngoài, ban hành, soạn thảo văn bản quy định chế độ bảo lãnh tín dụng về thế chấp, cầm cố, thu hồi nợ, doanh nghiệp liên doanh được góp vốn bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài.Các nhà đầu tư có thể góp vốn bằng nhiều hình thức khác nhau, lượng vốn Việt Nam huy động được sẽ tăng lên.
Giữ vững tỷ giá hối đoái, cân đối ngoại tệ để ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Các ngân hàng tự quyền quyết định việc mua và bán ngoại tệ cho doanh nghiệp FDI. Xúc tiến hoạt động của thị trường tài chính một cách đầy đủ theo hướng tự do hoá. Đồng thời quản lý và xử lý tốt các hoạt động tín dụng thương mại quốc tế để đảm bảo tín nhiệm trong thanh toán quốc tế, đặc biệt phải có bước chuẩn bị chu đáo, xúc tiến việc thành lập thị trường chứng khoán.
Xúc tiến môi giới thành lập doanh nghiệp liên doanh thông qua hệ thống ngân hàng, các tổ chức tư vấn pháp luật, các hãng chuyên môn kỹ thuật...cung cấp thông tin và tạo ra tiền đề ban đầu cho các nhà ĐTNN. Trong trường hợp xảy ra rủi ro, các công ty này phải chịu trách nhiệm đối với phần công việc của mình.
Xây dựng hệ thống các trường học, cơ sở y tế khu vui chơi giải trí...dành riêng cho nhà ĐTNN ngoài và người thân của họ, được thuê đất với mức giá thấp nhất và giảm tối đa các loại thuế.
9. Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng.
Khả năng tiếp nhận FDI của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng là một nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư. FDI chỉ phát huy hiệu quả khi chúng ta có khả năng tiếp nhận vốn tốt và ngược lại sẽ bị phụ thuộc vào bên ngoài. Để tiếp nhận có hiệu quả vốn FDI, đòi hỏi phải có một tỷ lệ vốn đối ứng trong nước hợp lý. Đối với Hà Nội, trong giai đoạn tới (2001 - 2010), tỷ lệ vốn đối ứng nên là 1- 1,5 (tức là một đồng vốn nước ngoài cần có 1 - 1,5 đồng vốn trong nước). Điều này phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Trong những năm vừa qua, nhu cầu vốn đầu tư thường chiếm 30% GDP trong đó vốn FDI chiếm 15% vốn đầu tư, cơ cấu này cũng phù hợp với giai đoạn sau. Bên cạnh việc tìm ra một tỷ lệ vốn đối ứng hợp lý, chúng ta cần phải xác định nguồn vốn trong nước lấy từ đâu. Đó là sử dụng phần lớn ngân sách của Thành phố, huy động vốn từ các doanh nghiệp và dân cư, phát hành công trái, trái phiếu, nâng cao hoạt động của hệ thống ngân hàng - tài chính, giữ vững ổn định tỷ lệ lãi suất tiền gửi, cần nâng tỷ lệ lãi suất tiền gửi lên 10%/ năm.
Cần tranh thủ nguồn vốn ODA để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, tăng nguồn lực xây dựng đất nước và cũng là hỗ trợ cho việc thu hút FDI, quan tâm chỉ đạo chặt chẽ việc giải ngân ODA.
Thành phố cần sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn theo hướng quy hoạch tổng thể, hỗ trợ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đẩy nhanh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp. Thành phố cần có biện pháp cụ thể như xét cho vay vốn, tư vấn về kỹ thuật - công nghệ, đào tạo lao động...
10. Đẩy nhanh công tác vận động đầu tư.
Thành phố xác định công tác vận động đầu tư là nguồn tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, do vậy cần:
Gắn công tác vận dộng, xúc tiến đầu tư với chương trình dự án, đối tác, địa bàn cụ thể. Bộ, ngành, UBND phải có trách nhiệm hướng dẫn các nhà đầu tư trong khâu tìm hiểu, chuẩn bị dự án, xem xét cấp giấy phép và triển khai.
Các bộ, ngành cần tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách vận động đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có những đối sách phù hợp, tránh bị động và lạc hậu.
