Một số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề & tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP Hồ Chí Minh

Tài liệu Một số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề & tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP Hồ Chí Minh: MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐLĐ : Hợp đồng lao động UBND : Uỷ ban nhân dân NQ16 : Nghị quyết 16 DN : Doanh nghiệp TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh BHYT, BHXH : Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội TT : Trung tâm. LỜI MỞ ĐẦU Nghiện ma tuý và tội phạm ma túy đã và đang hoành hành ở mọi nơi trên khắp thế giới, bất kể thành phố hay nông thôn, ở vùng núi hay đồng bằng, ở các nước tư bản giàu có hay các nước chậm phát triển. Trong vòng 15 năm qua, mặc dù đất nước đã đạt được nhiều thành tựu qua... Ebook Một số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề & tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP Hồ Chí Minh

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề & tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trọng về kinh tế - xã hội góp phần tạo nên những thay đối đáng kể trong đời sống vật chất và tinh thần cũng như tạo cho con người nhiều nếp sống hiện đại, nhưng rất đông những người còn lại, đặc biệt là giới trẻ, còn thiếu việc làm, lười lao động, đã rơi vào tình cảnh bế tắc và tìm đến với ma túy. Bên cạnh đó, không ít gia đình giàu có sẵn sàng cung cấp tiền bạc cho các cô cậu ấm mà không biết tiền đó tiêu vào việc gì và chính những đối tượng này đã trở thành con mồi cho bọn buôn bán ma túy. Tệ nạn ma túy đã trở thành quốc nạn với nhiều nước, gây cản trở lớn đối với phát triển kinh tế, xã hội; gây ra tác hại to lớn đối với mọi mặt của cuộc sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.. và cần được lên án, loại bỏ. Trong đó, nghiện ma túy là mối đe dọa đến hạnh phúc của mọi người, mọi gia đình. Với những tác hại vô cùng to lớn mà ma túy đem lại Thành phố Hồ Chí Minh, một trọng điểm kinh tế - xã hội ở phía Nam không chỉ có những thành tựu vượt bậc về mặt kinh tế mà còn phải đối mặt giải quyết với nhiều tệ nạn xã hội, trong đó có nghiện ma túy. Số lượng 30.000 con nghiện ma túy hiện nay đang tập trung trong các trường, trung tâm cai nghiện của thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM )đã nói rõ sự thật trớ trêu ấy. Việc đấu tranh chống hiểm họa ma túy và giúp người cai nghiện có hiệu quả để tái hòa nhập cộng đồng là một nhiệm vụ cấp bách nặng nề không chỉ của riêng TP. HCM. Sau một thời gian tổ chức cai nghiện tập trung 2 năm cho hàng vạn người nghiện, tỷ lệ tái nghiện còn rất cao (90%), TP.HCM đã đưa ra sáng kiến và được Quốc hội ra Nghị quyết thực hiện đề án sau cai nghiện, kéo dài từ 2-3 năm, giúp họ có đủ điều kiện đoạn tuyệt với ma túy, hòan thiện nhân cách, có nghề nghiệp để hòa nhập cộng đồng. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong cả nước về việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy được Quốc hội phê duyệt tại kỳ họp thứ 3, khóa 11 tháng 11/2003. Là sinh viên thực tập tại Phòng chính sách 06 (Phòng chính sách cai nghiện và phục hồi ), Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, thuộc Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, em xin nêu “ Một số công tác để thực hiện tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại Thành Phố Hồ Chí Minh”. Đề tài của em sẽ là phần tham khảo, đóng góp ý kiến giúp các nhà quản lý xã hội và các nhà hoạch định chính sách tìm ra các giải pháp khả thi để giải quyết tình trạng người sau cai nghiện tại Thành Phố Hồ Chí Minh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho các địa phương trên cả nước. Báo cáo gồm ba phần chính: Chương I: Cơ sở lý luận. Chương II: Thực trạng về công tác tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương III: Phương hướng, mục tiêu và một số giải pháp kiến nghị . Để hoàn thành báo cáo này, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu : Phương pháp thu thập, thống kê, đánh giá tài liệu. Phương pháp so sánh. Phương pháp phân tích tổng hợp. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, góp ý nhiệt tình của cô giáo Hồ Thị Bích Vân cũng như sự hướng dẫn, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện của các chú, các cô và anh chị, toàn thể cán bộ, công chức của Phòng chính sách 06, Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã giúp em hoàn thành báo cáo này! NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Tổng quan về tình hình nghiện ma túy ở Việt Nam. 1.1. Các khái niệm liên về ma túy. 1.1.1. Ma túy Con người đã phát hiện và sử dụng các chất ma túy từ cách đây 6000 năm. Việc trồng và sử dùng các cây có chứa hoạt chất ma túy tự nhiên đã trở thành thói quen và tập tục của nhiều dân tộc trên thế giới. Từ thời thượng cổ, người Ba tư và người Ai Cập đã biết dùng nhựa mủ cây thuốc phiện để hút, tạo cảm giác say sưa và dễ chịu cho con người. Đến sau đó, cây cần sa được trồnng nhiều ở khu vực Nam Á ( Ấn Độ, I Ran, Thổ Nhĩ Kỳ…). Ma túy đã tồn tại tư rất lâu đời, bởi vậy tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về ma túy: Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO ) thì “Ma túy là bất kì chất gì khi đưa vào cơ thể sống có thể thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”.(1) Theo các chuyên gia về ma túy của Liên Hiệp Quốc thì “Ma túy là những chất có nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo, khi thâm nhập vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào ma túy gây nên những tổn thương cho cá nhân và cộng đồng”.(2) Nhưng theo cách hiểu chung nhất thì ma túy là các chất hóa học có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, có khả năng ức chế thần kinh, có tính chất gây nghiện và khi đưa vào cơ thể quá liều thì sẽ làm thay đổi các chức năng sinh lý, tâm lý bình thường của con người. 1.1.2. Nghiện ma túy và đôi nét về lịch sử nghiện ma túy ở Việt Nam. Trước hết, ta cần phân biệt giữa việc sử dụng ma túy, lạm dụng ma túy và vấn đề nghiện ma túy: Sử dụng ma túy là việc dùng ma túy với mục đích chữa bệnh, đúng liều lượng, đúng lúc theo hướng dẫn chỉ định của bác sỹ. Việc sử dụng ma túy như vậy mang lại một số lợi ích cho sức khỏe của người dùng. Lạm dụng ma túy là sử dụng ma túy một cách quá liều hoặc không theo sự hướng dẫn của chuyên gia, bác sỹ để nhằm mục đích tiêu khiển, có hại đối với cơ thể. Khái niệm về nghiện ma túy cũng được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau: Nghiện ma túy từ góc độ y học được tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là “ Trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính do sử dụng lặp lại nhiều lần, một chất độ tự nhiên hay tổng hợp nào đó. Sự nhiễm độc này thể hiện ở sự tăng dần liều dùng và sự lệ thuộc tâm sinh lý của người dùng vào tác dụng của chất đó ”.( 1) Theo quan điểm xã hội thì “ Nghiện ma túy là tệ nạn xã hội làm tổn hại đến sức khỏe, nhân cách, ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt và trật tự an toàn xã hội ”.(15) Tóm lại, nghiện ma túy là hiện tượng phụ thuộc cả về thể xác và tinh thần vào ma túy do sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày càng tăng dẫn đến mất khả năng kiểm soát bản thân ở người nghiện ma túy, có hại cho cá nhân và cho xã hội. Quá trình nghiện ma túy diễn ra với các mức độ ngày càng tăng, đầu tiên là những khoái cảm hoàn toàn mang tính cá nhân, rồi đến những khổ sở, đau đớn vật vã, của chính cá nhân người nghiện và cuối cùng là những hành vi gây nguy hiểm cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy, nghiện ma túy đã bị coi là tệ nạn xã hội cần phải lên án và loại bỏ. Quá trình hình thành nghiện ma túy ở Việt Nam: Lịch sử nghiện hút các chất ma túy ở Việt Nam đã có từ rất lâu đời. Tác hại của việc dùng ma túy cũng được phát hiện từ năm 1665, đã có đạo luật cấm trồng cây anh túc.