ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------- --------------------
LÊ THỊ THANH NHÀN
Tên đề tài:
"MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, VAI TRÒ CỦA GIUN ĐŨA
NEOASCARIS VITULORUM TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY
BÊ, NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI Ở TỈNH TUYÊN QUANG VÀ
BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ"
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan
Thái Nguyên, 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học T
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa Neoascaris Vitulorum trong hội chứng tiêu chảy bê, nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hái Nguyên
2
Lời cảm ơn
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể khoa sau Đại học - Trường Đại học
nông lâm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và thực hiện luận văn Thạc sỹ nông nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS. Nguyễn Thị
Kim Lan - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã tận
tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị em, các bạn bè đồng
nghiệp Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin được dành lời cảm ơn tới gia đình, những người thân đã
động viên, chia sẻ với tôi trong suốt khoá học và thực hiện luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Nhàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn và các
thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Thái nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Nhàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã được Nhà nước và nhân dân
đầu tư phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về sản lượng và chất lượng
thực phẩm cao. Một số địa phương đã tập trung phát triển đàn bò sữa, đặc biệt
là đàn trâu bò thịt để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, góp phần nâng cao đời
sống xã hội.
Trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi trâu bò nói riêng và chăn nuôi gia
súc nhai lại nói chung có một ưu thế đáng chú ý là thức ăn chăn nuôi chủ yếu
là cỏ và phế phụ phẩm nông nghiệp, song lại có khả năng cung cấp một lượng
lớn thực phẩm có giá trị cho người tiêu dùng. Ngoài ra, chăn nuôi trâu bò đã
góp phần cơ bản giải quyết sức cày kéo cũng như bổ sung một lượng phân
bón hữu cơ đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc còn rất khó khăn về điều kiện
kinh tế, điều kiện địa hình phức tạp không thể áp dụng cơ giới hoá ở nhiều địa
phương, vì vậy, con trâu vẫn được coi là “đầu cơ nghiệp”.
Tuy nhiên, vấn đề dịch bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy vẫn xẩy
ra phổ biến, gây trở ngại lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu
bò nói riêng. Tiêu chảy thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng ra nhiều nhất vẫn là ở bê
nghé từ sơ sinh đến ba tháng tuổi. Theo Lê Minh Trí (1995), ở bê nghé có đến
70-80% tổn thất nằm trong thời kỳ bú sữa mẹ và 80-90% trong số đó là hậu quả
của bệnh tiêu chảy gây ra.
Tiêu chảy có thể do nhiều nguyên nhân gây ra: do khí hậu thời tiết thay
đổi đột ngột, do thức ăn kém phẩm chất, do điều kiện vệ sinh chuồng trại
kém, do các bệnh nội khoa, do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng
vv...Nhiều kết quả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy cho thấy: dù bất kỳ
nguyên nhân nào gây ra viêm nhiễm, tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá
cũng dẫn đến rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy (Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây tiêu chảy cho
bê nghé, phần lớn các tác giả tập trung vào tìm hiểu nguyên nhân gây tiêu
chảy ở giai đoạn bú sữa mẹ. Trong các nguyên nhân trên, ký sinh trùng đường
tiêu hoá, đặc biệt là giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò quan trọng đối
với bê nghé dưới 3 tháng tuổi, bởi vì ngoài việc gây tiêu chảy, ký sinh trùng
này còn là nguyên nhân mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập.
Bệnh ký sinh trùng không gây thành dịch ổ dịch lớn như các bệnh do vi
khuẩn và vi rút khác, nhưng thường kéo dài âm ỉ, làm giảm năng xuất chăn
nuôi, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gia súc.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [38], tiêu chảy xảy ra quanh năm, trong
đó tiêu chảy do giun đũa Neoascaris vitulorum chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
bê nghé sinh ra và tỷ lệ chết tới 38,97% trong tổng số bê nghé bị bệnh.
Là một cán bộ của Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp theo dõi
tình hình dịch bệnh trên đàn bê nghé, chúng tôi thấy hội chứng tiêu chảy khá
phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi, đặc biệt đối với bê nghé
giai đoạn dưới 3 tháng tuổi.
Xuất phát từ thực tiễn chăn nuôi trâu bò sinh sản ở tỉnh Tuyên Quang,
chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun
đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3
tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị”.
Với mục đích:
- Xác định một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới
3 tháng tuổi tại Tuyên Quang.
- Xác định vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng
tiêu chảy ở bê nghé.
- Đề xuất biện pháp điều trị tiêu chảy ở bê nghé có hiệu quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé
1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy.
Tiêu chảy ở bê nghé là một hiện tượng bệnh lý phức tạp gây ra bởi sự
tác động của nhiều yếu tố như: sự tác động bất lợi của điều kiện ngoại cảnh
gây ra các stress cho cơ thể, chăm sóc, quản lý và vệ sinh kém, thức ăn nước
uống không đảm bảo... tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh xâm nhập vào
cơ thể, đặc biệt là các loại vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu hoá,
dẫn tới nhiễm khuẩn và làm rối loạn quá trình tiêu hoá, gây ra hiện tượng tiêu
chảy ở bê nghé non. Đây cũng là những nguyên nhân đóng vai trò quan trọng
trong hội chứng tiêu chảy ở bê nghé. Bệnh lý xuất hiện thường là ở thể cấp
tính hoặc mãn tính, tuỳ thuộc tính chất và nguyên nhân gây bệnh tác động.
Đặc điểm của sự rối loạn tiêu hóa là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, trong
phân có nhiều nước so với bình thường do tăng tiết dịch ruột (Blackwell T.E,
1989 [42]; Fairbrother, 1992 [44]).
1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé.
Hội chứng tiêu chảy thường gặp ở gia súc, đặc biệt là gia súc non, gây
thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Sự tổn thất ở bê nghé sơ sinh chiếm tỷ lệ
rất cao, mà chủ yếu là do bệnh tiêu chảy (Lê Minh Chí, 1995 [5]).
Nguyên nhân gây tiêu chảy rất đa dạng. Nhiều tác giả đã dày công tìm
hiểu nguyên nhân gây tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có
liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố
là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, để phân biệt rõ ràng nguyên nhân gây tiêu
chảy là vấn đề không đơn giản. Sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, chỉ
nêu được yếu tố nào chính xuất hiện đầu tiên, yếu tố nào phụ xuất hiện sau, để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
từ đó đưa ra phác đồ điều trị bệnh có hiệu quả. Tiêu chảy được coi là một hội
chứng do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể điểm qua các nguyên nhân sau đây:
1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh.
Điều kiện ngoại cảnh, một trong những yếu tố thường xuyên tác động
lên cơ thể gia súc chính là điều kiện thời tiết, khí hậu. Với sự tác động liên tục
của bức xạ mặt trời cũng như những biến đổi bất thường về nhiệt độ, ẩm độ,
gây ra các stress cho cơ thể. Chính sự tác động này, làm cho cơ thể động vật
luôn có các đáp ứng điều chỉnh với điều kiện ngoại cảnh thay đổi, làm sức đề
kháng giảm sút, khả năng mắc bệnh tăng (Rosenberg N.J, 1974 [56]).
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân chia làm 4 mùa rõ rệt, trong
mỗi mùa lại có đặc điểm riêng biệt đặc trưng, khác nhau rõ rệt. Nhiều đợt thời
tiết thay đổi đột ngột từ nắng sang mưa, từ nóng sang lạnh, tác động xấu đến
vật nuôi và cây trồng. Vụ đông xuân nhiệt độ tăng cao dần, các đợt mưa đầu
mùa làm độ ẩm không khí tăng cường, đây là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn
có hại phát triển và gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm xảy ra mạnh, gây chết
nhiều gia súc, trong đó bệnh phổ biến thường gặp ở gia súc non là các bệnh về
đường tiêu hoá (Nguyễn Vĩnh Phước, 1974 [28]; Sử An Ninh, 1993 [26]; Đào
Trọng Đạt và cs, 1996 [8]; Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]). Theo Trịnh Văn
Thịnh (1962,1982) [36], [38], thời tiết ấm và ẩm là điều kiện thuận lợi cho
trứng và ấu trùng giun sán tồn tại và phát triển ở ngoại cảnh, từ đó gây bệnh
cho gia súc, gia cầm.
1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dưỡng.
Thức ăn là một trong những nguyên nhân gây ra tiêu chảy cho bê nghé.
Như ta đã biết, mầm bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể gia súc bằng nhiều
đường khác nhau như: qua da, niêm mạc, các vết thương, qua đường hô hấp,
qua đường tiêu hoá. Song trong hội chứng tiêu chảy, sự xâm nhập của các yếu
tố gây bệnh qua đường tiêu hoá có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
hình thành bệnh. Mầm bệnh nhiễm vào thức ăn, nước uống và trực tiếp vào cơ
thể gia súc, khi gặp điều kiện thuận lợi dễ tăng sinh số lượng và gây bệnh.
Purvis G.M và cs 1985 [52]). Trứng hoặc ấu trùng giun sán, noãn nang cầu
trùng có sức gây bệnh cũng xâm nhập vào cơ thể ký chủ qua đường tiêu hoá,
do nhiễm vào thức ăn, nước uống (Phạm Văn Khuê, 1996 [12]; Nguyễn Thị
Kim Lan và cs, 1999 [13]).
Trong một số trường hợp bê nghé bị tiêu chảy do dinh dưỡng không
hợp lý, có thể do bê nghé bú quá nhiều sữa, thức ăn nhiễm nấm mốc, giàu
protein, nhiều nước, thức ăn non tươi, khẩu phần ăn thay đổi đột ngột, thành
phần dinh dưỡng không cân đối... Bệnh biểu hiện ở mức độ bình thường,
nhanh hồi phục khi thay đổi khẩu phần ăn hợp lý.
Trong thức ăn thiếu một số nguyên tố đa, vi lượng như sắt, đồng hoặc
thừa molipden... cũng gây ra những rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy ở thể cấp
tính hoặc mãn tính, kèm theo sự thay đổi màu sắc lông da và thiếu máu.
(Daniels G và cs, 1990 [43]).
1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và virus.
Ở những điều kiện nhất định, vi khuẩn được xem như là tác nhân thứ
phát sau những nguyên nhân về thức ăn, chăm sóc quản lý. Trong đường tiêu
hoá của động vật, ngoài các vi khuẩn có lợi có tác dụng lên men, phân giải
các chất trong đường tiêu hoá, giúp cho sinh lý tiêu hoá của gia súc diễn ra
bình thường, còn có một số loài vi khuẩn có hại như E. coli, Salmonella, họ vi
khuẩn yếm khí Clostridium, họ cầu khuẩn Streptococcus... là những vi khuẩn
quan trọng gây ra rối loạn tiêu hoá, viêm ruột hoại tử và tiêu chảy ở người và
nhiều loài động vật khi có điều kiện thuận lợi (Vũ Văn Ngũ và cs, 1997 [27]).
Rối loạn tiêu hoá dẫn tới tiêu chảy ở động vật do các vi sinh vật gây ra
thường có những đặc điểm đặc trưng về biểu hiện bệnh lý riêng của từng loài.
E.coli thường là nguyên nhân gây bệnh nguyên phát ở bê nghé 1-2 ngày tuổi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
gây tiêu chảy, phân sống ở bê nghé lớn hơn và từ đó tạo ra những phản ứng
stress hoặc nhiễm trùng kế phát các bệnh khác. Triệu chứng chủ yếu của bệnh
tiêu chảy bê nghé do E.coli cũng như triệu chứng tiêu chảy do các nguyên
nhân khác, đó là hiện tượng tiêu chảy cấp tính, mất nước và rối loạn điện giải;
phân thường từ nhão đến toàn nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang
màu trắng, phân có lẫn vết máu, có mùi hôi thối. Đặc điểm gây bệnh của
E.coli là vi khuẩn chỉ tác động chủ yếu ở đường tiêu hoá cho nên khi bê nghé
chết thường xác gầy, bẩn, lông xù, bê bết phân, hông lõm, xương cánh hông
nhô cao, niêm mạc ruột non bị xuất huyết, có chỗ tụ máu. (Phạm Sỹ Lăng và
Lê Văn Tạo, 2002 [18]). Vi khuẩn Salmonella xâm nhập vào cơ thể qua
đường tiêu hoá, chúng bám vào các tế bào nhung mao ruột, xâm nhập vào lớp
tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá huỷ niêm mạc ruột gây tiêu
chảy.
Có rất nhiều virus gây bệnh ở hệ tiêu hoá Coronavirus 1 và
Coronavirus 2, Rotavirus vv... làm tổn thương các niêm mạc ruột, phá huỷ
quá trình hấp thu và điều tiết dịch, dẫn đến tiêu chảy nặng ở gia súc. Bệnh lý
xuất hiện chủ yếu là viêm ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc
mãn tính, phân lỏng màu vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ mắc bệnh và chết
trong đàn cao. Nguyên nhân rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy do Coronavirus 2
gây ra bệnh TGE (Transmissble Gastroenteritis), với triệu trứng nôn mửa kèm
theo tiêu chảy có nhiều nước, phân màu vàng hoặc hơi xanh, mùi hôi thối.