Nhanh chóng xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư FDI với chất lượng cao, từng ự án cần được mô tả khái quát về nội dung, sản phẩm, địa điểm, khả năng thị trường, dự kiến vốn đầu tư, thời gian triển khai dự án, đối tác trong nước... Yêu cầu đặt ra là các nhà ĐTNN nghiên cứu thông tin này có thể ra quyết định cho việc tìm hiểu cụ thể dự án để tiến hành đăng ký giấy phép đầu tư.
Xây dựng nội dung để đưa lên mạng Internet (Trang Web Hà Nội), các tạp chí quốc tế, các dự án, các công trình, chính sách kêu gọi đầu tư FDI vào Hà Nội để các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài dễ dàng nghiên cứu tìm hiểu. Gửi tới các đại sứ quán Việt nam ở nước ngoài, các tổ chức Việt kiều danh mục các dự án FDI cần thu hút đầu tư. Tổ chức các kỳ hội nghị với các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà tài trợ, các cuộc họp mặt, tiếp xúc với nhà đầu tư, họp báo để giới thiệu cơ hội đầu tư.
Các đoàn lãnh đạo các thành phố đến các sở, ban, ngành khi đi công tác nước ngoài cần được giao nhiệm vụ giới thiệu các cơ hội đầu tư ở Hà Nội.
Tăng cường nâng cao hoạt động của đường dây nóng ở Sở KH & ĐT Hà Nội, trả lời miễn phí các câu hỏi của các doanh nghiệp nước ngoài có ý định nhằm tạo niềm tin và cơ hội cho các nhà ĐTNN.
Tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản thủ tục mở văn phòng đại diện, các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoạt động ở Hà Nội. Thường xuyên tổ chức các hội nghị các văn phòng đại diện nước ngoài để nắm bắt những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp FDI, từ đó tìm ra hướng giải quyết.
Tích cực in ấn tài liệu giới thiệu các chính sách, các ưu đãi, các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giá thuê đất, giá điện nước... ở Hà Nội để các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài nghiên cứu, so sánh và dễ dàng hơn trong việc ra quyết định thành lập dự án FDI, nên cung cấp miễn phí tài liệu này cho họ.
11. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống, khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng nên các doanh nghiệp có vốn FDI gặp nhiều khó khăn. Vì vậy các cơ quan quản lý Nhà nước phải tìm cách chia sẻ, gánh bớt phần rủi ro với các nhà ĐTNN, tập trung chỉ đạo điều hành xử lý nghiêm hành vi vi phạm của các nhà ĐTNN, các vấn đề phát sinh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua. Đây cũng là cách làm có tính thuyết phục cao để thu hút các nhà đầu tư mới, các dự án mới. Cần nhanh chóng rà soát, phân loại và đánh giá tình hình hiện thực của tất cả dự án trên địa bàn để có biện pháp xử lý, hỗ trợ cho phù hợp.
* Đối với các dự án chưa đi vào sản xuất kinh doanh:
Kiểm tra tình hình triển khai các dự án, tìm ra các nguyên nhân gây ắch tắc từ đó tập trung tháo gỡ. Bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết, công bố rõ ràng quy trình, trách nhiệm, thời gian xử lý các thủ tục. Cố gắng tập trung đầu mối về Sở KH & ĐT Hà Nội tránh gây tình trạng phân quyền trong quá trình xử lý, gây khó khăn, nhũng nhiễu. Thực hiện xử lý công bằng, nghiêm minh các hiện tượng vòi vĩnh gây sách nhiẽu đối với các nhà đầu tư.
Hỗ trợ vốn cho các dự án khó khăn về tài chính, cung cấp, giới thiệu cho các doanh nghiệp nước ngoài những đối tác trong nước có tiềm lực tài chính, phù hợp với từng dự án cụ thể.
Tiến hành nhanhn chóng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đã cấp giấy phép. Hoãn hoặc miễn tiền thuê đất đối với các dự án xin dừng hoặc giãn tiến độ thực hiện do khó khăn. Cấp giấy chứng nhận lại cho các doanh nghiệp thuê lại đất trong các KCN để đẩy nhanh tiến độ lấp đầy KCN.
