Trang 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT trang 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT trang 1
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền trang 1
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes trang 3
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT trang 6
1.2.1. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 6
1.2.2. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 9
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả trang 9
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bị b
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến dạng trang 10
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế trang 10
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội trang 11
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT trang 12
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI trang 14
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia trang 14
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc trang 15
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển trang 17
Kết luận chương 1 trang 21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA trang 22
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 2
2.1. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1991
trang 23
2.1.1. Tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát trang 24
2.1.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng siêu lạm phát thời kỳ này trang 25
2.1.3. Các biện pháp kiểm soát phát trang 27
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1992-1999
trang 29
2.2.1. Diễn biến tình hình lạm phát trang 29
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát trang 32
2.2.3. Các biện pháp chủ yếu để chống lạm phát trang 35
2.2.3.1.Về chính sách tài khoá trang 35
2.2.3.2.Về chính sách tiền tệ trang 36
2.2.3.3. Các chính sách bổ trợ khác trang 39
2.3. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
trang 40
2.3.1. Diễn biến tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát: trang 40
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trang 43
2.3.2.1. Lạm phát do cầu kéo trang 44
2.3.2.2. Lạm phát do chi phí đẩy trang 46
2.3.2. Một số biện pháp kiểm soát lạm phát trang 48
Kết luận chương 2 trang 51
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM trang 52
3.1. Quan điểm về kiểm soát lạm phát trang 52
3.2. Mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trang 53
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT trang 56
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 3
3.3.1. Hoàn thiện phương pháp để đo lường lạm phát ở Việt Nam trang 56
3.3.2. Về chính sách tiền tệ trang 57
3.3.2.1. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trang 58
3.3.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại trang 64
3.3.2.3. Mở rộng và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trang 65
3.3.3. Về chính sách tài khoá trang 66
3.3.3.1. Đối với chi ngân sách nhà nước trang 66
3.3.3.2. Đối với hệ thống thu thuế trang 68
3.3.4. Các chính sách bổ trợ khác trang 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 trang 73
KẾT LUẬN trang 74
---------------------
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 4
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT
Về kinh tế, khi nói đến lạm phát là nói đến sự gia tăng liên tục của mức giá
chung trong nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sụt giảm liên tục sức
mua của đồng tiền. Trên giác độ mối quan hệ cung cầu thì mức giá chung tăng khi
tổng cung giảm hoặc tổng cầu tăng. Tổng cung giảm có thể là do các cú sốc bất lợi
về phía cung như giá của các yếu tố sản xuất tăng, cung lao động giảm. Tổng cầu
tăng có thể là do tăng chi tiêu của chính phủ, giảm thuế hay do tăng cung tiền.
Tổng cung giảm hay tổng cầu tăng liên tục sẽ làm cho giá cả không ngừng tăng
lên và lạm phát xảy ra.
Tuy đa số các nhà kinh tế có cùng một quan điểm như trên về lạm phát,
nhưng tùy theo từng giai đoạn lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau, giữa họ
cũng có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như
cách thức để chống lại lạm phát. Trong đó, đáng chú ý nhất là quan điểm của các
nhà kinh tế theo hai trường phái: phái trọng tiền và phái Keynes.
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền
Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà kinh tế cổ điển (điển hình là nhà
kinh tế Mỹ Irving Fisher) đã đề xướng ra học thuyết số lượng tiền tệ, theo đó, giữa
tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế PY
(trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) và lượng tiền tệ M có mối quan hệ
với nhau, và được biểu hiện bằng tốc độ chu chuyển của tiền tệ V. Cách tính tốc
độ chu chuyển V là bằng tổng chi tiêu, chia cho lượng tiền tệ (V=PY/M). Dựa vào
công thức này, các nhà kinh tế đã đưa ra một phương trình trao đổi MV=PY. Với
lập luận rằng, trong thời gian ngắn hạn tốc độ V, tổng sản phẩm Y sẽ thay đổi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 5
không đáng kể và coi như bất biến, nếu lượng tiền M tăng lên thì giá cả P cũng
phải tăng theo. Theo cách lý giải này, bất cứ việc tăng cung tiền nào cũng làm cho
giá cả tăng lên, và như vậy để giảm tỷ lệ lạm phát thì biện pháp duy nhất là ngưng
việc tăng cung tiền vào trong lưu thông. Rõ ràng, cách lập luận này về lạm phát là
quá đơn giản vì đặt nền kinh tế vào trong một trạng thái tĩnh tại, đó là khi tăng
cung tiền thì sẽ dẫn đến một khối lượng tiền nhiều hơn dùng để mua một khối
lượng hàng hoá như cũ, do đó sẽ làm cho giá cả tăng lên. Điều này sẽ không lý
giải được tại sao giá cả không thay đổi trong trường hợp vẫn tăng cung tiền. Tuy
sự nhìn nhận về lạm phát còn đơn giản, nhưng dẫu sao quan điểm trên cũng đã tạo
ra một tiền đề cho việc nhận thức về lạm phát sau này của các nhà kinh tế.
Để khắc phục nhược điểm trên trong phương trình trao đổi của Irving
Fisher, các nhà kinh tế tiền tệ đã nhìn nhận lạm phát dưới trạng thái động hơn
thông qua công thức trao đổi tiền tệ cải tiến dưới dạng tỷ lệ, đó là %P = %M + %V
- %Y. Theo công thức này, lạm phát xảy ra là do tăng lượng tiền và tăng tốc độ
chu chuyển tiền dẫn đến lạm phát. Hay nói cách khác, lạm phát xảy ra là do tăng
cung tiền nhanh hơn tốc độ tăng của tổng sản phẩm, và nếu tốc độ tăng cung tiền
bằng với tốc độ tăng của tổng sản phẩm thì lạm phát sẽ không xảy ra. Điều này đã
giải thích được việc tăng cung tiền trong một số trường hợp nào đó sẽ không làm
cho giá cả tăng lên. Như vậy, với cách nhìn mới này các nhà kinh tế cũng có cùng
quan điểm với Irving Fisher khi cho rằng tăng cung tiền cũng là nguyên nhân duy
nhất gây ra lạm phát. Tuy nhiên để chống lại lạm phát, khác với I.Fisher, họ cho
rằng không phải bằng việc ngưng tăng cung tiền mà là duy trì sự phát triển cân đối
giữa tăng cung tiền và tăng trưởng kinh tế, điều này sẽ làm cho giá cả được ổn
định.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 6
Một vấn đề liên quan đến biện pháp chống lạm phát này là có thể dẫn đến
suy thoái kinh tế kéo dài. Vì kết quả trước tiên của việc giảm tăng cung tiền là sụt
giảm trong tổng cầu. Tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng giảm và thất nghiệp gia
tăng. Hơn nữa, việc giảm cung tiền sẽ làm cho lãi suất tăng lên kéo theo đầu tư
giảm. Điều này sẽ làm giảm năng suất và sản lượng của nền kinh tế. Trong dài
hạn, giảm cung tiền, sản lượng cũng giảm, vì thế, để duy trì sự cân đối giữa tiền
và hàng hoá chống lại lạm phát đòi hỏi phải cắt giảm cung tiền nhiều hơn, kéo
theo sụt giảm sản lượng và suy thoái kinh tế hơn nữa. Nói như vậy, không có nghĩa
là việc duy trì mối quan hệ cân đối giữa tăng cung tiền và tăng trưởng là không
quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, mà vấn đề là ở chỗ biện pháp chống
lạm phát này có thể phải trả giá rất cao.
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes
Để khắc phục những thiếu xót của lý thuyết cổ điển khi cho rằng cung tiền
là nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát, John Maynard Keynes đã phát triển một
lý thuyết mới về lạm phát. Theo đó, Keynes cho rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra
lạm phát là do việc tăng nhu cầu quá mức, vượt quá khả năng cung ứng của nền
kinh tế, tức vượt quá mức sản lượng tiềm năng (là mức sản lượng đạt tới mức toàn
dụng nhân công). Sở dĩ như vậy là vì, khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng,
các doanh nghiệp thường không tăng giá bán để đáp ứng nhu cầu gia tăng, mà
thay vào đó họ thường chọn giải pháp gia tăng sản lượng. Khi cầu vượt quá mức
sản lượng tiềm năng, các doanh nghiệp không thể tăng sản lượng thêm được nữa
vì thế họ buộc phải tăng giá bán, kết quả là lạm phát xảy ra.
Mặc dù trong phân tích của mình, Keynes cũng thừa nhận rằng việc tăng
cung tiền quá mức cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra lạm phát và
trong thời gian dài, cung tiền là nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 7
đó là việc giá cả tăng nhanh với một tốc độ rất cao. Điều này dễ dàng được nhận
thấy trong thực tế khi chính phủ tài trợ cho các khoản chi tiêu của mình bằng việc
phát hành tiền giấy quá mức. Song, theo Keynes cung tiền chỉ là một trong nhiều
nhân tố làm ảnh hưởng đến tổng cầu mà thôi, do đó, ông nhấn mạnh đến vai trò
của tổng cầu hơn là cung tiền trong việc xác định lạm phát. Keynes đã chỉ ra rằng
có bốn nhân tố tác động đến tổng cầu, đó là: chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của
chính phủ, chi tiêu đầu tư và cán cân ngoại thương. Do đó, để giảm lạm phát do
cầu tăng quá mức cần phải giảm tổng cầu thông qua việc tác động vào các nhân tố
này, chẳng hạn như tăng thuế sẽ làm giảm thu nhập khả dụng và do đó làm giảm
chi tiêu của hộ gia đình, giảm chi tiêu của chính phủ.
Với sự phân tích đó, Keynes cũng đưa ra một khái niệm cơ bản thể hiện mối
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp gọi là đường cong Phillips (Phillips curve).
Theo đó, có một sự đánh đổi giữa việc ổn định giá cả và việc làm. Nếu làm giảm
lạm phát sẽ gia tăng thất nghiệp, và ngược lại, gia tăng việc làm sẽ gây áp lực làm
cho lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong
thực tế là không chắc chắn, thậm chí không xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng lạm phát định đốn, khi đó lạm phát và gia tăng thất nghiệp cùng xảy ra mà
không có một sự đánh đổi nào. Chính vì lý do đó, có nhiều ý kiến tranh luận cho
rằng mô hình của Keynes là không đúng.
Để lý giải cho trường hợp trên, Keynes và các nhà kinh tế vĩ mô theo
trường phái Keynes cho rằng phía cung cũng quan trọng trong việc gây ra lạm
phát. Khi có những cú sốc về phía cung như khủng hoảng dầu lửa, đình công đòi
tăng lương, làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên buộc các doanh nghiệp
phải thu hẹp sản xuất và nâng cao giá bán sản phẩm. Điều này sẽ làm dịch chuyển
đường cong Phillips theo hướng suy thoái, nghĩa là nền kinh tế phải điều chỉnh ở
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 8
mức sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn trước. Quá trình điều chỉnh này hàm ý
cả việc lạm phát tăng và gia tăng thất nghiệp, vì thế tình trạng lạm phát đình đốn
không mâu thuẫn với mô hình của Keynes.