(Radostits O.M và cs, 1994 [53]).
1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột:
Trong đường tiêu hoá của cơ thể gia súc, khu hệ vi sinh vật bình
thường đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hấp thu dinh dưỡng của cơ thể, đó
là sự hấp thu các axit amin, gluxít, các axit béo...Sự có mặt của các vi khuẩn
đường tiêu hoá như vi khuẩn lactobacillus, Bacillus subitilis, vi khuẩn thuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
giống Bacteroides...là những vi khuẩn có lợi cho gia súc. Khi có tác động của
yếu tố khí hậu thời tiết, một số bệnh truyền nhiễm, trạng thái stress, thức ăn
chất lượng kém làm rối loạn quá trình trao đổi chất, một số vi khuẩn có khả
năng cạnh tranh cao sẽ ức chế các vi khuẩn khác tạo ra hiện tượng loạn
khuẩn. Đặc biệt, một số vi khuẩn đường ruột như Salmonella, E.coli tăng sinh
quá nhiều, lan tràn lên phía trên của ống tiêu hoá, chúng sản sinh một lượng
độc tố đường ruột (Enterotoxin) rất lớn gây tiêu chảy ở gia súc.
1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng.
Các ký sinh trùng trong đường tiêu hoá, ngoài tác động chiếm đoạt chất
dinh dưỡng của vật chủ, còn có một tác hại lớn khác là gây tổn thương niêm
mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây bệnh, làm rối loạn quá
trình phân tiết, gây viêm ruột và tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính. Độc tố của
nhiều loài ký sinh trùng gây ngộ độc cho vật chủ, thể hiện bằng những biến
loạn thần kinh.
Gia súc thường nhiễm ký sinh trùng và bị bệnh ở thể mãn tính. Vì vậy,
triệu chứng tiêu chảy cũng ở thể mãn tính, hầu hết bị tiêu chảy song không liên
tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da và niêm
mạc nhợt nhạt, kém ăn, thể trạng sa sút.
Các loại ký sinh trùng đường ruột hay gây tiêu chảy cho bê nghé
thường gặp là: Cầu trùng; Giun đũa; Sán dây và các loại giun sán khác.
Ký sinh trùng là những sinh vật sống nhờ vào vật chủ khác đang sống,
chiếm đoạt chất dinh dưỡng của sinh vật đó để sống và phát triển. Ký sinh
trùng đường tiêu hoá ở bê nghé cũng không nằm ngoài cách sống này, chúng
ký sinh ở đường tiêu hoá của bê nghé và gây bệnh. Bệnh ký sinh trùng đường
tiêu hoá gây ra cho bê nghé không thành ổ dịch nguy hiểm, không làm cho bê
nghé chết nhiều (trừ những trường hợp bị bệnh nặng), song chúng gây tác hại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nghiêm trọng, làm giảm sinh trưởng và phát triển của bê nghé, làm bê nghé
gầy còm, thiếu máu, khả năng sinh trưởng chậm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19], bệnh cầu trùng gây
ra ở bê nghé mắc với tỷ lệ từ 20 - 50%, có 7 loài cầu trùng phổ biến gây hại
cho bê nghé. Trong quá trình ký sinh và phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng
gây tổn thương lớp nhung mao ruột và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm
tróc niêm mạc ruột và xuất huyết. Cầu trùng tiết ra enzym và độc tố, phá hoại
mô ruột, những tổn thương ở ruột tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh có sẵn
trong ruột xâm nhập và gây viêm ruột kế phát.
Tiêu chảy ở bê, nghé do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra là nguyên
nhân đáng lưu ý. Theo các tác giả bê, nghé mắc sớm nhất là 14 ngày (tỷ lệ
23%), phổ biến ở 23 - 35 ngày tuổi (64%). Khi ký sinh trong đường tiêu hoá,
giun đũa còn tiết chất độc làm bê nghé trúng độc, gây ỉa chảy và gầy sút nhanh.
Sán dây Moniezia expensa và Moniezia benedeni ký sinh ở ruột non
của bê nghé cũng thường gây viêm ruột thứ phát, có thể làm chết đến 80% gia
súc non bị bệnh. Mổ khám bê, nghé chết thấy nhiều sán cuộn lại thành từng
búi ở ruột non, có những ca bệnh nặng có thể tới 200 - 300 gam sán dây ở
ruột non.
1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
1.1.3.1. Bệnh lý.
Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường
tiêu hoá. Như đã đề cập ở trên, nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất đa
dạng, do đó quá trình bệnh lý do chúng gây ra cũng rất phức tạp. Mỗi nguyên
nhân khi tác động lên đường tiêu hoá đều theo một cơ chế nhất định, đồng
thời vị trí tác động không giống nhau, vì vậy mà cơ quan tiêu hoá tổn thương
khác nhau và mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Theo Phạm Sỹ lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20], vi sinh vật và ký sinh
trùng xâm nhập vào đường tiêu hoá của súc vật non do ăn uống, chúng gây
tác hại khi số lượng nhiều, sức đề kháng của con vật giảm thấp hoặc khi ruột
bị tổn thương.
Vi khuẩn đóng vai trò quan trọng gây tác hại trong hệ thống tiêu hoá
của súc vật. Chúng xâm nhập vào những chỗ tổn thương của niêm mạc dạ dày
và nhung mao ruột, phát triển rất nhanh và tiết độc tố hoặc các men (enzym)
phá huỷ tổ chức nhung mao, làm tróc ra từng mảng và làm mất dần khả năng
hấp thụ chất dinh dưỡng.
Vi khuẩn còn làm vỡ các mao mạch trong lớp cơ tiếp với nhung mao
của ruột gây xuất huyết ruột.
Các loài nấm độc, đặc biệt là nấm Candida albicans có trong thức ăn
thối mốc, xâm nhập vào ruột cũng gây tác hại tương tự như các vi khuẩn gây
bệnh. Ngoài tác hại phá hoại tổ chức dạ dày, ruột gây ỉa chảy, nấm còn tiết
độc tố gây nhiễm độc toàn thân cho gia súc.
Sokol A và cs (1991) [57] cho biết; E.coli xâm nhập vào cơ thể động
vật từ rất sớm, thậm chí khi vừa được sinh ra. Sau khi phát triển và tăng
nhanh ở tế bào thành ruột, vi khuẩn xâm nhập vào hệ lâm ba, hệ tuần hoàn
gây nhiễm trùng và dung huyết. Vi khuẩn theo máu đi đến các cơ quan tổ
chức, phá huỷ các tổ chức tế bào, gây viêm ruột, tiêu chảy và ngộ độc cấp,
làm cho gia súc chết nhanh.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi được sinh ra một thời gian
ngắn, trong đường tiêu hoá, hô hấp của gia súc non đã xuất hiện một số loài vi
sinh vật, trong đó có các vi sinh vật gây bệnh. Những trường hợp tiêu chảy
nặng hoặc chết do bội nhiễm, vi khuẩn còn được tìm thấy ở nhiều cơ quan, bộ
phận khác trong cơ thể như: gan, lách, thận, phổi, dạ dày, ruột non...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Radostits O.M (1994) [53], nghiên cứu cho thấy, 20 - 30% động vật
chết ở giai đoạn sơ sinh là do nguyên nhân tiêu chảy. Tiêu chảy ở động vật do
E.coli có sự liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh thay đổi đột ngột,
cùng với sự chăm sóc nuôi dưỡng kém, làm giảm sức đề kháng, đó là nguyên
nhân cơ bản dẫn tới rối loạn tiêu hoá, gây hiện tượng loạn khuẩn và tiêu chảy
ở gia súc (Đào Trọng Đạt và cs, 1996 [8])
Đối với những vi khuẩn gây bệnh đường ruột, độc tố do chúng tiết ra
hoặc các sản phẩm độc sinh ra trong quá trình huỷ hoại tế bào sẽ tác động lên
cơ chế hấp thu ở ruột và gây ra tiêu chảy.
Đã có nhiều tài liệu đề cập những biến đổi bệnh lý ở đường tiêu hoá
của bê nghé do ký sinh trùng gây ra.
Trong thời kỳ ấu trùng, giun đũa di hành và làm tổn thương một số khí
quan như phổi, gan. Giun trưởng thành ở ruột non nhiều, cuộn thành búi gây
tắc ruột, có khi làm thủng ruột. Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé trúng
độc. Tác động cơ học và tác động do độc tố dẫn đến ruột non viêm cata, ruột
tăng nhu động, gây cho bê, nghé ỉa chảy, gầy sút nhanh. Bệnh tích chủ yếu ở
đường tiêu hoá, có trường hợp có từ 200 - 300 giun xếp thành 5-6 hàng ở tá
tràng, vít chặt ruột, có trường hợp còn thấy giun đũa ở các bộ phận khác như
dạ cỏ, dạ múi khế, ống dẫn mật. (Phạm Sỹ lăng và cs, 2005 [21]).
Ngoài ra, các tác giả còn cho biết; sán dây Moniezia expensa ký sinh ở
ruột non bê nghé cũng gây tổn thương thành ruột non, làm cho gia súc bị viêm
ruột cata và tiêu chảy.
Trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hoá bê nghé, cầu trùng là một
loại ký sinh trùng đơn bào cũng gây tiêu chảy. Trong quá trình ký sinh và
phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng đã gây tổn thương lớp nhung mao ruột
và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm tróc niêm mạc ruột và xuất huyết
ruột. Ở thể cấp tính, bê nghé bị nhiễm cầu trùng nếu không được điều trị kịp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
thời sẽ chết sau 7 - 10 ngày; mỗi ngày bê nghé ỉa 5-10 lần, mỗi lần ỉa phải
cong lưng rặn, nhưng phân rất ít và lẫn máu, vì vậy người ta gọi là bệnh lỵ đỏ
ở gia súc non.
Như vậy, bệnh lý của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé tập trung chủ yếu
ở đường tiêu hoá, từ tổn thương dẫn đến viêm ở ruột non hoặc ruột già. Nhìn
chung khi bê nghé bị tiêu chảy nặng đều dẫn đến mất nước, mất chất điện
giải, rối loạn hoạt động của enzim, từ đó làm rối loạn chức năng tiêu hoá hấp
thu, rối loạn cân bằng dịch thể ở ruột. Mất nước có thể làm giảm lưu lượng
tuần hoàn, dẫn đến truỵ tim mạch, gây tử vong.
1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
Biểu hiện lâm sàng của hội chứng tiêu chảy nói chung, dễ thấy và điển
hình nhất là hiện tượng ỉa chảy. Phân lúc đầu có thể táo hoặc không, sau đó ỉa
chảy, có thể sền sệt hoặc lỏng do các bệnh ký sinh trùng, trong khi các bệnh
phó thương hàn, dịch tả ở giai đoạn cuối phân lỏng hoặc vọt cần câu. Đồng
thời màu sắc phân cũng có sự khác nhau: bê nghé bị phó thương hàn phân có
màu vàng xám, bệnh do vi khuẩn E. coli phân chuyển từ vàng nhạt sang màu
trắng. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [18], bê nghé bị tiêu chảy phân có lẫn
máu tươi hoặc màu nâu do tổ chức niêm mạc và mao mạch ở ruột bị phá hoại
có thể là biểu hiện lâm sàng của bệnh cầu trùng...
Bê nghé bị tiêu chảy thường có các biểu hiện như: thân nhiệt thường
tăng nhẹ, con vật uống nhiều nước, ăn ít hoặc bỏ ăn, đầu tiên phân sền sệt, vài
ngày sau ỉa chảy nặng, phân chỉ là dịch màu xám xanh, xám vàng và có mùi
tanh, phân dính ở hậu môn và đuôi. Bê nghé ỉa chảy nặng có thể 10-15
lần/ngày, mất nước nhanh làm cho con vật trũng mắt, da nhăn nheo và chết
trong tình trạng mất nước, mất chất điện giải.
Bê nghé non bị tiêu chảy nặng thường chết sau 3-4 ngày, tỷ lệ chết cao
(30-40%), trong số số bê nghé bệnh nếu không điều trị kịp thời. Tuy nhiên, tỷ lệ
chết rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ trầm trọng của bệnh. Theo Đỗ Dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], tỷ lệ nghé ốm do giun đũa chiếm tới 38-
44% so với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25-50% số nghé ốm.
Như vậy, mỗi năm số nghé chết do giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ ra.
Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [18] cho biết, những bê nghé mắc
bệnh tiêu chảy do E.coli ở thể nhẹ có thể qua khỏi sau một vài ngày mà không
cần điều trị, nhưng khoảng 15 - 20% số bê nghé bị bệnh ngày một nặng hơn,
suy sụp hoàn toàn, nhiễm độc huyết dẫn đến chết nếu không điều trị tích cực.