* Đối với các dự án đang hoạt động:
Tiếp tục kiểm tra hoạt động của các dự án này, cho phép được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế, giá thuê đất. Xem xét miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp thực sự lỗ vốn. Cho phép các dự án tồn đọng chuyển đổi chủ đầu tư, mục tiêu và hình thức đầu tư cho phù hợp với điều kiện kinh doanh thị trường.
Cho phép các dự án sả xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn được phép tăng tỷ lệ tiêu thụ trong nước, nếu những sản phẩm đó vẫn phải nhập khẩu và thị trường trong nước có nhu cầu.
Thực hiện thoả đáng nguyên tắc "không hồi tố" với các dự án được cấp phép đầu tư trong những trường hợp sau khi dự án được cấp phép mà luật mới của nước ta quy định về thuế doanh thu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.. cao hơn, gây khó khăn và làm đảo lộn phương án kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Đối với các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ: Cần đơn giản hoá thủ tục, có giải pháp khắc phục rủi ro về thay đổi tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi cần có thể mua đủ và kịp thời lượng ngoại tệ đã quy định. Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đang thực sự khó khăn do khủng hoảng tài chính, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp.
Xem xét việc cấp giấy phép xây dựng mới và giãn tiến độ xây dựng cácc KCN, KCX để tập trung vào các KCN hiện có. Các KCN phải chuyển trọng tâm vào hoạt động vận động đầu tư để lấp đầy diện tích cho thuê. Khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, phân tán, cạnh tranh không lành mạnh giữa trong và ngoài KCN, giữa các KCN với nhau.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính có vốn FDI nhằm khắc phục sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích của bên Việt Nam.
Kết luận
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang và sẽ là nguồn vốn đầu tư quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Xu hướng di chuyển luồng vốn FDI đang gia tăng trở lại các nước đang phát triển. Nằm trong khu vực châu á - thái bình dương (khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới), Việt Nam có lợi thế khách quan do có các nguồn lực tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, là thành viên của ASEAN, sắp tới sẽ thực hiện "Hiệp định ưu đãi thuế quan - CEPT" nên sẽ huy động được nhiều vốn FDI cho đầu tư phát triển.
Với lợi thế và cũng có những bất lợi của người đi sau, Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác, cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng để hai bên cùng có lợi, giữ vững độc lập chủ quyển và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hiện nay, chiến lược huy động vốn và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược tổng thể tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, là một trong những vấn đề quan trọng. FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh...và giải quyết nhiều vấn đề về mặt xã hội như giải quyết tình trạng thất nghiệp, nâng cao trình độ cho người lao động... Tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đáp ứng kịp thời cho sự nghiệp CNH - HĐH.
Chính sách thu hút FDI ngày càng được nới lỏng và hoàn thiện, góp phần nâng cao hoạt động của việc huy động FDI. Tuy vậy, đây mới chỉ là điều kiện cần còn thiếu điều kiện đủ là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI đã thu hút được. Do vậy, chúng ta cần phải thu hút đồng bộ các giải pháp về cơ chế, chính sách,luật pháp...và đáp ứng được các mục tiêu mà Đảng và nhà nước đặt ra mà cụ thể là Thành uỷ, UBND Thành phố Hà Nội. Hơn nữa, luồng vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chảy tự nhiên: đó là thu hút ĐTNN và tích cực đầu tư ra nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng mới chỉ quan tâm đến dòng vốn chảy vào mà không chú trọng đến vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, luồng vốn vào làm tăng trưởng và phát triển kinh tế, luồng vốn đầu tư ra bên ngoài lại cho phép sử dụng có hiệu quả hơn và chính nó lại củng cố việc thúc đẩy quá trình huy động vốn FDI ngày càng ổn định và mạnh mẽ hơn. Đây là một giải pháp cần được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ.
Do vậy, để nắm bắt cơ hội, để công tác huy động và sử dụng FDI có hiệu quả trên địa bàn Hà Nội, các cấp uỷ đảng, các cấp, ngành có liên quan cần chỉ đạo chặt chẽ, sáng tạo và học hỏi kinh nghiệm, áp dụng đồng bộ các biện pháp góp phần đưa Hà Nội phát triển, xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại đậm dà bản sắc dân tộc, sánh ngang với các thành phố lớn trong khu vực và thế giới, đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thúc đẩy Việt Nam hoàn thành mục tiêu chiến lược năm 2020.