(15) Năm 1802, trước tình trạng lộn xộn do việc hút thuốc phiện gây ra, luật phòng, chống ma túy đầu tiên ra đời. Sau đó, Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta nhận thấy món lợi kếch xù do ma túy đem lại, chúng đã khuyến khích dân ta nhổ lúa trồng thuốc phiện. Từ Cách Mạng tháng Tám trở đi, với những nỗ lực của Chính phủ, diện tích trồng cây thuốc phiện đã bị thu hẹp nhiều. Trước kia, người nghiện ma tuý chủ yếu tập trung ở vùng núi phía Bắc, nơi đồng bào có tập tục trồng cây thuốc phiện và hút thuốc phiện với tổng số khoảng 30.000 người. Miền Nam dưới chế độ cũ, tệ nạn ma tuý phát triển tràn lan; theo thống kê, vào trước năm 1975, có khoảng 170.000 người nghiện và tập trung ở các thành phố, thị xã. Sau ngày hoà bình lập lại ở Miền Bắc năm 1954, và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, dưới chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nền kinh tế phát triển theo hướng kế hoạch hoá tập trung, xã hội được quản lý nghiêm ngặt, do đó tệ nạn ma tuý được đẩy lùi rõ rệt. Năm 1980, cả nước chỉ còn 30.000 – 40.000 người nghiện. Từ cuối nhưng năm 1980 đến nay, nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên những năm gần đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, trong xã hội đã có nhiều biến đổi nhất định, phát sinh một số vấn đề xã hội đáng quan tâm, đặc biệt là tệ nạn nghiện ma tuý. Tình hình nghiện ma túy không ngừng gia tăng và ngày càng phức tạp đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và hiểu sâu hơn về vấn đề này. Nghiện ma túy ở Việt Nam hiện nay mang một số đặc điểm sau: Số lượng người nghiện ma túy ngày càng tăng qua các năm. Qua số liệu thống kê của các tỉnh, thành phố trong cả nước từ năm 1994 đến nay, số lượng người nghiện liên tục gia tăng. Năm 1994, cả nước mới chỉ có 55.445 người nghiện, đến nay có trên 130.000 người, bình quân mỗi năm tăng hơn 7.000 người nghiện, chiếm 13,5%. Đặc biệt là năm 2000 cho đến nay, mỗi năm số người nghiện tăng trên 10.000 người. Theo số liệu báo cáo tình hình nghện ma túy từng năm của Cục phòng, chống tệ nạn xã hội thì số người nghiện có hồ sơ quản lý đã tăng nhanh từ năm 2000 đến nay. Cụ thể ở bảng sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Số đối tượng 92.682 101.408 116.112 127.776 130.387 129.054 130043 Bảng số liệu trên cho thấy, số đối tượng nghiện ma túy đã tăng 37.376 đối tượng từ năm 2000 đến năm 2006, tức là tăng 40,31%. Tính đến tháng 11/2007, con số này là 198.000 đối tượng. Đây có thể coi là con số đáng báo động về tệ nạn nghiện ma túy ở nước ta. Tỷ lệ tái nghiện cao. Theo số liệu của Cục phòng, chống tệ nạn xã hội thì có hơn 90% số người đã cai nghiện rồi mắc nghiện lại. Vào những năm đầu thập kỷ 90 người nghiện chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc và một số thành phố lớn: Theo số liệu năm 1994, cả nước có 49/53 tỉnh, thành phố có người nghiện. Số người nghiện chủ yếu ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Năm 1994, số người nghiện ở độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm 42% trong số người nghiện thì đến nay tính trong cả nước những người nghiện ở độ tuổi từ 18-30 chiếm tới khoảng trên 75% tổng số người nghiện. Một số tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương … tỷ lệ người nghiện dưới 30 tuổi chiếm từ 80 – 90%. Con số này cho thấy mối quan hệ giữa người nghiện lứa tuổi thanh thiếu niên với lực lượng lao động của xã hội. Ta dễ dàng thấy, với tỷ lệ mắc nghiện ở đối tượng thanh thiếu niên như trên thì xã hội sẽ mất đi một lực lượng lao động đông đảo phục vụ cho sản xuất và phát triển kinh tế đất nước. Đa dạng về chủng lọai ma túy được sử dụng. Nếu như trước kia, thuốc phiện là dạng ma túy phổ biến thì ngày nay ma túy tồn tại ở nhiều dạng khác nhau: từ Heroin, cocain, hồng phiến, bạch phiến, thuốc an thần, thuốc ngủ, ma tuý tổng hợp ATS… với những tác dụng kích thích rất khác nhau. Năm 1994, có 85% số người nghiện sử dụng thuốc phiện, đến nay có 70% đã chuyển sang dùng Hêroin, 2% sử dụng ma tuý kích thích thần kinh như Amphêtamin, Estasy… Một số địa phương có số người sử dụng Hêroin rất cao như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương…trên 90% sử dụng Hêroin. Người nghiện ma tuý dùng bằng đường tiêm chích ngày càng phổ biến, đó là nguyên nhân làm gia tăng các bệnh lây truyền qua đường máu như bệnh viêm gan B, HIV/AIDS. Qua điều tra khảo sát, năm 1994, tỷ lệ người nghiện tiêm chích ma tuý là 28%, đến nay, tỷ lệ đó là 28%. Đa dạng về thành phần xã hội của các đối tượng nghiện. Hiểm họa ma túy không loại trừ bất kỳ ai, bất kỳ gia đình nào, từ thành thị đến nông thôn, từ tội phạm, gái mại dâm đến công nhân, viên chức hay ngay cả học sinh, sinh viên. Nghiện ma túy gắn với tội phạm ngày càng tăng. Với những đặc điểm như trên, ma túy đã và đang gây những tác hại to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội: Về mặt kinh tế: Nghiện ma tuý làm tăng nhiều khoản chi phí xã hội. Theo khảo sát của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, bình quân một người nghiện tiêu tốn cho việc mua ma tuý là 120.000đ/ ngày, một năm nước ta có gần 130.000 người nghiện thì tiêu tốn hết trên 1.000 tỷ đồng cho việc dùng ma tuý. Bên cạnh đó, hàng năm nhà nước tiêu tốn một khoản lớn cho việc khắc phục hậu quả do ma tuý để lại. Nghiện ma tuý hàng năm làm giảm lực lượng lao động, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, môi trường du lịch dẫn đến giảm thu ngân sách. Tệ nạn ma túy khiến hàng năm nhà nước phải dành một khoản ngân sách khá lớn cho công tác phòng chống ma túy: + Chi phí cho công tác tuyên truyền giáo dục phòng chống ma túy + Chi phí cho công tác vận động tuyên truyền xóa bỏ cây thuốc phiện + Chi phí cho công tác tổ chức cai nghiện cộng đồng, xây dựng và quản lý các trung tâm cai nghiện. + Chi phí cho hoạt động kiểm soát ma túy ở biên giới, điều tra truy tố, xét xử tội phạm về ma túy. + Chi phí cho hoạt động hợp tác quốc tế về phòng chống ma túy + Chí phí về giam giữ cải tạo số người phạm tội về ma túy. - Tệ nạn ma túy ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Qua số liệu báo cáo cho thấy, trên 70% số vụ phạm tội hàng năm là do người nghiện ma túy gây nên. - Về mặt xã hội, tệ nạn ma túy làm tăng số người bị nhiễm HIV/AIDS, gần 70% số người nhiễm HIV là do nghiện ma túy. Tệ nạn ma túy làm tăng tệ nạn mại dâm, làm tăng tai nạn giao thông, trong đó nhiều người nghiện ma túy không làm chủ được tốc độ gây ra. Tệ nạn ma túy lan rộng trong thế hệ trẻ làm sói mòn về đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc gia đình, gây tác động xấu đến lối sống, sức khỏe, tri thức của hàng vạn thanh niên……… 1.2.3 Người nghiện ma túy. Người nghiện ma túy là người sử dụng các chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần dưới các hình thức khác nhau như hút, hít, tiêm chích, và bị lệ thuộc vào các chất này. Người nghiện ma túy có một số đặc điểm: - Có sự ham muốn không kìm chế được và phải sử ma túy với bất kỳ giá nào. Luôn có những bức xúc về mặt tâm lý muốn sử dụng lại ma túy. - Có khuynh hướng tăng dần liều dùng. - Tâm sinh lý bị lệ thuộc và chịu tác động của ma túy. Khi ngừng sử dụng ma túy sẽ gây ra hội chứng cai, khiến người nghiện đau đớn, vật vã và một số phản ứng sinh lý khác, bị lệ thuộc thể xác và tinh thần nên dễ bị mất khả năng kiểm soát, có thể làm bất cứ điều gì để có ma túy dùng. - Người nghiện ma túy gây nguy hiểm cho gia đình và đe dọa đến xã hội. 2. Công tác phòng chống ma túy ở nước ta. Trước tác hại to lớn của tệ nạn ma túy đến mọi mặt của đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước nhận thức sâu sắc vấn đề này, coi buôn bán ma túy là tội phạm, còn nghiện ma túy là tệ nạn xã hội, chính vì vậy mà nhiều sách lược trong việc phòng chống và ngăn chặn tệ nạn này. Việc phòng chống ma túy được coi là nhiệm vụ của toàn xã hội. Đảng và nhà nước đã nhận định rằng đấu tranh giải quyết tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn thể xã hội, tham gia phòng chống tội phạm ma túy và sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghiệp vụ, tuyên truyền, vận động nhân dân, cán bộ, công chức và chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia phòng, chống tệ nạn ma túy, kết hợp với phòng, chống các lọai tội phạm HIV/AIDS với các tệ nạn xã hội khác. Để phòng, chống tệ nạn ma túy, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành đồng thời ba công tác chính: công tác giảm cung ma túy, công tác giảm cầu ma túy và công tác giảm hại ma túy. Cho đến nay, chúng ta mới tổ chức thực hiện hai công tác đầu, công tác thư ba đang trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm. 2.1.Về công tác giảm cung ma túy. Đến nay, nhà nước ta đã ban hành nhều văn bản pháp luật cũng như nhiều biện pháp để ngăn chặn việc sản xuất, tàng trữ, buôn bán và vận chuyển trái phép các chất ma túy: Năm 1991, cuộc vận động, tuyên truyền nhân dân phá bỏ không trồng cây thuốc phiện. Bằng nhiều hình thức khác nhau giúp người dân hiểu tác hại to lớn của ma túy cũng như hậu quả nghiêm trọng của nghiện ma túy đến mọi mặt đời sống. Năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/CP về tăng cường công tác chỉ đạo phòng chống và kiểm soát ma túy. Năm 1994, Cục phòng chống tệ nạn xã hội có quyết định thành lập hình thành các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tệ nạn xã hội, trong đó có ma túy. - Luật phòng chống ma túy ban hành 12 năm 2000 đã được Quốc hội Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua. Ngay trong phần mở đầu của Luật phòng chống ma túy được thông qua tại Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 8, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã phát biểu: “ Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn của toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia”. Tại điều 36, chương V quy định quản lý nhà nước về phòng chống ma túy đã nêu: Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma túy; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy; Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phòng, chống ma túy; Ban hành, sửa đổi, bổ sung, công bố danh mục chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; Quyết định thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc; cấp thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở khác về cai nghiện ma túy; tổ chức và quản lý việc cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy; Tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma túy; Tổ chức tuyên truyền giáo dục về phòng, chống ma túy; Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy; Kiểm tra thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy; 2.2. Công tác giảm cầu ma túy. Để thực hiện công tác giảm cầu về ma túy, Đảng và nhà nước ta đã ban hành đồng bộ các biện pháp nhằm phòng, chống các đối tượng nghiện ma túy cũng như các đối tượng tái nghiện. Cho đến nay, đã thực hiện các chương trình sau: Tại điều 25, chương IV của Luật phòng chống ma túy đã nêu rõ “Nhà nước có chính sách khuyến khích việc tự nguyện cai nghiện ma túy; áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện ma túy, tổ chức các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc và khuyến khích cá nhân gia đình và các cơ quan, tổ chức thực hiện các hình thức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng; khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy”. Qua đó đã thể hiện nhận thức sâu sắc và đúng đắn của Đảng và nhà nước đối với tệ nạn ma túy nói chung và với người nghiện ma túy nói riêng. Công tác cai nghiện cũng là một công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có sự phối hợp hoạt động của các cấp, các ngành và toàn thể cộng đồng. Bên cạnh việc thi hành Luật phòng chống ma túy, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhằm tạo hành lang pháp lý để thực hiện cai nghiện cho các đối tượng nghiện ma túy. Nghị định số 135/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/6/2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của sơ sở chữa bệnh. Trong đó quy định cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật phòng, chống ma túy và cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được gọi chung là Trung tâm – Chữa bệnh - Giáo dục- Lao động xã hội (gọi tắt là các trung tâm) là nơi chữa trị, học tập và lao động phục hồi đối với người nghiện ma túy, người bán dâm bị xử lý bằng cách đưa vào các cơ sở chữa bệnh, người nghiện ma túy và người bán dâm chưa thành niên nhưng tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh để cai nghiện, chữa trị. Nghị định cũng đã quy định tổ chức hoạt động của trung tâm. Chức năng, nhiệm vụ: - Tiếp nhận phân loại, tổ chức chữa trị, phục hồi sức khỏe cho người vào trung tâm; tổ chức lao động trị liệu, lao động sản xuất; tổ chức học tập, giáo dục, dạy nghề, bảo đảm các điều kiện vật chất, sinh hoạt tinh thần cho những người đưa vào trung tâm. Nghiên cứu thực hiện mô hình, quy trình chữa trị cai nghiện phục hồi; tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công chức, nhân viên của trung tâm. Quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí theo quy định, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội tại các trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để tổ chức, quản lý, chữa bệnh, giáo dục, lao động, dạy nghề và hướng nghiệp cho các đối tượng vào trung tâm. Điều 32 tại Nghị định này còn quy định về chế độ lao động đối với các đối tượng ở trung tâm như sau: - Người bị áp dụng các biện pháp đưa vào trung tâm phải tuân thủ chế độ làm việc, thời gian làm việc theo quy định của pháp luật lao động và được trang bị bảo hộ lao động, bảo đảm vệ sinh an toàn lao động theo quy định. - Các đối tượng này cũng được hưởng tiền công lao động theo định mức lao động và kết quả công việc hoàn thành. Tổ chức cai nghiện ma túy tại các trung tâm cũng là một hoạt động quan trọng góp phần làm giảm tình hình tội phạm ma túy cũng như tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện triển khai các hình thức cai nghiện phục hồi còn tồn tại nhiều hạn chế dẫn đến tỷ lệ tái nghiện khá cao do: - Hiện nay, do chất lượng công tác cai nghiện, phục hồi ngày càng được nâng cao và chú trọng thực hiện nên số đối tượng nghiện ma túy đã giảm. Mặc dù vậy tỷ lệ tái nghiện vẫn còn ở mức khá cao (trên 90%) do do đặc điểm của nghiện ma túy đó là sự lệ thuộc hoàn toàn về thể xác và tinh thần vào ma túy nên thời gian cai nghiện tại trung tâm là không đủ để đối tượng đoạn tuyệt hoàn toàn với ma túy. - Bên cạnh đó, công tác hướng nghiệp, dạy nghề và dạy nghề cho người sau cai nghiện chưa được chú ý, do đó đối tượng sau cai nghiện không có đủ điều kiện hòa nhập cộng đồng và dễ bị tái nghiện. - Môi trường còn nhiều ma túy, không trong sạch tạo điều kiện thuận lợi để bọn tội phạm ma túy lôi kéo và ép buộc các đối tượng sau cai nghiện. Các khái niệm công cụ liên quan việc quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Một là, khái niệm về quản lý. Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý: Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi những con người kết hợp với nhau trong nhóm, tổ chức nhằm đạt những mục tiêu chung. Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Vai trò của quản lý: Quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất lý trí trong tổ chức. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận: chủ thể quản lý (cá nhân, tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối tuợng quản lý, đây là mối quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. - Quản lý bao giờ cũng là quản lý con nguời. Với những vai trò trên thì quản lý là việc làm cần thiết đối với những đối tượng sau cai nghiện vì: - Trước đây, quy trình cai nghiện ma túy có 5 giai đoạn liên hoàn nhưng đa số các trung tâm mới chủ yếu mới dừng lại ở giai đoạn cắt cơn, chưa chú ý giai đoạn phục hồi, chức năng của cơ thể, đặc biệt là công tác quản lý sau cai tại cộng đồng bị bỏ trống. Bởi vậy, tỷ lệ tái nghiện gần như 100% đối tượng. - Việc phân công quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy chưa tốt nên địa bàn cơ sở sau cai nghiện không được giám sát chặt chẽ. Tái nghiện sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng vô cùng to lớn bởi mức độ sẽ nặng hơn trước và khả năng cai nghiện khó khăn phức tạp hơn nhiều lần. Điều này đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa vào công tác quản lý, giám sát sau cai nghiện. Hiệu quả công tác này càng cao thì tỷ lệ người tái nghiện càng giảm. Hai là, dạy nghề và tạo việc làm: Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định, như nghề mộc, nghề cơ khí… Dạy nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ cho nguời lao động, để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Dạy nghề là đào tạo nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất và dịch vụ, có năng lực thực hành nghề tuơng xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, luơng tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong trong công nghiệp, sức khỏe, nhằm tạo điều kiện cho nguời học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nuớc. Việc làm theo tổ chức Lao động quốc tế ILO “ Việc làm là những lao động được xã hội đánh giá và trả công. Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả công, thu lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hay những người tham gia vào những hoạt động mang tính chất tự tạo vì lợi ích hay thu nhập cho bản thân, gia đình mà không nhận tiền công hay hiện vật ” . Theo Bộ luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “ Việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm ”.(5) Tầm quan trọng của việc dạy nghề và tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện ma túy: Đối với nguời sau cai nghiện ma túy, chúng ta cần thiết phải xem xét vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho họ một cách hợp lý. Bởi vì những đối tuợng này sau thời gian dài sử dụng các chất ma túy đã bị hạn chế nhiều hơn về mặt nhận thức, tâm lý, sức khỏe, mất cân bằng nghiêm trọng vả về thể chất lẫn tinh thần. Trong thời gian sử dụng ma túy, người nghiện đã mất hết những thói quen tốt hàng ngày, lười biếng, ngại khó, ngại khổ; thêm vào đó là tâm lý tự tin, cô độc, ngại giao tiếp. Quá trình cai nghiện chỉ giúp họ loại bỏ phần nào hội chứng nghiện và sự mất cân bằng chứ không xóa sạch được sự lệ thuộc vào tâm lý và ý thức của người sau cai nghiện. Mặt khác, dù được trở về với cuộc sống cộng đồng nhưng họ vẫn mang những mặc cảm, tự ti sợ mọi người kỳ thị, xa lánh. Do đó, sử dụng lại ma túy là điều khó tránh khỏi. Không tìm được việc làm cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tái nghiện cao ở nước ta. Bên cạnh đó, phần lớn những đối tượng đưa vào cai nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp và nghề nghiệp không ổn định. Do đó, việc tổ chức dạy nghề và tạo việc làm cho nguời sau cai nghiện ma túy phải phù hợp với điều kiện sức khoẻ, khả năng, sở thích… để tạo sự yêu thích đối với công việc, tạo ra động lực quan trọng giúp họ có thêm nghị lực và quyết tâm để đoạn tuyệt với ma túy cũng như giúp họ có thêm cơ hội làm lại cuộc đời. Lao động giúp người sau cai nghiện phục hồi tính nhân bản của mỗi con người mà đối tượng đã mất trong giai đoạn dùng ma túy, tạo nếp sống vị tha, vì mọi người, sống có kỷ cương và trách nhiệm với bản thân, mọi người và với công việc. Khi lao động, các đối tượng sẽ thấy mình tạo ra được các giá trị mới trong cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, họ tự hào về công việc, mình đang làm thông qua kết quả lao động, giúp họ giải quyết khủng hoảng về tinh thần, biết quý trọng đồng tiền, quý trọng sức lao động và sống có ý thức hơn. Tạo việc làm còn giúp người sau cai nghiện hàn gắn lại uy tín với xã hội, tạo lập cuộc sống tốt đẹp hơn, giúp họ dễ dàng hòa nhập với cộng đồng. 2.3. Công tác giảm hại ma túy. Thực tế cho thấy, các nước trên thế giới đã tiến hành các biện pháp can thiệp giảm hại rừ rất lâu và ở các mức độ khác nhau song còn rất mới ở Vệt Nam. Hệ thống các văn bản pháp luật hầu như không đề cập đến công tác giảm tác hại trong phòng, chống mại dâm, ma túy để phòng ngừa lây truyền HIV/AIDS. Có nhiều biện pháp can thiệp nhằm giảm hại của ma túy. Tôi chỉ xin nêu một giải pháp thay thế trong cai nghiện: đó là phương pháp sử dụng Methadone cho chăm sóc người cai nghiện đang được thực hiện thí điểm tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được xem như một liệu pháp hiệu quả nhằm giảm hại cho người nghiện ma túy. Methadone là một lọai ma túy được dùng cho người nghiện để thay thế heroin, giúp người nghiện có thể dần quên và không phải mua, sử dụng heroin, không cần tiêm chích ma túy, giảm nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS và giảm nguy cơ với cộng đồng. Ở Việt Nam, phương pháp này mới chỉ thực hiện thí điểm và thực hiện chưa đồng bộ, kể cả về cơ sở pháp lý cũng như các yếu tố khác. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Sự cần thiết tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. 1.1.1. Đặc điểm kinh tế: Thành phố Hồ Chí Minh với số dân trên 7 triệu người và phần diện tích lên tới trên 2600km2, bao gồm 19 quận và 5 huyện, rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Bởi vậy, TP.HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, với sự tốc độ tăng trưởng kinh tế dẫn đầu, đạt trên 12%. Thành phố chính là hạt nhân kinh tế trọng điểm phía nam, đóng góp GDP là 66,1% vào tổng GDP của vùng Nam Bộ. Đây cũng là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, số dự án đầu tư chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án nước ngoài trên cả nước. Bên cạnh đó, Thành phố cũng đạt tổng thu ngân sách lớn nhất cả nước mặc dù gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, TP. HCM cũng là thành phố cảng lớn nhất cả nước, là trung tâm xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch của cả nước. Đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố đạt 14,2 tỷ USD, tăng 25%. TP. HCM cũng là trung tâm tài chính, ngân hàng lớn nhất cả nước, dẫn đầu về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính tín dụng. Doanh thu của hệ thống ngân hàng Thành phố chiếm 1/3 tổng doanh thu các ngân hàng trên toàn quốc. Về thị trường chứng khoán, đã có trên 50 công ty được niêm yết hoạt động, tổng số vốn cổ phần niêm yết trên 2000 tỷ đồng. Trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập, TP. HCM luôn tỏ ra là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ lớn nhất cả nước. Là động lực cho công cuộc công phát triển kinh tế xã hội ở Nam Bộ và phục vụ công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. 1.1.2. Đặc điểm xã hội: Song song với sự phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế, tình hình xã hội nói chung trên địa bàn Thành phố cũng có những bước phát triển tích cực. Đời sống vật chất tinh thần của các tầng lớp dân cư trên địa bàn thành phố được cải thiện rõ rệt. Mức tiêu dùng hàng hóa dịch vụ của dân cư hàng năm tăng trên 10%. Số hộ có mức sống nghèo khó ngày một giảm. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp qua các năm tăng lên, nhất là các huyện ngoại thành, trên 50% số xã đã có đường ôtô đi đến trung tâm xã; 100% số xã có điện lưới quốc gia với trên 55% số hộ đã được dùng điện; 100% số xã có trạm y tế có trường tiểu học; khoảng 85% số xã có trường trung học cơ sở… Hiện nay, Thành phố đã dành 15% ngân sách địa phương cho sự nghiệp phát triển giáo ._.dục nên đã tăng số lượng học sinh học phổ thông và đại học. Từ năm 1995, Thành phố đã đạt tiêu chuẩn xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Sự nghiệp y tế phát triển mạnh, đáp ứng ngày càng nhiều yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân tại thành phố và dân cư các địa phương khác đến Thành phố. Có thể nói, TP. HCM là một trung tâm kinh tế xã hội lớn của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được về mặt kinh tế xã hội, Thành phố cũng phải đối mặt với tình hình tội phạm ngày càng phức tạp và gia tăng cả về số lượng và quy mô, trong đó có tệ nạn ma túy. Chính hạn chế này gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về mọi mặt của Thành phố và gây nhiều bức xúc đối với trong nhân dân. 1.2. Thực trạng về tình hình nghiện ma túy và công tác cai nghiện tại thành phố Hồ Chí Minh. 1.2.1. Tình hình nghiện ma túy trên địa bàn Thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh có số dân cao nhất cả nước, với gần 7 triệu người và gần 2 triệu người nhập cư. Thành phố có hàng ngàn cơ sở kinh doanh nhạy cảm như karaoke, massage, bia ôm, nhà hàng, khách sạn, hớt tóc nam nữ và rất nhiều địa bàn đã nổi tiếng phức tạp. Theo báo cáo chưa đầy đủ năm 1994, toàn thành phố có trên 5.000 người nghiện và đến nay có khoảng 36.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, tăng gần 31.000 người, tăng trên 600%. Đa số đối tượng còn rất trẻ, phần lớn trong lứa tuổi thanh niên, tỷ lệ người nghiện hút trong lứa tuổi từ 18 – 25 là 52% và từ 26 – 35 chiếm 37,75% … Về trình độ học vấn, tuyệt đại đa số người nghiện có trình độ học vấn rất thấp. Tỷ lệ người mù chữ chiếm khoảng 13%; số người mới học bậc tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5, trong đó không ít người đã tái mù chiếm khoảng 23,6%. Số người học bậc trung học cơ sở chiếm tỷ lệ 43%, trong đó có khoảng 10 – 12% đã học hết cấp nhưng không có chứng chỉ như học bạ, giấy chứng nhận khẳng định họ đã học bậc học này. Chỉ có 18,7% học viên cai nghiện khai đang học trung học phổ thông. Rất ít người tốt nghiệp tú tài. Tóm lại, có khoản 70% số người cai nghiện tập trung không đủ trình độ học vấn tối thiểu để theo học một nghề kỹ thuật. Về trình độ nghề nghiệp, có tới 43% tổng số người nghiện không có một nghề kiếm sống khi vào trung tâm. Có khoảng 35% tổng số người cai nghiện là lao động phổ thông, chưa từng được đào tạo một ngành nghề cơ bản nào. Số người cai nghiện từng là công nhân viên chức chiếm khoảng 1,6% và 9,2% là học sinh, sinh viên. Bên cạnh đó, rất đông trong số này chuyên đi trộm cắp cướp giật. Khoảng 38% số con nghiện có tiền án, tiền sự, và hàng năm, số người chết vài nghiện ma túy ngày một tăng. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tiêu cực của đời sống xã hội nảy sinh, sự gia tăng tệ nạn nghiện ma túy tạo nên nhiều bất an cho đời sống người dân. Tệ nạn tiêm chích ma túy, mại dâm bùng nổ, mỗi năm xảy ra hơn 16000 vụ phạm pháp hình sự, trong đó tỷ lệ phạm tội ở lứa tuổi thanh thiếu niên nghiện ma túy ngày càng tăng. Số đối tượng cai nghiện tại cộng đồng và các cơ sở chữa bệnh với thời gian 3 – 6 – 12 tháng, sau đó hồi gia hầu hết đã tái nghiện với tỷ lệ 95 – 97%, cùng với số lượng người nghiện ma túy gia tăng, tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS tăng cao. 1.2.2. Hạn chế công tác cai nghiện phục hồi đến năm 2002. Tình hình tội phạm ma túy diễn ra phức tạp như trên, Thành phố đã tổ chức nhiều chương trình và các hoạt động khác nhau nhằm đấu tranh chống tệ nạn xã hội. Điển hình của công tác này là Chương trình mục tiêu 3 giảm “Giảm tội phạm, ma túy và mại dâm” ban hành ngày 1/11/ 2001 của Ủy ban nhân dân Thành phố. Đây chỉ là một trong 12 công trình trọng điểm của Thành phố về phòng, chống tệ nạn xã hội. Với nguồn kinh phí thực hiện gần 500 tỷ đồng, chương trình 3 giảm đã thu được nhiều thành quả. Công tác bắt giữ tội phạm đã có nhiều chuyển biến tích cực làm giảm đáng kể các vụ vi phạm ma túy và mại dâm. Lực lượng cảnh sát được sự ủng hộ giúp đỡ nhiệt tình của người dân, đã triệt phá nhiều tụ điểm buôn bán và sử dụng ma túy. Điển hình là vụ vận chuyển ma túy do tên John Nguyễn (quốc tịch Mỹ) cầm đầu,thu 1822 viên ma túy tổng hợp; vụ Trần Vĩnh Lâm, bắt 6 đối tượng, thu giữ 1,2 kg heroin; vụ Chu Đức Hải, thu giữ 1,3 kg heroin, 431 viên ma túy tổng hợp… Song song những biện pháp quyết liệt chống tội phạm buôn bán ma túy, Thành phố cũng đã quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện cho những người sa vào con đường nghiện ngập có thể cắt cơn, phục hồi nhân phẩm, và sức khỏe để tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn cho thấy, tỷ lệ tái nghiện sau khi cắt cơn trở về hòa nhập cộng đồng là rất cao, trên 95%. Qua việc triển khai hình thức cai nghiện bắt buộc cho thấy thời gian cai nghiện từ một đến hai năm đối với các đối tượng mắc nghiện là quá ngắn, rất dễ dẫn đến tình trạng tái nghiện và không tạo được những kỹ năng và kiến thức cần thiết để có thể tìm việc làm, sống cuộc sống ổn định, bên cạnh các nguyên nhân chủ yếu như: - Người nghiện ma túy thường chích thẳng vào tĩnh mạch, chất gây nghiện đã tác động và lưu lại trong vùng khoái cảm của não bộ. Muốn cai nghiện hoàn toàn phải loại bỏ vùng khoái cảm đó trong não bộ, đó là việc không thể thực hiện, trừ một số đối tượng thật sự có ý chí cao và được sự giúp đỡ tận tình của cộng đồng thì mới thắng được sự thèm khát ấy. - Thêm vào đó, bọn tội phạm buôn bán ma túy vẫn hiện diện khắp nơi, cung cấp hàng chục kg heroin thì rất khó ngăn chặn tình trạng tái nghiện cũng như ngăn ngừa những đối tượng mới mắc nghiện. - Chưa chú ý đến hướng nghiệp, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện nên khi trở lại cộng đồng dễ bị tái nghiện. - Công tác quản lý người sau cai nghiện chưa chặt chẽ, đối tượng không có việc làm ổn định cuộc sống nên quay trở lại với ma túy. Cơ sở pháp lý của công tác tổ chức, quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tế trên, theo tờ trình của Chính phủ, tại kỳ họp 3, Quốc hội khoá 11 đã thông qua Nghị Quyết số 16/2003/QH11 (gọi tắt là NQ 16) “Về thực hiện thí điểm về tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý ở TPHCM và một số tỉnh, thành phố khác trực thuộc Trung ương”. Nghị quyết 16 đề cập đến các nội dung chủ yếu sau: Giao Chính phủ chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố khác trực thuộc Trung Ương thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy, chuẩn bị các điều cần thiết để tái hòa nhập cộng đồng. Quy định các đối tượng được áp dụng các biện pháp tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm. Thời gian áp dụng là từ 1 – 2 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không quá 3 năm Chính phủ xem xét phê duyệt Đề án tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm của Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố khác trực thuộc Trung ương. Trong đó cũng quy định cụ thể sự phối hợp thực hiện của các bộ, ngành và các đơn vị liên quan. 2.1. Sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các bộ ngành trong việc thực hiện NQ16 Để thực hiện tốt NQ16, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm, tăng cường việc chỉ đạo thông qua việc ban hành các văn bán pháp luật như sau: a - Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 146/2004/NĐ-CP ngày 17/4/2004 