Ngoài các lý thuyết trên về lạm phát, các nhà kinh tế vĩ mô hiện đại theo
phái Keynes còn cho rằng sự “kỳ vọng” trong tương lai cũng là một nguyên nhân
gây ra lạm phát, đó gọi là lạm phát quán tính. Theo lý thuyết này, lạm phát có thể
góp phần tạo ra lạm phát hơn nữa nếu mọi người mong đợi điều đó sẽ xảy ra. Đó
là vì khi lạm phát xảy ra, người lao động dự kiến lạm phát vẫn tiếp tục tăng trong
tương lai, do đó để duy trì “mức lương thực” của mình người lao động yêu cầu
được tăng mức lương danh nghĩa lên để bù đắp sự mất giá của đồng tiền. Nếu yêu
cầu này được chấp nhận và tiền lương tăng lên sẽ đẩy chi phí tăng. Để duy trì lợi
nhuận của mình, doanh nghiệp sẽ chuyển phần chi phí tăng lên này sang cho người
tiêu dùng bằng cách tăng giá bán, và như vậy lạm phát sẽ tiếp tục xảy ra. Điều
đáng chú ý ở đây là nếu người lao động cho rằng trong tương lai lạm phát xảy ra là
thấp thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ thấp và có thể không xảy ra, còn nếu người lao
động cho rằng lạm phát khó có thể kiềm chế được thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ
cao. Do vậy, việc phát ra những dấu hiệu đáng tin cậy cho thị trường rằng lạm
phát sẽ đi xuống và được kiểm soát trong tương lai là rất quan trọng đối việc giảm
lạm phát quán tính. Những dấu hiệu này chỉ có thể có được từ việc công bố và
thực thi các chính sách đáng tin cậy để kiềm chế lạm phát của chính phủ.
Như vậy, qua các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế theo hai
trường phái trọng tiền và Keynes đã trình bày ở trên, có thể nhận thấy rằng lạm
phát là một hiện tượng kinh tế rất phức tạp vì nó có liên quan đến nhiều vấn đề,
nhiều mặt của nền kinh tế, đặc biệt là liên quan đến tiền tệ và giá trị của đồng
tiền. Tuy quan điểm của các nhà kinh tế về lạm phát có một số điểm khác nhau,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 9
nhưng nhìn chung, đa số họ đều cho rằng biểu hiện bên ngoài của lạm phát là sự
gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Mức giá chung là mức giá
cả trung bình của tất cả các loại hàng hàng, dịch vụ, vì thế, khi mức giá chung tăng
lên không có nghĩa là tất cả các mặt hàng đều tăng giá mà có thể có một số mặt
hàng không thay đổi giá hay giảm giá so với trước. Do đó, khi nói đến lạm phát là
nói đến sự tăng giá cả hàng hoá trên diện rộng và kéo dài chứ không phải là sự
tăng giá của các hàng hoá riêng lẻ, nhất thời. Hơn nữa, giá cả là biểu hiện bằng
tiền giá trị của hàng hoá, hay nói cách khác, tiền tệ là thước đo giá trị của hàng
hoá, cho nên giá trị của đồng tiền thay đổi cũng làm thay đổi giá cả hàng hoá,
chính vì vậy, lạm phát xảy ra suy cho cùng ít nhiều đều liên quan đến chính sách
tiền tệ và tài chính của quốc gia.
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát xảy ra nói chung là một tín hiệu không tốt cho nền kinh tế. Duy
trì lạm phát sẽ làm giảm dần lợi tức thực của những người có thu nhập thấp, những
người hưởng lương hưu và dẫn đến sai lệch trong việc phân phối của cải của xã
hội. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát đã cho thấy rằng không phải bất cứ lúc nào lạm
phát xảy ra cũng là xấu, và cũng không phải ai cũng bị thiệt hại khi nền kinh tế bị
lạm phát. Cũng như đa số các hiện tượng kinh tế khác, lạm phát cũng có tính hai
mặt của nó là mang lại lợi ích cũng như gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế.
2.3.3. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, khi nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng,
hay nói cách khác, khi các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công nghệ…
chưa được khai thác hết thì khi mức giá chung tăng lên sẽ có tác dụng kích thích
các doanh nghiệp gia tăng đầu tư để tăng sản lượng hàng hoá cung ứng trên thị
trường, làm cho sản xuất được mở rộng. Sản xuất mở rộng sẽ tạo ra được nhiều
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 10
công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập của người dân. Đầu tư
cho sản xuất tăng, thu nhập của người dân tăng sẽ góp phần làm tăng tổng cầu.
Tổng cầu tăng lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Sản xuất và tiêu dùng liên
tục phát triển, mở rộng sẽ góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.
Trên giác độ này, lạm phát được xem là một nhân tố kích thích kinh tế phát triển.
Giá cả chung tăng tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nhưng không phải
tất cả các ngành trong nền kinh tế đều phát triển. Giá cả tăng sẽ làm cho các yếu
tố sản xuất đầu vào tăng giá, làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế, những ngành nào
tăng được giá bán thì sẽ tồn tại và phát triển, còn những ngành nào mà giá bán
không tăng được, hay thậm chí còn giảm xuống, thì có thể bị thu hẹp dần. Kết quả
là vốn đầu tư sẽ chuyển dịch, các ngành kinh tế phát triển được thì sẽ thu hút được
nhiều vốn đầu tư, còn các ngành không phát triển được sẽ thu hút được ít vốn đầu
tư, hơn nữa vốn đầu tư còn bị rút dần để đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề
khác. Điều này sẽ góp phần làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng có lợi và
hiệu quả hơn.
Giá cả tăng không những góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn tạo
ra một áp lực cạnh tranh rất lớn trong nền kinh tế ở hầu hết các ngành nghề. Đối
với các ngành tăng được giá bán áp lực lớn nhất đối với các doanh nghiệp là làm
sao để duy trì và phát triển thị phần của mình. Còn những ngành không tăng giá
được các doanh nghiệp phải chịu áp lực lớn hơn vì vừa phải duy trì thị phần vừa
phải cố gắng hạ thấp chi phí để đảm bảo có lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, để tồn
tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng suất lao động, năng lực quản lý, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ giá
thành sản phẩm.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 11
Theo quan niệm của các nhà đầu tư tài chính, lạm phát cũng được xem như
là một nhân tố rủi ro tiềm ẩn và là một động cơ cần thiết để đầu tư sinh lợi. Rủi ro
này thể hiện ở sự không chắc chắn về giá trị của đồng tiền trong tương lai. Nếu
lạm phát tăng thì một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trị nhiều hơn một đồng trong
tương lai, tức giá trị đồng tiền giảm đi. Giá trị đồng tiền giảm đi theo thời gian như
là một thứ thuế đánh trên những người nắm giữ tiền. Điều này sẽ khuyến khích
những người nắm giữ tiền sử dụng tiền của mình để đầu tư sinh lợi, chẳng hạn như
gửi tiết kiệm, mua chứng khoán, góp vốn kinh doanh…, nhằm bảo tồn được giá trị
thực của tiền và có thể mang lại một giá trị tiền tệ lớn hơn. Kết quả là làm tăng
hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Giá cả tăng lên, đồng tiền bị mất giá, điều này sẽ có lợi cho một số bộ phận
trong xã hội đó là: chính phủ, các doanh nghiệp và người vay nợ.
- Chính phủ là người hưởng lợi trước tiên từ lạm phát. Giá cả tăng sẽ làm
tăng thu nhập của nhà sản xuất, và vì thế mức lương của người lao động cũng tăng
theo. Khi thu nhập của xã hội tăng thì thuế trả cho nhà nước cũng tăng. Trong khi
đó, các khoản chi trả lương, trợ cấp hưu trí… của nhà nước thường mang tính ổn
định trong một thời gian dài, hoặc nếu thay đổi cũng không bằng nguồn thu tăng
thêm vào ngân sách do tăng giá, cho nên nhà nước vẫn được lợi từ lạm phát. Hơn
nữa, chính phủ thường là chủ nợ lớn nhất trong xã hội dưới dạng các tài sản tài
chính như trái phiếu chính phủ, lạm phát sẽ làm cho phần lãi suất thực mà chính
phủ chi trả cho các khoản nợ bằng tiền trong nước sẽ giảm đi. Và nếu lạm phát
xảy ra là do phát hành tiền thì chính phủ càng được lợi hơn nữa, vì năng lực mua
sắm của những đồng tiền hiện có sẽ bị sụt giảm và chuyển dịch vào những đồng
tiền phát hành mới. Như vậy, rõ ràng chính phủ sẽ rất có lợi vì chỉ cần bỏ ra một ít
chi phí để in tiền là có thể dùng để mua sắm một khối lượng hàng hoá lớn hơn trên
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 12
thị trường. Cũng chính vì những mối lợi này mà đa số các chính phủ đều cố gắng
duy trì lạm phát trong nền kinh tế.
- Các doanh nghiệp cũng có lợi từ lạm phát đứng trên giác độ tăng giá bán
so với sự thay đổi tiền lương của người lao động. Thông thường, khi lạm phát xảy
ra các doanh nghiệp thường sẽ tăng giá bán trước khi có những quyết định để thay
đổi tiền lương cho người lao động. Sự thay đổi lương này thông thường được thực
hiện vào thời điểm đầu năm, và nếu có tăng lương thì mức tăng cũng thể không
cao hơn mức tăng giá vì thế lợi nhuận của nhà sản xuất thường cao hơn so với
trước.
- Đối với những người đi vay, nếu lãi suất đi vay không gắn với sự thay đổi
lạm phát thì khi giá cả tăng, năng lực mua sắm của đồng tiền bị giảm sút, vì thế
giá trị đồng tiền khi họ vay sẽ cao hơn giá trị đồng tiền mà họ trả lại nợ vay cho
chủ nợ, do đó người đi vay cũng sẽ được hưởng lợi từ lạm phát. Dĩ nhiên, nếu lãi
suất vay gắn với sự biến động của lạm phát thì người đi vay sẽ không có lợi gì.
Như vậy, lạm phát xảy ra cũng có những tác động tích cực nhất định đối với
nền kinh tế như tăng trưởng, gia tăng việc làm, kích thích cạnh tranh, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn... Tuy nhiên, những tác động tích cực trên chỉ có được thực
sự khi lạm phát xảy ra là thấp và mang tính ổn định trong một thời gian dài.
2.3.4. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Mặc dù trong một số trường hợp nào đó, lạm phát xảy ra là có lợi cho nền
kinh tế, nhưng nhìn chung, lạm phát xảy ra đều có những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, thể hiện ở một số mặt như : phân bố nguồn lực, phân phối thu nhập,
phát triển kinh tế và lãng phí của xã hội.
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 13
Khi lạm phát xảy ra đồng tiền sẽ bị mất giá, đặc biệt là trong thời kỳ lạm
phát cao thì giá trị đồng tiền sẽ sụt giảm nghiêm trọng, cho nên càng giữ nhiều
tiền mặt trong tay thì càng trở nên nghèo đi. Để đối với với tình trạng này, người
ta chuyển sang nắm giữ các tài sản khác lâu bền hơn và giá trị ít bị biến động bởi
lạm phát hơn như bất động sản, vàng, đá qúi và các loại ngoại tệ mạnh. Các khoản
tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng sẽ bị sụt giảm do người dân không thích gửi tiền
vào ngân hàng nữa, không những thế họ còn đổ xô đến ngân hàng để rút tiền ra.
Điều này làm cho nguồn vốn cho vay của các ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng.
Nguồn vốn ngân hàng giảm sẽ làm tăng lãi suất cho vay, dẫn đến vốn đầu tư cho
sản xuất cũng giảm. Kết quả là vốn đầu tư vào sản xuất sẽ giảm đi, trong khi đó
vốn đầu tư vào các tài sản ngoài sản xuất như bất động sản sẽ tăng lên. Xét trên
giác độ nền kinh tế, các tài sản ngoài sản xuất không góp phần tạo ra sản phẩm
cho xã hội vì thế việc đầu tư nhiều vào các tài sản này sẽ làm giảm hiệu quả của
nền kinh tế.
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bị biến dạng
Như đã phân tích ở phần trên, đứng trên giác độ phân phối thu nhập trong
xã hội thì lạm phát xảy ra sẽ có lợi cho người đi vay, nhà sản xuất và người phát
hành tiền, chính phủ, ngược lại, những người cho vay và những người hưởng lương,
trợ cấp sẽ bị thiệt hại.