Ngoài những triệu chứng chung của bê nghé mắc hội chứng tiêu chảy,
các triệu chứng điển hình cho từng loại bệnh cũng biểu hiện rất rõ. Những
triệu chứng đặc trưng cho mỗi bệnh cho phép chẩn đoán phân lập hội chứng
tiêu chảy với các bệnh truyền nhiễm:
- Bệnh thương hàn ở bê nghé: là bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra,
vi khuẩn xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá
huỷ niêm mạc ruột gây tiêu chảy. Ở thể viêm ruột cấp thân nhiệt tăng 40-
41
oC, ỉa chảy hoặc có trường hợp kiết lỵ, phân hôi thối chứa màng nhầy.
- Bệnh tiêu chảy bê nghé do vi khuẩn E.coli gây ra: phân thường từ
nhão đến hoàn toàn là nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang màu
trắng, trong phân có lẫn những vết máu, có mùi hôi thối. Thân nhiệt bình
thường hoặc tăng hơn một chút, vào giai đoạn cuối thân nhiệt thường hạ
xuống dưới mức bình thường.
- Bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum thường gây ỉa chảy, phân
chuyển từ xanh đen sang vàng dần, rồi chuyển thành trắng. Bệnh thường thấy
ở bê nghé non từ 1-3 tháng tuổi, phân mùi thối khắm, con vật ỉa vọt cần câu,
phân dính ở khuỷu chân, xung quanh hậu môn, thân nhiệt có thể tăng tới 40-
41
oC, khi sắp chết thân nhiệt hạ xuống dưới mức bình thường. Bê nghé từ 3
tháng tuổi trở lên thường không mắc bệnh giun đũa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
- Các bệnh do vi rút như: Coronavirut, Rotavirut... thường gây viêm
ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc mãn tính, phân lỏng màu
vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ bệnh và chết trong đàn cao, điều trị bằng kháng
sinh không có hiệu quả.
1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
Để việc điều trị đạt hiệu quả cao thì việc chẩn đoán tìm ra nguyên nhân
gây tiêu chảy rất quan trọng. Chẩn đoán một bệnh chính xác là rất khó khăn,
song để chẩn đoán chính xác được nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy
càng khó khăn hơn. Do vậy, khi chẩn đoán hội chứng tiêu chảy cần phải chú ý
xem xét rất nhiều yếu tố: đặc điểm dịch tễ, biểu hiện lâm sàng và phi lâm
sàng, kết quả mổ khám, các phương pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Đối với những bệnh nghi do ký sinh trùng, người ta thường dùng phương pháp
chẩn đoán xét nghiệm phân để tìm trứng giun sán; đối với bệnh do vi khuẩn
phải nuôi cấy trên các môi trường để phân lập và giám định vi khuẩn...
Ở thể cấp tính, con vật chết rất nhanh, chẩn đoán bệnh cần căn cứ các
yếu tố liên quan như: thức ăn, nước uống, phương thức chăn nuôi, chế độ
chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết khí hậu, tuổi bê nghé... Ví dụ bệnh ký sinh
trùng thường phát triển trong những tháng nóng ẩm, mưa nhiều. Bệnh cầu
trùng bê nghé, khi thời tiết nóng ẩm, cho noãn nang cầu trùng dễ phát triển
đến giai đoạn cảm nhiễm ngay trên nền chuồng và bãi chăn thả. Người ta
cũng quan sát thấy bê nghé thường phát bệnh khi thời tiết thay đổi từ ấm áp
sang lạnh ẩm. Thiếu thức ăn cũng làm cho bê nghé giảm sức đề kháng. Đối
với bệnh giun đũa, thường mắc ở bê nghé sơ sinh đến 3 tháng tuổi (23 - 64%),
đến 4 tháng tuổi thì không bị nhiễm. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, 2002
[20]).
Nhiều tác giả lưu ý rằng, khi chẩn đoán bê nghé mắc tiêu chảy dựa vào
đặc điểm dịch tễ thì tuỳ từng điều kiện cụ thể mà loại trừ bớt khả năng gây
bệnh, để có kết luận ban đầu về nguyên nhân gây bệnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Biện pháp thường dùng nữa là căn cứ vào biểu hiện lâm sàng để chẩn
đoán, nhưng cần phải chẩn đoán phân biệt giữa các bệnh có triệu chứng tiêu
chảy để loại trừ nguyên nhân nghi ngờ và tìm ra nguyên nhân chính. Dù là
nguyên nhân gì dẫn đến tiêu chảy thì bê nghé đều biểu hiện bằng triệu chứng
ỉa chảy, phân lỏng hoặc toàn nước. Do tiêu chảy mất nước nên bê nghé gầy
còm, ốm yếu, da nhăn, lông xù, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu ỉa chảy kéo dài, con
vật suy nhược hoàn toàn, run rẩy, đứng không vững. Tiêu chảy nặng có thể
dẫn đến truỵ tim mạch và chết. Nếu nguyên phát là do vi khuẩn, độc chất hoặc
vi rút, rồi kế phát nhiễm khuẩn sẽ làm thân nhiệt tăng từ 0,5 - 1,5oC tuỳ theo
mức độ nhiễm khuẩn. Tiêu chảy do độc tố, chất độc, thời tiết, thay đổi thức ăn
thì nhiệt độ cơ thể không tăng. Màu phân có thể thay đổi tuỳ thuộc nguyên
nhân gây bệnh. Ví dụ, bê nghé sơ sinh bị nhiễm giun đũa thường phân có màu
trắng, nếu bị nhiễm Salmonella thì phân có màu vàng, bê nghé nhiễm cầu
trùng có thể triệu chứng lâm sàng điển hình là ỉa lỏng, phân nhày, có máu tươi
(lỵ đỏ). Bê nghé sơ sinh bị tiêu chảy nếu không điều trị kịp thời có thể bị chết
trong vòng 12 - 96 giờ, tỷ lệ chết có thể chiếm tới 90% trong số mắc bệnh.
Biện pháp mổ khám xác chết để tìm bệnh tích điển hình là phương
pháp chẩn đoán có hiệu quả, nhất là trong bệnh giun sán. Mổ khám tìm thấy
giun sán ký sinh với số lượng nhiều và gây bệnh tích nặng ở đường tiêu hoá
thì có thể kết luận là bê nghé chết do bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá.
Tuy nhiên, một biện pháp hữu hiệu cần thực hiện là chẩn đoán trong
phòng thí nghiệm. Thu thập mẫu phân bê nghé mới thải ra về phòng thí
nghiệm để xét nghiệm trứng giun sán hoặc cầu trùng bằng phương pháp lắng
cặn Benedek (1943), các phương pháp phù nổi (Fulleborn, Darling...).
Từ các bệnh phẩm của bê nghé tiêu chảy (phân, ruột non, ruột già...) có
thể nuôi cấy, phân lập vi khuẩn, giám định các đặc tính sinh hoá, tiêm truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
động vật thí nghiệm... là phương pháp vi sinh vật vẫn thường được áp dụng
trong chẩn đoán bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy.
1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé.
Nguyên lý chung của điều trị tiêu chảy ở bê nghé cũng giống như các
gia súc khác là loại bỏ nguyên nhân gây bệnh. Nếu nguyên nhân do thức ăn
thì phải thay đổi thức ăn, nếu nguyên nhân là vi khuẩn phải sử dụng các loại
kháng sinh, hoá dược để tiêu diệt mầm bệnh. Nếu nguyên nhân là do ký sinh
trùng thì dùng các thuốc trị ký sinh trùng. Đồng thời với điều trị nguyên nhân
phải kết hợp với điều trị triệu chứng. Trước hết, kịp thời bổ sung nước và chất
điện giải, các yếu tố vi lượng bị mất bằng cách cho uống hoặc truyền tĩnh
mạch các dung dịch nước muối sinh lý 0,9%, dung dịch đường ưu trương
20%, uống orezol. Ngoài ra, phải dùng các chất chống viêm như
Dexamethazon kết hợp với các loại vitamin C, B1, K để chống xuất huyết
đường tiêu hoá và nâng cao sức đề kháng của cơ thể cho bê nghé. Bê nghé
tiêu chảy nếu được điều trị kịp thời, tích cực, đúng nguyên nhân thì tỷ lệ chết
thấp, bê nghé chóng hồi phục, ít ảnh hưởng đến sự phát triển sau này.
Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã đưa ra phương pháp điều trị chung
đối với hội chứng tiêu chảy như sau:
+ Điều trị bằng huyễn dịch.
+ Điều trị bằng chế phẩm sinh học.
- Điều trị bằng huyễn dịch:
Theo tác giả, hiện tượng tiêu chảy bao giờ cũng dẫn tới sự mất nước và
rối loạn điện giải ở con vật bệnh. Mất nước làm rối loạn các hoạt động sinh lý
bình thường của cơ thể, làm mất đi một số chất điện giải quan trọng như:
HCO3
-
, K
+
, Cl
-
, Na
+..., từ đó làm cho quá trình bệnh lý càng trở nên trầm trọng
hơn. ._.Mất nước nhiều thường là nguyên nhân chính làm cho súc vật bệnh tử
vong. Vì vậy, việc điều trị bổ sung nước, chất điện giải cho gia súc bị tiêu chảy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
là rất cần thiết và có hiệu quả. Các dung dịch truyền được Đào Trọng Đạt và cs
khuyến cáo dùng là: dung dịch Dextrose 5% hoặc Dextrose 20-50%, dung dịch
Sodium clorit sinh lý (NaCl 0,9%), dung dịch ưu trương (NaCl 7,5%)...
Đề cập đến vấn đề này, Phạm Khắc Hiếu và cs (1997) [9], Phạm Khuê
(1998) [10] cho biết: bổ sung chất điện giải cho cơ thể tuỳ thuộc mức độ mất
nước và chất điện giải. Nếu mất nước ở độ I hoặc độ II là sự mất nước ở thể
nhẹ và trung bình, có thể cho uống dung dịch Oresol hoặc nước muối sinh lý
đẳng trương. Khi mất nước cấp tính (mất nước cấp tính là tình trạng mất nước
ở độ III hoặc độ IV, là sự mất nước phức tạp và nguy hiểm), thì ngoài các
biện pháp trên, cần phải truyền tĩnh mạch bằng dung dịch Ringer lactat.
Trong hội chứng viêm ruột tiêu chảy, sự mất nước cùng với các chất
điện giải là nguyên nhân chính gây ra những rối loạn hoạt động chức năng của
các cơ quan trong cơ thể, gây tỷ lệ tử vong cao. Do vậy, cần phải thực hiện 3
vấn đề cơ bản, đó là: thực hiện tốt chế độ ăn uống, chống nhiễm khuẩn và
điều trị hiện tượng mất nước và chất điện giải (Vũ Triệu An, 1978 [1]).
- Điều trị bằng các chế phẩm sinh học:
Trong đường ruột của động vật, hệ vi sinh vật luôn ổn định, đảm bảo
trạng thái thăng bằng cho hoạt động của đường ruột. Khi hệ vi sinh vật đường
ruột cân bằng thì những vi sinh vật có lợi (90% là vi khuẩn lactic) sẽ có hoạt
động hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ thì những vi
khuẩn có hại cạnh tranh phát triển, làm rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy.
Xuất phát từ cơ sở trên, các nhà nghiên cứu đã chế nhiều chế phẩm khác
nhau từ vi khuẩn hữu ích, chủ yếu là vi khuẩn Lacto bacillus để đưa vào đường
ruột, tạo sự cân bằng cho hệ vi sinh vật đường ruột. Những chế phẩm này được
gọi là chế phẩm trợ sinh học. Ở nước ta có chế phẩm B. subtilis, Yoaurt, Menth,
Biolactin...các chế phẩm này đều là dạng thuốc nước cho gia súc uống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Năm 1981, Vũ Văn Ngữ và Lê Kim Thao đã sử dụng chế phẩm vi sinh
vật Subcolac đưa vào đường ruột, là một hỗn hợp của loại vi khuẩn sống
Bacillus subtilis, Coli bacterium và Lacto bacillus. Chế phẩm này một mặt cung
cấp một số men cần thiết, một mặt lặp lại sự cân bằng của hệ vi sinh vật đường
ruột, góp phần khắc phục rối loạn tiêu hoá ở ruột (Chu Đức Thắng, 1997 [33]).
Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã khẳng định kết quả phòng trị bệnh
đường ruột và tác dụng điều tiết kích thích sinh trưởng của chế phẩm
Biolactyl là rất tốt.
Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20] đề xuất một số phác đồ điều
trị tiêu chảy cho bê nghé như sau:
Cách 1: Điều trị tiêu chảy do nhiễm khuẩn:
- Điều trị nguyên nhân: phối hợp kháng sinh và sulfamid.
Kanamycin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Tetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Bisepton hoặc Sulfaguanidin: 30-50mg/kg thể trọng/ngày.