quy định thủ tục, thẩm quyền quyết định đưa người vào cơ sở quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy. Nghị định này bao gồm 4 chương, 26 điều, quy định cụ thể các đối tượng áp dụng vào các cơ sở biện pháp đưa vào cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm tại điều 2 của Nghị quyết: - Người đã kết thúc thời gian cai nghiện tập trung tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc, theo quy định tại điều số 28 của Luật phòng chống ma túy đủ 18 tuổi mà tự nguyện vào cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm. - Người đã kết thúc thời gian cai nghiện tập trung không tự nguyện vào các cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm nhưng có khả năng tái nghiện cao nếu được đưa trở lại cộng đồng. Người có khả năng tái nghiện cao là những người: Đã bị cai nghiện bắt buộc tại trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục – Lao động xã hội từ lần thứ hai trở lên. Trong thời gian cai nghiện có hành vi vi phạm nội quy của trung tâm, bị thi hành kỷ luật lần thứ hai trở lên. Không có cam kết của gia đình, cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, nhà trường về việc đảm bảo việc tiếp tục trở lại cộng đồng. b - Trình Quốc hội cho phép áp dụng một số chế độ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cơ sở và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai nghiện trong thời gian thực hiện NQ16. Về vấn đề này, Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách và Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội với đề nghị của Chính phủ về việc cần thiết áp dụng một số chế độ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai nghiện và các doanh nghiệp này còn gặp một số khó khăn trong việc sử dụng lao động đặc biệt này. Việc áp dụng một biện pháp hỗ trợ thể hiện sự quan tâm, động viên của Nhà nước đối với các doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng để công tác phòng chống ma tuý và cai nghiện đạt kết quả tốt hơn. Theo dự tính, mỗi năm cần khoảng 10 tỷ đồng hỗ trợ cho doanh nghiệp này, Chính phủ có thể sử dụng từ nguồn quỹ an sinh xã hội, nguồn quỹ dự trữ tài chính, hoặc ngân sách dự phòng để giải quyết. c - Quyết định số 212/2006 – TTg ngày 20/9/2006 về “Tín dụng với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai nghiện ma túy” d - Thông tư liên tịch số 13/2007/TTLT – BLĐTBXH – BNV – BTC ngày 28/8/2007 giữa Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp đối với cán bộ, viên chức làm việc tại các cơ sở quản lý người nghiện ma túy, người bán dâm và người sau cai nghiện ma túy. e - Thông tư số 05/2007/ TT- BTC ngày 18/01/2007 của Bộ Tài chính về một số nội dung của Quyết định số 212/2006 ở trên về tín dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai nghiện. 2.2. Sự quan tâm, kiểm tra giám sát thực hiện của Ủy ban nhân dân Thành phố. Thành phố đã xây dựng và ban hành 23 văn bản hướng dẫn cụ viểc triển khai thực hiện NQ16 cũng như các quy chế về công tác quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện. Ngoài ra, ban hành các chế độ, chính sách chăm lo cán bộ, nhân viên, và thu hút các doanh nghiệp đầu tư dạy nghề, giải quyết việc làm cho các đối tượng sau cai tại các trung tâm; giải quyết tái hòa nhập cộng đồng, và ban hành quy định quản lý, giúp đỡ người tái hòa nhập tại địa phương. Nghiên cứu soạn thảo tài liệu, giáo trình để giảng dạy, giáo dục cho học viên như: Giáo dục ý thức pháp luật, đạo đức truyền thông, lý tưởng cho thanh niên, giáo dục sức khỏe, thể chất, tinh thần; tài liệu tập huấn cho cán bộ, kỹ năng tư vấn người nghiện và gia đình… Như vậy, trong 4 năm qua, TP. HCM đã có được một hệ thống các văn bản khá hoàn thiện, đồng bộ để thực hiện, thể chế hóa NQ16 của Quốc hội đồng thời hướng dẫn việc triển khai các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và Thủ tướng chính phủ. Thêm vào đó, để đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác chữa trị, giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm cho học viên và người sau cai nghiện, Thành phố đã đầu tư nâng cấp và xây mới 20 trung tâm cùng với đầu tư thêm cơ sở hạ tâng kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác giáo dục và dạy nghề. Tại các trường, trung tâm đầu tư thêm 30 xưởng trường với diện tích 30.000m2 đủ sức tập trung, quản lý, chữa bệnh, dạy nghề và tạo việc làm cho 30.000 lượt học viên và người sau cai. Nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia, hưởng ứng thực hiện NQ16, Thành phố đã phát hành rộng rãi các tài liệu tuyên truyền về phòng, chống ma túy. Các trường, trung tâm đẩy mạnh hoạt động, tư vấn, tuyên truyền, động viên học viên hoàn thành giai đoạn cai nghiện và tham gia tư nguyện quản lý sau cai. 3. Một số kết quả về công tác tổ chức quản lý, dạy nghề và đào tạo việc làm cho người sau cai nghiện tại TP.HCM 3.1. Tại các Trung tâm chữa bệnh giáo dục- lao động xã hội Tại các trung tâm cai nghiện tập trung hiện có khoảng 75 cơ sở sản xuất của các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Một số doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã liên doanh với các trung tâm cai nghiện, thực hiện một số công đoạn trong toàn bộ dây chuyền sản xuất; đặt hàng gia công theo mẫu mã và hướng dẫn của chủ đầu tư. Ngoài ra các trung tâm được nhà nước cấp kinh phí xây dựng xưởng trường có đủ chỗ cho khoảng 10.000 học viên cai nghiện lao động trị liệu, nâng cao tay nghề và gia công nhiều loại hàng hóa tiêu dùng. Các trung tâm cũng tích cực, chủ động xây dựng các cơ sở sản xuất bằng vốn tự có hoặc sử dụng máy móc – thiết bị được các quận huyện, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hỗ trợ để tổ chức sản xuất sản phẩm sử dụng trong ngành và sử dụng cho vệc dạy nghề. 3.1.1. Tiếp nhận và Tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện Các trung tâm tiếp nhận đối tượng sau cai nghiện bằng nhiều hình thức: - Các trung tâm có cả hai chức năng cai nghiện và quản lý sau cai nghiện thì chuyển tiếp giai đoạn ngay trong trung tâm đó. - Các trung tâm chuyên quản lý sau cai nghiện thì tiếp nhận người đã hoàn thành cai nghiện từ các trung tâm cai nghiện khác trở về. Bảng 1: Số đối tượng tiếp nhận vào các trung tâm Đơn vị: người Đến 7/2004 Đến 6/2005 Đến 10/2006 Số đối tượng sau cai vào trung tâm 7.700 14.187 16.812 Có thể thấy, số đối tượng được tiếp nhận vào các trung tâm tăng lên rất nhanh sau khi Nghị quyết số 16 của Quốc hội ban hành. Chỉ trong vòng nửa năm đầu 2004, số đối tượng được đưa vào trung tâm là khoảng 7.700 người, và một năm sau cũng là khoảng 6.500 người, nhưng trong khi đó, từ tháng 6/2005 đến tháng 10/2006( trong vòng 16 tháng), chỉ có 2.600 đối tượng được đưa vào các trung tâm. Điều này chứng tỏ rằng số lượng này sẽ còn tiếp tục giảm do số đối tượng tái nghiện và số lượng người nghiện mới thấp dần. Qua 3 năm số đối tượng vào các trung tâm lên đến hơn 16.800 người, trong khi số ra khỏi trung tâm mới chỉ hơn 9.400 người. Tính đến giữa năm 2007, số đối tượng sau cai nghiện đang chịu tập trung quản lý ở các trung tâm là trên 10.000 người. Bởi vậy, trong những năm tiếp theo, khi các đối tượng kết thúc giai đoạn tập trung ở các trung tâm thì số đối tượng hòa nhập cộng đồng sẽ tăng lên rất nhanh, đây là một áp lực rất lớn đối với công tác tăng cường quản lý người sau cai nghiện ở các cấp chính quyền địa phương. Các đối tượng rất đa dạng và có những đặc điểm khác nhau, nhưng khi tiếp nhận, các trung tâm chỉ phân bổ theo hai đặc tính là phân khu nam nữ và theo thời hạn vào. Các đối tượng được bố trí nơi ở gọn gàng, sạch sẽ, thoáng mát, các phòng được trang bị đầu máy video. Bình quân diện tích, ở mỗi đối tượng được hưởng 3-4m2, mỗi phòng lớn lớn được kết nối với phòng nhỏ của cán bộ để tiện cho công tác