Đối với người hưởng lương, trợ cấp thì khi lạm phát xảy ra, lương của họ
thường được điều chỉnh sau khi giá cả tăng lên, nhưng hầu như tốc độ tăng lương
không bằng với tốc độ tăng giá cả, vì thế lượng hàng hoá mà họ tiêu dùng sẽ thấp
hơn so với trước, kết quả là thu nhập thực sự của họ giảm xuống, do đó mức sống
sẽ ngày càng thấp nếu lạm phát ngày càng cao. Hơn nữa, do tốc độ tăng lương
chậm hơn tốc độ tăng giá sẽ làm cho lợi nhuận của nhà sản xuất tăng lên, do đó
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 14
một phần những khoản thiệt hại mà người lao động phải chịu đã chuyển thành
phần lợi mà nhà sản xuất được hưởng. Điều này làm cho nhà sản xuất dường như
ngày càng giàu hơn, trong khi đó người lao động, hưu trí ngày càng nghèo đi.
Đối với những người cho vay, thường là họ cho vay dưới dạng lãi suất cố
định, khi lạm phát xảy ra, những đồng tiền mà họ nhận được từ việc cho vay sẽ có
giá trị thấp hơn lúc cho vay, vì thế phần lãi suất thực mà họ được hưởng sẽ giảm
sút, thậm chí còn bị âm nếu lạm phát quá cao. Trong số những người cho vay, có
thể nói dân chúng là người cho vay nhiều nhất dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và mua
trái phiếu chính phủ, nên cũng là những người chịu thiệt hại nhiều nhất.
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế
Lạm phát xảy ra làm cho nguồn lực phân bố không hiệu quả, các khoản đầu
tư không sản xuất gia tăng làm cho các khoản đầu tư vào sản xuất sụt giảm, làm
giảm cầu về các yếu tố sản xuất, do đó làm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Tổng
cầu và sản xuất sụt giảm sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế, tăng tình trạng thất
nghiệp và dẫn đến suy thoái kinh tế.
Lạm phát cao sẽ làm cho việc dự đoán giá cả và chi phí gặp khó khăn, do
đó các dự án đầu tư mới cũng sẽ khó được thực hiện. Giá cả tăng nên các yếu tố
sản xuất đầu vào cũng tăng, nhu cầu tiền vốn để thanh toán các giao dịch mua bán
cũng tăng làm cho lãi suất tăng cao. Lãi suất tăng lại làm tăng chi phí sản xuất,
giảm lợi nhuận cho nên sẽ không khuyến khích sản xuất phát triển. Hơn nữa, chi
phí tăng cao, lợi nhuận thấp sẽ không hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền vào thị
trường vốn. Kết quả là thị trường vốn trong nước bị suy yếu và thu hẹp dần, các
luồng vốn đầu tư quốc tế sẽ chạy qua các nước khác có mức lạm phát thấp hơn và
ổn định hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 15
Ngoài ra, nếu lạm phát trong nước cao hơn lạm phát ở nước ngoài sẽ làm
cho giá cả của hàng hoá trong nước tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu, đồng thời kích thích nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng sẽ làm mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế, làm thu hẹp sản xuất
trong nước.
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội
Do lạm phát gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế như đã kể
trên, vì thế khi lạm phát xảy ra các bộ phận trong nền kinh tế gồm chính phủ,
doanh nghiệp và người dân phải mất chi phí để tìm cách đối phó và kiểm soát lạm
phát.
Lạm phát xảy ra, người dân mà nhất là người lao động, hưu trí là những
người chịu thiệt hại nhiều nhất. Để đối phó với tình trạng này họ phải mất nhiều
thời gian, công sức để tính toán, tìm kiếm và mua sắm những hàng hoá có thể cất
trữ giá trị tốt hơn. Tiền mặt càng nhiều, thiệt hại càng lớn vì thế khối lượng giao
dịch mua bán hàng hoá cũng tăng lên, người dân chỉ cất trữ một số lượng rất ít tiền
mặt trong thời kỳ lạm phát để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày.
Hơn nữa, do tiền gửi tiết kiệm trong dân cũng rất lớn, do đó, người dân cũng phải
tốn nhiều thời gian, chi phí để đến các ngân hàng rút tiền và thanh toán các khoản
nợ mua hàng hoá, dịch vụ.
Khi lạm phát gia tăng, để có thể chủ động đối phó với các tình huống xấu
có thể xảy ra các doanh nghiệp phải tốn nhiều tiền hơn cho việc tổng hợp, phân
tích và dự báo thông tin kinh tế liên quan đến thị trường. Hơn nữa, để tránh bị lỗ
các doanh nghiệp cũng buộc phải thay đổi giá bán. Họ phải mất thời gian và tốn
kém chi phí để tính toán lại giá bán, in ấn lại bảng giá. Đối với những hàng hoá
mà giá in sẵn trên sản phẩm thì phải tốn thêm chi phí để điều chỉnh lại giá. Các
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 16
chi phí giao dịch với khách hàng cũng tăng lên để thông báo, giải thích về việc
thay đổi giá. Trong thời gian ngắn, sự sụt giảm về khối lượng hàng hoá bán ra là
không tránh khỏi do điều chỉnh tăng giá.
Lạm phát xảy ra ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trên giác độ
là người quản lý kinh tế vĩ mô chính phủ cũng phải tìm các biện pháp để kiểm soát
lạm phát sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế. Các biện pháp này cũng đòi hỏi phải
tốn thời gian, công sức và chi phí để thực hiện. Chẳng hạn như để chống lại tình
trạng lạm phát do một số loại nguyên vật liệu nhập khẩu tăng đột biến làm mức
giá chung tăng lên trên diện rộng, chính phủ có thể áp dụng biện pháp giảm thuế
nhập khẩu, chi bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này... Điều
này sẽ làm giảm nguồn thu vào ngân sách nhà nước và tăng chi tiêu của chính
phủ.
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
Hiện nay có nhiều phương pháp được dùng để đo lường lạm phát. Tùy vào
điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà chính phủ lựa chọn phương pháp phù hợp
sao cho kết quả đo lường có thể phục vụ một cách đắc lực nhất cho việc điều hành
các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Để tính toán lạm phát, các
phương pháp được lựa chọn thường dùng các chỉ số như chỉ số giá sản xuất (PPI),
chỉ số giảm phát GDP, chỉ số giá bán lẻ (RPI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Trong
đó, hai chỉ số được sử dụng phổ biến nhất là chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giảm
phát GDP.
Đo lường chỉ số giá tiêu dùng CPI:
10000
0
x
ii
i
t
i
qp
qp
CPI ∑
∑=
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 17
0
ip : giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm 0.
t
ip : giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm t.
0
iq : lượng sản phẩm i ở thời điểm 0.
Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm
phát năm t 100x CPI
CPI - CPI
1-t
1-tt
=
Chỉ số giá tiêu dùng được dùng để phản ánh mức giá trung bình của một rổ
hàng hoá, dịch vụ ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Nhược điểm chính của chỉ số này
là sự giới hạn của rổ hàng hoá cũng như sử dụng trọng số cố định trong tính toán.
Do đó, chỉ số giá không phản ánh được sự thay đổi chất lượng của hàng hoá, cơ
cấu hàng hoá tiêu dùng và sự biến đổi chi tiêu của người tiêu dùng cho những
hàng hoá khác nhau theo thời gian. Còn chỉ số giảm phát GDP được tính dựa vào
toàn bộ khối lượng hàng hoá, dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và
giá cả ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Về cơ bản thì chỉ số giảm phát GDP sẽ tính
toán lạm phát chính xác hơn chỉ số giá tiêu dùng theo định nghĩa về lạm phát, vì
nó thể hiện được xu hướng tăng mức giá chung của hàng hoá. Tuy nhiên, chỉ số
giảm phát GDP chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi đã có thông báo chính
thức về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của năm đó, còn chỉ số giá sẽ có ưu điểm
hơn là tính được lạm phát tại từng tháng, từng qúy hay từng năm.
Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng phổ biến để thông tin về tình
hình lạm phát ở các thời kỳ trong năm, lạm phát đó gọi là lạm phát chỉ số giá tiêu
dùng. Nhưng việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ đã
gây ra nhiều tranh cãi và không thống nhất ở mỗi quốc gia. Đó là vì do xuất phát
từ các nhược điểm chính như đã kể trên, chỉ số giá tiêu dùng rất dễ bị tác động bởi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 18
các cú sốc tạm thời lên một số hàng hoá, đặc biệt là những mặt hàng chiếm tỷ
trọng lớn trong rổ hàng hoá. Chính vì dễ bị tác động nên chỉ số giá tiêu dùng
thường không ổn định, do đó sẽ dễ dẫn đến sai lệch khi dùng nó để dự báo xu
hướng lạm phát và có thể làm chệch hướng chính sách tiền tệ. Khắc phục nhược
điểm đó, các nước đã áp dụng nhiều phương pháp để tìm ra một chỉ số giá khác
mang tính ổn định hơn và ít chịu sự tác động của những cú sốc tạm thời hơn. Chỉ số
giá mới này được tính toán trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng nhưng có loại trừ ảnh
hưởng của các hàng hoá có mức giá dao động mạnh như: giá lương thực thực
phẩm, xăng dầu, năng lượng. Do đó, lạm phát được đo lường từ chỉ số giá mới này,
được gọi là “lạm phát cơ bản” (core inflation), sẽ t._.hể hiện chính xác hơn sự gia
tăng mức giá chung của nền kinh tế. Và đây là mục tiêu chính mà chính sách tiền
tệ cần tác động để kiểm soát lạm phát trong nền kinh tế.
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia
Chương trình chống lạm phát nổi bật nhất trong thập kỷ 80 là chương trình
của Bolivia. Nửa đầu năm 1985, tỷ lệ lạm phát của Bolivia là 20.000% và đang
trên đà tăng lên. Tỷ lệ lạm phát cao đến nỗi giá vé chiếu bóng thường tăng trong
khi người dân đang xếp hàng mua vé. Tháng 08/1985, Tổng thống mới của Bolivia
tuyên bố chương trình chống lạm phát, gọi là “Chính sách kinh tế mới”. Để kìm
chế sự tăng trưởng tiền tệ và thiết lập lòng tin, chính phủ mới tiến hành những
biện pháp mạnh mẽ để giảm thâm hụt ngân sách bằng cách đóng cửa nhiều xí
nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, hủy bỏ trợ cấp, giữ yên tiền lương của
khu vực nhà nước, và tăng thuế thu nhập. Ngân sách nhà nước được giữ thăng
bằng trên cơ sở hàng ngày và không có ngoại lệ, bộ trưởng tài chính không cho
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 19
phép chi quá số thuế đã thu được từ ngày hôm trước. Kết quả là lạm phát ở Bolivia
đã dừng lại trên đường đi của nó trong vòng một tháng và mức tụt giảm sản phẩm
rất ít, không đến 5% GDP.
Như vậy, kinh nghiệm rút ra từ việc kiểm soát lạm phát ở Bolivia là khi rơi
vào tình trạng siêu lạm phát, chính phủ cần phải kiên quyết thực hiện các biện
pháp triệt để và đồng bộ nhằm hạ nhiệt cơn sốt lạm phát.
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc
Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung quốc
đã có những bước phát triển rất nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân vào khoảng
10% một năm. Đặc biệt, từ năm 2003 cho đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã
phát triển quá nóng so với các nước khác trên thế giới, điều này tạo ra một áp lực
rất lớn cho nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Gần cuối năm 2004, Trung Quốc đã trở
thành nước lớn thứ ba trên thế giới về kim ngạch ngoại thương và đạt trên 1.000 tỷ
USD. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã đề ra các biện pháp cấp bách
nhằm hạ nhiệt nền kinh tế và giảm nguy cơ lạm phát cao.