Thuốc kháng sinh có thể cho uống hoặc tiêm. Sulfamid cho uống. Ba
loại thuốc phối hợp dùng liên tục 3-5 ngày. Mỗi liều thuốc chia làm 2 liều nhỏ
cho gia súc uống ngày 2 lần.
- Điều trị triệu chứng:
Chống mất nước: truyền huyết thanh mặn ngọt vào tĩnh mạch, cứ
1000ml/100kg thể trọng/ngày. Nếu không có huyết thanh mặn ngọt thì cho
uống dung dịch Oresol
Chống chảy máu ruột: tiêm vitamin K, C.
Thuốc trợ tim mạch: Tiêm vitamin B1, long não nước hoặc cafein.
Cách 2: Điều trị tiêu chảy do giun tròn, cầu trùng và nhiễm khuẩn:
- Thuốc điều trị: phối hợp thuốc tẩy giun và kháng sinh.
+ Tẩy giun dùng một trong hai loại thuốc sau:
Mebendazol: 10 - 15mg/kg thể trọng/ngày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Tetramisol: 7-10mg/kg thể trọng/ngày.
Thuốc tẩy giun chỉ dùng một lần. Chỉ dùng thuốc tẩy khi phát hiện
trong phân gia súc có các loại trứng giun và có dấu hiệu lâm sàng nhiễm giun.
+ Thuốc điều trị cầu trùng: Sulfamerazin hoặc Sulfadimerazin, liều
0,10 - 0,12g/kg thể trọng, dùng liên tục 5-6 ngày liền.
Dùng thuốc trợ sức, chống chảy máu và bổ sung nước: vitamin C, B1,
K, cafein, long não nước, truyền huyết thanh mặn ngọt 1000ml/100kg thể
trọng/ngày.
+ Chống nhiễm khuẩn: phối hợp kháng sinh và sulfamid:
Oxytetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Bisepton: 40-50mg/kg thể trọng/ngày.
Phối hợp hai loại thuốc dùng liên tục trong 3-4 ngày.
Theo Fairbrother J.M (1992) [44], một trong những nguyên nhân gây
hội chứng tiêu chảy của gia súc là do một số loài vi khuẩn gây bệnh đường
ruột bao gồm cả những vi khuẩn hiếu khí, vi khuẩn yếm khí tuỳ tiện và những
vi khuẩn yếm khí bắt buộc. Những loài thường gặp là: E.coli, Salmonella spp,
Proteus, Streptococcus...
Gia súc bị tiêu chảy do E.coli, khi điều trị, ngoài việc dùng kháng sinh
sớm từ đầu nên dùng kết hợp một số thuốc hay hoá dược có tác dụng ức chế
sự sản sinh và ảnh hưởng của độc tố đường ruột Entrotoxin do vi khuẩn
phóng thích ra. Một số hoá dược thường dùng như: Chlopromazin hoặc
Berberin sulphate, kết hợp sử dụng dung dịch các chất điện giải như dung
dịch đường glucose, dung dịch muối natri, kali. Các dung dịch này có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp, bổ sung lượng nước và chất điện giải bị mất
trong khi tiêu chảy (Nagy và cs, 1985 [49]).
Trong điều trị tiêu chảy cho bê nghé do vi khuẩn Salmonella gây ra
Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [31] cho biết: ở các cơ sở chăn nuôi không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
điều kiện làm kháng sinh đồ, có thể tiến hành điều trị qua việc dùng các
kháng sinh và sulfamid như: Neomycin và Sulfamethyphenazol, kết hợp với
một số loại hoá dược có tác dụng cung cấp nước, chất điện giải và thuốc làm
se, dịu niêm mạc ruột.
Trong điều trị tiêu chảy, các nhà chuyên môn đã sử dụng thuốc có tác
dụng làm se niêm mạc ruột. Các cây thảo dược trong tự nhiên có chứa hoạt
chất, có tác dụng hữu hiệu trong việc phòng và trị nhiều bệnh khác nhau,
trong đó, có bệnh đường tiêu hoá ở người và động vật.
Cây, quả dược liệu có vị chát hoặc đắng như: cây sim, búp ổi, quả hồng
xiêm, chuối, ổi, lựu và nhiều loại cây quả khác có tác dụng làm se niêm mạc
ruột rất tốt, nhất là các quả này còn ở trạng thái xanh non (lượng axit tanic cao
hơn nhiều khi quả chín)
Để đề phòng tiêu chảy, trước hết khi mới đẻ ra bê nghé phải được uống
đầy đủ sữa đầu, chuồng nuôi bê nghé phải được dọn sạch sẽ hàng ngày, không
để bê nghé uống nước bẩn, nước uống cho bê nghé phải đảm bảo vệ sinh, bổ
sung các loại vitamin A, D để nâng cao sức đề kháng. Một số nước áp dụng
phương pháp sau: 1-3 ngày đầu sau khi sinh cho bê nghé uống hỗn hợp gồm
250mg Oxytetracyclin + 62.000 UI vitamin A + 6.250 UI vitamin D (2
lần/ngày), có tác dụng phòng bệnh tiêu chảy tốt. Cũng có thể dùng các loại -
globulin miễn dịch cho bê nghé uống để chống tiêu chảy do vi khuẩn, vi rút
gây ra. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, (2002) [20]).
1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé
Theo nhiều tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng gây tiêu
chảy ở bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi là giun tròn Neoascaris vitulorum.
1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum.
1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [12]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs,
1999 [13], thì giun tròn Neoascaris vitulorum có ba môi, rìa của những môi
này có răng cưa.
Giun đực không có cánh đuôi, dài 13 - 15cm, rộng nhất 0,35cm.
Giun cái dài 19 - 23cm, chỗ rộng nhất là 0,5 cm. Trứng có vỏ với nhiều
chỗ lõm nhỏ, dài 0,080-0,090 mm, rộng 0,070-0,075mm.
Prokopic,-J; Sterba,-J (1989) [51] đã quan sát giun đũa Neoascaris vitulorum
trên kính hiển vi điện tử thấy cấu trúc bề mặt của giun gồm môi, răng, gai nhỏ và
phần đuôi; ở giun non răng hình nón và nhọn chúng cao lên khi tuổi tăng lên.
Theo Taira-N; Fujita-J (1991) [60]. Từ năm 1982-1988 giun tròn đã
được tìm thấy và nghiên cứu ở hai huyện Kyushu và Okinawa, Nhật bản. Có 7
giun đực và 21 giun cái được nghiên cứu về hình thái học, cho thấy độ dài
trung bình của giun đực 15,64 cm (14,0-18,0 cm), giun cái 25,75 cm (16,5-
34,0). Thân trắng đục và mềm. Trứng giun 81,6ỡm và 71,8ỡm đường kính
rộng nhất và nhỏ nhất, bề mặt vỏ trứng trơn nhẵn, không nhăn nheo.
Ở Việt Nam, Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32],
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [21], giun đũa Neoascaris vitulorum (Goeze
1782), ký sinh ở bê nghé có kích thước: Giun đực ở nghé dài 13-15cm, đường
kính 0,3; ở bê dài 14-16 cm. Giun cái ở nghé dài 19-23 cm, đường kính 0,5
cm, trứng 70-75 x 80-90 ỡm, ở bê dài 20-26 cm, trứng (75-85 x 90-100 ỡm).
Vị trí âm hộ của giun cái là 1/8 phần trước thân, phù hợp với tài liệu mô tả
của Orlov (1970), Euzeby (1981), Khổng Phôn Giao (1957), khác với tài liệu
mô tả của Skrjabin (1950), Neveu-Lemaire (1952), Soulsby (1965), Drozdz
(1967) âm hộ ở 1/6 trước thân.
1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun thải
ra môi trường ở thời kỳ tiền phân là trứng không cảm nhiễm. Skjabin &
Schulz (1973) cho biết, sự phát triển của trứng đến giai đoạn cảm nhiễm (theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
tài liệu của Davtian) kéo dài 12 - 13 ngày ở nhiệt độ 28-30oC và 17-19 ngày ở
nhiệt độ 25oC.
Chẩn đoán bằng cách xét nghiệm phân tìm trứng giun Neoascaris
vitulorum hoặc trên cơ sở phát hiện thấy giun tự thải ra ở trong phân.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [36], trứng giun đũa ra ngoài thiên nhiên
gặp nhiệt độ nóng ẩm thích hợp thì phát triển thành phôi thai: ở nhiệt độ 15-
17
oC thì phải 38 ngày, ở nhiệt độ 19-22oC thì phải sau 20 ngày. Nếu để phân
khô đi hoặc ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học thì trứng sẽ ngừng phát
dục. Dưới ánh nắng trực tiếp mùa hè thì một tuần, nếu ở sâu trong đất thì 12-15
ngày phôi chết, mùa đông phân khô thì sau một tháng phôi bị diệt.
Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun
trưởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.
Chu kỳ phát triển trực tiếp không qua ký chủ trung gian. Giun trưởng
thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng; trứng theo phân ra ngoài,
phát triển thành phôi thai trong trứng, sau đó lại vào cơ thể con vật
Khi mới theo phân ra ngoài trứng không phân chia. Tuỳ theo điều kiện
nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm
có khác nhau.
Theo Soulsby (1965), ở nhiệt độ tối ưu 28-30oC, thời gian là 7 ngày; ở
25
oC cần 10-11 ngày, ở 15-18oC cần trên 28 ngày. Trứng giai đoạn cảm nhiễm
có chứa ấu trùng giai đoạn II, có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.
Irfan M và Sarwar M.M (1954) nghiên cứu ở Pakistan, trứng phát triển
đến giai đoạn cảm nhiễm sau 11 ngày ở 26oC; trứng sẽ bị thoái hoá nếu để ở
nhiệt độ 30oC; ở 10oC trứng ngừng phát triển.
Euzeby (1981) theo dõi ở Malaixia cho biết, với nhiệt độ 15-17oC, cần
38 ngày. Theo Orlov (1970) ở nhiệt độ 30oC, cần hai tuần; ở nhiệt độ 25oC, cần
ba tuần. Refuerzo P.G & Jemenez A (1954), quan sát sự phát triển của trứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
giun ở Philippin cho biết, ở nhiệt độ 17oC phôi bắt đầu hình thành ngày thứ
sáu, hoàn thành vào ngày thứ chín và có khả năng gây bệnh ở ngày thứ 13-15.
Trứng giun cảm nhiễm có sức đề kháng cao với một số hoá chất cũng
như yếu tố vật lý. Khi trứng ở trong phân thì trứng có sức đề kháng cao đối
với một số chất sát trùng.
Refuerzo P.G & Jemenez A (1954) đã làm thí nghiệm về sức đề kháng
của trứng giun đũa ở Philippin, thấy trứng có sức đề kháng kém dưới ảnh
hưởng trực tiếp của ánh nắng mặt trời; Trứng trong phân thì tồn tại lâu hơn và
còn phụ thuộc vào khối lượng cục phân. Nước nóng có tác dụng diệt phôi thai
rất nhanh, nếu ở trong phân thì tác dụng hạn chế; Với nước nóng 90-100oC
trứng đã phân lập ra bị hỏng sau 2 giây, phôi bị huỷ, nhưng nếu ở trong phân
thì chỉ ở lượt ngoài trứng bị hỏng.
Đối với một số chất sát trùng thông thường như Lysol 2%, Zyphen 4-
5%, sau 17-20 giây phôi bị huỷ hoàn toàn, nhưng ở trong phân thì phôi không
bị diệt. Phạm Chức (1986) [4] cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng giun đũa
trong một giờ; Axit phêníc 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút đến một giờ.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun đũa
phát dục thành phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19-22oC, nhưng
phải cần 38 ngày ở nhiệt độ 15-17oC.
Dương Công Thuận đã lấy phân của bê nghé bị nhiễm giun đũa có
trứng nhiều, trộn với nước để giữ ẩm, cho vào đĩa Pettri, để ở nhiệt độ trong
phòng khoảng 15-22oC (tháng 10-11), thì trứng phát triển thành phôi thai sau
20 ngày, ở nhiệt độ 15-17oC phôi hình thành sau 38 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19] cho biết, con cái đẻ trứng
ở ruột non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành
trứng có khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15-17oC cần 38 ngày, 19-22oC cần 20
ngày, 25oC cần 10-12 ngày, 28-30oC cần 65 ngày, nhưng khi nhiệt độ đến 34-
35
oC thì trứng không phát triển). Khi bê nuốt trứng giun đũa có khả năng gây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
bệnh thì sau 43 ngày thấy giun đũa trưởng thành trong cơ thể bê, nếu cho mẹ
nuốt trứng trước khi đẻ 124-192 ngày thì bê đẻ ra 20-31 ngày trong phân có
trứng giun đũa. Ở trâu mẹ thời kỳ chửa đầu nuốt trứng giun cảm nhiễm thì tất
cả nghé đẻ ra đều bị nhiễm giun qua nhau thai.