Mục lục
Lời nói đầu Trang
Chương I
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I
Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1
Đầu tư nước ngoài
1.1
Đầu tư
1.2
Đầu tư nước ngoài
2
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1
Khái niệm
2.2
Đặc điểm
2.3
Các hình thức FDI
2.3.1
Doanh nghiệp liên doanh
2.3.2
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
2.3.3
Hình thức hợp đồng hợp tác liên doanh
2.3.4
Hình thức BOT
2.3.5
Các hình thức khác
II
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1
Tính tất yếu khách quan của FDI
2
Tác động của FDI
2.1
Tác động tích cực
2.2
Tác động tiêu cực
III
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động và sử dụng FDI
1
Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động và sử dụng FDI
1.1
Môi trường chính trị - xã hội
1.2
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
1.3
Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả
1.4
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
1.5
Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại
1.6
Trình độ quản lý và năng lực của người lao động
1.7
Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới
1.8
Nguồn vốn đối ứng trong nước
2
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn FDI
IV
Xu hướng vận động, kinh nghiệm huy động và sử dụng FDI ở một số nước trên thế giới
1
Xu hướng vận động của FDI trong thời gian gần đây
2
Kinh nghiệm huy động và sử dụng FDI của một số nước trên thế giới
Chương II
Thực trạng huy động và sử dụng FDI ở Hà Nội trong thời gian qua
I
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc huy động và sử dụng nguồn FDI
II
Vài nét về tình hình kinh tế - xã hội Hà Nội trong thời gian qua
III
Tình hình huy động FDI ở Hà Nội
1
Tình hình cấp giấy phép đầu tư
2
Nhịp độ và quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội
3
Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài
4
Đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư
5
Các đối tác đầu tư
6
Các khu chế xuất, khu công nghiệp
IV
Kết quả thực hiện các dự án FDI tại Hà Nội
1
Tình hình thực hiện các dự án FDI
2
ảnh hưởng của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà nội
2.1
Tăng trưởng kinh tế
2.2
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội
2.3
Thu nhập của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội
2.4
FDI bổ xung nguồn vốn đầu tư và đóng góp vào ngân sách Thành phố
2.5
FDI góp phần giải quyết việc làm
2.6
FDI góp phần nâng cao trình độ công nghệ
3
Những khó khăn và hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng FDI ở Hà Nội
4
Nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng FDI ở Hà Nội
4.1
Nguyên nhân thành công
4.2
Nguyên nhân hạn chế
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010
I
Mục tiêu, phương hướng huy động và sử dụng FDI ở Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010
II
Một số giải pháp chủ yếu
1
Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách
2
Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư
3
Xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật
4
Cải cách thủ tục hành chính
5
Tăng cường công tác thu hút FDI
6
Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước
7
Nâng cao trình độ, năng lực và bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
8
Đẩy mạnh công tác khuyến khích lợi ích kinh tế
9
Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng
10
Đẩy mạnh công tác vận động đầu tư
11
Tích cực tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đang hoạt động
Kết luận
Mục lục
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chính sách và các biện pháp huy động các nguồn vốn - 1996.
2. GS.TS Vũ Đình Bách: Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - 1998
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Một số vấn đề mới về FDI tại Việt Nam - Hà Nội 5/1996.
4. PGS.TS Mai Ngọc Cường: Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia 2000
5. Lê Văn Châu: Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt nam - NXB Chính trị Quốc gia 1995
6. Nghiêm Xuân Đạt (Viện nghiên cứu phát triền kinh tế - xã hội Hà Nội): Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội - Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị - HN 1998
7. Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển - NXB Chính trị Quốc gia 1996
8. Trần Kiên: Chiến lược huy động vốn và các nguồn lực cho sự nghiệp CNH - HĐH. NXB Hà Nội 1999
9. Vũ Chí Lộc: Giáo trình đầu tư nước ngoài - Trường ĐH Ngoại Thương - NXB Giáo Dục 1997
10. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Văn phòng Bộ KH & ĐT - 1997.