Biện pháp trước tiên mà chính phủ Trung Quốc thực hiện là cắt giảm đầu tư
và chi tiêu một cách nhanh chóng. Từ năm 2003, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh
việc phát hành trái phiếu chính phủ xuống còn 150 tỷ NDT, và dự kiến năm 2004
còn giảm thấp hơn năm 2003. Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện
việc cắt giảm chi ngân sách và chi đầu tư. Ngay từ trung tuần tháng 05/2004,
Trung Quốc đã quyết định cắt giảm ngay các khoản đầu tư vào các ngành sản xuất
thép, kim loại màu, vật liệu xây dựng, dệt may... để kịp thời ngăn chặn lạm phát
và tăng trưởng kinh tế quá nóng.
Thứ hai, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành các biện pháp để điều chỉnh
giá cả thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản, vật liệu xây dựng, xăng dầu
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 20
và điện. Theo đó, hạn chế tối đa việc khởi công thực hiện các dự án mới và việc
đầu tư vào những dự án kém hiệu quả, chồng chéo ngành nghề, nhưng đồng thời
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, dự án làm ăn có hiệu quả. Về
thị trường bất động sản, xác định nguyên nhân tăng giá nhà đất là do một số nhà
đầu tư đã bỏ vốn đầu cơ vào nhà đất chứ không phải đầu tư vào phát triển kinh
doanh và do tốc độ đô thị hoá đang diễn ra rất nhanh, hàng năm có hàng triệu
người từ nông thôn nhập cư vào các thành phố. Vì vậy, chính phủ Trung Quốc đã
có các biện pháp để kiểm soát tăng giá bất động sản như thu hồi các bất động sản
không đưa vào sử dụng trong vòng hai năm, điều tiết để giá bất động sản không
tăng nhanh hơn tỷ lệ lãi suất ngân hàng, bãi bỏ các dự án treo chưa thực hiện hoặc
kéo dài.
Thứ ba, để kiểm soát việc gia tăng đầu tư, chính phủ Trung Quốc đã cho
thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát việc gia tăng tín dụng và
khả năng thanh toán của hệ thống tài chính trong nước. Liên tục từ năm 2003 đến
nay, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã nhiều lần thực hiện điều chỉnh lãi suất
tín dụng, và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng từ 6% lên 7,5%. Từ
đầu năm 2004, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cho mở rộng biên độ dao
động lãi suất của các tổ chức tín dụng lên 1,7 lần so với mức lãi suất cơ bản, trong
đó, hợp tác xã nông thôn được mở rộng biên độ lãi suất lên đến 2 lần so với mức
lãi suất cơ bản.
Thứ tư, củng cố và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống của
người dân nông thôn, và duy trì sự ổn định của giá cả lương thực. Từ đầu năm
2004, Trung quốc bắt đầu thực hiện việc cắt giảm thuế nông nghiệp và dự kiến
trong vài năm nữa sẽ tiến tới xoá bỏ thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ
Trung quốc cũng gia tăng đầu tư vào các cơ sở hạ tầng nông thôn và các doanh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 21
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường quản lý các loại vật tư,
phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thực hiện việc trợ cấp trực tiếp cho
nông dân trồng cây lương thực.
Với những biện pháp quyết liệt và đồng bộ nêu trên, tình hình tăng trưởng
kinh tế quá nóng của Trung quốc đã có dấu hiệu chững lại, các nguy cơ gây áp lực
tăng giá đã có dấu hiệu giảm xuống. Theo dự đoán, năm 2004 tốc độ tăng trưởng
của Trung Quốc sẽ đạt 9,3% và lạm phát là 5%.
Qua kinh nghiệm kiểm soát lạm phát của Trung Quốc, có thể thấy rằng tăng
trưởng quá cao sẽ làm gia tăng nguy cơ xảy ra tình trạng lạm phát cao. Vì vậy, cần
phải có các liệu pháp thích hợp để “hạ nhiệt” nền kinh tế một cách an toàn, tránh
gây ra những tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế.
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển
Trong suốt nhiều năm, một số nước có nền kinh tế phát triển như Anh, New
Zealand, Canada, Phần Lan, Thụy Điển,... đã bị thất bại trong việc kiểm soát lạm
phát bằng các phương pháp truyền thống khi sử dụng những mục tiêu trung gian
như lãi suất, tỷ giá hối đoái, kết quả là lạm phát thường ở mức cao và các chi phí
để kiểm soát lạm phát dường như rất tốn kém. Để khắc phục tình trạng trên, chính
phủ các nước đã nghiên cứu và áp dụng một phương cách để kiểm soát lạm phát
mới và bắt đầu tập trung vào mục tiêu chính là tỷ lệ lạm phát. Sự thay đổi này
trong việc kiểm soát lạm phát, chủ yếu sử dụng trong việc điều hành chính sách
tiền tệ được gọi là lạm phát mục tiêu. Tức thay đổi cách thức kiểm soát lạm phát,
chuyển từ việc chống lại lạm phát sang việc ngăn chặn các nguy cơ xảy ra lạm
phát, tức chuyển từ chữa bệnh sang phòng ngừa bệnh.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 22
Trước tiên, chính phủ các nước này quyết định rằng đạt được mục tiêu ổn
định giá, tức là một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định, là trách nhiệm chính của chính
sách tiền tệ để hỗ trợ phát triển kinh tế. Thứ hai, kinh nghiệm thực tế đã chứng
minh rằng trong thời gian ngắn hạn, việc sử dụng chính sách tiền tệ để đạt được
những mục tiêu khác như tăng trưởng và việc làm cao, có thể tạo ra mâu thuẫn với
chính sách ổn định giá. Một số nhà kinh tế cho rằng việc cố gắng để đạt nhiều
mục tiêu kinh tế khiến cho chính sách tiền tệ có khuynh hướng tạo ra lạm phát.
Ngân hàng trung ương chắc chắn sẽ bị nhiều chỉ trích của xã hội khi tăng lãi suất
để chống lạm phát hơn là hạ thấp lãi suất, và họ phải chịu áp lực thường xuyên đối
với việc hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế. Lạm phát mục tiêu sẽ làm thay đổi sự
bất cân xứng này bằng việc xem lạm phát là mục tiêu cơ bản của chính sách tiền
tệ, còn các mục tiêu việc làm, tăng trưởng hay các mục tiêu khác chỉ là thứ yếu.
Điều này cũng buộc ngân hàng trung ương phải có cái nhìn đi trước, nhằm sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để làm giảm bớt các áp lực
gây ra lạm phát.
Về lý thuyết, lạm phát mục tiêu không quá phức tạp để thực hiện. Theo đó,
ngân hàng trung ương sẽ dự đoán đường đi tương lai của lạm phát, dự đoán này có
so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu mà chính phủ đã lựa chọn và tin tưởng thích
hợp đối với nền kinh tế. Sự khác nhau giữa dự đoán và mục tiêu sẽ làm căn cứ
định lượng cho chính sách tiền tệ. Những nước áp dụng phương pháp lạm phát mục
tiêu tin tưởng rằng điều này sẽ làm thay đổi nội dung và hình thức của chính sách
tiền tệ được thực hiện bởi ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu đòi hỏi phải hội
đủ hai điều kiện cần thiết. Thứ nhất, ngân hàng trung ương phải có khả năng để
điều hành chính sách tiền tệ ở một mức độ tương đối độc lập, ít chịu tác động của
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 23
chính phủ. Dĩ nhiên không có ngân hàng trung ương nào hoàn toàn độc lập khỏi
chính phủ, nhưng nó phải được tự do trong việc chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ
lạm phát mà chính phủ cho là thích hợp. Để tuân thủ với điều kiện này, một quốc
gia không thể biểu lộ sự thống trị của chính sách tài chính, tức chính sách tài chính
không được chi phối chính sách tiền tệ. Sự độc lập khỏi chính sách tài chính ngụ ý
rằng chính phủ mượn tiền từ ngân hàng trung ương cao hay thấp là tùy thuộc thị
trường tài chính trong nước có đủ khả năng để tiếp nhận các khoản nợ hay không.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc thu nhập của chính phủ không được dựa vào
nguồn thu nhập từ việc đúc tiền. Nếu vị thế tài chính tồn tại, áp lực lạm phát do
nguyên nhân tài chính sẽ làm suy yếu những kết quả của chính sách tiền tệ bằng
việc ràng buộc ngân hàng trung ương đáp ứng các nhu cầu tiền tệ của chính phủ
như nới lỏng lãi suất để đạt được các mục tiêu tài chính. Điều kiện thứ hai để thực
hiện lạm phát mục tiêu là sự sốt sắng và khả năng của các quan chức điều hành
chính sách tiền tệ không chuyển sang việc thực hiện các mục tiêu khác như: việc
làm, tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn như, một quốc gia lựa chọn hệ thống tỷ giá hối
đoái cố định thường theo đuổi mục tiêu tỷ giá, do đó sẽ không có khả năng để
điều hành một hệ thống lạm phát mục tiêu, đặc biệt khi vốn được tự do lưu chuyển
ra vào khỏi quốc gia. Vì vậy, mọi người sẽ không chắc chắn được rằng các quan
chức điều hành sẽ ưu tiên cho việc thực hiện lạm phát mục tiêu hay là tỷ giá hối
đoái, điều này làm cho chính sách tiền tệ không có được sự đáng tin cậy, một điều
kiện cần thiết cho việc thành công của chính sách.
Như vậy, về mặt lý thuyết nếu thỏa mãn hai điều kiện căn bản này, một
quốc gia có thể điều hành chính sách tiền tệ của mình tập trung vào lạm phát mục
tiêu. Trên thực tế, để lựa chọn tỷ lệ lạm phát mục tiêu các quan chức điều hành
cũng phải thực hiện một vài bước sơ bộ. Họ phải thiết lập những mục tiêu định
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 24
lượng về lạm phát cho một vài thời kỳ trong tương lai. Họ phải biểu thị một cách
rõ ràng và minh bạch với cộng đồng rằng việc đạt được lạm phát mục tiêu là ưu
tiên hàng đầu so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ. Họ phải xây dựng
một mô hình hay phương pháp để dự đoán lạm phát, trong đó có sử dụng một số
dấu hiệu hàm chứa thông tin về lạm phát tương lai. Sau cùng, họ phải đề ra kế
hoạch cho các phương thức thực hiện trong tương lai trong đó, các công cụ của
chính sách tiền tệ được điều chỉnh để đạt được mục tiêu lạm phát đã lựa chọn.
Muốn vậy, các quan chức điều hành phải có năng lực tổ chức và điều hành đối với
mô hình, có khả năng dự đoán lạm phát, biết được độ trễ thời gian của việc thực
hiện các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên tỷ lệ lạm phát, cũng như sự phối
của các công cụ với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
Với phương thức kiểm soát lạm phát mới được áp dụng, các nước kinh tế phát
triển nêu trên đã đạt được những thành công nhất định trong việc kiểm soát lạm
phát, thực tế là trong hơn một thập kỷ qua, tỷ lệ lạm phát ở các nước này luôn
được duy trì ổn định ở mức thấp.
Qua kinh nghiệm kiểm soát ở một số nước đã phát triển, ta có thể thấy rằng
khi nền kinh tế đã tăng trưởng ổn định, thì vấn đề ổn định giá được ưu tiên hàng
đầu trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Hơn nữa, để việc thực thi chính sách tiền
tệ đạt được hiệu quả cao đòi hỏi các quan chức điều hành chính sách tiền tệ phải
có trình độ cao, năng lực quản lý giỏi và tính độc lập cao của ngân hàng trung
ương trong điều hành chính sách tiền tệ.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 25
Kết luận chương 1
Lạm phát là một hiện tượng của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, khi nào còn
tiền tệ thì lạm phát vẫn còn xuất hiện. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau liên
quan đến vấn đề lạm phát, nhưng đa số các nhà kinh tế đều có một thống nhất
chung rằng lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế.