Sau khi trứng giun cảm nhiễm vào cơ thể trâu bò mẹ, dưới tác dụng của
dịch vị và dịch ruột non, ấu trùng nở ra và từ ruột non theo mạch máu vào
gan, qua tim lên phổi, ấu trùng đến tim trái và từ đó vào đại tuần hoàn. Phần
lớn ấu trùng đều theo mạch máu đến các mô và phủ tạng, ở đó nó đóng kén và
có thể sống từ năm đến sáu tháng hay hơn. Trường hợp trâu bò cái nhiễm phải
trứng giun trong thời gian chửa thì ấu trùng có thể qua hệ tuần hoàn của nhau
đến bào thai, hoặc có thể trâu bò cái nhiễm trong thời gian không chửa, ấu
trùng đóng kén ở mô và phủ tạng, khi trâu bò chửa ấu trùng có thể thoát ra
khỏi kén theo mạch máu đến nhau thai và bào thai.
Kén của ấu trùng có thể thấy ở nhiều mô và phủ tạng như: Bắp cơ,
thận, não, gan, phổi. Ấu trùng có thể sống ở đó sáu tháng; ở con vật không
chửa quá thời gian ấu trùng chết. Ở con vật chửa trong vòng sáu tháng ấu
trùng chui ra khỏi kén đi vào nhau thai.
Ở bào thai nó sống trong gan, theo Augustine (1972) và Noda R (1954)
ấu trùng sống không biến đổi trong suốt thời kỳ ở tử cung. Theo Spent (1958)
thời kỳ cuối trước khi đẻ ấu trùng có thể từ gan vào bào thai và lên phổi biến
thái một lần. Nhưng nói chung ở mọi trường hợp chỉ sau khi đẻ ấu trùng mới
tiếp tục biến thái sau khi hoàn thành một đợt di hành qua phổi, khí quản, ruột
giống như di hành của giun đũa lợn, xuống ruột, giun lớn lên nhanh chóng và
phát triển thành giun trưởng thành đẻ trứng.
Trong điều kiện tự nhiên ở bê, nghé từ 17 ngày tuổi trở lên đã có thể
tìm thấy trứng giun đũa trong phân. Thường tuổi bê, nghé mắc bệnh là 15-42
ngày (Boulerger, 1922; Spent, 1946; Vaidyanathan, 1949; Keith, 1951; Irfan
và Sarwar, 1954; Spirestava và Mehre, 1955...) đối với một số giun đũa khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
như Ascaris của lợn, người, Parascaris của ngựa thời gian từ khi vật bắt đầu
cảm nhiễm trứng giun đũa đến khi trưởng thành có khả năng đẻ trứng phải tối
thiểu trên một tháng. Tuổi mắc bệnh quá sớm của bê nghé làm người ta nghĩ
đến bê nghé có thể mắc bệnh từ khi còn trong bào thai. Mặt khác, nhiều thí
nghiệm gây bệnh cho bê, nghé một ngày tuổi trở lên nuốt trứng giun đũa có
phôi đều không thành công (Brampt 1922, Schmidt 1933). Năm 1935,
Davtyan đã gây bệnh được bằng cách cho một bê nuốt trứng giun 2 giờ sau
khi đẻ, sau đó 30 ngày xuất hiện trứng trong phân. Mổ khám sau khi chết,
ngày thứ 43 thấy một giun trưởng thành và 8 giun con.
1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra ở bê
nghé.
1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh.
Khi bê nghé nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, sau 43 ngày có
thể thấy giun đũa trưởng thành ở ruột non bê nghé. Trong thời kỳ ấu trùng
giun đũa di hành đến một số khí quan như phổi, gan. Khi giun trưởng thành ở
ruột non số lượng nhiều, vít chặt làm tắc ruột non, có khi làm thủng ruột hoặc
chui vào ống dẫn mật, gan.
Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé bị trúng độc, gây ỉa chảy, gầy
sút nhanh. Giun lấy chất dinh dưỡng làm bê nghé gầy yếu (Phạm Văn Khuê,
Phan Lục, 1996 [12])
Giun đũa Neoascaris vitulorum cũng như các loài giun sán khác, ngoài
tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, còn gây tổn thương niêm
mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá (E.coli,
Salmonella, Proteus...) xâm nhập gây rối loạn quá trình phân tiết, viêm ruột và
tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Ngoài ra, giun đũa còn gây viêm ruột cata, một số ít bị biến đổi hoại
tử ở gan. Giun ở trong ống dẫn mật gây viêm có mủ, viêm do tổn thương
ở phổi cũng được phát hiện.
Gia súc non mắc bệnh giun đũa bị viêm ruột thứ phát có thể chết đến
80% (Dẫn theo Drozdz 1967; Kaufmann, 1996).
Đặc điểm chủ yếu của bệnh là gây tiêu chảy song không liên tục, có sự
xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, bê nghé
có biểu hiện nôn từng cơn, kém ăn, thể trạng sa sút. Nếu không phát hiện sớm
và điều trị kịp thời bê nghé chết rất nhanh.
1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé.
Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris vitulorum thường hay sảy ra hầu
khắp các nơi trên thế giới.
Ở Braxin, Travassos Lvà Lacombe D (1959) điều tra cho biết,
Neoascaris vitulorum là loại phổ biến ở nghé, ít thấy hơn ở bê.
Ranatunga P (1960) điều tra ở Srilanca, tại nông trại Ridiyagana, thấy
nhiều nghé có trứng giun trong phân ở lứa tuổi 10-26 ngày sau khi đẻ. Theo
tác giả, tỷ lệ nghé chết về bệnh này còn cao hơn do Coccidiosis.
Srivastava S.C (1963) cho biết, đã kiểm tra 12 nghé ở Ấn Độ thấy 4
con có Neoascaris vitulorum, có con có tới 400 giun trong ruột. Tripathi J.C
(1967) cũng cho biết, bê nghé ở Ấn Độ thường bị giun đũa ký sinh.
Theo Vichitr-Sukhapesna (1990) [61], bê nghé nhiễm giun đũa
Neoascaris vitulorum chủ yếu qua bào thai và sữa.
Muangyai. M (1989) [48] thông báo rằng, giun đũa bê nghé Neoascaris
vitulorum là một trong những ký sinh trùng chủ yếu gây bệnh cho bê nghé,
bệnh đã được nghiên cứu biện pháp phòng trị.
Theo Pandey, VS; Hill, -FWG; Hensman, DG; Baragwanath, LC
(1990) [50], có 20 bê độ tuổi 13±5 ngày được kiểm tra phân trong giai đoạn
15-20 ngày tuổi ở đồng cỏ Zimbabuwe, trứng giun có từ ngày 24, số trứng
đếm được từ 257-19.821 trứng/gam phân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Akyol-CV (1993) [40] thấy, bê bị nhiễm Neoascaris vitulorum phổ
biến ở quanh Barsa (Thổ nhĩ kỳ) qua việc kiểm tra trứng trong phân. Ấu trùng
cũng được tìm thấy trong một mẫu sữa. Đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun nên
làm nhiễm bệnh nhanh. Tỷ lệ nhiễm bệnh giữa các vùng sinh thái khác nhau.
Một thông báo khác cho biết, ở Braxin nghé bị nhiễm với tỷ lệ 58% ở
tuần tuổi thứ nhất; 87,5% tuần thứ 2; 96% tuần thứ 3 và 100% tuần thứ 4. Hầu
hết bị nhiễm qua bào thai và một số ít trường hợp nhiễm qua sữa. Chúng phát
bệnh trong độ tuổi 3-17 tuần tuổi (Barbosa,-MA; Correa,-FMA, 1989 [41]).
Starke-WA; Machado-RZ; Becchara-GH; Zocoller-MC (1996) [58] đã
kiểm tra 75 mẫu phân bê nghé từ 9-115 ngày tuổi, thấy có 86,7% bị mắc giun
đũa. Số lượng trứng cao nhất khi 45 ngày tuổi.
Wen-YL, Zhuang; Lin; BM; Pan;-YD; Gao;-Wang,-TJ (1986) [63] đã
phát hiện 99 con nghé trong số 245 nghé ở 7 làng của tỉnh Phúc Kiến, Trung
Quốc. Sự nhiễm giun đũa của nghé đực (43,02%), cao hơn nghé cái (38,03%).
Theo Horchner, F; Srikitijikarn, L (1987) [46], tỷ lệ chết của nghé trong
6 tháng đầu sau khi sinh ở vùng Đông Nam Á Thái Lan tới 30% do giun
Neoascaris vitulorum và S.papillosus.
Gupta;-RP; Yadav;-CL; Ghosh; JD (1985) [45] cho biết, trong 1626 bê
ở bang Haryana (Ấn Độ) có 55,8% bị nhiễm ký sinh trùng, bao gồm: Giun
móc 44,2%; Neoascaris vitulorum 15,2%; Giun đầu gai 6,2%. Tỷ lệ nhiễm
trong mùa thu (62,8%) cao hơn trong mùa xuân (54,2%), mùa hè (52,4%) và
mùa đông (52,2%). Trong 2411 nghé ở Bang Haryana có 62,9% nhiễm ký
sinh trùng, trong đó Neoascaris vitulorum 29,1%; giun móc 20,7%; giun đầu
gai 9,2% và Coccidia 5,2%. Tỷ lệ nhiễm trong mùa thu (69,8%) và mùa hè
(67,8%), cao hơn mùa xuân (51,9%) và mùa đông (56,3%).
Iskander, AR, Tawjeek, AFarid; AF (1987) [47] đã điều tra 87 nghé
ở 60 ngày tuổi bị ỉa chảy từ các tỉnh Sharkia, Dakahlia, Kaliobia và Assiut (Ai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Cập) có 18 con (21%) đã bị nhiễm giun đũa và cầu trùng, có 4 con đã bị chết.
Noãn nang Eimeria và trứng giun đũa theo tỷ lệ 5:1.
Swain, GD; Misra, SC; Panda, DN (1987) [59] cho biết, ở Ấn Độ
trứng giun đũa đã được tìm thấy trong mẫu phân của 170 nghé dưới 6 tháng
tuổi giữa thời gian kiểm tra tháng 3-8/1985. Tỷ lệ nhiễm cao nhất ở nghé 1 - 2
tháng tuổi, giảm dần sau 3 tháng tuổi.
Kết quả điều tra cho thấy, có trường hợp bê mắc bệnh sớm nhất là 15
ngày (Lee-Nigeria 1959), nghé là 10 ngày (Ranatuga 1960). Theo Orlov
(1970), sau 3 tháng tuổi bê có hiện tượng tự thải giun đũa.
Ở Việt Nam, bệnh giun đũa bê nghé là một bệnh rất phổ biến. Nghé có
triệu chứng đặc trưng là phân có màu trắng nên nhân dân thường gọi là bệnh
"Nghé ỉa cứt trắng". Năm 1923, Phạm Văn Long đã thông báo về một ca bệnh
trên nghé. Nhưng đến đầu năm 50, bệnh này mới thực sự được chú ý vì nó
gây thiệt hại lớn cho đàn trâu sinh sản ở miền núi.
Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32] cho biết, do ảnh
hưởng của khí hậu thời tiết nên mầm bệnh lưu truyền từ mùa này sang mùa
khác, trứng giun đũa có phôi thai có thể tồn tại từ mùa đông này qua mùa
đông năm sau, gặp đợt nghé đẻ ra chúng sẽ nhiễm vào nghé, gây bệnh tạo
thành vùng "nghé ỉa cứt trắng".
Do tập tính sinh sản của trâu bò miền núi phía bắc nước ta là đẻ vào
mùa đông khô lạnh, thiếu cỏ, thiếu nước nên bệnh giun đũa bê nghé gây tác
hại nhiều đối với nghé sơ sinh.
Bệnh giun đũa bê nghé thường thấy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở
các vùng chăn nuôi trâu bò thuộc miền núi, trung du, đồng bằng và ở các
cơ sở chăn nuôi trâu bò sữa (Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng, 1999 [21]).
Qua điều tra liên tục sáu vụ đông xuân (từ 1954-1960) trên hàng nghìn
nghé tại xã Hoà Phú, Phúc Thịnh (Chiêm Hoá - Tuyên Quang), xã Minh Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
(Ngọc Lặc - Thanh Hoá), xã Phượng Tiến (Định Hoá - Thái Nguyên), Đỗ
Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32] thấy, tỷ lệ nghé ốm do giun đũa
chiếm tới 38-44% so với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25-50%
số nghé ốm. Như vậy, mỗi năm số nghé chết về giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [36], qua điều tra trên 32 xã thuộc nhiều
tỉnh miền núi và trung du miền bắc nước ta, nghé ốm do bệnh giun đũa chiếm
39,1%, nghé chết chiếm 38,7% so với số nghé ốm. Đặc biệt bệnh chỉ phổ biến
trên đàn trâu sinh sản ở miền núi và trung du còn ở vùng đồng bằng bệnh
giảm rõ rệt.