11. Nghị định số 22/1998/NĐ - CP
12 Nghị định số 02/1999/NĐ - CP
13. Quyết định số 233/1998/QĐ - TTg
14 Quyết định số 145/1999/QĐ - TTg
15. Quyết định số 53/1999/QĐ - TTg
16. PTS Nguyễn Văn Tuấn, Phan Hữu Thắng, PTS Hoàng Văn Huấn: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Cơ sở pháp lý - hiện trạng - cơ hội - triển vọng. NXB Thế giới -1994
17. PTS Nguyễn Khắc Thân, PGS.PTS Chu Văn Cấp: Những giải pháp chính trị - kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả FDI vào Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 1996
18. TS Nguyễn Huy Thám: Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam - LA.TS - Học viện chính trị quốc gia HCM - HN 1999
19. PTS Nguyễn Trường Sơn (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - Khoa Kinh tế): Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Thống Kê 1997
20. TS Nguyễn Văn Xa: Nghị định số 22/1998/NĐ - CP và những định hướng sửa đổi, bổ xung - Tài chính 4/2000
21. Nguyễn Xuân Thuỷ (Trường ĐH Ngoại Thương): Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, những vấn đề đặt ra hiện nay - Những vấn đề kinh tế thế giới 4/2000
22. Bùi Văn Vần: Cơ chế tạo lập vốn của doanh nghiệp liên doanh, những vấn đề cần tháo gỡ - Tài chính 4/2000.
23. Phạm Ngọc Dũng: Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay - Tài chính 4/2000.
24. Số liệu tổng hợp về thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - T/ c Kinh tế và dự báo 1/2000.
25. Hoàng Thái Sơn: Tổng quan kinh tế - Tài chính Việt Nam sau thời kỳ đổi mới - T/c Thông tin Tài chính 1/2000
26. Phạm Văn Chương: Nhìn lại phát triển các KCN giai đoạn 1991- 1999 thực trạng - nguyên nhân - giải pháp T/c Thông tin Tài chính 1/2000
27. TS Thái Bá Cần: Một vài đánh giá về hoạt động đầu tư và hiệu quả đầu tư từ sau chủ trương đổi mới - T/c Tài chính 3/2000