Mức giá chung tăng lên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có ba nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc tăng giá đó là do tăng cung ứng tiền tệ, do cầu kéo và do chi phí
đẩy. Nếu xét trong dài hạn, việc tăng mức giá chung bao giờ cũng liên quan đến
việc tăng cung tiền trong nền kinh tế và tình trạng lạm phát cao bao giờ cũng gắn
liền với việc phát hành quá mức tiền giấy vào trong lưu thông. Chính vì thế, việc
kiểm soát lạm phát luôn là đối tượng của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
của một quốc gia.
Tùy vào đặc điểm và tình hình kinh tế ở mỗi nước, các quốc gia khác nhau
có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để kiểm soát lạm phát, hoặc đưa ra các
biện pháp kiểm soát khi lạm phát đã xảy ra hoặc đưa ra các biện pháp phòng ngừa
ngăn chặn lạm phát xảy ra. Thực tế kiểm soát lạm phát ở các nước hiện nay cho
thấy, việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa tỏ ra có hiệu quả và ít
tốn kém hơn trong việc kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, cho dù thực hiện theo
phương cách nào các biện pháp kiểm soát đưa ra muốn đạt được thành công đều
phải dựa trên sự phân tích kỹ càng các nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như các
nhân tố gây áp lực lên lạm phát, có như vậy, các biện pháp đưa ra sẽ có tác động
nhanh hơn đến lạm phát và ít tốn kém hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 26
THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA
CHƯƠNG 2
Những năm 1976-1985, đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam phải đương
đầu với muôn vàn khó khăn: những hậu quả kinh tế xã hội nặng nề sau chiến
tranh; tiếp đến là cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và cải tạo nông
nghiệp ở miền Nam đã khiến cho năng lực sản xuất của nền kinh tế bị giảm sút;
chiến tranh liên tiếp xảy ra ở biên giới phía Bắc và phía Nam buộc Nhà nước phải
huy động tất cả các nguồn lực để đảm bảo an ninh quốc phòng; cộng thêm sự cấm
vận bao vây kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây… Tất cả những điều đó đã
khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng. Giai
đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm quốc nội chỉ
đạt trên dưới khoảng 2%, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân trên 2,24%
một năm. Tình hình đó khiến cho đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, dẫn
đến làn sóng vượt biên ra nước ngoài càng diễn ra mạnh mẽ. Nền kinh tế lâm vào
thế bế tắc, giá cả hàng hoá leo thang nhanh chóng làm cho đời sống người dân đã
khó khăn càng thêm khó khăn hơn.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị 100-CT về công tác mở rộng và khoán sản
phẩm đến người lao động. Đây thực sự là một bước đột phá trong sản xuất nông
nghiệp thời bấy giờ, bởi vì nó cho phép người nông dân sử dụng có hiệu quả toàn
bộ phần đất nhận khoán của mình chứ không phải ở những mảnh đất nhỏ được
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 27
phân như trước đây. Với cơ chế khoán mới này đã tạo đà cho sản xuất nông
nghiệp phát triển, sản lượng lương thực đã tăng từ 14,4 triệu tấn năm 1980 lên 15
triệu tấn năm 1981. Bên cạnh cải cách nông nghiệp, Chính phủ cũng đã ban hành
quyết định số 25-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Tuy nhiên, do vẫn tồn tại cơ chế quản lý kế hoạch tập trung nên những
chính sách cải cách trên chưa thể giúp Việt Nam thoát khoải khó khăn, nền kinh tế
vẫn đang trong tình trạng thiếu hụt. Tình hình càng tồi tệ hơn khi cuộc cải cách giá
– lương – tiền trong năm 1985 bị thất bại, khiến cho giá cả hàng hoá càng leo
thang dữ dội, đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy siêu lạm phát và đạt tới đỉnh
điểm vào năm 1986 lên tới 774,7%.
2.1. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1991
2.1.1. Tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) được coi là điểm mốc của
công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Rút kinh nghiệm những sai lầm trong quản
lý kinh tế ở những năm trước, Đại hội đã quyết định đổi mới triệt để cơ chế quản
lý kinh tế với những nội dung cơ bản như: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần; chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; thực hiện mở cửa kinh tế và
nâng cao hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hành dân chủ trong mọi mặt của nền
kinh tế xã hội.
Trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội Đảng VI, trong giai đoạn này, Chính phủ
đã thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách mạnh mẽ về nông nghiệp, công nghiệp,
tài chính, tiền tệ, mở rộng ngoại thương, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Kết quả
là nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, tăng trưởng kinh tế dần
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 28
đi vào ổn định và không ngừng tăng lên từ 2,84% năm 1986 tăng lên 5,8% vào
năm 1990.
Bảng 1. Tình hình tăng trưởng và lạm phát giai đoạn 1986-1991
-
100,00
200,00
300,00
400,00
500,00
600,00
700,00
800,00
GDP(%) 2,84 3,63 5,10 4,68 5,10 5,80
CPI(%) 774,70 373,00 223,10 34,70 67,50 67,30
1986 1987 1988 1989 1990 1991
(Nguồn: Số liệu thống kê và ADB)
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng ghi nhận như trên về tăng trưởng
kinh tế, nhưng giai đoạn này Việt Nam cũng chứng kiến những cơn sốc lạm phát
nghiêm trọng xảy ra, liên tục từ năm 1986 đến năm 1988 lạm phát tăng ở ba con
số, năm 1986 là 774,7%, năm 1987 là 373%, năm 1988 là 223,1%. Lạm phát tăng
cao đã làm ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội. Những hậu quả
của tình trạng siêu lạm phát xảy ra trong giai đoạn này là:
- Đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng khiến cho đời sống của người dân ngày
càng gặp nhiều khó khăn, các khoản nhận từ lương không đủ đảm bảo cho nhu cầu
chi tiêu tối thiểu hàng ngày;
- Để đối phó với việc đồng tiền bị mất giá, người dân đã gia tăng việc mua
sắm tích trữ hàng hoá và mua vàng, ngoại tệ, bất động sản để dự phòng cho sự sụt
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 29
giảm giá trị của đồng tiền. Kết quả là giá vàng và ngoại tệ tăng giá liên tục, và trở
thành một phương tiện thanh toán song song với tiền nội tệ;
- Giá cả leo thang, hàng hoá khan hiếm, sức mua gia tăng đã tạo điều thuận
lợi cho nạn đầu cơ tích trữ hàng hoá để trục lợi, buôn lậu diễn ra mạnh mẽ. Điều
này làm cho tình trạng mua bán vàng, ngoại tệ càng diễn ra mạnh mẽ hơn, kéo
theo khối lượng tiền rất lớn trong lưu thông;
- Thu chi ngân sách bị mất cân đối nghiêm trọng, các khoản chi ngân sách
tăng lên liên tục bởi vì giá cả tăng làm gia tăng chi tiêu ngân sách và gia tăng bù
lỗ cho khu vực kinh tế quốc doanh. Trong khi đó các khoản thu từ thuế chủ yếu
dựa vào khu vực kinh tế nhà nước, khu vực mà đa số các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, do đó, nguồn thu rất hạn hẹp và tăng không đáng kể. Điều này làm cho
tình trạng thâm hụt ngân sách ở mức cao và kéo dài;
- Đồng tiền bị mất giá khiến cho nguồn vốn huy động vào trong hệ thống
ngân hàng giảm sút nghiêm trọng, trong khi đó nhu cầu bổ sung vốn để bù đắp
nguồn vốn thiếu hụt do làm ăn thua lỗ và mua sắm nguyên vật liệu từ các doanh
nghiệp lại tăng lên, làm cho tình trạng thiếu vốn ngày càng trở nên gay gắt,…
- Giá cả tăng cao trong khi nguồn vốn và nguồn cung cấp nguyên vật liệu
lại trở nên khan hiếm, các doanh nghiệp không đủ năng lực để duy trì hoạt động
sản xuất và chạy theo sự biến động của giá cả, kết quả là sản xuất bị sụt giảm,
thất nghiệp gia tăng, điều này càng làm cho đời sống của người dân càng khó
khăn hơn khi phần lớn lao động làm việc trong khu vực nhà nước.
2.1.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng siêu lạm phát thời kỳ này
Về mặt lý thuyết, ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào, lạm phát tăng cao
và kéo dài luôn luôn gắn liền với việc phát hành tiền giấy quá mức vào trong lưu
thông để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Nhìn vào diễn biến lạm phát của
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 30
Việt Nam giai đoạn này, lạm phát tăng rất cao ở mức từ hai đến ba con số và kéo
dài liên tục từ năm 1986 cho đến năm 1991. Như vậy rõ ràng, nguyên nhân chính
gây ra lạm phát ở Việt Nam thời gian này là do phát hành tiền giấy quá mức để bù
đắp thâm hụt ngân sách (hơn 50% khoản thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng
nguồn phát hành tiền giấy), làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên
rất nhanh, điều này cũng đồng nghĩa với việc làm gia tăng tổng cầu trong nền kinh
tế. Trong khi đó, nền sản xuất trong nước còn kém phát triển và chịu sự chi phối
rất lớn của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhìn
chung vẫn chưa có điều kiện để phát triển mạnh. Do đó, sản phẩm hàng hoá sản
xuất ra cũng không nhiều và chất lượng cũng không được cao, không đáp ứng được
sự gia tăng nhanh chóng trong tổng cầu. Kết quả là các mối quan hệ cung – cầu,
tiền - hàng bị mất cân đối nghiêm trọng, một khối lượng tiền lớn hơn dùng để mua
một khối lượng hàng hoá ít ỏi, cung không đáp ứng được cầu, khiến cho giá cả
tăng lên.
Sự mất cân đối tiền – hàng càng gia tăng khi niềm tin của dân chúng vào
giá trị của đồng tiền bị giảm sút nghiêm trọng. Chức năng của tiền dùng làm
phương tiện cất trữ bị biến mất, mọi người chỉ giữ rất ít tiền trong túi để phục vụ
cho nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày, khi có tiền trong tay họ lập tức chi tiêu
để mua sắm hàng hoá, vàng, ngoại tệ… Điều này làm cho tốc độ chu chuyển tiền
tệ gia tăng nhanh chóng mà không cần thanh toán qua ngân hàng, nhiều loại hàng
hoá tiêu dùng không còn mang tính chất để sử dụng mà trở thành một thứ hàng
hoá dùng để mua đi bán lại kiếm lời, điều này càng làm giá cả gia tăng nhanh
hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 31
Như vậy, với sự gia tăng nhanh chóng trong phát hành tiền và tốc độ chu
chuyển của tiền so với tốc độ tăng trưởng của hàng hoá đã làm cho lạm phát tăng
lên rất cao đến vài trăm phần trăm. Lạm phát tăng cao làm cho tăng trưởng kinh tế
giai đoạn này trở nên vô nghĩa vì mức tăng trưởng thực là con số âm, vì thế, để ổn
định và phát triển kinh tế, điều cần thiết nhất của Nhà nước trong giai đoạn này là
phải kiểm soát được lạm phát.
2.1.3. Các biện pháp kiểm soát phát
Trước tình hình lạm phát xảy ra nghiêm trọng, để đưa nền kinh tế thoát khỏi
vòng xoáy siêu lạm phát và ổn định kinh tế, Nhà nước đã thực hiện đồng bộ các
giải pháp bao gồm:
¾ Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và thực hiện hàng loạt các biện pháp mạnh
liên quan đến chính sách tiền tệ.