Tô Ngọc Đại (1953) [6] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé gây ra tình
trạng bê nghé ỉa cứt trắng là khá phổ biến và trầm trọng ở miền núi, nơi có
chăn nuôi trâu bò sinh sản với số lượng lớn.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1966) [37], ở Sơn Tây, Phia Đén (Cao Bằng)
Ngọc Thanh (Vĩnh Phú), đàn bê mắc bệnh giun đũa chiếm 20% so với số bê
đẻ ra và bê chết do giun đũa chiếm 5% so với số bê ốm.
Dương Công Thuận (1972) đã điều tra trên đàn bê của nông trường
Tam Đảo (Vĩnh Phú), nông trường Hà Trung (Thanh Hoá), thấy có 30-40%
mắc giun đũa, nhưng triệu chứng lâm sàng không rõ như ở nghé, số chết rất ít.
Phạm Văn Khuê và cs (1981) [11] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé khá
phổ biến ở các tỉnh miền núi phía bắc. Theo Nguyễn Bá Phụ (1992) [29], cho
ở Việt Bắc bê nghé thường mắc bệnh giun đũa từ 30-50%.
Trịnh Văn Thịnh (1959) [35] cho biết, nghé nhiễm bệnh từ trong bào
thai và đến tuổi ngoài hai tháng rưỡi không phát bệnh nữa, có trường hợp khi
đến tuổi ấy nghé tự tống giun ra ngoài.
Theo Thanh Cưu (1970), đàn bê của nông trường Ba Vì (Hà Tây)
nhiễm giun đũa 14,6%, thường từ lứa tuổi sơ sinh đến sáu tháng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Dương Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc (1986) [39] đã điều tra tình
hình nhiễm giun đũa ở nghé Murah ở nước ta: 3 tuần tuổi nhiễm 58,1%, 4
tuần tuổi nhiễm 67,2%, 6 tuần tuổi nhiễm 25,2%, 7 tuần tuổi nhiễm 28%, 9
tuần tuổi nhiễm 25%, 10 tuần tuổi nhiễm 23%.
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [34], bê nghé từ 15-60 ngày tuổi
hay mắc bệnh ỉa cứt trắng, bệnh thường hay gặp nhất ở miền núi.
Phan Địch Lân (1986) [16] đã kiểm tra 30 bê Hà Lan nhập nội ở nông
trường Sao Đỏ, cho kết quả tỷ lệ nhiễm giun đũa 25%. Ở Mộc Châu, kiểm tra
50 bê Hà Lan dưới sáu tháng cho kết quả tỷ lệ nhiễm 30%.
Nghé Murah dưới 3 tháng tuổi nuôi ở HTX Trực Chính - Khánh Phù -
Phù Thượng - Hà Nam Ninh nhiễm tới 71% , nghé 1 tháng tuổi nhiễm 67%.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [22] cho biết, bệnh giun đũa
bê nghé có tỷ lệ nhiễm từ 23%-64% ở nghé trong độ tuổi 1-3 tháng, bê trong
độ tuổi 17 ngày đến 3 tháng tuổi cũng bị nhiễm bệnh.
Phan Lục (1993) [24] đã điều tra bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá
vùng đồng bằng sông Hồng cho kết quả, trâu bò bị nhiễm nhiều loại ký sinh
trùng, trong đó nghé nhiễm 15,1%, bê 5,4%.
Vương Đức Chất (1995) [3] cũng thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa trên đàn bê
ở Hà Nội qua mổ khám là 15,6%.
Theo Cao Tuyết Lan (1996) [14], Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 35,3%, cao
nhất lúc 31-45 ngày tuổi (71,4%).
1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích.
Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1977) [34], bê nghé ốm dáng đi lù đù,
đầu cúi, lưng cong đuôi cụp, bụng ỏng, có khi con vật nằm một chỗ không
theo mẹ.
Bệnh nặng bê nghé gầy rạc, xù lông, mắt lờ đờ, chảy nước mắt có nhử,
mũi khô, thân nhiệt khoảng 40-41oC. Con vật mệt mỏi, đứng lên nằm xuống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
ỉa phân lúc đầu táo hoặc lổn nhổn, màu đen, dần dần biến thành màu trắng,
lỏng.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], con vật không
bình thường khi ăn, ỉa chảy, đôi khi táo bón, chướng hơi, đi lại không yên,
đau bụng, ho, co giật. Trường hợp tự thải giun hay được điều trị thì các triệu
chứng sẽ mất đi, ở thể mãn tính kéo dài 2-3 tháng.
Phạm Xuân Dụ (1971) cho biết, bệnh ỉa chảy ở bê một phần do giun
đũa và bệnh viêm phổi, một phần do giun phổi.
Phan Địch Lân (1986) đã thông báo bê Zê bu mắc bệnh giun đũa ở
Nông trường Phú Mẫn (Hà Sơn Bình) có triệu chứng ỉa chảy, ủ rũ, nằm liệt tại
chỗ và có con chết.
Phạm Sỹ Lăng (1973), Dương Công Thuận và Nguyễn Văn Lốc
(1986) cho biết, bê nghé Murah mắc bệnh thường lù đù, chậm chập, đầu cúi,
lưng cong, bụng to, lông xù lên, khoeo và đuôi dính phân bẩn, phân có mùi
tanh khắm, màu trắng ngà.
Theo Usanakorkul S (1987), khoảng 10-30% nghé ở Thái Lan bị chết
trước khi chúng được cai sữa. Hầu hết chúng bị chết bởi nguyên nhân là ký
sinh trùng. Nghé nhiễm bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum và giun lươn qua
đường sữa. Trứng của giun đũa có từ 21-131 ngày tuổi. Cường độ nhiễm cao
nhất trong khoảng 21-35 ngày, khi có số lượng giun lớn bê nghé bệnh có triệu
chứng kém ăn, ỉa chảy và thiếu máu.
Hossain, MI; Baki, MA; Hossain, MM (1988) thông báo, Neoascaris
vitulorum đã được tìm thấy ở 296/350 nghé (84,57%) với triệu chứng chậm
phát triển, còi cọc, thiếu máu, ỉa chảy và mất nước.
Theo Lau, HD,-HD, Sigh;-NP (1985), nghé mắc bệnh giun đũa có số
lượng hồng cầu giảm thấp, giảm Hb và tăng bạch cầu, bạch cầu Eosin tăng cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Aumont-G; Gauthier; Coulau-G; Gruner-L (1991) cho biết, giun đũa
Neoascaris vitulorum là ký sinh trùng chính của bê trong 2 tháng tuổi và làm
giảm khối lượng lượng 10,5kg từ sơ sinh đến giai đoạn cai sữa.
Theo Srivastava,-AK; Sharma,-DN (1981), ở Muthura - Ấn Độ, 16
trong 90 nghé 1 tháng tuổi đã có 500-700 trứng giun đũa trong 1 gam phân,
có những triệu chứng biếng ăn, gày còm, xù lông, táo bón, ỉa chảy, phân hôi
thối, lưng cong, đau bụng và dáng đi cứng nhắc. Mổ khám thấy viêm ruột
cata, biến đổi hoại tử ở gan, thấy giun ở trong ống dẫn mật, viêm có mủ ở vỏ
thận và viêm do tổn thương ở phổi.
1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé.
Để chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé dựa vào
triệu chứng lâm sàng, các dẫn liệu về dịch tễ học, xét nghiệm mẫu phân bê
nghé bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa. Kết hợp với kiểm
tra bệnh tích ở ruột non cho phép chúng ta chẩn đoán bệnh chính xác hơn.
* Đối với bê nghé sống:
Theo nhiều tác giả nghiên cứu cho biết, việc chẩn đoán bệnh giun đũa
Neoascaris vitulorum ở bê nghé có thể căn cứ vào những đặc điểm dịch tễ
học: vùng và mùa phát bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh, tuổi mắc bệnh...
Phạm Văn Khuê và cs (1996) [12], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)
[13] cho biết, bệnh giun đũa bê nghé thường mắc nhiều nhất ở miền núi, bệnh
thường phát nhiều vào tháng 12, 1, 2. Tuổi mắc bệnh sớm nhất là 14 ngày,
tuổi càng cao thì tỷ lệ nhiễm càng giảm, tới 3 - 4 tháng tuổi thì không bị
nhiễm. Trâu bò không mắc bệnh này. Đây chính là những điều tra cơ bản để
sơ bộ chẩn đoán bệnh. Triệu chứng lâm sàng đáng chú ý như: phân màu trắng
rất thối, nếu bệnh nặng bê nghé ỉa vọt cần câu, phân dính ở xung quang hậu
môn và khuỷu chân...là những dấu hiệu hết sức quan trọng để chẩ._. trâu
bò mẹ hàng ngày là cần thiết, nhằm loại bỏ trứng giun đũa để tránh trứng giun
đũa nhiễm vào cơ thể bê nghé.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Ảnh 14: Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu,
bò mẹ để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum
3.4. SỬ DỤNG MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ TIÊU CHẢY CHO BÊ,
NGHÉ
Để điều trị tiêu chảy đạt hiệu quả cao, một trong những yêu cầu quan
trọng là xác định được nguyên nhân gây tiêu chảy. Trên cơ sở nghiên cứu tìm
ra các nguyên nhân gây tiêu chảy cho bê nghé, từ đó lựa chọn những loại
thuốc điều trị cho phù hợp.
Chúng tôi sử dụng 3 phác đồ để điều trị cho 99 bê nghé tiêu chảy và
nhiễm giun đũa. Trong các phác đồ điều trị tiêu chảy, chúng tôi sử dụng các
loại thuốc tẩy giun đũa, kết hợp với thuốc điện giải và vitamin C để cung cấp
chất điện giải, tăng cường sức đề kháng cho con vật. Kết quả điều trị tiêu chảy
cho bê nghé được trình bày ở bảng 3.14.
Bảng 3.14: Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé
Phác
đồ
điều
trị
Loại thuốc điều
trị tiêu chảy
Cách dùng và
liều lƣợng
Thời gian
điều trị
Số
con
điều
trị
(con)
Số
khỏi
tiêu
chảy
(con)
Tỷ lệ
khỏi
(%)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Phác
đồ 1
Levasol 7,5%
Tiêm bắp
1ml/10kgTT
(7,5mg/kg thể
trọng)
1 lần
39
27
69,23
Thuốc điện giải
Pha với nước cho
uống
2-4
lần/ngày
Trong 5
ngày
Vitamin C 5%
Tiêm bắp
10ml/25kg TT
(20mg/kg thể
trọng)
1
lần/ngày
trong 5
ngày
Phác
đồ 2
Mebendazol
10%
Cho uống
200mg/kg TT
1 lần
32 17 53,12
Thuốc điện giải
Pha với nước cho
uống
2-4
lần/ngày
Trong 5
ngày
Vitamin C 5%
Tiêm bắp
10ml/25kg TT
(20mg/kg thể
trọng)
1
lần/ngày
trong 5
ngày
Phác
đồ 3
Hanmectin
0,25%
Tiêm bắp
1ml/10kg TT
(0,25mg/kg thể
trọng)
1 lần
28 18 64,28 Thuốc điện giải
Pha với nước cho
uống
2-4
lần/ngày
trong 5
ngày
Vitamin C 5%
Tiêm bắp
10ml/25kg TT
(20mg/kg thể
trọng)
1
lần/ngày
trong 5
ngày
3 phác đồ 99 62 62,63
Bảng 3.14 cho thấy:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
Ở trong phác đồ điều trị 1, có 27/39 bê nghé khỏi tiêu chảy, chiếm tỷ lệ
69,23%. Ở phác đồ 2, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 17/32 con, đạt tỷ lệ
53,12%. Phác đồ 3, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 18/28%, đạt tỷ lệ 64,28%.
Ba phác đồ điều trị cho kết quả bê nghé khỏi tiêu chảy khác nhau. Tỷ lệ
khỏi tiêu chảy ở phác đồ 1 cao nhất (69,23%), ở phác đồ 2 là 53,12% và ở
phác đồ 3 là 64,28%, tỷ lệ khỏi tiêu chảy chung là 62,63%.
- Trong 99 bê nghé được điều trị là những bê nghé vừa tiêu chảy, vừa
nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum với cường độ từ nhẹ đến nặng (trong đó
14,14% nhiễm nhẹ; 33,33% nhiễm ở cường độ trung bình và 52,53% nhiễm ở
cường độ nặng).
- Số bê nghé nhiễm nhẹ và nhiễm ở mức độ trung bình, ngoài tác động
của giun đũa, còn có thể do các nguyên nhân khác (không nằm trong phạm vi
xác định của đề tài).
Như vậy, có thể thấy rằng, trong 99 bê nghé tiêu chảy này, chỉ có
62,63% bị tiêu chảy do nguyên nhân chính là giun đũa Neoascaris vitulorum.