28. Nguyễn Ngọc Đức: Nguồn tài chính nước ngoài những năm cuối thập kỷ 90 - T/c Nghiên cứu kinh tế 3/1999
29. Trọng Hồ: Đầu tư nước ngoài tại Hà Nội - Kết quả và triển vọng - T/c Thương Mại 8/1997
30. Minh Hoài: Bức tranh tổng quát về các KCN Việt Nam - T/c Con số và sự kiện 3/2000
31. Bích Thuỷ: KCN Hà Nội - Khó khăn và thách thức - T/c Con số và sự kiện 3/2000.
32. TS Thái Bá Cẩn: Định hướng đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam - T/c Tài chính 9/1999
33. Các báo cáo KT - XH Hà Nội - Viện nghiên cứu phát triển KT- XH Hà Nội .
34. Niên giám thống kê 1996, 1998, 1999.
35. Báo Đầu tư, Thời báo kinh tế.
Phụ lục 2
Danh mục kêu gọi nguồn vốn FDI vào Hà Nội giai đoạn 1998 - 2010
(Nguồn: Sở KH & ĐT Hà Nội)
STT
Tên dự án
Dự kiến vốn đầu tư (Triệu USD)
i
Lĩnh vực công nghiệp
1
Công ty sản xuất thiết bị chiếu sáng
8
2
Công ty đồ chơi
6
3
Công ty liên doanh sản xuất ống nước
20
4
Nhà máy sản xuất máy nông nghiệp
18
5
Đúc ống gang dẫn nước (từ 200 - 600 mm)
20
6
Chế biến rau quả
8
7
Sản xuất trang bị đun nấu
6
8
Sản xuất dụng cụ, trang thiết bị thể thao
10
9
Sản xuất nước hoa, mỹ phẩm
5
10
Sản xuất lắp ráp các trang thiết bị âm nhạc, điện tử
9
11
Sản xuất hoa tươi, cây cảnh
5
12
Sản xuất và lắp ráp máy điều hoà không khí
14
13
Sản xuất và lắp ráp trò chơi điện tử màn hình
8
14
Sản xuất xe đạp cao cấp
20
15
May mặc quần áo thể thao
5
16
Sản xuất hàng gốm sứ mỹ nghệ
4,5
17
Sản xuất lắp ráp xe ô tô chuyên dùng
38
18
Sản xuất phân bón từ rác thải
12
STT
Tên dự án
Dự kiến vốn đầu tư (Triệu USD)
19
Nhà máy dệt và may mặc lụa tơ tằm
8
20
Sản xuất thuỷ tinh pha lê dân dụng
4
21
Sản xuất lắp ráp máy tính và phần mềm
8
22
Sản xuất đồ dùng văn phòng phẩm
2,5
23
Sản xuất lắp ráp đồng hồ
4
24
Sản xuất vàlắp ráp thiết bị quay video
8
25
Xí nghiệp liên doanh may đồ lót xuất khẩu
5
26
Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng composite
4
27
Xí nghiệp liên doanh sản xuất thảm len cao cấp
2
28
Nhà máy thép công nghệ KOREX
1.500
29
Xử lý rác thành điện năng và phân bón
70
30
Chế biến, xử lý rác thành vật liệu xây dựng
37
31
Sản xuất đĩa CD, CD Room và DVD
8
32
Công ty thiết bị trò chơi điện tử gia đình
2
33
Xử lý rác thải công nghiệp
50
34
Sản xuất phụ tùng xe ô tô
80
35
Công ty sản xuất đồng hồ đo nước
10
36
Công ty thiết bị công viên
20
37
Công ty liên doanh nạo vét Việt Nam
3
38
Công ty sản xuất tủ lạnh Việt nam
12
39
Trung tâm may mặc, tạo mốt và trình diễn thời trang Việt nam
1,5
40
Công ty chế biến thịt tươi sống
2
41
Sản xuất phụ tùng xe máy
40
42
Công ty sản xuất thuốc Việt Nam
15
STT
Tên dự án
Dự kiến vốn đầu tư (Triệu USD)
II
Lĩnh vực bất động sản
43
Trung tâm hội nghị quốc tế
200
44
Khu giải trí và sân tập golf
15
45
Trung tâm huấn luyện và trường đua ngựa
157
46
Trung tâm thương mại Hai Bà Trưng
150
47
Trung tâm thương mại Hoàn Kiếm
120
48
Trung tâm thương mại Ba Đình
80
49
Trung tâm thương mại Tây Hồ
120
50
Trung tâm thương mại Đống Đa
100
51
Trung tâm thương mại Cầu Giấy
120
52
Tổ hợp văn hoá điện ảnh sân khấu
30
53
Làng thể thao Olimpic
150
54
Trung tâm giao dịch chứng khoán thương mại, tài chính
35
55
Cải tạo nâng cấp sân bay Gia Lâm
150
56
Tổ hợp sân golf Sóc Sơn
125
57
Tổ hợp vui chơi giải trí Thanh Nhàn
110
58
Làng du lịch quốc tế Sóc Sơn
65
59
Tổ hợp công viên vui chơi
350
60
Công ty xây dựng ký túc xá cho thuê
35
III
Các lĩnh vực khác
61
Trung tâm trồng, chế biến rau quả sạch
4
62
Bệnh viện đa khoa quốc tế
35
63
Học việ đại học quốc tế
25
64
Trung tâm thể thao và trường đua xe máy Sóc Sơn
150
STT
Tên dự án
Dự kiến vốn đầu tư (Triệu USD)
65
Bệnh viện chuyên khoa quốc tế
25
66
Cải tạo nâng cấp cảng sông Hà Nội
85
IV
Lĩnh vực hạ tầng đô thị
67
Xây dựng tuyến đường cầu vượt Hà Nội xuyên tâm
500
68
Cải tạo mạng đường sắt nội thành (Gia Lâm - Giáp Bát)
90
69
Mạng lưới xe buýt công cộng
120
70
Xây dựng tuyến đường cao tốc vành đai
50
71
Vận tải hành khách đường sông
15
72
Tổ hợp tàu điện ngầm đô thị
1.000
Tổng
6.224
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29285.doc