Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác lập dự án đầu tư tại Công ty xây dựng quốc tế Hà Nội

Lời nói đầu Đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng của mỗi quốc gia trên thế giới. Khái niệm đầu tư tuy đã được các nhà kinh tế học đề cập từ rất lâu nhưng nó chỉ thực sự phát triển ở Việt nam từ khi Nhà nước ta chuyển hướng phát triển kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Tuy vậy thì đầu tư vào đâu, như thế nào, phương thức thực hiện nó ra làm sao thì không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng thực hiện nó một cách có khoa học và hiệu quả. Nguồn lực xã hội ngày càn

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác lập dự án đầu tư tại Công ty xây dựng quốc tế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khan hiếm, một công cuộc đầu tư rót nhiều tiền của vào để thực hiện nó với một môi trường đầu tư cực kì nhiều biến động khó lường xảy ra, nếu sai lầm sẽ phải trả giá đắt. Do vậy bất kì một công cuộc đầu tư nào trước khi thực hiện nó đầu phải được tính toán và có sự chuẩn bị mọi mặt một cách kĩ càng. Tất cả sự chuẩn bị này được lưu vào một bộ tài liệu, đó là dự án đầu tư. Ngày nay đầu tư theo dự án là một công cụ phổ biến rộng rãi và có hiệu quả, không ai có thể phủ nhận được vai trò quyết định của dự án đến sự thành bại của một công cuộc đầu tư. Thấy rõ được tầm quan trọng của dự án đầu tư, ngay từ khi mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình sang đầu tư theo dự án từ năm 1994, công ty xây dựng quốc tế HN rất quan tâm đến các quá trình nghiên cứu, đào tạo phát triển kiến thức chuyên môn về công tác lập dự án đầu tư. Trong giới hạn về thời gian và mức độ hiểu biết của mình về lĩnh vực đầu tư nên trong bài luận văn này em chỉ đề cập đến "Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác lập dự án đầu tư tại công ty xây dựng quốc tế HN". Bài viết gồm 3 chương chính: Chương I: Lí luận chung về đầu tư và dự án đầu tư Chương II: Nêu thực trạng công tác lập dự án đầu tư tại công ty. Chương III: Trên cơ sở đó nêu một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác lập dự án tại công ty. Để hoàn thành tốt bài viết này rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn để có thể hoàn chỉnh hơn về các góc độ nghiên cứu đề tài trong phạm vi kiến thức đã học trong nhà trường và những hiểu biết thực tế nhất định. Chương 1 các vấn đề chung về đầu tư i - lí luận chung về đầu tư 1. Khái niệm đầu tư Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, là trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, các tài sản vật chất, các tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có điều kiện và đủ khả năng là việc với năng suất cao hơn trong nền văn hoá xã hội. 2. Phân loại hoạt động đầu tư Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau mà hoạt động đầu tư được phân loại thành nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu chung lại thì nó bao gồm 3 loại chính như sau: a) Đầu tư tài chính Đầu tư vào hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền đầu tư vào việc mua các chứng chỉ có giá như cổ phần, cổ phiéu, các loại chứng khoán khác hay đơn thuần là việc gửi tiền vào Ngân hàng để được hưởng lãi suất… Như vậy việc đầu tư tài chính có kết quả là số tiền đầu tư không cao, độ rủi ro không lớn, độ mạo hiểm không cao, mà lãi suất hay cổ tức thu được là tương đối ổn định. Tuy không đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế song nó rất quan trọng trong việc kích thích nền kinh tế phát triển, tạo ra một nền kinh tế năng động, nhất là các kênh lưu thông tiền tệ được linh hoạt hơn. b) Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư là tương đối ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp trong một thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dễ đạt độ chính xác cao. Trong thực tế, những người có tiền thường thích đầu tư thương mại (kinh doanh hàng hoá). Tuy nhiên trong giác độ xã hội, hoạt động này không tạo ra của cải xã hội một cách trực tiếp, nhưng giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. c) Đầu tư phát triển Đây là hoạt động đầu tư có tính chất quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, trực tiếp tạo ra các tài sản cho đất nước. Các tài sản tăng thêm có thể là tài sản hữu hình như nhà cửa, các công trình, các máy móc trang thiết bị, các vật dụng khác. Các tài sản vô hình như đầu tư vào phát triển giáo dục, nghiên cứu khoa học, sự tăng thêm về trình độ quản lí... Đặc điểm của hoạt động đầu tư này là thời gian đầu tư thường kéo dài, số tiền đầu tư lớn, độ mạo hiểm cao. Đây là cái giá của hoạt động đầu tư phát triển. Mặt khác trong quá trình đầu tư thì luôn phải có một quá trình nghiên cứu kĩ càng được ghi trong một tập tài liệu gọi là dự án đầu tư. Khi thực hiện quá trình đầu tư (bao gồm khâu lập dự án cho tới khâu thực hiện dự án) thì có nhiều bộ phận cơ quan tham gia với các chức năng khác nhau như lập và quản lí dự án, thẩm định dự án, quản lí Nhà nước về đầu tư nhằm tạo ra tính chính xác và hiệu quả cho công cuộc đầu tư. Ngày nay đầu tư phát triển được quan tâm rộng rãi giữa các quốc gia, các ngành, các vùng, các địa phương. 3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển Nói về vai trò của hoạt động đầu tư đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, các lí thuyết kinh tế đều coi đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. a) Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế v Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế: Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm 20-28% trong cơ cấu tổng cầu của mỗi quốc gia. Đầu tư tác động vào tổng cầu ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi lớn sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu, kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên trong khi giá cả giảm cho phép khả năng tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất phát triển hơn, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư. v Đầu tư tác động hai mặt tới sự ổn định của nền kinh tế: Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư, đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế là cho mỗi sự thay đổi trong đầu tư dù là tăng hay giảm đều phá vỡ sự ổn định. Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu đối với các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả hàng hoá có liên quan tăng (coi phí tổn, gia công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất bị đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do sản lượng thực tế ngày càng thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các các yếu tố liên quan tăng, sản xuất ở các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống và giảm tệ nạn xã hội. Tất cả tác động này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. v Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế: Vốn là một yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất, là đông lực thúc đẩy tăng trưởng phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Giữa tăng trưởng và đầu tư là những nhân tố trực tiếp làm tăng nhanh GDP. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình từ 8-10% tuỳ thuộc vào tỷ lệ đầu tư so với GDP phải đạt từ 15-20% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước. Ta có: Với I là vốn đầu tư còn g là mức tăng GDP. Như vậy nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng GDP chỉ phụ thuộc vào mức tăng đầu tư. ICOR của mỗi nước khác nhau thì khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước đó. ở nước phát triển ICOR thường lớn (5"7) vì họ thừa vốn thiếu lao động và sử dụng những công nghệ đắt tiền hiện đại nên để tăng 1%GDP cần tăng nhiều vốn, ngược lại đối với những nước chậm phát triển thì ICOR thấp (2"3). Như vậy đầu tư đóng vai trò như một cái kích ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. v Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9-10%/năm) là tăng cường đầu tư cho các ngành nông lâm ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh lợi, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế xã hội... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các ngành khác phát triển. v Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ:của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết và tăng cường khả năng công nghệ. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư là những phương án không khả khi. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình công nghệ làm 7 giai đoạn thì Việt nam trong năm 1990 mới ở giai đoạn 1-2. Ngày nay, Việt nam có thuận lợi là hầu hết các công nghệ cần thiết cho công nghiệp hoá đã được các nước có trình độ phát triển kinh tế lớn hơn chuyển giao sang bằng nhiều hình thức như tài trợ, mua bán thông qua quan hệ thương mại hay đầu tư trực tiếp FDI. Vấn đề đặt ra là chỉ còn lựa chọn công nghệ thích hợp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt nam và tranh thủ nghiên cứu những thành tựu KHCN vào phát triển kinh tế mà không nên quá phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. b) Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi đơn vị nghĩa là muốn cơ sở sản xuất ra đời thì phải đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và xây dựng nó lên. Để duy trì được sự hoạt động bình thường thì các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh đó phải luôn đầu tư đổi mới, sửa chữa máy móc dây chuyền công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh nếu như không muốn bị tụt hậu dẫn tới bị phá sản. Điều này dẫn tới phải tăng cường đầu tư trong mọi giai đoạn của sự phát triển của đơn vị. ii - lí luận về dự án đầu tư 1. Khái niệm dự án đầu tư Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu hình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhất định để đạt được những kết quả và thực hiện được mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lí:Dự án đầu tư là một công cụ quản lí việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ta các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Đối với mỗi dự án đầu tư thì trong những hoạt động nào đó có liên quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu phải được đặc biệt quan tâm. 2. Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án Xuất phát từ những đặc điểm đặc trưng của công cuộc đầu tư phát triển thì việc đầu tư theo dự án là cần thiết. Hoạt động đầu tư là một hoạt động kinh tế nhằm tái sản xuất cho nền kinh tế xã hội, đây là một hoạt động phức tạp và có những đặc điểm nổi bật sau đây: + Nguồn lực huy động cho một công cuộc đầu tư là rất lớn trong một thời gian khá dài. Đây là cái giá khá lớn cho hoạt động đầu tư. Trong quá trình này thì nguồn vốn nằm khê đọng không sinh lời. + Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi vốn đã bỏ ra hay cho đến khi thanh lí tài sản do vốn tạo ra có thể cần một thời gian dài, thường là vài năm, có khi hàng chục năm hay lớn hơn. + Các thành quả của quá trình đầu tư có thể được sử dụng trong nhiều năm đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những chi phí đã bỏ ra trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. + Các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố bất định về tự nhiên, các điều kiện về kinh tế xã hội pháp luật, chính trị, nhu cầu thị trường và các quan hệ quốc tế khác... Do đó hoạt động đầu tư có độ mạo hiểm cao. Vì vậy để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị. Có nghĩa là khi xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư phải dự đoán các yếu tố bất định (sẽ xảy ra trong suốt quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư cho tới khi thành quả của nó phát huy tác dụng) có ảnh hưởng tới sự thành bại của công cuộc đầu tư thực chất của sự xem xét chuẩn bị này là là phải chuẩn bị nó trong một dự án đầu tư. Có thể nói dự án đầu tư được soạn thảo tốt là kim chỉ nam, là sự vững chắc, là tiền đề cho các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội như mong muốn. 3. Vai trò của dự án đầu tư a) Đối với sự phát triển kinh tế Đầu tư theo dự án sẽ tạo ra cho nền kinh tế xã hội với những tài sản cố định có chất lượng cao, chi phí hợp lí, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Dự án đầu tư sẽ làm cho công cuộc đầu tư phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện phát triển kinh tế mỗi nước. b) Đối với các chủ thể - Chủ đầu tư: Dự án là một cách để thực hiện đầu tư với phương án tối ưu về mặt kinh tế kĩ thuật làm sao cho công cuộc đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất, chi phí tối thiểu và giảm thiểu rủi ro gây ra. Lập dự án đầu tư còn là điều kiện đảm bảo tính hợp pháp và tính khả thi của công cuộc đầu tư giúp cho nó nhanh được đi vào thực hiện (chẳng hạn liên quan đến việc được cấp giấy phép đầu tư, hay được giải ngân vốn, giải phóng mặt bằng). - Đối với Nhà nước: Dự án là cơ sở để kiểm tra tính hợp pháp, tính khả thi, tính định hướng của công cuộc đầu tư. Từ đó là cơ sở để thẩm định và cấp giấy phép đầu tư (mà cơ quan đại diện quản lí Nhà nước về đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ và cơ quan ngang bộ khác, Uỷ Ban Nhân dân). Dự án đầu tư giúp cho Nhà nước thực hiện được mục tiêu quản lí của mình là phù hợp với các chính sách, chiến lược đầu tư mà tiêu chuẩn đánh giá chính là hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án mang lại. - Đối với các định chế tài chính (Ngân hàng, các tổ chức tài chính): Dự án là cơ sở để các tổ chức này thẩm định để đứng ra cho vay hay tài trợ. Bởi lẽ khi dự án đi vào hoạt động thì số tiền cần huy động là rất lớn mà khi vận hành các kết quả đầu tư thường mất nhiều năm tháng mới có thể trả được hết nợ. Do vậy để an toàn cho nguồn vốn của mình thì đòi hỏi các định chế tài chính dựa vào dự án để ra quyết định cho vay hoặc tài trợ vốn. (Loan and finance). ± - nội dung chủ yếu của dự án đầu tư Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và vĩ mô, quản lí và kĩ thuật. Những khía cạnh này ở các dự án của các ngành khác nhau đều có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên việc xem xét các khía cạnh này đối với dự án công nghiệp và xây dựng là phức tạp hơn cả. Nội dung chủ yếu của một dự án đầu tư xem xét các vấn đề sau đây: 1. nghiên cứu khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát và thị trường của dự án 1.1 Xem xét các khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát liên quan đến dự án Có thể coi tình hình kinh tế tổng quát là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hiện khung cảnh đầu tư, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh tế tài chính của dự án đầu tư. Tình hình kinh tế tổng quát được đề cập trong dự án bao gồm: ữ Điều kiện về địa lí tự nhiên (địa hình, khí hậu, địa chất...) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả dự án sau này. ữ Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án. ữ Tình hình chính trị, các chính sách và luật lệ có ảnh hưởng đến sự an tâm của nhà đầu tư. ữ Tình hình phát triển kinh tế của đất nước, địa phương và tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của ngành, cơ sở có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và phát huy hiệu quả dự án sau này. ữ Tình hình ngoại hối (cán cân thanh toán ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, nợ nần và tình hình thanh toán nợ...) đặc biệt đối với các dự án phải nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị của nước ngoài. ữ Hệ thống kinh tế và các chính sách phát triển kinh tế của chính phủ. ữ Tình hình ngoại thương và các định chế tài chính có liên quan như tình hình xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu, luật đầu tư nước ngoài. 1.2. nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường nhằm xác định các yếu tố sau: + Thị trường cung cầu sản phẩm và dịch vụ mà dự án dự kiến sản xuất và cung cấp ở thời điểm hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai. + Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của dự án được thuận lợi. + Khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cungd loại có sẵn và các sản phẩm có thể được sản xuất sau này. a) Xem xét loại thị trường của sản phẩm Mọi sản phẩm làm ra đều nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của xã hội các nhu cầu này rất đa dạng và có tầm quan trọng khác nhau đối với mỗi người. Vì vậy cần làm rõ những đối tượng tiêu thụ sản phẩm của dự án và sản phẩm của dự án thuộc loại gì. Đối với mỗi loại sản phẩm và mỗi loại thị trường đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu và tiếp thị riêng biệt. b) Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ. Dự đoán nhu cầu tương lai. Đây là việc cần thiết nhằm xác định rõ xu hướng biến động của thị trường để nhằm xác định quy mô của dự án. Gồm: đ Tính đàn hồi của nhu cầu so với giá: Nhu cầu sẽ thay đổi khi giá cả thay đổi, giá cả tăng thì người mua sẽ phải cân nhắc kĩ hơn khi mua sản phẩm. Việc ước lượng nhu cầu của thị trường có thể áp dụng phương pháp thống kê mối liên hệ giữa giá cả và lượng sản phẩm tiêu thụ. đ Tính đàn hồi của cầu so với thu nhập: Chúng ta biết rằng trên thực tế thu nhập tăng thì mức tiêu dùng cũng tăng. Để xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu và thu nhập chúng ta áp dụng những phương pháp nghiên cứu tương quan giữa thu nhập đầu người và mức tiêu thụ sản phẩm của dự án trên cơ sở các số liệu thống kê trong và ngoài nước. đ Các yếu tố khác ảnh hưởng tới nhu cầu: Tuỳ theo từng loại sản phẩm có những yếu tố đặc thù tác động rất mạnh đến thị trường của nó như việc điện khí hoá một vùng nào đó là cho mức tiêu thụ hàng điện dân dụng vùng đó tăng lên... c) Nghiên cứu các vấn đề tiếp thị và khuyến thị Việc xác định vấn đề này để giải quyết câu hỏi là làm sao để khách hàng mua sản phẩm của mình thay vì sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. + Tiếp thị: Để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách hữu hiệu nhất cần phải xem xét đối tượng khách hàng, tức là phải xem yếu tố quyết định để khách hàng mua sản phẩm là gì? đối với mỗi khách hàng khác nhau thì việc phân phối sản phẩm cũng sẽ cần phải khác nhau. Nghiên cứu các hình thức phân phối và hiệu lực của chúng; các chi phí để đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. +Khuyến thị: Đây là một bộ phận chủ yếu của công tác tiếp thị. Mục đích của khuyến thị là làm sao để người tiêu dùng mua sản phẩm của mình thay vì mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. d) Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm Chúng ta biết rằng vị thế cạnh tranh phụ thuộc vào quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng về vốn để vòng quay về vốn liên tục, bán chịu, giảm giá bán... Để chứng minh khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án người ta áp dụng phương pháp điều tra mẫu, so sánh các sản phẩm của dự án với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp giá cả là vấn đề chính cho việc chiếm lĩnh thị trường thì cần phải xem xét giá cả ở khâu tiêu thụ cuối cùng với sản phẩm cạnh tranh, phải xem xét những ưu điểm vốn có của thị trường cũng như những rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện đầu tư. Sau khi xem xét các vấn đề phải đi đến kết luận làm sao chứng minh được rằng dự án có một thị trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại ở trong và ngoài nước. Chứng tỏ được rằng dự án có thể cạnh tranh một cách có hiệu quả ở thị trường này trên cơ sở phân tích những lợi thế chi phí cuả dự án. Đó là những lợi thế về chi phí nguyên vật liệu, nhân công vận chuyển, điện, nhiên liệu, máy móc thiết bị, quản lí và các chi phí về tiêu thụ sản phẩm. Đối với các nhà cạnh tranh nước ngoài cần làm rõ những lợi thế của dự án về mặt thuế quan, về tiết kiệm chi phí vận chuyển, đồng thời những hạn chế về ngoại tệ và nhập khẩu của dự án. Sau khi nghiên cứu khía cạnh thị trường của dự án phải xác định được rằng dự án có khả thi về mặt thị trường hay không. 2. phân tích kĩ thuật dự án đầu tư Phân tích kĩ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích về mặt kinh tế tài chính và lập dự toán ch dự án đầu tư. Không có số liệu về phân tích kĩ thuật thì không thể tiến hành phân tích về mặt kinh tế tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh hưởng đến các quyết định về mặt kĩ thuật. Các dự án không khả thi về mặt kĩ thuật phải được bác bỏ để tránh tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư. 2.1. Mô tả sản phẩm sẽ sản xuất của dự án a) Đặc tính của sản phẩm Các đặc tính về mặt lí học,hoá học so sánh với các sản phẩm trong nước và ngoài nước hoặc với tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đo lường trong nước và quốc tế. Các hình thức bao bì đóng gói, các công dụng và cách sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm ở đây bao gồm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và chất thải. b) Đánh giá chất lượng sản phẩm Để đánh giá chất lượng sản phẩm phải xem xét các phương pháp và phương tiện để kiểm tra sản phẩm xác định các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng sau khi đã xác định phương pháp kiểm tra, dự kiến chi phí cho phương pháp kiểm tra. 2.2. Nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất Nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất Việc nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất cần được tiến hành theo các vấn đề sau đây: + Bản chất của kĩ thuật sản xuất. + Yêu cầu tay nghề của người sử dụng, khả năng tiép thu kĩ thuật. + Yêu cầu về năng lượng và nguyên nhiên liệu sử dụng. + Khả năng chuyển sang sản xuất các mặt hàng khác trong trường hợp mặt hàng cũ không còn hợp thời nữa. + Nhà cung cấp, cách thức cung cấp và quyền sở hữu công nghiệp. + yêu cầu về đầu tư và ngoại tệ. Chọn kĩ thuật và phương pháp sản xuất Sau khi nghiên cứu các phương pháp kĩ thuật sản xuất khác nhau chúng ta phải lựa chọn phương pháp sản xuất hoặc quy trình công nghệ thích hợp nhất đối với điều kiện thực tế hiện có mà vẫn đảm bảo sản phẩm đáp ứng được mọi yêu cầu chất lượng, số lượng với chi phí tối thiểu. Như vậy việc lựa chọn kĩ thuật sản xuất có liên quan đến các kiến thức cề đặc tính kĩ thuật, chất lượng, số lượng sản phẩm, thời gian cần thiết để sản xuất và tiêu thụ. Việc lựa chọn kĩ thuật sản xuất cần tránh mọi kĩ thuật quá mới mẻ hay đang thử nghiệm. Tuy nhiên cần chú ý không chọn kĩ thuật sản xuất đã lỗi thời để tạo ra sản phẩm kém chất lượng. Sau khi đã lựa chọn được phương pháp sản xuất hoặc quy trình công nghệ cho dự án phải mô tả chi