Vì vậy, sau khi điều trị, trong 99 con vẫn còn 37 con chưa khỏi tiêu
chảy. Để đánh giá hiệu lực tẩy giun đũa cho bê nghé của 3 phác đồ điều trị
trên, chúng tôi đã kiểm tra phân của những bê nghé được dùng thuốc. Kết quả
được trình bày ở bảng 3.15.
Bảng 3.15 cho thấy:
Ở phác đồ 1, điều trị cho 39 bê nghé nhiễm giun đũa ở cường độ từ +
+++, sau khi dùng thuốc 10 ngày, chúng tôi kiểm tra phân thấy cả 39/39 bê
nghé điều trị đều sạch trứng giun đũa (đạt tỷ lệ 100%). Ở phác đồ 2, sau khi
dùng thuốc 10 ngày kiểm tra phân thấy có 28/32 bê nghé sạch trứng (chiếm tỷ
lệ 87,5%), còn 4 bê nghé nhiễm vẫn ở cường độ nhẹ (+). Phác đồ 3 cho thấy,
tỷ lệ sạch trứng của bê nghé là 96,42%, chỉ có 1 nghé còn trứng giun trong
phân ở cường độ nhiễm nhẹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
Bảng 3.15: Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy
trong các phác đồ điều trị tiêu chảy
Phác
đồ điều
trị
Số bê
nghé
điều
trị
(con)
Trƣớc khi dùng
thuốc
Sau khi dùng
thuốc 10 ngày
Hiệu lực tẩy đối
với giun đũa
Số bê
nghé
nhiễm
giun đũa
(con)
Cƣờng
độ
nhiễm
Số bê
nghé còn
nhiễm
giun đũa
(con)
Cƣờng
độ
nhiễm
Số bê
nghé
sạch
trứng
(con)
Tỷ lệ
sạch
trứng
(%)
1 39 39
+
+++
0 _ 39 100
2 32 32
+
+++
4 + 28 87,50
3 28 28
+
+++
1 + 27 96,42
3 phác
đồ
99 99
+
+++
5 + 94 94,95
Từ kết quả trên, có thể đánh giá được hiệu lực tẩy giun đũa của phác đồ
1 và phác đồ 3 là rất tốt, do vậy có thể khuyến cáo cho người chăn nuôi trâu
bò sinh sản sử dụng điều trị cho những bê nghé mắc tiêu chảy khi xác định
được nguyên nhân là do giun đũa Neoascaris vitulorum.
Qua 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho 99 bê nghé tiêu chảy và nhiễm
giun đũa, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 62 con, còn lại 37 bê nghé vẫn tiêu
chảy có thể do các nguyên nhân khác, trong đó có nguyên nhân do vi khuẩn.
Vì vậy chúng tôi tiếp tục điều trị cho những bê nghé còn tiêu chảy bằng các
loại thuốc kháng sinh, kết hợp với chất điện giải và vitamin C. Kết quả được
trình bày ở bảng 3.16.
Bảng 3.16: Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
Phác
đồ
điều
trị
Loại thuốc
điều trị
tiêu chảy
Cách dùng và liều
lƣợng
Thời gian
điều trị
Số
con
điều
trị
(con)
Số
khỏi
tiêu
chảy
(con)
Tỷ
lệ
khỏi
(%)
Phác
đồ 1
Colistin
Tiêm bắp
0,5ml/20kg TT
(15mg/kg thể trọng)
2 lần/ngày
trong 3-5
ngày
21 19
90,4
7
Thuốc điện
giải
Pha với nước cho
uống
2-4
lần/ngày
trong 5
ngày
Vitamin C
5%
Tiêm bắp
10ml/25kg TT
(20mg/kg thể trọng)
1 lần/ngày
trong 5
ngày
Phác
đồ 2
Norfacoli
Tiêm bắp 1ml/20kg
TT
(5mg/kg thể trọng)
2 lần/ngày
trong 3-5
ngày
16 16 100 Thuốc điện
giải
Pha với nước cho
uống
2-4
lần/ngày
trong 5
ngày
Vitamin C
5%
Tiêm bắp
10ml/25kg TT
(20mg/kg thể trọng)
1 lần/ngày
trong 5
ngày
3 phác đồ 37 35
94,5
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
Kết quả bảng 3.16 cho thấy:
Ở phác đồ điều trị tiêu chảy 1, chúng tôi dùng Colistin để điều trị cho
21 bê nghé còn tiêu chảy, kết quả có 19 bê nghé khỏi tiêu chảy hoàn toàn
chiếm tỷ lệ 90,47%.
Ở phác đồ 2, chúng tôi sử dụng Norfacoli điều trị cho 16 bê nghé tiêu
chảy, kết quả 100% bê nghé khỏi tiêu chảy.
Như vậy, phác đồ 1 điều trị tiêu chảy cho bê nghé đạt hiệu quả 90,47%,
còn 2 nghé vẫn tiêu chảy sau 5 ngày điều trị. Chúng tôi tiếp tục dùng nước sắc
búp ổi cho uống với mục đích để làm se niêm mạc ruột. Sau 2 ngày kiểm tra
lại thấy 2 nghé đã khỏi tiêu chảy hoàn toàn.
Từ kết quả điều trị tiêu chảy trên, chúng tôi thấy, muốn điều trị
tiêu chảy hiệu quả, việc xác định đƣợc nguyên nhân chính gây tiêu chảy
để điều trị là rất quan trọng, kết hợp điều trị theo sinh bệnh và triệu
chứng. Trong thực tế ở những nơi vùng sâu, vùng xa, miền núi bà con
không có điều kiện để chẩn đoán nguyên nhân gây tiêu chảy, thì trƣớc
hết phải chú ý đến chế độ ăn uống của trâu, bò mẹ, vệ sinh chuồng trại,
sử dụng thuốc kháng sinh có tác dụng đặc trị tiêu chảy nhƣ thuốc
Norfacoli hoặc Colistin để điều trị. Sau vài ngày có thể dùng thuốc tẩy
giun đũa cho bê nghé dƣới 3 tháng tuổi với mục đích điều trị cho những
nghé bị bệnh và tẩy phòng cho những nghé mang giun đũa. Trong quá
trình điều trị phải bổ sung chất điện giải và vitamin C để tăng cƣờng sức
đề kháng cho con vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
ảnh 15: Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé
Ảnh 16: Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
Ảnh 17: Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
1.1. Về một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3
tháng tuổi tại Tuyên Quang.
- Tỷ lệ bê nghé dưới 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh
Tuyên Quang là 21,19%, biến động từ 17,30% đến 25,83%.
- Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cao nhất ở 16 - 30 ngày tuổi, sau đó giảm dần.
- Tỷ lệ tiêu chảy không có sự sai khác giữa bê nghé cái và bê nghé đực
(bê nghé cái 20,99% và bê nghé đực 21,39%).
- Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé cao nhất là mùa Xuân (23,37%), thấp nhất
là mùa Thu (17,76%).
- Tỷ lệ tiêu chảy của bê nghé theo địa hình bằng phẳng là 18,70% và
địa hình đồi núi có xen kẽ ruộng nước là 23,17%.
- Tỷ lệ tiêu chảy ở bê là 22,40% và ở nghé là 20,56%.
- Chăn nuôi trâu, bò mẹ theo phương thức chăn thả hoàn toàn thì tỷ lệ
bê nghé tiêu chảy là 26,53%, phương thức chăn nuôi trâu, bò mẹ bán chăn thả
có bổ sung thức ăn thì tỷ lệ bê nghé tiêu chảy thấp hơn (14,46%).
1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò trong hội chứng tiêu
chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi
- Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy là 51,56%, ở bê nghé bình
thường là 27,87%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
- Ở bê nghé tiêu chảy cường độ nhiễm giun đũa nặng hơn nhiều so với
bê nghé phân bình thường, (33,3% nhiễm trung bình và 52,53% bê nghé
nhiễm ở cường độ nặng), bê nghé phân bình thường không nhiễm giun đũa ở
cường độ nặng.
1.3. Ngoại cảnh bị ô nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum.
- Có 19,86% số mẫu cặn nền chuồng; 18,24% mẫu xung quanh chuồng
và 7,81% mẫu đất bề mặt bãi chăn nhiễm trứng giun đũa Neoascaris
vitulorum.
- Thời gian trứng giun phát triển ở ngoại cảnh thành trứng có sức gây
bệnh là 12,93 - 36,90 ngày, phụ thuộc vào nhiệt độ và ẩm độ không khí.
- Thời gian tồn tại của trứng giun đũa có sức gây bệnh ở ngoại cảnh
cũng là 13,75 - 30,50 ngày ở trong các điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí
khác nhau.
1.4. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun đũa trên bầu vú, núm vú là
4,30%, số trứng giun đũa là 1,85 ± 0,11 trứng/vi trường, tỷ lệ thuận với tỷ lệ
bê nghé nhiễm giun đũa.
1.5. Kết quả điều trị tiêu chảy cho bê nghé.
- Sử dụng phác đồ điều trị cho bê nghé vừa tiêu chảy vừa nhiễm giun
đũa, gồm thuốc tẩy giun đũa kết hợp thuốc điện giải, vitamin C, đạt hiệu quả
khỏi là 62,6%, tỷ lệ bê nghé sạch trứng giun đũa là 94,9%.
- Điều trị tiêu chảy đợt 2 bằng kháng sinh kết hợp thuốc điện giải và
vitamin C cho những bê nghé sau đợt 1 vẫn còn tiêu chảy, cho kết quả điều trị
khỏi 94,5%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
2. ĐỀ NGHỊ:
Để hạn chế tiêu chảy cho bê nghé từ sơ sinh đến dưới 3 tháng tuổi cần
chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý tốt đàn gia súc mẹ và con, thường xuyên vệ
sinh sạch sẽ khu vực chuồng nuôi, luôn giữ khô, sạch ấm cho bê nghé, nhất là
trong những ngày đầu mới sinh và trong những ngày thời tiết thay đổi.
Khi có điều kiện cần xác định chính xác nguyên nhân gây tiêu chảy để
đưa ra phác đồ điều trị có hiệu quả và đỡ tốn kém. Việc điều trị tiêu chảy
ngoài sử dụng các loại thuốc điều trị nguyên nhân cần bổ sung thêm chất điện
giải, vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho con vật.
Tiếp tục xác định những nguyên nhân khác gây tiêu chảy cho bê nghé,
từ đó có cơ sở khoa học đầy đủ hơn để hoàn thiện quy trình phòng, trị tiêu
chảy cho bê nghé.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT:
1. Vũ Triệu An (1978), Đại cương sinh lý bệnh học, Nxb Y học, Hà Nội, tr.
171-353.
2. Vương Đức Chất (1995), Khảo sát giun tròn ký sinh đường tiêu hoá của đàn bò
sữa Hà Nội, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y , Tập 2, số 1, tr. 95.
3. Vương Đức Chất (1995), “Kết quả sử dụng Benzimidazole tẩy giun sán
trâu bò vùng ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập1, (số
5).
4. Phạm Chức (1980), “Sức đề kháng của trứng các loài giun đũa đối với các
chất hoá học”, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật Thú y 1968-1978, Nxb
Nông nghiệp, tr. 339-406.
5. Lê Minh Chí (1995), Bệnh tiêu chảy ở gia súc, Bộ Nông nghiệp và công
nghiệp thực phẩm. tr. 22.
6. Tô Ngọc Đại (1953), “Những nhận định về bệnh trạng bê nghé ỉa cứt
trắng”, Tập san kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, (số 11-12).
7. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường
tiêu hoá ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 221-293.
8. Đào trọng Đạt (1996), Bệnh lợn con ỉa phân trắng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Phạm Khắc Hiếu (1997) "Một số vấn đề dược lý học đối với gia súc non",
Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tr. 71-74.
10. Phạm Khuê (1998), "Điều chỉnh nước và điện giải", Cẩm nang điều trị
nội khoa, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 73-90.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
11. Phạm Văn Khuê, Phan Trịnh Chức (1981), “Khái quát về tình hình và kết
quả điều tra giun sán trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1976 - 1980”, Tạp chí
khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp IV, (số 4), tr.195-201.
12. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, tr. 124-127.
13. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên
(1999), Giáo trình ký sinh trùng thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 94-97.
14. Cao Thị Tuyết Lan (1996), “Bệnh giun đũa bê nghé ở thị xã Lai Châu và
biện pháp phòng trừ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số 3), tr. 66-67.
15. Phan Văn Lan, Phùng Mạnh Tường (1965), “Kết quả điều tra và chữa
bệnh bê nghé ỉa cứt trắng ở Tuyên Quang”, Tạp chí khoa học và kỹ thuật nông
nghiệp, (số 7), tr.433.
16. Phan Địch Lân, (1986), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng ở đàn bò nhập
nội", Kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nông nghiệp (1979-1984), Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 119-121.
17. Phan Địch Lân, (1993), "Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thú y
vào sản xuất, phục vụ chương trình lương thực, thực phẩm", Công trình
nghiên cứu khoa học năm 1990-1991, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
18. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng, Đoàn Văn Phúc (2005), Bệnh giun tròn
của động vật nuôi ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 84-91.
19. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1999), Bệnh ở trâu bò và biện pháp
phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 176-177.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
20. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Bệnh truyền nhiễm ở bò sữa và biện
pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 108-113.
21. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Hướng dẫn phòng trị bệnh ký sinh
trùng, bệnh nội khoa và nhiễm độc ở bò sữa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 5-
10; tr.125-131.
22. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1996), Bệnh thường thấy ở đàn bò sữa
Việt Nam và kỹ thuật phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78-85.
23. Phan Lục (1996), “Thí nghiệm phòng trị ký sinh trùng đường tiêu hoá trâu
bò bằng Dertil và Benzimidazole”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số
2), tr. 72-75.
24. Phan Lục (1993), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hoá của trâu
bò vùng đồng bằng sông Hồng và thuốc phòng trị". Kết quả nghiên cứu khoa
học, khoa chăn nuôi thú y Trường Đại học nông nghiệp I (1991-1993), Nxb
nông nghiệp, tr. 92-93.
25. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo
trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 200-210.
26. Sử An Ninh (1993), "Kết quả bước đầu tìm hiểu nhiệt độ, độ ẩm thích hợp
phòng bệnh lợn con phân trắng", Kết quả nghiên cứu khoa học, khoa chăn nuôi
thú y, Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.43-48.
27. Vũ Văn Ngũ và cs (1997), Loạn khuẩn đường ruột và tác dụng điều trị
của Colistin, Nxb Y học, Hà Nội.
28. Nguyễn Vĩnh Phước (1974), Vi sinh vật học Thú y, Nxb khoa học kỹ
thuật, tr. 57-61; 75-79.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
29. Nguyễn Bá Phụ (1992), Khoa học kỹ thuật thế giới, Tuần báo Nông
nghiệp, số 27.
30. Nguyễn Văn Sửu (2005), Nghiên cứu tình hình tiêu chảy của bê, nghé
dưới 6 tháng tuổi tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc và xác định một số yếu tố gây
bệnh của vi khuẩn Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfrigens.
Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 56.
31. Đoàn Thị Băng Tâm (1987), Bệnh động vật nuôi, Tập 1, Nxb KHKT,
tr.119-134.
32. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập 2: Giun sán ở động vật nuôi, Nxb khoa học kỹ thuật,
Hà Nội, tr. 91, 259-275.
33. Chu Đức Thắng (1997), Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá, lâm sàng trong
bệnh viêm ruột lợn con sau cai sữa, Luận án PTS khoa học Nông nghiệp, Hà
Nội, tr.10.
34. Nguyễn Văn Thiện, Vũ Ngọc Tý, Phan Văn Lan, Nguyễn Danh Kỹ
(1977), Sổ tay chăn nuôi trâu bò - Tập 1, Nxb Nông nghiệp, tr. 94-95.
35. Trịnh Văn Thịnh (1959), “Nắm vững quy luật, tích cực phòng trị bệnh
giun đũa nghé”, Tạp chí Nông lâm, (số 10).
36. Trịnh Văn Thịnh (1962), “Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris
vitulorum”, Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Hà Nội, (số 2), tr. 35.
37. Trịnh Văn Thịnh (1966), Ký sinh trùng của gia súc nuôi Việt Nam, Nxb
khoa học, Hà Nội, tr. 66-69.
38. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982),
Giáo trình ký sinh trùng Thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 137-141, 279.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
39. Dương Công Thuận, Nguyễn Văn Lốc (1986), "Tình hình nhiễm giun đũa
ở nghé Murrah và kết quả thí nghiệm phòng trị", Kết quả nghiên cứu khoa
học và kỹ thuật nông nghiệp 1979-1984, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 123-
125.
2. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
40. Akyol C.V. (1993), Epidemiological of Neoascaris vitulorum in around
Barsa, Turkey, J-Helminthol, pp. 73-77.
41. Barbosa M.A; Correa F.M.A. (1989), Natural parasitism of buffaloes in
Botucatu, Sao Paulo, Brazil. I. Observations on Toxocara vitulorum (Goeze
1782), Arquivo-Brasileiro-de-Medicina-Veterinaria-e-Zootecnia, pp.511-525.
42. Blackwell T.E. (1989), Enteritidis and diarrhoea, Veterinary climate
North American large animal pract, pp. 547-575.
43. Daniels G. (1990), Nutritional factors in the Pathogenesis of proliferative
enteritis and swine dysentery, 11
th
IPVS congress, pp. 119-125.
44. Fairbrother J.M., Betschinger H.U., Nielsen O.N., Pohlenz J.F. (1992),
"Escherichia coli infections Diseases of Swine", Seventh edition - Wolfe
Publishing Ltd - Austrailian, pp. 489-497.
45. Gupta R.P., Yadav C.l., Ghosh J.D. (1985), Epidemiology of helminth
infection in calves of Haryana State, Agricultural-Science-Digest,-India, pp.
53-56.
46. Horchner F., Srikitijikarn L. (1987), Efficacy of a metaphylactic worming
program of buffalo calves in Thailand, Mitteilungen-der-Osterreichischen-
Gesellschaft-fur-Tropenmedizin-und-Parasitilogie, pp.173-177.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
47. Iskander A.R., Tawjeek AFarid A.F. (1987), Cryptosporidial infection among
buffalo calves in Egyp, Indian-Journal-of-Animal-Science, pp. 1057-1059.
48. Muangyai M. (1989), Parasitic diseases of buffalo calves and the control
in Thailand, Buffalo-Journal, pp. 109-120.
49. Nagy B., Fekete P.Z.S. (1985), Veterinary research Special issue, Inra
FNV, Touluose France, pp. 259-284.
50. Panday V.S., Hill F.W.G., Hensman D.G., Baragwanth L.C. (1990),
Toxocara vitulorum in beef, calves kept on effluent-irrigated pastures in
Zimbabwe, Veterinary-Parasitology, pp. 349-355.
51. Prokopic J., Sterba J. Neoascaris vitulorum a scanning electronic
microsope study (Goeze 1782), Folia-Parasitologica (1989), pp 67-69.
52. Purvis G.M., Tremblay R.R. (1985), "Diseases of the newborn",
Veterinary Mcrobiology, pp. 192-206.
53. Radostits O.M., Blood D.C., and Gay C.C. (1994), "Veterinary medicine,
the texbook of Disease the cattles, sheeps, pigs, goatls and horses" Disease
caused by Escherichia coli, disease caused by Salmonella spp, London,
Philadelphia, Sydney, Tokyo, Toronto, pp. 703-730.
54. Roberts J.A. (1989), Neoascaris vitulorum: treatment based on the
duration of the infectivity of buffalo cows (Bubalus bubalis) for their calves,
Journal-of veterinary-Pharmacolory-and-Therapeutics, pp. 5-13.
55. Roberts J.A. (1990), The life cycle of Toxocara vitulorum in Asian buffalo
(Bubalus bubalis), International-Journal-for-Parasitology, pp.833-840.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
56. Rosenberg N.J. (1974), Micromate the biological environment, New
York. pp. 125-150.
57. Sokol A., Mikula I., Sova C. (1991), "Neonatal Coli Infencie",
Laboratorina diagnostic and preventional U/OLV-Kosice.
58. Starke Wa., Machado R.Z., Bechara G.H., Zocoller M.C. (1996), Skin
hypersensitivity tests in buffaloes parasitized vith Neoascarit vitulorum, Vet-
Parasitol, Brazil, pp. 283-290.
59. Swain G.D; Misra S.C., Panda D.N. (1987), Incidence and chemotherapy
of Neoascaris vitulorum infection in Murrah buffalo calves at Bhubanneswar,
Indian-Veterinary-Journal, pp. 198-202.
60. Taira N., Fujita J. (1991), Morphological observaition of Toxocara
vitulorum found in Japanese calves, J-Vet-Med-Sci, pp. 409-413.
61. Vichitr Sukhapesna. (1982), Study of natural nematode infection in
buffalo calves, Kasetsart - Veterinary (Thailand), pp. 157-164.
62. Weinstein D.L., Casiotis M., Lissner C.H.R., Osrien A.D. (1984),
"Flagella help S.typhimurium survive within murine macrophages", Infection
and Immuniti, pp. 819-825.
63. Wen Y.L., Zhuang Z.L., Lin M.B., Pan Y.D., Gao B.Z., Wang T.J.
(1986), An epiemiologic survey of neoascaris in calves, Chinese-Journal-of-
Science-and-Technology, pp. 18-20.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề. 1
2. Mục đích của đề tài. 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 3
1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy 3
1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé 3
1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh 4
1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dƣỡng 4
1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và vi rút 5
1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đƣờng
ruột
6
1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng 7
1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 8
1.1.3.1. Bệnh lý 8
1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 10
1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 12
1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé 19
1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum 19
1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum 19
1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum 20
1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây
ra ở bê nghé
23
1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh 23
1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé 24
1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích 29
1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé 30
1.2.4. Biện pháp phòng trị bệnh 31
Chương 2. ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
33
2.1. Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 33
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu 33
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 33
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 33
2.2. Vật liệu nghiên cứu 33
2.3. Nội dung nghiên cứu 34
2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên
Quang
2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội
chứng tiêu chảy của bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi
34
2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun
Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh
34
2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum
ở chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu
bò, bê nghé
34
2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát
triển thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ở
ngoại cảnh
34
2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris
vitulorum trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh.
34
2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có
sức gây bệnh khi bú mẹ.
35
2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy do giun
đũa gây ra ở bê nghé
35
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 35
2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê
nghé
35
2.4.2. Phƣơng pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris
vitulorum
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
2.4.3. Phƣơng pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorum
phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh
36
2.3.4. Phƣơng pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun
đũa bê, nghé ở ngoại cảnh
37
2.4.5. Phƣơng pháp xác định sự ô nhiễm trứng Neoascaris
vitulorum ở ngoại cảnh
37
2.4.6. Phƣơng pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa
do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ
38
2.4.7. Phƣơng pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 38
2.4.8. Phƣơng pháp xử lý số liệu 40
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42
3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy
ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang
42
3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên
Quang
42
3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44
3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46
3.1.4. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ 47
3.1.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49
3.1.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé) 40
3.1.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu 51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
bò mẹ
3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng
tiêu chảy của bê nghé dƣới 3 tháng tuổi
53
3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu
chảy và bê nghé bình thƣờng
53
3.2.2. Cƣờng độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê
nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng
55
3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun đũa
Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh
59
3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại
cảnh
59
3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát
triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh
62
3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris
vitulorum ở ngoại cảnh
65
3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt
trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ
68
3.4. Sử dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78
1. Kết luận 78
2. Tồn tại và đề nghị 79
2.1. Tồn tại 79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
2.2. Đề nghị 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
1. Tài liệu tham khảo tiếng việt 81
2. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng Trang
3.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở một số địa phƣơng 43
3.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44
3.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46
3.4. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo mùa vụ 47
3.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49
3.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê hoặc nghé) 50
3.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu bò mẹ 51
3.8. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 53
3.9. Cƣờng độ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình
thƣờng
55
3.10. Sự lƣu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở nền chuồng,
khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả
60
3.11. Thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành
trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh
62
3.12. Thời gian tồn tại của trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở
ngoại cảnh
66
3.13. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng Neoascaris vitulorum có sức gây
bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
3.14. Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé
3.15. Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy trong các phác đồ điều trị tiêu
chảy
74
3.16. Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
DANH MỤC CÁC ẢNH MINH HOẠ
Ảnh Trang
1. Nghé bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong
phân
57
2. Bê bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân 57
3. Lấy mẫu phân nghé tiêu chảy (phân màu trắng, lỏng) 58
4. Mẫu phân bê nghé tiêu chảy và bình thƣờng thu thập về xét
nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum
58
5. Xét nghiệm phân bê nghé tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 59
6. Mẫu cặn nền chuồng, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu
đất bề mặt bãi chăn thả thu thập về xét nghiệm tìm trứng giun
Neoascaris vitulorum
61
7. Trứng giun đũa Neoascaris vitulorum mới thải ra ngoài (x 200) 64
8. Phôi bào phân chia ngày thứ 8 (x 200) 64
9. Phôi bào phân chia và co lại ở ngày thứ 10 (x 200) 65
10. Ấu trùng hình thành trong trứng ngày thứ 12 (x 300) 65
11. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngày thứ 27 (một số
trứng đã bị hƣ hỏng) (x 300)
68
12. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh đang chuyển sang hƣ
hỏng ở ngày thứ 30 (x 300)
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
13. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh hỏng
hoàn toàn ở ngày thứ 34 (x 300)
68
14. Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu, bò mẹ để tìm
trứng giun đũa Neoascaris vitulorum
71
15. Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé 76
16. Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé 77
17. Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày 77
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9154.pdf