Từ năm 1988, với Nghị định 53/HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng ban hành, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã chuyển từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân
hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mặt tiền tệ và tín dụng,
và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín
dụng. Và đến năm 1990, Pháp lệnh ngân hàng ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi
về hệ thống ngân hàng bằng việc quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của ngân
hàng nhà nước trong việc đưa ra các chính sách tiền tệ và hướng dẫn kiểm tra hệ
thống ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam sau này.
Về chính sách điều hành lãi suất đã có những bước đột phá để chuyển dần
theo hướng gắn với thị trường, thể hiện bằng Quyết định số 39 của Hội đồng bộ
trưởng ngày 10/04/1989 về việc quy định cơ chế điều hành lãi suất theo cơ chế thị
trường, theo đó: lãi suất tín dụng phải bù đắp được tỷ lệ lạm phát, khuyến khích
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 32
các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng; lãi suất phải phục vụ cho kinh doanh
có hiệu quả. Trên cơ sở Quyết định này, lãi suất tín dụng đã dần được điều chỉnh
và từ ngày 10/05/1989 lãi suất tiền gửi ngân hàng đã được nâng lên 13%/tháng
nhằm thu hút lượng tiền gửi từ trong dân chúng, qua đó, góp phần làm giảm bớt
khối lượng tiền trong lưu thông và có vốn để phục vụ cho đầu tư phát triển. Với
việc tăng lãi suất lần này, có lẽ như là đồng tiền trong nước đã tăng giá trở lại,
điều này gây ra một tác động tâm lý rất lớn và kết quả là một khối lượng lớn tiền
tệ đã được huy động vào trong hệ thống ngân hàng, giúp làm giảm bớt nhu cầu chi
tiêu trong dân chúng.
¾ Thực hiện những cải cách sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp.
Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý trong
nông nghiệp, đây là một bước tiến xa hơn so với nội dung khoán được thực hiện
vào năm 1981. Các hộ nông dân được coi là những đơn vị kinh tế tự chủ, điều này
cho phép nông dân được làm chủ hoàn toàn công việc sản xuất của họ và chỉ phải
nộp thuế cho nhà nước theo luật định. Nhờ đó, các nguồn lực của mỗi hộ nông dân
được huy động đến mức tối đa và sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
¾ Xây dựng những hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế phát triển.
Ngày 14/11/1987, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT
nhằm trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh,
theo đó, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn phải nộp thuế cho nhà nước thay vì
phải thực hiện hàng loạt các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh như trước đây. Bên cạnh
đó, nhằm tạo môi trường pháp lý để khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân phát
triển, ngày 09/03/1988, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27-NĐ về kinh tế tư
doanh và số 29-NĐ về kinh tế gia đình, cho phép tư nhân được quyền tự do kinh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 33
doanh trong các lĩnh vực kinh tế mà pháp luật cho phép. Đồng thời, nới lỏng sự
độc quyền của nhà nước về ngoại thương, ngân hàng, kinh doanh vàng bạc, đá
qúy.
¾ Thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế, thu hút luồng vốn đầu tư nước
ngoài và khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngày 29/12/1987 Luật Đầu tư nước ngoài đã được ban hành tạo ra một hành
lang pháp lý nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngày 10/09/1989, Nghị định
64/NĐ-HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng ban hành đã tạo ra một bước đột phá về cơ
chế chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu, theo đó các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm do mình làm
ra và nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình.
¾ Xoá bỏ cơ chế điều hành giá cả bằng các biện pháp hành chính trước đây,
thay vào đó, nhà nước chỉ quản lý giá một số mặt hành chủ yếu như: điện, nước,
viễn thông, xăng dầu, vận tải. Còn các mặt hàng nhà nước không quản lý thì được
phép hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu trên thị trường, khi cần thiết nhà nước
có thể can thiệp thông qua các biện pháp gián tiếp như hỗ trợ vốn, lãi suất, trợ
cấp.
Như vậy, bằng những giải pháp đồng bộ để thu hút bớt lượng tiền trong lưu
thông và đẩy mạnh phát triển nền sản xuất hàng hoá, tình hình lạm phát giai đoạn
này tuy cao nhưng cũng đã có những chuyển biến tích cực từ chỗ ba con số từ năm
1986 đến năm 1988 đã giảm xuống còn 34,7% vào năm 1989. Tuy nhiên do lãi
suất tín dụng tăng cao và lại được sử dụng chủ yếu để cấp vốn bổ sung cho khu
vực nhà nước với lãi suất thấp đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông và giảm hiệu
quả hoạt động cho vay tín dụng. Điều này buộc Nhà nước phải tăng chi ngân sách
để bù lỗ cho hoạt động của ngân hàng và tài trợ lãi suất cho vay đối với khu vực
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 34
nhà nước. Kết quả lượng tiền trong lưu thông lại tăng lên, thâm hụt ngân sách
cũng tăng thêm, làm cho lạm phát tăng trở lại vào các năm cuối của giai đoạn này,
67,5% ở năm 1990 và 67,3% ở năm 1991.
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1992-1999
2.2.1. Diễn biến tình hình lạm phát
Những diễn biến tình hình kinh tế xã hội phức tạp ở các năm 1986-1991
khiến cho nỗi lo về việc quay trở lại tình trạng siêu lạm phát là rất lớn. Chính vì
vậy, một trong những mục tiêu trọng tâm của nước ta trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn này là phải kiểm soát và đẩy lùi được lạm phát nhằm ổn
định đời sống kinh tế xã hội, tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư,
phát triển kinh tế. Xác định nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát ở
những năm trước là do tăng phát hành tiền giấy quá mức để bù đắp thâm hụt ngân
sách và sự phát triển yếu kém của nền sản xuất hàng hoá trong nước. Vì vậy, để
kiểm soát được lạm phát và đạt được mục tiêu tăng trưởng, Nhà nước đã áp dụng
đồng bộ các chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt, cùng với các biện pháp để
đẩy mạnh phát triển kinh tế, khai thác các nguồn lực trong nước, thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, và mở rộng thị trường xuất khẩu... Kết quả là nền kinh tế
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là tăng trưởng kinh tế tăng đều
và ổn định ở mức cao, liên tục từ năm 1992 đến 1997 tăng trưởng duy trì trên mức
8%/năm, mặc dù năm 1998 và 1999 có giảm xuống nhưng đó là do ảnh hưở._.ối với mọi tổ chức tín dụng có chức năng huy động vốn và cho vay, tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt Ngân hàng Nhà nước cũng có thể qui định
riêng mức dự trữ bắt buộc đối với một số tổ chức tín dụng cần khuyến khích hỗ trợ
như các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, ở vùng sâu, vùng sa…
- Nghiên cứu lựa chọn một tỷ lệ dự trữ bắt buộc ổn định trong một thời gian
dài đối với các loại tiền gửi, hạn chế việc sử dụng một cách thường xuyên công cụ
này trong việc kiểm soát cung tiền nhằm tránh gây ra sự bất ổn trong hoạt động
của các ngân hàng;
- Phối hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ khác để phát huy tác
dụng tích cực trong việc kiểm soát cung tiền, hạn chế những tác động tiêu cực về
vốn khả dụng ở các ngân hàng thương mại;
¾ Hoàn thiện chính sách chiết khấu
Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, công cụ tái cấp vốn đã từng
bước được đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ, thực hiện vai
trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước cho các ngân hàng
thương mại và là người cho vay cuối cùng. Cho đến nay, việc cho vay tái cấp vốn
theo chỉ định đã ngày càng hạn chế. Thay vào đó, tái cấp vốn thông qua các hình
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 65
thức khác như cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn, tái chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn... đã ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước cho các
ngân hàng thương mại. Bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn chủ yếu ban đầu là cho
vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định, từ năm 1991 Ngân hàng
Nhà nước đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, một hình thức tái cấp vốn ngắn
hạn đối với các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời.
Riêng đối với hình thức cho vay thế chấp chứng từ cũng từng bước được mở
rộng. Ban đầu, theo Quyết định số 285/QĐ-NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước thì chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa
đến hạn thanh toán, khế ước cho vay ngắn hạn. Đến năm 1997, để phù hợp yêu
cầu thực tế, Ngân hàng Nhà nước bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại
tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước.
Để phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ, cơ chế tái cấp
vốn đã được sửa đổi bao gồm các hình thức tái cấp như: cho vay lại theo hồ sơ tín
dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác,
cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Quy định lãi suất tái cấp vốn cũng được đổi mới phù hợp với hoàn cảnh thực
tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ
phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với các dự án cho vay của tổ chức tín
dụng, bằng với 60% đến 100% lãi suất cho vay ghi trên khế ước. Nhưng từ cuối
tháng 05/1997 đến nay, lãi suất tái cấp vốn được xác định mức cụ thể để phù hợp
với thông lệ quốc tế, đồng thời cung cấp tín hiệu về mục tiêu của chính sách tiền
tệ là nới lỏng hay thắt chặt.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 66
Đặc biệt, kể từ năm 1999, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt,
phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu của
chính sách tiền tệ. Vừa qua, trong điều kiện chỉ số lạm phát giảm thấp, để phát tín
hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận
nguồn vốn từ ngân hàng Nhà nước, Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quyết định
điều chỉnh thích hợp lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng công cụ tái cấp vốn để kiểm soát và
điều tiết tiền tệ vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Đó là, các ngân hàng thương mại
được tái cấp vốn chủ yếu là các ngân hàng quốc doanh, trong khi các ngân hàng
thương mại cổ phần rất khó tiếp cận đến nguồn vốn này, do thường không đủ điều
kiện tái cấp vốn. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác động hiệu ứng với lãi
suất thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu về tiền tệ.
Để khắc phục các hạn chế này, Ngân hàng Nhà nước cần phải:
- Hoàn thiện cơ chế tái cấp vốn đối với từng hình thức tái cấp vốn cụ thể
theo hướng nới lỏng các điều kiện tái cấp vốn để các ngân hàng thương mại cổ
phần có thể tiếp cận dễ dàng đến nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước, góp phần
tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng.
- Điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu theo hướng linh hoạt
hơn trên cơ sở bám sát diễn biến của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ.
¾ Phát triển và hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở
Tháng 07/2000, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức khai trương nghiệp vụ
thị trường mở. Đây là một bước tiến mới trong đổi mới điều hành chính sách tiền
tệ theo hướng chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp, phù hợp với
thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 67
Qua hơn ba năm hoạt động, công tác điều hành hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở không ngừng được cải tiến phù hợp với nhu cầu phát triển của thị
trường tiền tệ Việt Nam, góp phần điều tiết vốn khả dụng của các ngân hàng
thương mại. Những thay đổi về thời gian giao dịch và thanh toán đối với hoạt động
thị trường mở, từ 10 ngày một phiên giao dịch lên một tuần hai phiên giao dịch,
thời gian thanh toán được thực hiện ngay trong ngày giao dịch, đã có tác động tích
cực đến hoạt động của thị trường tiền tệ, làm cho khối lượng giao dịch tăng mạnh,
đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các thành viên.
Việc sử dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
có tác động đến quá trình điều tiết và ổn định tiền tệ lãi suất. Lãi suất trúng thầu
tại các phiên giao dịch thị trường mở đã ngày càng phản ánh sát hơn cung cầu về
vốn trên thị trường. Khoảng cách giữa lãi suất đặt thầu cao nhất và thấp nhất trong
các phiên đấu thầu dần dần được rút ngắn. Đặc biệt cùng với các công cụ chính
sách tiền tệ khác như nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường
mở đã góp phần giải quyết tình trạng khó khăn vốn khả dụng của hệ thống ngân
hàng trong một số thời điểm thiếu hụt. Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở còn
tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại nâng cao khả năng quản lý vốn khả dụng,
từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và có giải pháp kịp thời về nguồn vốn.