tiết và làm rõ lí do chọn. Tiếp đó lập hồ sơ quy trình công nghệ đã chọn. Sơ đồ này cho thấy một cách đơn giản hoặc chi tiết tiến trình sản xuất từ đầu vào qua các công đoạn sản xuất chế biến đầu ra. Các sơ đồ chi tiết hơn có thể cho thấy cả các nhu cầu và vị trí không gian, kích thước và khoảng cách của các máy móc thiết bị, và các tiện nghi phục vụ sản xuất khác. 2.3. Chon máy móc thiết bị Tuỳ thuộc vào công nghệ và phương pháp sản xuất mà lựa chọn máy móc thiết bị thích hợp. Đồng thời còn căn cứ vào trình độ tiến bộ kĩ thuật, chất lượng giá cả phù hợp với khả năng vận hành và vốn đầu tư, với điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, công suất, các điều kiện về khí hậu... Ngoài ra đối với bất cứ loại thiết bị nào nếu nhập khẩu thì nên nhập luôn phụ tùng thay thế, thông thường chi phí này chiếm khoảng 10-20% chi phí máy móc thiết bị của dự án. Trong số các thiết bị phải nhập khẩu, có thể có một số thiết bị đòi hỏi phải thuê chuyên gia hướng dẫn. Sau khi đã chọn được loại máy móc thiết bị cho dự án phải lập bảng liệt kê mô tả đầy đủ theo các căn cứ để lựa chọn. 2.4. Xác định công suất của máy móc thiết bị và của dự án P Công suất của máy móc thiết bị: Cần phân biệt các loại công suất: + Công suất thiết kế: là khả năng sản xuất sản phẩm trong một giờ của thiết bị. + Công suất lí thuyết; là công suất tối đa trên lí thuyết mà thiết bị có thể thực hiện được với giả thiết là thiết bị hoạt động liên tục không bị gián đoạn vì bất kì một lí do nào. Ta có: CSLT/năm=CS/giờ/ ngày/năm + Công suất thực tế: là công suất thực tế đạt được, luôn nhỏ hơn công suất lí thuyết. Trong điều kiện hoạt động tốt công suất thực tế chỉ đạt được trên dưới 90% công suất lí thuyết. P Công suất của dự án Nội dung và trình tự của việc xác định công suất của dự án bao gồm các bước sau đây: + Xác định công suất bình thường: có thể của dự án đó là số sản phẩm cần sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường mà dự án dự kiến sẽ chiếm lĩnh. + Xác định công suất tối đa danh nghĩa: Công suất tối đa danh nghĩa biểu hiện bằng số sản phẩm cần sản xuất vừa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường, vừa để bù đắp những hao hụt tổn thất trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển và bốc dỡ. + Công suất sản xuất: của dự án là số sản phẩm mad dự án cần sản xuất trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất để đáp ứng nhu cầu của thị trường có tính đến thời gian và chế độ làm việc của lao động, của máy móc thiết bị trong năm. P Công suất khả thi của dự án Để xác định Công suất khả thi của dự án cần căn cứ vào các yếu tố sau đây: + Nhu cầu thị trường (công suất sản xuất). + Trình độ kĩ thuật của máy móc thiết bị + Khả năng cung cấp nguyên vật liệu, chi phí sản xuất , khả năng và chi phí của vốn đầu tư. Thông thường trong những năm đầu do có những khó khăn khác nhau nên chỉ sử dụng công suất khoảng 40-90% công suất lí thuyết, vài năm sau nhu cầu tăng thì sẽ sản xuất hết công suất (công suất khả thi). 2.5. Nguyên vật liệu đầu vào Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm tất cả các nguyên vật liệu chính và phụ, vật liệu bao bì đóng gói. Đây là một khía cạnh kĩ thuật quan trọng của dự án cần xem xét kĩ các vấn đề sau: + Trước hết phải xem xét nguyên vật liệu sẽ sử dụng cho dự án thuộc loại nào. + Đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu sử dụng cho dự án: + Nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu có ảnh hưởng đến sự sống còn và quy mô dự án. + Giá thu mua, vận chuyển và kế hoạch cung ứng. Phải lập kế hoạch, ước tính thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu đảm bảo yêu cầu của sản xuất. 2.6. Cơ sở hạ tầng Nhu cầu năng lượng, nước, giao thông, thông tin liên lạc... của dự án phải được xem xét, nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư và chi phí sản xuất do có hay không các cơ sở hạ tầng này. 2.7. Lao động và trợ giúp kĩ thuật của nước ngoài Cần phải xác định nhu cầu về lao động, nguồn lao động, chi phí lao động. Cần xác định được số lượng lao động trực tiếp và số lượng lao động địa phương. Cần ưu tiên sử dụng lao động địa phương. Đối với dự án mà trình độ lao động kĩ thuật của chúng ta chưa thể tiếp nhận khi chuyển giao công nghệ thì phải thuê chuyên gia nước ngoài. Chi phí thuê chuyên gia nước ngoài rất cao nên phải xem xét kĩ lưỡng. 2.8. Địa điểm thực hiện dự án Khi xem xét lựa chọn địa điểm dự án thực chất là xem xét các khía cạnh về địa lí tự nhiên kinh tế xã hội kĩ thuật...có liên quan đến dự án. Vì vậy cần phải biết rõ các vị trí, diện tích của địa điểm thực hiện dự án. Phải khảo sát các điều kiện về địa lí, địa hình, thuỷ văn tự nhiên ở các địa điểm khác nhau để cân nhắc giá mua hoặc thuê quyền sử dụng đất đai, tính toán chi phí san lấp mặt bằng, xây dựng nền móng cho nhà xưởng và lắp đặt thiết bị máy móc. 2.9. Kỹ thuật xây dựng công trình của dự án Công trình xây dựng của dự án bao gồm các hạng mục nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động an toàn và thuận lợi. Đối với mỗi hạng mục công trình phải xem xét: Diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc (bê tông, cốt thép, khung sắt, lắp ghép...), kích thước... và chi phí dự kiến. Tổ chức xây dựng việc thi công các hạng mục công trình có thể được tiến hành theo phương thức tự làm hoặc bao thầu, đấu thầu, tuỳ tài chính phức tạp của công trình. 2.10. Đánh giá tác động của môi trường Cùng với sự phát triển của công nghiệp, ô nhiễm môi trường cũng gia tăng. Nhiều nước và nhiều địa phương đã ban hành các luật lệ, quy chế buộc các cơ sở sản xuất phải gia tăng áp dụng các biện pháp xử lí chất thải. Trong nghiên cứu khả thi phải nghiên cứu các vấn đề này. 2.11. Lịch trình thực hiện dự án Việc lập lịch trình thực hiện từng hạng mục công trình từng công việc trong mỗi hạng mục công trình trong mỗi dự án phải đảm bảo làm sao cuối cùng dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đúng thời gian dự định. Đối với các dự án quy mô lớn có nhiều hạng mục công trình, kĩ thuật xây dựng công trình phức tạp, để lập hạng mục công trình đòi hỏi phải phân tích một cách có hệ thống và có phương pháp. 3. phân tích tài chính dự án đầu tư 3.1. Xác định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn của dự án a) Xác định tổng vốn đầu tư Tính toán chính xác tổng vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư được dự tính quá thấp, dự án không thực hiện được, ngược lại nếu dự tính quá cao không phản ánh được chính xác hiệu quả tài chính dự án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động. Nó được chia ra làm hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động ban đầu (chỉ tính cho một chu kì sản xuất kinh doanh đầu tiên). b) Xác định các nguồn tài trợ cho dự án Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả thời điểm nhận tài trợ. Các nguồn vốn dự kiến này phải được đảm bảo chắc ._.chắn. Sự đảm bảo này có cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế. 3.2. Lập các báo cáo tài chính dự kiến cho từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án Các báo cáo tài chính giúp cho chủ đầu tư thấy được tình hình hoạt động tài chính của dự án và nó là nguồn số liệu giúp cho việc tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh về mặt tài chính của dự án. a) Dự tính doanh thu từ hoạt động của dự án Doanh thu từ hoạt động của dự án bao gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu, phế phẩm và từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Doanh thu của dự án được tính cho từng năm hoạt động và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm của dự án để xác định. b) Dự tính chi phí sản xuất Chỉ tiêu này cũng được dự tính cho từng năm trong suốt cả đời dự án. Việc dự tính chi phí sản xuất dựa trên kế hoạch sản xuất hàng năm, kế hoạch khấu hao và kế hoạch trả nợ của dự án. c) Dự tính lãi lỗ của dự án Trên cơ sở dự tính về tổng doanh thu, chi phí từng năm tiến hành dự tính hàng năm thì tiến hành dự tính lãi lỗ của dự án. Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ trong từng năm và cả đời dự án. d) Bảng dự trù cân đối kế toán Bảng dự trù cân đối kế toán của dự án được tính cho từng năm hoạt động nó mô tả tình trạng tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án thông qua việc cân đối tài sản với nguồn vốn. Đây là nguồn tài liệu giúp cho chủ đầu tư phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính của dự án. Việc dự trù được tiến hành theo bảng mẫu theo quy định của Nhà nước. e) Dự tính cân đối thu chi Phân tích tài chính dự án quan tâm tới lượng tiền đi vào và đi ra của dự án. Đảm bảo cân đối thu chi (cân đối dòng tiền vào và dòng tiền ra là mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án). Việc dự tính cân đối dòng tiền được thực hiện theo bảng mẫu theo quy định của Nhà nước. 3.3 Các chỉ tiêu phản ánh về mặt tài chính của dự án đầu tư a) Các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp + Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay.Hệ số này phải lớn hơn hoặc bằng 1. Đối với những dự án có nhiều triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1 và lớn hơn 2/3 thì thuận lợi. + Tỷ trọng vốn tự có so với vốn đầu tư phải lớn hơn hoặc bằng 50%, đối với những dự án có triển vọng thì hệ số này có thể nhỏ tới 40%. b) Các chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án Đây là các chỉ tiêu đánh giá quy mô lãi của dự án. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho từng năm hoặc từng giai đoạn hoạt động của đời dự án. Chỉ tiêu này có tác dụng so sánh giữa các năm hoạt động của dự án. Wi=Oi-Ci Trong đó: Wi: Lợi nhuận thuần năm i Oi: Doanh thu thuần năm i Ci: Chi phí ở năm i Chỉ tiêu tổng lợi nhuận thuần của cả đời dự án có tác dụng so sánh quy mô lãi giữa các dự án. Để tính tổng lợi nhuận các năm của đời dự án ta phải tính chuyển tổng lợi nhuận thuần hàng năm về cùng mặt bằng thời gian ở hiện tại hoặc tương lai.. Ta có: Chỉ tiêu lợi nhuận thuần bình quân năm được tính theo công thức: Để đánh giá đầy đủ quy mô lãi của đời dự án trong phân tích tài chính thường sử dụng chỉ tiêu thu nhập thuần. Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí của cả đời dự án. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô lãi ở thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Với cách tính ở thời hiện tại, ta có chỉ tiêu NPV (Net present value) Trong đó: Bi: là khoản thu của năm i Ci: là khoản chi của năm i Dự án chỉ có thể được chấp nhận khi mà NPV≥0. c) Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C) Chỉ tiêu B/C (Benefit-cost ratio) được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích và chi phí bỏ ra để thu được lợi ích đó. Chỉ tiêu này tính bằng: Với PV(B) và PV(C) là giá trị hiện tại của lợi ích và chi phí Tỷ số B/C ≥ 1 thì dự án có thể được chấp nhận. d) Hệ số hoàn vốn (RR) còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư Hệ số hoàn vốn (Rate of return) nói lên mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thu được hàng năm. Chỉ tiêu này được tính như sau: + Nếu tính cho từng năm hoạt động của dự án: + Nếu tính bình quân năm của đời dự án: tỉ số này dùng để so sánh giữa các dự án với nhau, và đồng thời nó cũng phải lớn hơn lãi suất ngân hàng. e) Hệ số hoàn vốn nội bộ (Internal rate of return) Hệ số hoàn vốn nội bộ là suất chiết khấu (r) mà tại đó giá trị hiện tại của các khoản thu, chi bằng nhau hay NPV=0 và được xác định như sau: Trong đó: + r2>r1 và r2-r1Ê5% + NPV1(ứng với r1)>0 và gần 0 + NPV2(ứng với r2)<0 và gần 0 Dự án có IRR ≥ rgh và lớn nhất hay khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao thì sẽ được chọn giữa các phương án đầu tư, rgh có thể là lãi suất đi vay nếu phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy định nếu có vốn do Ngân sách cấp và cũng có thể là mức chi phí cơ hội nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư. f) Thời gian hoàn vốn (T) Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian mà các kết quả của các quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra bằng những khoản lợi nhuận thuần dự án thu được. Thời gian hoàn vốn là chỉ tiêu hiệu quả thường được dùng để so sánh lựa chọn dự án nhất là đối với trường hợp dự án có nhiều rủi ro và thị trường tương đối khan hiếm. Thời gian hoàn vốn chỉ tính ở dạng tiềm năng còn trên thực tế chỉ có khấu hao TSCĐ và một phần lợi nhuận dòng được dùng để thanh toán vốn đầu tư ban đầu. Thời gian hoàn vốn (T) có thể tính bằng: hoặc là Nếu thời gian hoàn vốn T Ê Tgh(thời gian giới hạn do nhà đầu tư lựa chọn) thì dự án có thể chấp nhận. Trường hợp so sánh lựa chọn dự án thì dự án có T nhỏ nhất sẽ được lựa chọn. g) Phân tích hoà vốn Phân tích hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản xuất hoặc doanh thu tối thiểu mà dự án có thể vận hành và không gây nguy hiểm tới khả năng tồn tại của dự án về mặt tài chính. Phân tích hoà vốn thực chất là tìm điểm hoà vốn (BEP-break event point) mà tại đó doanh thu bán sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất hay nói cách khác là tìm mức vận hành mà tại đó hàng năm dự án không có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Nói chung điểm hoà vốn được tính bằng: Doanh thu hoà vốn là , trường hợp sản xuất nhiều loại sản phẩm thì doanh thu hoà vốn là Với x: sản lượng hoà vốn; f: định phí; vi biến phí sản phẩm i; pi giá sản phẩm i Điểm hoà vốn càng thấp, cơ hội thu lợi của dự án càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Điểm hoà vốn có thể được thể hiện bằng khối lượng sản phẩm tối thiểu, tỷ lệ đạt công suất tối thiểu, giá trị doanh thu tối thiểu. Nó cũng có thể hiện qua giá bán tối thiểu, giá thành đơn vị sản phẩm cho phép. h) Phân tích khả năng biến động dự án Trên thực tế, những tính toán ban đầu khi xây dựng dự án không phải bao giờ cũng đạt như dự kiến: + Nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động có thể bị thiếu hụt, tình trạng thâm hụt Ngân sách có thể trở nên căng thẳng. + Thời gian thi công, xây dựng và chạy thử có thể bị kéo dài. + Năng lực sản xuất (công suất thiết kế) dự kiến ban đầu có thể không thực hiện được. Hơn nữa khó có thể lường hết đươch những biến động của thị trường, nền kinh tế như: ảnh hưởng của lạm phát, những biến động thay đổi về tương quan giá cả, những biến động về công nghệ tiên tiến... Ngoài ra còn có những nguyên nhân chủ quan do trình độ quản lí của các nhà doanh nghiệp có thể chưa phù hợp với những biến động của thị trường. Do đó, cần phải tiến hành phân tích khả năng biến động của dự án để đánh giá khả năng thực hiện của dự án cũng như để cho các nhà doanh nghiệp lường trước được những khó khăn khi thực hiện dự án và đề xuất những biện pháp quản lí kinh doanh thích hợp. i) Phân tích độ nhạy Phân tích độ nhạy cho biết sự biến động của các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như: lợi nhuận, NPV, IRR, thời gian hoà vốn đầu tư.... khi thay đổi các thông số đầu vào như: giá cả của sản phẩm, doanh thu, vốn đầu tư, chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chiều hướng lạc quan hay bi quan. Phân tích độ nhạy của dự án có thể được tiến hành thay đổi một hoặc một vài biến số cùng một lúc. Biến số có thể thay đổi theo chuỗi số liệu hoặc theo tỷ lệ % tăng hay giảm số liệu ban đầu. Nếu các chỉ tiêu hiệu quả quan trọng của dự án nhạy cảm với sự thay đổi của các thông số cơ bản mang ý nghĩa sống còn đối với dự án thì dự án được coi là có tỷ lệ rủi ro cao và khi đó cần áp dụng những biện pháp nghiêm ngặt để thẩm tra xét duyệt dự án. 4. phân tích hiệu quả xã hội dự án đầu tư Một dự án đầu tư nếu được thực hiện nhiều cũng ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, xã hội, môi trường của một vùng, khu vực, hay cả nền kinh tế quốc dân. Trên góc độ nhà đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể của việc thực hiện dự án có thể có nhiều nhưng quy tụ lại là đạt được lợi nhuận cao. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế xã hội. Do đó trên góc độ quản lí vĩ mô, phải xem xét những lợi ích kinh tế xã hội do việc thực hiện dự án mang lại hay là so sánh giữa cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có (tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động...) và lợi ích do đầu tư tạo ra cho toàn bbộ nền kinh tế như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các mục tiêu, các chủ trương của Nhà nước, góp phần phát triển địa ohương và các ngành khác, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh (định tính)... hay định lượng như tăng thu Ngân sách, gia tăng số người có việc làm, tăng thu ngoại tệ... Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho dự án. Chính vì vậy nhiệm vụ của các nhà lập dự án đầu tư là chỉ ra được sự đóng góp của dự án vào mục tiêu phát triển của đất nước. Trình tự phân tích, đánh giá ảnh hưởng của dự án đến nền kinh tế quốc dân được tiến hành thông qua việc phân tích các chỉ tiêu dưới đây: 4.1. Giá trị gia tăng thuần tuý NVA Giá trị gia tăng thuần tuý (net value added) là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính toán như sau: Trong đó: + O là giá trị đầu ra của dự án. + MI là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây (như năng lượng, giao thông, bảo dưỡng...) Giá trị gia tăng thuần tuý quốc gia NNVA (national net value added) được tính như sau: Với RP là các khoản chuyển ra nước ngoài có liên quan đến dự án như tiền lương, lợi nhuận, tiền trả kì vụ, tiền bảo hiểm, tiền thuê, lãi vay... NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế đất nước, cho thu nhập quốc gia (NDI- national disposable Income). - Ngoài ra còn tính tới chỉ tiêu như SS (social surplus) thặng dư xã hội. 4.2. Chỉ tiêu số lao động có việc làm Chỉ tiêu này bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (gián tiếp). Có 2 chỉ tiêu cần xem xét là tổng số lao động có việc làm và số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư. 4.3. Tác động đến phân phối thu nhập và công bằng 4.4. Tiết kiệm và tăng ngoại tệ Tiết kiệm và tăng ngoại tệ nhằm hạn chế dần sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và tạo nên cán cân thanh toán hợp lí là hết sức cần thiết đối với các nước đang phát triển như nước ta. Các bước tiến hành: + Xác định các khoản thu chi ngoại tệ. + Xác định các khoản thu chi ngoại tệ của dự án liên đới (nếu có). + Tính dòng ngoại tệ thuần đưa về mặt bằng hiện tại. + Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. + Tính tổng toàn bộ số ngoại tệ tiết kiệm ở hai bước trên. 4.5. Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế (IC-International competitiveness) 4.6. Những tác động khác của dự án + Mục tiêu và phạm vi phân tích tác động đến môi trường sinh thái. + Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng. + Tác động dây chuyền tới các ngành nghề, lĩnh vực khác. III. công tác lập dự án đầu tư 1. Khái niệm Lập dự án đầu tư là quá trình xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế-kĩ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường pháp lí, xã hội... có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư, phải dự đoán được mọi yếu tố bất định có ảnh hưởng đến sự thành bại của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét tính toán và chuẩn bị này được thể hiện trong dự án đầu tư. Kết quả của công tác lập dự án đầu tư chính là dự án khả thi. Dự án khả thi chính là tài liệu cơ sở, chủ đầu tư đã nghiên cứu so sánh và lựa chọn các phương án đầu tư (phương án tối ưu) để gửi cơ quan có thẩm định đầu tư và trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét quyết định. 2. Các yêu cầu của công tác lập dự án - Tính chính xác: Dự án được lập ra phải đảm bảo tính chinh xác, nhất là những con số được tính toán, những phương án công nghệ được sử dụng để vận hành dự án sau này. Rõ ràng rằng tính chính xác sẽ thể hiện độ tin cậy mà dự án mang lại cho chủ đầu tư, các cơ quan quản lí tức thông qua đó cho biết mức độ đáp ứng mục tiêu của dự án như thế nào. Dự án lập ra không chính xác sẽ gây hậu quả to lớn khi vận hành nó (chẳng hạn như các con số về dự báo nhu cầu sản phẩm, các con số tính toán các chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR). - Tính khoa học, tính hệ thống: Công tác lập dự án phải đảm bảo yêu cầu này nhằm đáp ứng những nguyên tắc nhất định nào đó giúp cho dự án được lập chính xác, phù hợp với mục tiêu của đơn vị và mục tiêu xã hội. Tính khoa học được thể hiện khi thực hiện có sự phối hợp nhịp nhàng, linh động giữa các bộ phận tham gia, nội dung dự án được lập theo những phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá, được sử dụng rộng rãi trong nước và quốc tế. Tính hệ thống được thể hiện là sự tổng hợp tất cả các yếu tố có liên quan đến dự án đều được đưa ra xem xét và phân tích do vậy tính khả thi dự án sẽ được nâng cao, được chấp nhận khi nó đi vào thực hiện và vận hành. - Đáp ứng tốt nhu cầu thị trường: Mục đích cuối cùng của công cuộc đầu tư chỉ là để cung cấp những sản phẩm dịch vụ của mình đến thị trường và đạt được hiệu quả kinh tế tài chính cao nhất cho chủ đầu tư, mặt khác đáp ứng nhu cầu này sẽ là cho công cuộc đầu tư không bị chệch hướng, sai mục tiêu và thậm chí là không phù hợp với quy hoạch phát triển của Nhà nước. Chẳng có gì phải bàn cãi khi mà dự án không đáp ứng được nhu cầu thị trường thì sản phẩm làm ra sẽ không bán được thế là thua lỗ. 3. Các bước của quá trình lập dự án đầu tư Dự án đầu tư được lập thường trải qua các bước như sơ đồ dưới đây: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Lập các báo cáo khả thi Trình duyệt - Nghiên cứu cơ hội đầu tư là tìm ra những ý tưởng, những cơ hội đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh mà tại đó nhu cầu thị trường về nó chưa đáp ứng đầy đủ về mặt hiện tại mà nếu đầu tư vào lĩnh vực đó sẽ tạo ra hiệu quả to lớn về mọi mặt kinh tế xã hội đất nước mà lợi ích chủ đạo là của chủ đầu tư. - Lập các báo cáo khả thi là quá trình biến ý tưởng thành một phương thức hoạt động đầu tư cụ thể nhằm đạt được ý tưởng đó. Trong giai đoạn này bao gồm báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi nhằm kế hoạch hoá đầu tư vào một tập tài liệu cụ thể trong đó nghiên cứu mọi khía cạnh có thể tác động tới công cuộc đầu tư. - Trình duyệt: Sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi được trình duyệt thì nó sẽ chính thức trở thành Dự án khả thi, là cơ sở cho chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ của mình, là cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư hay cho vay vốn... 4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới công tác lập dự án ư Yếu tố con người: lực lượng cán bộ phải có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm. Đây là tố chất cần thiết phản ánh chất lượng của dự án, nó có tính quyết định trong quá trình lập dự án đầu tư mà không có thiết bị máy móc nào có thể thay thế nổi. ư Cách tổ chức quản lí: Là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận chuyên môn và bộ phận chức năng một cách năng động, linh hoạt nhằm tạo ra sự phân tích và nghiên cứu toàn diện một dự án đầu tư. Đảm bảo dự án được lập mang tính khoa học, tính chính xác và đáp ứng được nhiều mục tiêu hơn. ư Máy móc thiết bị và các phần mềm phụ trợ cho các công tác khảo sát thiết kế. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho con người giúp cho công tác lập dự án chất lượng cao hơn, chính xác hơn, thời gian được rút ngắn lại do vậy sẽ tiết kiệm được các chi phí khác liên quan. ư Yếu tố thông tin: đóng vai trò quyết định đến mục tiêu định hướng của dự án, thông tin bao gồm thông tin bên trong (giữa lãnh đạo tới các nhân viên) và thông tin bên ngoài (tình hình thị trường, đối thủ cạnh tranh, yếu tố luật pháp, nguồn lực, kinh tế xã hội...). Thông tin nắm bắt và xử lí càng nhanh thì mức độ chính xác trong công tác lập dự án càng cao bấy nhiêu. ư Các yếu tố khác: sự ưu đãi, cơ chế thưởng phạt đối với CNV, hay các quy hoạch, chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước... Các yếu tố này chính là chất xúc tác nhằm kích thích sự hăng hái nhiệt tình và có trách nhiệm cao đối với công việc và đối với việc đầu tư theo dự án mà Nhà nước khuyến khích. Trên đây là các lí luận chung liên quan đến tất cả các khía cạnh, các vấn đề liên quan đến công tác lập dự án đầu tư, phần 2 sau đây sẽ đi sâu vào phân tích thực trạng công tác lập dự án đầu tư của công ty xây dựng quốc tế HN. Chương 2 thực trạng công tác lập dự án đầu tư tại công ty xây dựng quốc tế hà nội trong thời gian vừa qua i - khái quát về đặc điểm, tình hình hoạt động của công ty xây dựng quốc tế hà nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty xây dựng quốc tế Hà nội (viết tắt là HICC - Hanoi international construction company) là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty xây dựng Việt nam được thành lập năm 1990 có giấy phép đăng kí kinh doanh số 104578 do Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà nội cấp. Công ty xây dựng quốc tế Hà nội là một đơn vị hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân. Trụ sở đóng tại số 57 Quang Trung - Hà nội. Cho đến nay thì công ty đã có quá trình hình thành và phát triển tương đối dài, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15%. Quá trình hình thành này có thể khái quát thành giai đoạn phát triển chính như sau: Từ năm 1990 đến 1993 : Công ty xây dựng quốc tế HN khi ấy có tên là công ty xây dựng 209 thuộc Tổng công ty xây dựng Việt nam được thành lập theo quyết định số 209 QĐ - BXD ngày 20/9/1990 của Bộ trưởng bộ xây dựng. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu của công ty là thi công xây lắp các công trình tại Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào. Mục đích của hoạt động xây lắp của công ty này là: + Mở rộng địa bàn hoạt động của Tổng công ty nhằm tạo ra sự tăng trưởng mới cả về quy mô và doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh. + Giúp đỡ các bạn Lào trong khuôn khổ hợp tác hữu nghị Việt - Lào về đầu tư phát triển kinh tế xã hội khoa học kĩ thuật mà chính phủ 2 bên đã kí kết. Các công trình mà công ty đã tham gia xây lắp bên Lào lúc đó là Trụ sở Công ty Mường Phuôn ( chuyên sản xuất các loại giầy dép, may mặc); Ngân hàng á Luôn May ở Xiêng Khoảng; xây dựng khách sạn hữu nghị Việt-Lào. Từ năm 1994 đến 1999: Lúc này hình thức hoạt động của công ty đã được mở rộng thêm một bước mới, cụ thể: + Tham gia thi công xây lắp tại CHDCND Lào và ở Việt nam + Đầu tư xây dựng cơ bản tại Lào Các công trình mà công ty tham gia xây lắp là: Trụ sở Uỷ ban Hành chính QG Lào tại Xiêng Khoảng; các trường học ở Nọn Tầng; chợ Khangkhay Nọnpét; xưởng chế biến gỗ Đài Loan; Bảo tàng Khai sỏn Khôm mi hẳn... Từ năm 2000- 2002: Công ty xây dựng 209 được chính thức đổi tên là công ty xây dựng quốc tế HN theo quyết định số 123 QĐ - BXD 12/3/2000 của Bộ trưởng bộ xây dựng. Lúc này hoạt động của công ty một lần nữa lại được mở rộng ra., cụ thể: + Tham gia thi công xây lắp các công trình tại Lào, trong nước, tại Campuchia, và một số nước asean. + Đầu tư xây dựng cơ bản ở trong nước và CHDCND Lào. Các công trình mà công ty đã tham gia vào thi công xây lắp như sau: Tại Việt nam: Công trình trung tâm thương mại Đông Anh, Khách sạn sông Cầu Thái Nguyên; khu du lịch Hồ Núi Cốc; trường mẫu giáo 10/10; kè sông Tô Lịch; làng quốc tế Thăng Long... Tại Lào: Trung tâm văn hoá Việt nam tại Lào; Đài truyền hình quốc gia Lào; Đài TH Việt nam tại Lào... Tại Campuchia: xây dựng hệ thống 20 trường học... 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty a) Chức năng - xây dựng và lắp đặt các công trình dân dụng và công nghiệp quy mô lớn, vừa và nhỏ. - Đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra TSCĐ b) Nhiệm vụ của công ty - Nhiệm vụ cơ bản của công ty là sản xuất kinh doanh đúng nghành nghề theo quy định của pháp luật. - Đảm bảo theo đúng sự quản lí của cơ quan chuyên ngành. - quản lí và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, đảm bảo và phát triển nguồn vốn do Ngân sách cấp, nguồn vốn tự bổ sung. - Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước . - Có trách nhiệm bảo vệ môi trường khi tham gia quá trình xây dựng. 3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh và hình thức tổ chức sản xuất của công ty a) Đặc điểm Công ty là đơn vị sản xuất kinh doanh với đặc trưng là tạo ra TSCĐ với đặc điểm là: Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng , vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, cố định tại một chỗ, thời gian thi công và sản xuất kinh doanh thu hồi vốn lâu. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc thoả thuận với chủ đầu tư. Lãi định mức + Giá trị dự toán từng công trình, hạng mục công trình Giá thành dự toán từng công trình, hạng mục công trình = Đây cũng chính là giá dự thầu khi công ty chính thức tham gia đấu thầu. Nếu trúng thầu công ty sẽ chính thức kí hợp đồng với chủ đầu tư. Căn cứ vào hợp đồng dự toán chính thức cho công trình rồi tiến hành thi công theo dự toán. Có thể khái quát quá trình này như sau: Thi công Dự toán Hợp đồng Quá trình sản xuất phức tạp, không ổn định và có tính lưu động cao, việc hoàn thành kế hoạch sản xuất chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau ở bên trong và bên ngoài doanh nghiệp . Trong quá trình đầu tư theo dự án hoặc mua tài sản có giá trị lớn thường có thời gian thu hồi vốn rất lâu, cho lên giá trị của tiền ngày càng lớn. Mặt khác hiệu quả đầu tư lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau như các yếu tố bất định về chính trị, xã hội, luật pháp, kinh tế, văn hoá và môi trường. Sản phẩm đầu tư phát triển mang tính đơn chiếc, mới lạ và đặc thù. b) Hình thức tổ chức quản lí đầu tư doanh nghiệp. Do đặc điểm của công ty là vừa xây lắp và đầu tư xây dựng cơ bản, do vậy hình thức tổ chức quản lí sản xuất của công ty là hình thức "Tự thực hiện" chứ không phải là hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lí dự án, hình thức chủ nhiệm điều hành dự án, hay hình thức chìa khoá trao tay. Ta có thể thấy rõ theo sơ đồ dưới đây Chủ đầu tư Có chuyên môn nghề nghiệp Quản lí điều hành dự án Tham gia thi công xây lắp Sơ đồ hình thức tự thực hiện 4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí công ty Đứng đầu là ban giám đốc công ty lãnh đạo chung toàn công ty, chỉ đạo đến từng tổ đội sản xuất. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Nhà nước , Tổng công ty xây dựng Việt nam về toàn toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trợ giúp giám đốc là 2 phó giám đốc kĩ thuật và tài chính. Để giúp ban giám đốc quản lí các tổ đội sản xuất có các phòng ban chức năng. Các phòng ban này được tổ chức theo yêu cầu quản lí sản xuất kinh doanh bao gồm: Phòng kế hoạch & đầu tư, phòng tổ chức hành chính, phòng kĩ thuật thi công, phòng kế toán tài chính, ban quản lí dự án, và văn phòng đại diện bên Lào ( Đây là văn phòng do công ty đặt tại CHDCND Lào ) Các phòng ban có chức năng như sau: Phòng kế hoạch & đầu tư: Đề ra các mục tiêu, hoạch định các chính sách về đầu tư, sản xuất kinh doanh hiện tại và tương lai. Phân tích hiệu quả đầu tư và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh để tìm các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phối hợp với các phòng ban khác trong việc lập và quản lí dự án đầu tư. Phòng tổ chức hành chính: Là bộ phận chịu trách nhiệm lập ra các nội quy, nguyên tắc hoạt động của công ty, là phòng ban đại diện bảo đảm tính pháp lí cho công ty, chịu trách nhiệm về các hoạt động quản lí công ty trước giám đốc, Tổng công ty và các nghĩa vụ thuế trước Nhà nước. Phòng kĩ thuật thi công : chuyên thiết kế dự toán xây lắp và chịu trách nhiệm tổ chức thi công xây lắp các công trình kĩ thuật. Phòng kế toán tài chính : Có nhiệm vụ chuyên môn về các vấn đề hạch toán tài sản cố định, tiền lương, vật tư, thanh toán, thủ quỹ và kế toán tổng hợp (hạch toán chi phí sản xuất, kết quả sản xuất kinh doanh, lập báo cáo kế toán) Ban quản lí dự án: trực tiếp tham gia quản lí điều hành dự án từ tất cả các khâu thực hiện dự án cho đến vận hành dự án sản xuất kinh doanh thu hồi vốn khi công ty đóng vai trò trực tiếp là một chủ dự án đầu tư. Còn các tổ đội xây dựng là các đơn vị trực tiếp tham gia vào quá trình thi công xây lắp các công trình dưới sự quản lí của các tổ trưởng tổ đội thi công xây lắp. Ban quản lí dự án quản lí chung về thi công xây lắp đối với các tổ đội xây dựng này. Hiện nay số lao động trực tiếp và gián tiếp của công ty là gần 380 người. Giám đốc Phó giám đốc kĩ thuật Phó giám đốc tài chính Phòng kế hoach & đầu tư Phòng tổ chức hành chính Phòng kĩ thuật thi công Phòng cung ứng vật tư Phòng tài chính kế toán Ban quản lí dự án Dự án A Dự án B Dự án C Đội xây dựng 1 Đội xây dựng 2 Đội xây dựng 3 Đội xây dựng 4 Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí của công ty 5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây Bảng 1 Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong 3 năm (2000-2002) (Đvt : VND) STT Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Tổng doanh thu 33.681.998.812 26.870.676.811 51.235.663.010 2 Chi phí HĐSXKD 32.346.356.246 25.887.452.242 49.589.820.365 3 Thu nhập từ HĐSXKD 1.335.642.556 983.224.596 1.645.842.645 4 Lợi nhuận bất thường 2.423.933 42.162.226 142.394.772 5 Lợi nhuận từ HĐTC 10.845.226 8.652.345 12.453.548 6 Tổng thu nhập 1.348.911.765 1.304.039.140 1.800.690.965 7 Nộp Ngân sách - Thuế thu nhập - Thu sử dụng vốn NS 337.227.941 203.850.559 258.509.785 156.226.304 450.172.741 272.124.440 8 Thu nhập sau thuế 807.833.265 619.263.051 1.078.393.783 9 Thu nhập bq/LĐ 986.573 1.241.627 1.356.213 Công ty xây dựng quốc tế HN là một bộ phận của Tổng công ty XD nhưng cũng đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng các công trình. Do vậy mà uy tín của công ty ngày càng được nâng cao. Bằng khả năng tích luỹ những kinh nghiệm của mình thì công ty đã mở rộng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình sang hoạt động đầu tư theo dự án, công việc này bắt đầu từ năm 1994 đến nay. Thế nhưng nó chỉ mới được phát triển trong những năm gần đây. Là đơn vị sản xuất kinh doanh công ty đã không ngừng phấn đấu tăng trưởng, góp phần nâng cao thu nhập, mức sống cho cán bộ CNV, tăng hiệu quả thi công xây dựng công trình và tăng khả năng cạnh tranh. Qua bảng 1 ta có thể thấy rằng mặc dù nền kinh tế nói chung và toàn ngành xây dựng nói riêng còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và sức cạnh tranh gay gắt trong ngành song công ty vẫn đạt được sự tăng trưởng tương đối khả quan. Tuy rằng trong năm 2001 thì doanh thu có giảm song thu nhập bình quân của cán bộ CNV vẫn tăng lên. Ta cũng thấy rằng doanh thu trong năm 2001 giảm rồi lại tăng vọt vào năm 2002 vượt 30,2% so với kế hoạch với tổng giá trị sản xuất kinh doanh lớn nhất là 54.175.627.736 VND. Như vậy ta thấy rằng ban lãnh đạo công ty luôn đề ra được các chiến lược đúng hướng trong việc đẩy mạnh phát triển công ty trong điều kiện khó khăn như hiện nay. ii - công tác lập dự án tại công ty Công ty bắt đầu mở rộng đầu tư theo dự án từ năm 1994 nhưng đến năm 1999 mới bắt đầu triển khai dự án đầu tư lần đầu tiên, đó là dự án đầu tư xây dựng khách sạn hữu nghị Lào-Việt và cho đến nay thì công ty đã sắp sửa hoàn thành xong 3 dự án đầu tư dưới sự uỷ quyền làm chủ đầu tư của Tổng công ty xây dựng HN. Trong quá trình lập dự án đầu tư thì thường là có hai lực lượng cán bộ tham gia: Thứ nhất, các cán bộ chuyên môn về kinh tế kĩ thuật của công ty tham gia lập các thiết kế kĩ thuật, phân tích tài chính, kinh tế xã hội ; thứ hai, thuê tư vấn về thiết kế công nghệ, dây chuyền sản xuất của dự án, thuê một phần dự án hoặc toàn bộ dự án. (chẳng hạn như thuê thiết kế kĩ thuật dây chuyền công nghệ sản xuất gạch của dự án xây dựng nhà máy gạch Tuynel ở CHDCDN Lào do công ty lập với đơn vị tư vấn là công ty TNHH thuỷ tinh gốm sứ HN) Quá trình lập dự án đầu tư của công ty được tiến hành như sau: 1. Đề ra chiến lược mục tiêu của phòng KH & ĐT Với chức năng của mình, phòng Kế hoạch và đầu tư là bộ phận quan trọng trong việc nghiên cứu và tìn hiểu và phát triển dự án đầu tư mà bước đầu là nghiên cứu cơ hội đầu tư. Như vậy phòng KH & ĐT có nhiệm vụ như sau: Có trách nhiệm phối hợp với các bộ phận chức năng khác lập ra phòng chuyên môn lập dự án đầu tư, các công việc gồm: + Lập dự án đầu tư các dự án sản xuất công nghiệp, các dự án có tính chất sản xuất kinh doanh, các dự án liên doanh trong và ngoài nước. + Lập dự án đầu tư với sự phối hợp chặt chẽ với các phòng ban khác như: phòng kĩ thuật, phòng kinh tế tài chính, phòng tổ chức hành chính và thuê các đơn vị tư vấn (nếu có thể). Khi dự án được hoạt động thì sẽ lập ra ban quản lí dự án. + Báo cáo các tình hình tiến độ trong các công đoạn của quá trình lập dự án đầu tư cho ban lãnh đạo của công ty, xem xét thẩm định hoặc xin ý kiến lãnh đạo của Tổng công ty để thuê thẩm định và thực hiện các thủ tục trình duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư. Với chức năng và nhiệm vụ được giao, lãnh đạo phòng đã đề ra các mục tiêu cụ thể để nâng cao chất lượng các báo cáo nghiên cứu khả thi do phòng phụ trách lập để các dự án đầu tư có thể đạt được hiệu quả cao và có tính khả thi cao. Nhận thấy khâu lập dự án đầu tư giữ vai trò quyết định tới sự thành bại của một công cuộc đầu tư, phòng đã tập hợp đầy đủ lực lượng cán bộ là những chuyên viên cao cấp trong các lĩnh vực: thuỷ điện, thuỷ lợi, nguyên vật liệu xây dựng, cầp thoát nước, luật, kinh tế. Những dự án đầu tư do phòng KH & Đầu tư lập b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37170.doc