quản lý, giám sát. Qua khảo sát cho thấy, không có trung tâm nào ở tình trạng kém, chỉ có 1 trung tâm ở mức trung bình, còn lại 3 trung tâm ở điều kiện tốt. Tổ chức bếp ăn tập thể và vệ sinh thực phẩm tꦾong các trung tâm được thực hiện tốt, chưa có trường hợp ngộ độc thức ăn tập thể tại các trung tâm, nhà ăn được xây dựng thoáng mát, bàn ghế sạch sẽ, khay đĩa luôn được vệ sinh sạch sẽ. Người có sức khỏe phải tự tăng gia sản xuất để bảo đảm đủ suất ăn.Việc tổ chức trồng rau xanh, chăn nuôi tại các trung tâm đã tự túc 70-80% nhu cầu rau, 50-60% nhu cầu thực phẩm nên đã góp phần đáng kể vào giá trị dinh dưỡng của các bữa ăn. Bên cạnh đó, nhiều trung tâm đã tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp, gia công chế biến thực phẩm như sản xuất bánh mỳ, đậu phụ, sữa đậu lành…cũng góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn. Công tác dạy nghề Tất cả các trung tâm đều rất quan tâm tổ chức dạy nghề cho người cai nghiện ngay khi họ mới tập trung. Dạy nghề cho các đối tượng là một nội dung quan trọng trong việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện vì có đến 50% số đối tượng trước khi đi cai nghiện không có chuyên môn kỹ thuật. Ban lãnh đạo các trung tâm đã rất năng động sáng tạo, tìm mọi cách, mọi biện pháp, mọi nguồn có thể tổ chức các lớp hướng dẫn dạy nghề cho đối tượng này. Một số nghề được đào tạo tại trung tâm như: Nghề dài hạn: Tiện, hàn, điện máy, điện lạnh, điện tử, điện công nghiệp, công nghệ thông tin. Nghề ngắn hạn: May công nghiệp, mộc, một số nghề khác( nghề thủ công mỹ nghệ..). Theo số liệu của TP. HCM, đến hết năm 2005, các trung tâm đã tổ chức nhiều lớp với loại hình khóa đào tạo khác nhau cho gần 24.600 lượt đối tượng và hết năm 2006 con số này lên tới 32.981 lượt người, và có 11.507 người được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên số liệu báo cáo không tách riêng cho học viên đang cai nghiện và sau cai nghiện nên không có số liệu cụ thể đánh giá đối tượng sau cai nghiện. Vì vậy, số đối tượng thực hiện Nghị quyết 16 thấp hơn rất nhiều. Việc đăng ký tham gia học nghề là tự nguyện theo những nghề sẵn có trong trung tâm. Trung tâm sẽ thống kê trình độ, sức khỏe của đối tượng để tư vấn chọn nghề phù hợp và sắp xếp các lớp học phù hợp. Tuy nhiên, có 20% đối tượng không tham gia học nghề do nhiều nguyên nhân: Đã có trình độ trung học chuyên nghiệp hoặc bằng dài hạn trở lên, đã có chứng chỉ nghề ngắn hạn, do sức khỏe yếu, và một số ít học viên không thấy phù hợp. Hiện nay số nghề đào tạo trong các trung tâm có 5- 6 nghề, khóa đào tạo chủ yếu từ 2-3 tháng đối với các nghề kỹ thuật. Phần lớn các học viên được đào tạo dưới hình thức kèm cặp đối với các công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy kế hoạch đào tạo nghề dài hạn là khó thực hiện. Các trung tâm chỉ đứng ra tổ chức và quản lý công tác dạy nghề, việc giảng dạy được ký kết với các cơ sở dạy nghề ở ngoài nhằm đa dạng hóa về các nghề khác nhau, đáp ứng một phần nhu cầu rất khác nhau của các đối tượng. Nhìn chung các đối tượng được dạy nghề đánh giá cao hiệu quả của công tác học nghề tại trung tâm. Ngoài ra, có một xu hướng trong dạy nghề ngắn hạn đó là các trung tâm thường dạy cho học viên những nghề đơn giản để đáp ứng các hợp đồng gia công ký kết với các doanh nghiệp như may, thêu, đan, chế biến hạt điều…Sau khi kết thúc giai đoạn quản lý tập trung thì làm việc tại các cụm công nghiệp là không mấy khó khăn nhưng nếu hồi gia thì sẽ không phù hợp về công việc. Bởi vậy 50% số đối tượng đánh giá công tác học nghề tại trung tâm chưa đạt hiệu quả. Taị mỗi trung tâm, tùy theo đặc thù thường có từ 1- 2 nghề chính về may công nghiệp hoặc mộc và cơ điện sửa chữa… Giáo viên dạy nghề tại trung tâm quản lý sau cai nghiện được thực hiện ký kết hợp đồng với các trung tâm dạy nghề của các quận thuộc TP. HCM. Một số nghề còn lại thường được tổ chức tại các xưởng sản xuất của các công ty hợp tác đầu tư xây dựng ở trong khuôn viên của trung tâm. Một số bất cập trong công tác quản lý dạy nghề cho các đối tượng cần được giải quyết như: - Sức khỏe yếu, tâm lý người sau cai nghiện không tập trung. - Khó có thể đầu tư nhiều xưởng cho các loại nghề để đào tạo theo nhu cầu học viên và nhu cầu của thị trường. Các lớp chuyên ngành không đủ hoặc không có giáo viên giảng dạy lớp lý thuyết kết hợp thực hành. - Chưa có khả năng đào tạo nghề dài hạn vì khả năng đầu tư trang thiết bị đa dạng và hiện đại, cũng như thời lượng của đối tượng dành cho học nghề trong thời gian lưu lại trung tâm là không dài. 3.2.3. Tổ chức việc làm cho người sau cai nghiện Tạo việc làm cho người sau cai nghiện là một nhiệm vụ của các trung tâm quản lý người sau cai nghiện, góp phần tạo thu nhập, ổn định đời sống vừa rèn luyện nhân cách và có được kinh nghiệm về một nghề nào đó để đối tượng hòa nhập cộng đồng. Các trung tâm quản lý sau cai nghiện tùy vào đặc thù và khả năng hợp tác với các công ty đầu tư vào trung tâm để tổ chức giải quyết việc làm bằng các hình thức như: Trung tâm tự tổ chức sản xuất, Công ty liên kết xây dựng sản xuất trong trung tâm, trung tâm ký hợp đồng đưa người đi lao động các doanh nghiệp bên ngoài. Tham gia sản xuất sẽ đáp ứng nhu cầu thực phẩm để cải thiện bữa ăn hàng ngày, người lao động có thêm thu nhập từ 120- 900 ngàn đồng/ tháng. Các trung tâm có điều kiện về đất đai đã tổ chức trồng rừng, các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rau xanh và chăn nuôi gia súc. Nhờ đó tự túc được 70-80% nhu cầu rau xanh và 50-60% nhu cầu thực phẩm hàng ngày. Thành phố cũng đã tổ chức xúc tiến đầu tư, triển lãm, hội chợ trưng bày sản phẩm của người sau cai nghiện để giới thiệu với thị trường và mở rộng liên kết. Có 60 doanh nghiệp, cá nhân đầu tư dạy nghề, sản xuất tại các trung tâm với số vốn lên tới 832 tỷ đồng, thuộc các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, may-thêu, chế biến hạt điều, mộc, nhựa gia dụng, gạch và chăn nuôi, trồng trọt. Tính đến cuối năm 2006 đã giải quyết việc làm thường xuyên cho 17.460 học viên và người sau cai nghiện, sang năm 2007 do số lượng người hòa nhập cộng đồng tăng lên nhiều, tính đến tháng 6/2007 giải quyết cho 7.983 học viên và người sau cai nghiện. Những người có việc làm, có thu nhập đã đóng góp thêm tiền ăn cho bếp ăn tập thể, tự trang trải sinh hoạt và không nhận tiền viện trợ thậm chí còn gửi tiền về giúp gia đình. Tuy nhiên, thực trạng tại môi trường làm việc ở các cơ sở sản xuất tại các trung tâm cai nghiện tập trung là công việc giản đơn, nhàm chán, quản lý cả lao động lẫn công việc chưa thấu đáo, chưa đúng phương pháp…nên thu nhập bình quân rất thấp. Số liệu thống kê thu nhập bình quân của lao động trong các cơ sở sản xuất tại các trung tâm cai nghiện cho thấy chỉ riêng nghề may mang tính phổ thông, chứa ít nhiều yếu tố kỹ thuật thì thu nhập bình quân tại các cơ sở sản xuất trong trung tâm cai nghiện chỉ đạt khoảng 170.000đồng/người/ tháng. Bảng 2: Thu nhập bình quân của lao động tại trung tâm : ( đơn vị 1.000 đồng/tháng) Sản xuất nông nghiệp: - Trồng rau xanh Trồng nấm Trồng cà phê – cao su Chăn nuôi 100 250 150 150 Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: Hàng thủ công mây, tre, nứa, lá mành trúc Sơ chế hạt điều Đan giỏ lục bình Mộc, mộc kỹ nghệ May công nghiệp Hàn Sản xuất gạch Chế biến gỗ Đan vợt cầu lông Ép áo mưa Xây dựng Xâu hạt cườm May giầy cườm Thêu, đan giỏ nút Dệt chiếu Sơn mài Chế biến các loại bánh (cho nhu cầu nội bộ) Chế biến thực phẩm (cho nhu cầu nội bộ) 130 190 320 160 170 170 245 320 100 160 170 100 150 130 100 200 200 190 3.1.3. Công tác dạy văn hóa Do đối tượng chủ yếu là ở nhóm tuổi thanh niên (18 - 35 tuổi chiếm 87%) nên việc đào tạo cả về văn hóa và chuyên môn là cần thiết. Mặc dù công tác dạy văn hóa