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động thị trường mở vẫn còn bộc lộ một số hạn chế
nhất định:
- Số lượng thành viên tham gia còn hạn chế, chỉ bao gồm khoảng 20 tổ chức
tín dụng. Tại mỗi phiên giao dịch chỉ có từ một đến năm thành viên tham gia, chủ
yếu là các ngân hàng thương mại nhà nước. Các ngân hàng thương mại cổ phần,
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do nguồn tiền đồng VND còn hạn chế nên
chưa có đủ khả năng tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 68
- Hàng hoá trên thị trường còn hạn hẹp, hiện tại chỉ bao gồm tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước và tín phiếu kho bạc nhà nước.
- Việc dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng còn nhiều hạn chế do
thiếu thông tin phục vụ cho công tác dự báo, do vậy đã làm hạn chế công tác điều
hành lãi suất trong nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước.
Để khắc phục các hạn chế trên, và đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành
công cụ chủ yếu trong điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với thông lệ quốc tế,
Ngân hàng Nhà nước cần phải:
- Mở rộng thêm các loại hàng hoá giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở,
như các loại thương phiếu, chứng khoán do các ngân hàng phát hành.
- Cải tiến cơ chế, quy chế pháp lý cho hoạt động thị trường mở nhằm thu hút
ngày càng nhiều các thành viên tham gia thị trường.
- Cải tiến chế độ cung cấp thông tin và đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá hệ
thống thanh toán liên ngân hàng. Có như vậy, Ngân hàng Nhà nước mới có thể
thực hiện điều tiết được khối lượng tiền cung ứng một cách nhanh chóng, tác động
vào tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng và lãi suất trên thị trường tiền tệ một cách
chủ động và hiệu quả, qua đó, góp phần thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm
phát và ổn định tăng trưởng nền kinh tế vĩ mô.
¾ Thực hiện tự do hoá lãi suất
Một nét nổi bật trong việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là
đã chuyển từ lãi suất khống chế sang tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất dần dần
gắn với các yếu tố thị trường và trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc thực
hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, cũng còn một số hạn chế
trong việc điều hành lãi suất hiện nay, đó là:
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 69
- Chưa có sự gắn kết giữa các mức lãi suất hình thành trên các thị trường mở, thị
trường liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng...
- Chưa hình thành được một mức lãi suất cơ bản đóng vai trò lãi suất định hướng,
chỉ đạo thị trường.
- Mặt bằng lãi suất ở Việt Nam so với các nước trong khu vực thường là cao hơn,
do đó chi phí sử dụng vốn vay lớn hơn. Điều này sẽ góp phần làm giảm sức
cạnh tranh về giá của các sản phẩm trong nước.
Do vậy, để phát huy tính hiệu quả của công cụ lãi suất trong việc kiểm soát
tiền tệ, thì song song với việc tự do hoá lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cũng cần
phải tham gia tác động vào lãi suất trên thị trường theo hướng đưa ra được một lãi
suất cơ bản có thể làm lãi suất định hướng cho thị trường. Bên cạnh đó, thúc đẩy
phát triển thị trường tiền tệ trong nước để tạo ra sự gắn kết giữa các thị trường này,
có như vậy lãi suất định hướng mới phát huy được vai trò chủ đạo của mình.
¾ Hoàn thiện việc điều hành chính sách tỷ giá hoái đoái
Việc điều hành tỷ giá hối đoái phải được thực hiện một cách linh hoạt theo
hướng tiến tới tự do hoá. Chính sách tự do hoá tỷ giá là phù hợp với xu thế tự do
hoá tài chính và hội nhập của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện tự do hoá
cũng cần phải có những bước đi thích hợp để bảo đảm sự ổn định giá trị tiền tệ
quốc gia, kiểm soát lạm phát, kích thích xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, gia
tăng tích lũy ngoại tệ và đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế. Trước mắt, khi
chưa tự do hoá tỷ giá được, thì việc điều hành tỷ giá bằng chính sách thả nỗi có sự
quản lý là phù hợp nhất, Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp vào thị trường ngoại
tệ khi thấy cần thiết mà thôi.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 70
3.3.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
đang đứng trước những khó khăn, thách thức rất lớn đó là sự nới lỏng các rào cản
của Nhà nước về kinh doanh tiền tệ, mở rộng cửa cho các ngân hàng nước ngoài
tham gia kinh doanh tại Việt Nam. So với các ngân hàng nước ngoài, có thể nói
qui mô về vốn của các ngân hàng Việt Nam là rất thấp, hơn nữa, kinh nghiệm,
trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý lại thua xa, do đó, nguy cơ bị chèn ép là
rất lớn. Vì thế, để nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, cần phải
thực một số việc sau:
¾ Cải tiến các quy chế tín dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
ngoài quốc doanh có thể tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn vay từ Ngân hàng
Nhà nước, góp phần giải quyết những khó khăn về vốn đồng VND phổ biến ở các
ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, qua đó làm giảm bớt chi phí huy động
vốn từ các nguồn khác. Nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng ngoài quốc doanh
được mở rộng, chi phí huy động giảm đi cũng có nghĩa là các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc vay vốn với chi phí thấp từ hệ thống
ngân hàng, góp phần làm giảm lãi suất tín dụng, khuyến khích đầu tư và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn tín dụng;
¾ Giảm bớt việc cho vay chỉ định, bao cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà
nước thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hình thức
cho vay này. Điều này sẽ giúp ngân hàng nhà nước quan tâm đến hiệu quả hoạt
động hơn, từ đó nâng cao được năng cao khả năng kinh doanh;
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 71
¾ Đẩy mạnh phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng nhằm tạo ra mối liên
thông về vốn trong nội bộ hệ thống ngân hàng, góp phần giải quyết khó khăn về
vốn, nâng cao tính thanh khoản và giảm được chi phí vay vốn;
¾ Tiến hành sắp xếp và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhà nước, theo đó, đẩy
mạnh việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại lớn, hợp nhất các ngân hàng có
qui mô về vốn thấp, xử lý các khoản nợ tồn đọng không có khả năng thu hồi. Có
như vậy, qui mô về vốn của các ngân hàng mới được giải quyết, khả năng kinh
doanh sẽ tăng lên, qua đó giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước;
¾ Đẩy mạnh việc thực hiện các dự án cải cách hệ thống ngân hàng và hiện
đại hoá các dịch vụ ngân hàng, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng
và khả năng cung cấp thông tin, phục vụ cho yêu cầu quản lý của các ngân hàng
cũng như của Ngân hàng;
¾ Phối hợp với chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước khác nhằm hoàn
thiện về mặt thủ tục, pháp lý hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại đẩy mạnh việc
thu hồi các khoản nợ đọng, các khoản nợ khó đòi, góp phần giải quyết khó khăn
về cho các ngân hàng, nâng cao được khả năng thanh toán và hệ số an toàn cho
các ngân hàng;
3.3.2.3. Mở rộng và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
Để nâng cao khả năng kiểm soát cung tiền cần phải có biện pháp thích hợp
để thu hút tiền gửi vào trong hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần giải quyết nhu
cầu về vốn của các ngân hàng thương mại. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải
hoàn thiện cơ sở pháp lý để người dân mở tài khoản và giao dịch qua ngân hàng
được dễ dàng và thuận tiện, nhưng vẫn đảm bảo bí mật và an toàn.
3.3.3. Về chính sách tài khoá
3.3.3.1. Đối với chi ngân sách nhà nước
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 72
Do nguồn lực của nền kinh tế có hạn, vì thế việc tiết kiệm chi ngân sách
nhà nước là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong kế hoạch chi tiêu dài hạn. Nếu
không tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước thì sẽ làm gia tăng gánh nặng nợ và
thuế cho nền kinh tế trong tương lai, gây ra áp lực lạm phát. Do đó, để góp phần
kiểm soát lạm phát, chi ngân sách nhà nước cần được hoàn thiện theo hướng như
sau:
¾ Chi ngân sách nhà nước phải được kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở kế hoạch
nguồn thu thực tế đạt được, nếu nguồn thu không đạt kế hoạch buộc phải giảm bớt
chi tiêu của ngân sách tướng ứng, nhằm thực hiện cân đối ngân sách nhà nước.
Hơn nữa, thâm hụt ngân sách phải duy trì ở mức thấp, không được kéo dài và phải
nằm trong phạm vi có thể trả nợ được. Vì một bài học được rút ra từ cả lý thuyết
lẫn thực tiễn là nếu thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài sẽ dẫn đến việc tài trợ
thâm hụt bằng việc phát hành tiền giấy, điều này tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát cao
và gây bất ổn cho nền kinh tế;
¾ Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước theo hướng tiết kiệm chi tiêu
thường xuyên và tăng cường chi tiêu đầu tư phát triển kinh tế, theo đó, phải đảm
bảo tốc độ tăng chi tiêu thường xuyên luôn nhỏ hơn tốc độ tăng chi tiêu đầu tư
phát triển.
Đối với khoản chi tiêu thường xuyên, cần đẩy mạnh việc khoán chi ngân
sách nhà nước nhằm tăng cường tính chủ động và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan quản lý hành chính, xoá bỏ cơ chế xin cho, đảm bảo tính minh
bạch trong việc chi ngân sách nhà nước.
Đối với chi đầu tư phát triển, cần phải hạn chế việc tái cấp vốn cho các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp nhà nước, tập trung vốn cho chi đầu tư
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 73
phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư cho nông thôn và nâng dần tỷ lệ đầu tư cho giáo
dục và phát triển khoa học công nghệ;
¾ Cải cách hợp lý chế độ tiền lương đối với công chức nhà nước, về lâu dài sẽ
giảm bớt được gánh nặng cho ngân sách vì không phải thường xuyên điều chỉnh
lương khi xảy ra những biến động lớn về giá cả hàng hoá tiêu dùng, giúp cho việc
thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô để kiểm soát lạm phát được thuận lợi hơn.
Theo đó, thực hiện đồng bộ việc tinh giảm biên chế bộ máy quản lý hành chính,
và tăng mức lương cơ bản cho cán bộ công chức nhà nước sao cho họ có thể đảm
bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Đối với lao động dôi dư, cần tìm ra nguồn
tài trợ để chi trả trợ cấp thoả đáng cho họ theo đúng qui định của pháp luật;
¾ Hoàn thiện và đẩy mạnh công tác kiểm toán nhà nước đối với các khoản chi
ngân sách nhà nước, các cơ quan quản lý hành chính, các công trình sử dụng vốn
ngân sách nhà nước và đặc biệt là các công trình xây dựng cơ bản nhằm hạn chế
thất thoát, lãng phí, thâm lạm vốn ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, phải xử lý
thật nghiêm các trường hợp vi phạm đã phát hiện như bắt bồi thường thiệt hại, hay
đưa ra xử lý hình sự nếu sự việc xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng không thể xử lý
hành chính được.
¾ Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy quản lý nhà nước, giảm bớt tốn kém thời gian, chi phí của xã hội
khi giải quyết các vấn đề có liên quan đến thủ tục hành chính.