không phải là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn đầu thực hiện thí điểm Nghị quyết 16 nhưng trong quy chế của Thành phố đã ban hành “Người sau cai nghiện chưa đủ 18 tuổi được tập trung học văn hóa … đến khi đủ 18 tuổi, và người sau cai nghiện chưa tốt nghiệp phổ thông trung học được tạo điều kiện bổ túc văn hóa”. Các trung tâm thuê giáo viên từ các trung tâm giáo dục thường xuyên của TP. HCM thông qua hợp đồng giữa hai đơn vị. Phòng học được trang bị đầy đủ bàn ghế phấn sách vở được TP. HCM cung cấp. Trung tâm giáo dục thường xuyên chịu trách nhiệm về chương trình, giáo trình, giáo viên và các phương tiện giảng dạy. Số liệu của báo cáo cho thấy, trình độ học viên và người sau cai nghiện đã nâng lên rõ rệt trong thời gian ở trung tâm. Các đối tượng mù chữ sau khi kết thúc giai đoạn cai nghiện bắt buộc chuyển sang giai đoạn quản lý sau cai nghiện cơ bản đã được xóa mù chữ. Tính đến năm 2007, có tới 99 người sau cai nghiện được tham gia chương trình đại học từ xa. Bảng 3: Cơ cấu trình độ văn hóa năm 2003 và 2006 của đối tượng Đơn vị: % Trình độ văn hóa Năm 2003 Năm 2006 Mù chữ 12.3 4.2 Tiểu học 38.3 10.5 Trung học sơ sở 34.1 64.4 Trung học phổ thông 15.3 20.9 Tổng 100 100 (Nguồn: Báo cáo của Thành ủy TP. HCM tháng 5/2005) Bảng trên cho thấy, trình độ văn hóa của các đối tượng đã được cải thiện đáng kể. Số mù chữ và chỉ có trình độ tiểu học giảm mạnh và thay vào đó là sự gia tăng của đối tượng tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việc tổ chức dạy văn hóa tại các trung tâm còn gặp những khó khăn vì các đối tượng sau cai nghiện có trình độ rất khác nhau nên phải tổ chức thành nhiều lớp học phù hợp với trình độ của đối tượng. Việc dạy văn hóa cho học viên có trình độ ở các cấp học cao hơn đã không được tính toán từ đầu, cho nên gặp phải một số vướng mắc khó giải quyết như: Thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ tương ứng đứng lớp, thiếu nghiệp vụ sư phạm, thiếu tài liệu, trang thiết bị cần thiết, sách giáo khoa… Thiếu kinh phí ( ban đầu chỉ cấp cho việc xóa mù chữ và phổ cập tiều học ). Cuối năm 2004 mới có quyết định kinh phí cho bậc trung học cơ sở. Nhiều trung tâm đóng ở vùng sâu, vùng xa, rất trở ngại cho việc hợp tác với Phòng Giáo dục và các trường tại địa phương. Tình trạng thiếu học viên do những nguyên nhân như: học viên cai nghiện là những người lười biếng, sức khỏe kém vì vậy động viên họ đến lớp là rất khó trong khi họ cũng không có tiền đóng học phí, thêm vào đó các học viên ban ngày phải lao động vất vả nên không còn ý chí, sức khỏe để đến lớp. Nhiều đối tượng là người có tiền sử dùng ma túy, trí nhớ giảm nên việc học không được tập trung và kém hiệu quả. 3.1.4. Một số hoạt động bổ sung việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Thứ nhất là, công tác giáo dục đạo đức nhân cách và tuyên truyền vận động: - Xác định người nghiện là đối tượng khiếm khuyết một phần nhân cách, yếu kém trong nhận thức hành vi, Thành phố chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục nhân cách cho người nghiện, biên soạn Bộ tài liệu giáo dục gồm 72 bài, trong đó 40 bài có nội dung giáo dục, dễ hiểu như: “Giáo dục lối sống nhân cách ”, “ Rèn luyện ý chí tuổi trẻ”, “Đạo dức và hành vi đạo đức”…mang lại hiệu quả trong việc giáo dục nhân cách cho đối tượng cai nghiện. Bộ tài liệu này đã được Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cho ứng dụng tại các trung tâm trên cả nước từ đầu năm 2007. - Song song với giáo dục nhân cách, công tác giáo dục pháp luật cũng được Thành phố phối hợp với các trung tâm quan tâm và triển khai thực hiện. Ngoài nội dung giáo dục về Luật phòng, chống ma túy, Luật phòng, chống HIV/AIDS. - Công tác tuyên truyền, vận động: bằng tài liệu, tổ chức hội nghị, lớp tập huấn triển khai cho các cán bộ, các đoàn thể, từ thành phố đến quận huyện, xã phường, các sở ngành, địa phương về phòng chống ma túy. - Định kỳ tặng quà, thăm hỏi động viên các cán bộ nhân viên tại Trung tâm, các học viên và người sau cai nghiện. Thứ hai là chăm lo đời sống vật chất và tinh thần: Các trung tâm tổ chức tốt các hoạt động sinh hoạt giải trí. Trong mỗi khu, nơi ở của đối tượng thường có diện tích rộng làm vườn hoa, trồng cây cảnh tạo không gian thoải mái trong những giờ nghỉ ngơi. Có siêu thị nhỏ và căng tin phục vụ đồ ăn, nước giải khát theo nhu cầu sinh hoạt cá nhân của các đối tượng như cuộc sống ở bên ngoài. Trong mỗi lĩnh vực được trang bị tủ sách, câu lạc bộ văn hóa, loa truyền thanh. Tổ chức hoạt động thể thao đa dạng, có phòng thể dục dụng cụ, có sân bóng chuyền cầu lông ngoài trời, sân bóng đá, tạo ra phong trào rèn luyện sức khỏe thường xuyên cũng như tổ chức giao lưu và thi đấu nội bộ giữa các khu và với bên ngoài trung tâm. Công tác tuyên truyền giáo dục được thực hiện thông qua nhiều, hình thức, lớp học, sinh hoạt chuyên đề cuối tuần, chiếu phim, thông tin thời sự. Những phát sinh vướng mắc của đối tượng và nhân thân được tư vấn, đối thoại trực tiếp giúp họ hiểu rõ về chủ trương, quy định của TP. HCM để bản thân động viên con em mình tích cực rèn luyện tu dưỡng. - Các Trung tâm tạo điều kiện cho học viên, người sau cai nghiện xây dựng và biên soạn các chương trình phát thanh, báo tường, tổ chức tham quan danh lam thắng cảnh … - Giải quyết cho các học viên có thành thích tốt được về thăm nhà và các chế độ nghỉ phép như cưới hỏi, ma chay… Thứ ba là chăm sóc sức khỏe học viên Xuất phát từ tình trạng sức khỏe yếu kém của đối tượng khi vào trung tâm, việc chăm sóc sức khỏe và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS được đặc biệt quan tâm. Mỗi trung tâm có phòng y tế với đầy đủ số thuốc và được trang bị một số thiết bị y tế. Các trung tâm thực hiện nghiêm chỉnh quy định lập sổ y bạ và tổ chức khám sức khỏe định kỳ mỗi năm 2 lần cho các đối tượng. Các trung tâm luân phiên tiếp đón các đoàn của bệnh viện Thành phố đến chữa bệnh cho các đối tượng, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức và kỹ năng tay nghề cho các cán bộ trung tâm. Chế độ chính sách tiền thuốc đối với người sau cai nghiện được hỗ trợ với mức điều trị thông thường 10.000/ tháng. Các trung tâm hợp tác với các công ty dược tổ chức quầy thuốc trả tiền sau, để thân nhân của các đối tượng có thể mua thêm thuốc ngoài đơn thuốc cho đối tượng. Sự kết hợp giiữa trung tâm và gia đình tích cực trong điều trị, phục hồi sức khỏe của đã cải thiện được đáng kể sức khỏe của đối tượng. Bên cạnh việc chăm sóc y tế, các trung tâm còn phối hợp với Ủy ban phòng chống HIV/AIDS tổ chức nhiều lớp tập huấn cho đối tượng, người nhiễm HIV về chăm sóc điều trị các bệnh lây lan và bệnh nhiễm trùng cơ hội. Tại các trung tâm nhiều buổi tư vấn chăm sóc sức khỏe học được tổ chức cho đối tượng sau cai nghiện trước khi về hòa nhập với cộng đồng. Cán bộ y tế tại các trung tâm chiếm khoảng 14% tổng số nhân viên. Tỷ lệ 1 nhân viên y tế trên 41 học viên là tạm đủ về số lượng. Tuy nhiên, các trung tâm ở xa rất khó thu hút bác sỹ về làm việc, đồng thời họ cũng không yên tâm làm việc tốt. Để khắc phục tình trạng trên, các trung tâm ưu tiên các trường hợp đào tạo cán bộ tại chỗ. Mặc dù vậy, vẫn còn tình trạng trung tâm thiếu bác sỹ. Khoảng 50% số đối tượng kể cả các đối tượng sau khi trở về cộng đồng đều đánh giá rằng sức khỏe của họ đã được cải thiện sau thời gian chăm sóc tại trung tâm. Tổ chức tốt bếp ăn công nghiệp tại các trung tâm, thường xuyên bảo đảm nước sạch cho ăn uống và đủ nước dùng cho sinh hoạt, thực hiện đúng quy trình xử lý nước thải, rác thải y tế, bảo vệ môi trường và cảnh quan khu vực trung tâm Mỗi đơn vị đều có y – bác sỹ theo dõi vệ sinh an toàn thực phẩm. Thứ tư là trợ giúp._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10535.doc
Tài liệu liên quan