¾ Hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các khoản chi xây dựng cơ bản nhằm
chống thất thoát vốn. Xem xét, đánh giá và chấm dứt các dự án đầu tư tràn lan,
không đạt hiệu quả như chương trình mía đường, đánh bắt xa bờ…, đồng thời tập
trung vốn để đầu tư vào những công trình trọng điểm và mang lại hiệu quả thiết
thực.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 74
3.3.3.2. Đối với hệ thống thu thuế
Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế vĩ mô và cũng là một nguồn thu quan trọng cho việc cân đối ngân sách nhà
nước. Là một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân
sách là rất lớn nhưng không phải vì vậy mà khai thác triệt để nguồn thu thuế để
đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đó. Vì nếu làm như vậy sẽ không khuyến khích đầu
tư, nuôi dưỡng được nguồn thu và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong dài hạn,
thuế được sử dụng như là một công cụ đòn bẩy để thúc đẩy đầu tư, thúc đẩy kinh
tế phát triển, qua đó, góp phần kiểm soát lạm phát trong nền kinh tế. Trong bối
cảnh hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, để hoàn thiện công cụ thuế cần phải thực
hiện một số cải tiến như sau:
¾ Đơn giản hoá hệ thống thuế, tạo ra sự minh bạch trong việc tuân thủ các qui
định về thuế và hạ dần mặt bằng thuế suất. Thực hiện được điều này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nắm vững các qui định về thuế, qua đó chấp hành
tốt các nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước, hạn chế được tình trạng trốn
thuế cũng như sự nhũng nhiễu trong công tác hành thu của cán bộ thuế. Ngoài ra,
việc hạ thấp mặt bằng thuế suất sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng
tích lũy để đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại, hạ thấp giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong thị trường
nội địa cũng như quốc tế;
¾ Tiến tới xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường
kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, kích thích cạnh tranh lành mạnh và
tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân được phát triển mạnh;
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 75
¾ Trong xu hướng hội nhập kinh tế thế giới, việc hạ dần thuế suất là điều
không thể tránh khỏi, do đó, để đảm bảo nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết
kinh tế của công cụ thuế, cần thiết phải mở rộng diện chịu thuế của các loại thuế,
đặc biệt là các loại thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập
cá nhân. Vì trong tương lai, thuế gián thu sẽ là nguồn thu chủ yếu và chiếm tỷ
trọng lớn trong nguồn thu thuế vào trong ngân sách nhà nước;
¾ Hoàn thiện công tác hành thu, nâng cao trình độ, năng lực và đạo đức của
đội ngũ cán bộ thuế. Đây là một trong những yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác hành thu, tiến tới việc thực hiện cơ chế chuyển giao việc tự chịu
trách nhiệm kê khai và nộp thuế cho các doanh nghiệp và tăng cường công tác hậu
kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp;
3.3.4. Các chính sách bổ trợ khác
¾ Cần thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ để gia tăng xuất khẩu, mở rộng thị
trường tiêu thụ, tạo một thế đứng vững chắc khi hội nhập kinh tế. Có như vậy, tăng
trưởng kinh tế mới bền vững và đời sống người dân mới được cải thiện. Hơn nữa,
việc gia tăng xuất khẩu sẽ góp phần tăng thu ngoại tệ, góp phần cân đối cán cân
thanh toán quốc tế và ổn định giá trị đồng tiền trong nước. Bên cạnh đó, thực hiện
việc chuyển hướng đầu tư từ hướng nội sang hướng ngoại nhằm làm giảm bớt các
áp lực tăng giá trong nước, góp phần giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán quốc
tế, tức chuyển dần cơ cấu đầu tư từ các ngành sản xuất hàng hoá thay thế nhập
khẩu sang các ngành sản xuất hàng xuất khẩu;
¾ Đẩy mạnh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho
ngân sách nhà nước, góp phần tạo ra thêm nhiều hàng hoá cho thị trường chứng
khoán.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 76
¾ Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh thực
sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Đây là tiền đề cần thiết để một nền kinh tế
phát triển vững vàng trong quá trình hội nhập. Đặc biệt, cần mạnh dạn phá bỏ thế
độc quyền, mở rộng phạm vi cạnh tranh đối với các lĩnh vực như giao thông, bảo
hiểm, ngân hàng,…Có như vậy, sẽ kích thích các doanh nghiệp quan tâm đến việc
tăng chất lượng, giảm giá thành và do đó, sẽ làm giảm giá cả hàng hoá.
¾ Cần có biện pháp để đẩy mạnh thị trường chứng khoán trong nước, đặc biệt
là thị trường thứ cấp, qua đó, tạo kênh cung cấp vốn trực tiếp cho các doanh
nghiệp, tổ chức đầu tư, giảm bớt áp lực về vốn từ các ngân hàng thương mại. Thị
trường chứng khoán phát triển sẽ tạo ra một kênh đầu tư hấp dẫn để các doanh
nghiệp, cá nhân tham gia đầu cơ, vừa để kiếm lời, vừa để dự phòng cho sự mất giá
của đồng tiền. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để giảm bớt những tác động
tâm lý tiêu cực trong dân chúng khi có những đột biến về giá cả, hạn chế được tình
trạng đầu cơ vào các tài sản không sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
nền kinh tế.
¾ Cần đẩy mạnh công tác cải cách giáo dục một cách toàn diện nhằm nâng
cao chất lượng và trình độ của đội ngũ lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế của đất nước.
¾ Nâng cao tính độc lập của ngân hàng trung ương và tính minh bạch trong
việc thực thi chính sách tiền tệ
Ở Việt Nam, kể từ khi đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đã có
những cải cách mạnh mẽ, chuyển từ ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng
hai cấp, theo đó Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động
tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Trong nhiều năm, Ngân hàng Nhà nước bị động
trong việc kiểm soát cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế, mọi hoạt động đều phải có
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 77
ý kiến của Chính phủ. Việc này đã thực sự gây khó khăn cho Ngân hàng Nhà nước
trong việc điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Từ năm 1998,
Chính phủ đã giao cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chủ động hơn trong việc
kiểm soát cung ứng tiền tệ, theo đó, trên cơ sở kế hoạch cung ứng tiền cả năm đã
được Chính phủ phê duyệt, Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát sao những diễn biến
của thị trường để điều hành kế hoạch cung ứng tiền phù hợp với việc thực thi
chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá cả. Tuy nhiên, trên thực tế Ngân hàng Nhà
nước vẫn còn bị động vì bị lệ thuộc bởi những thủ tục quản lý hành chính nhà
nước, thậm chí có lúc làm mất tính chủ động và linh hoạt trong điều hành. Ngân
hàng Nhà nước chưa thực sự là cơ quan hoạch định mà chủ yếu là cơ quan thực thi
chính sách tiền tệ. Theo Luật Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Nhà nước là cơ
quan chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia và kế hoạch cung ứng tiền
bổ sung cho lưu thông hàng năm để Chính phủ xem xét trình Quốc hội thông qua.
Sau khi được Quốc hội phê duyệt, Chính phủ sẽ quyết định lượng tiền cung ứng
hàng năm là bao nhiêu, sử dụng cho mục đích nào và Ngân hàng Nhà nước triển
khai thực hiện quyết định đó. Như vậy việc điều hành chính sách tiền tệ vẫn còn
lệ thuộc quá nhiều vào cơ chế quản lý hành chính.
Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác
trong việc kiểm soát lạm phát dường như chưa thực sự đồng bộ. Các chính sách
tiền tệ thường bị lệ thuộc vào các chính sách tài chính khác. Trên thực tế, Chính
phủ thành lập Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia do một Phó
Thủ tướng đảm nhiệm, còn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là ủy viên hội đồng.
Các uỷ viên hội đồng khác do các Bộ và thống đốc ngân hàng đề cử và chủ tịch
Hội đồng quyết định. Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ có nhiệm vụ
thảo luận, tư vấn và đề xuất với Chính phủ những chủ trương chính sách, đề án lớn
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 78
và những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Như vậy, việc thành
lập Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia là một bước cải cách
trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, quy chế làm việc
của Hội đồng chưa qui định rõ thời gian làm việc, việc tuyên truyền hay phổ biến
những báo cáo phân tích kinh tế, tài chính, tiền tệ làm luận giải cho việc đề xuất
và thực thi chính sách tiền tệ cũng chưa xác định rõ. Điều này làm giảm lòng tin
của dân chúng vào khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước, khiến cho việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước trở nên
khó khăn hơn, đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát.
Thực tế đã chứng minh rằng, khi lạm phát đã xảy ra thì việc kiểm soát lạm
phát sẽ trở nên tốn kém rất nhiều. Vì thế phòng ngừa lạm phát cao xảy ra là một
việc làm cần thiết đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải dự báo trước được tình hình
lạm phát trong tương lai, và chủ động sử dụng một cách linh hoạt các công cụ của
chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Hơn nữa, các chính sách tiền tệ mà
Ngân hàng Nhà nước thực hiện có đạt được hiệu quả cao hay không còn tùy thuộc
vào lòng tin của dân chúng, các nhà đầu tư về ý định cũng như khả năng kiểm soát
lạm phát của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, những phát biểu của các quan chức
điều hành chính sách tiền tệ và những hành động cụ thể của Ngân hàng Nhà nước
là một trong những động thái rất quan trọng đối với việc tạo dựng lòng tin của mọi
người trong việc kiểm soát lạm phát. Để làm được điều này, đòi hỏi Ngân hàng
Nhà nước phải có được một sự độc lập tương đối trong việc hoạch định và thực thi
chính sách tiền tệ, chủ động trong việc thiết lập các mô hình dự báo lạm phát và
sử dụng các công cụ tiền tệ để kiểm soát lạm phát mà không bị chi phối bởi Chính
phủ và các công cụ quản lý tài chính khác.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 79
Kết luận chương 3
Là một nền kinh tế nhỏ kém phát triển đang trong quá trình hội nhập kinh
tế thế giới, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp nhận các nguồn lực có lợi từ bên
ngoài như vốn, công nghệ, nguyên vật liệu, …để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, kèm theo những lợi ích đó là những bất ổn của nền kinh tế thế giới sẽ tác
động không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là về giá cả
hàng hoá. Lạm phát là điều không thể tránh khỏi, nên việc thực hiện đồng bộ các
giải pháp để kiểm soát lạm phát nêu trên là cần thiết, trong đó, quan trọng nhất là
hai chính sách tiền tệ và tài khoá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cần phải
thận trọng và linh hoạt khi xét đến các tác động đến việc tăng trưởng bền vững
của đất nước.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 80
KẾT LUẬN
Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và hội kinh tế thế
giới, những biến động bất thường trong giá cả hàng hoá là điều không thể tránh
khỏi. Do đó, các thành phần trong nền kinh tế từ doanh nghiệp, dân cư và Nhà
nước phải quen dần với việc lạm phát xảy ra, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn về
nó, tránh có những hành động thái hoá gây ảnh hưởng đến sự phát triển chung của
nền kinh tế. Trong xu hướng đó, lạm phát xảy ra trong các tháng đầu năm 2004 là
hiện tượng kinh tế bình thường không đáng lo ngại. Tuy nhiên, qua biến động giá
cả lần này đã giúp chúng ta có cái nhìn kỹ hơn về lạm phát ở Việt Nam, từ đó có
những bước đi cần thiết để hoàn thiện về chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát
được lạm phát, góp phần tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế. Trên cơ sở
đó, luận văn đã trình bày và làm rõ được một số vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế, từ đó, vận
dụng các quan điểm đó để lý giải các vấn đề thực tế.
- Luận văn đi vào phân tích một cách có hệ thống thực trạng về tình hình lạm
phát và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Từ đó rút ra nhận xét về bản chất
thật sự của lạm phát ở Việt Nam và khả năng kiểm soát lạm phát của Nhà
nước trong tình hình lạm phát hiện nay, cũng như xu hướng vận động của
nền kinh tế;
- Trên cơ sở chứng cứ thực nghiệm về lạm phát ở Việt Nam, luận văn đã đề
xuất được một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
Do năng lực và trình độ còn hạn chế, luận văn không thể không có những
thiếu sót, rất mong sự đóng góp qúy báu của Qúy Thầy Cô để luận văn được hoàn
thiện hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0985.pdf