LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH nhằm xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN. Nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách thức. Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu làm cho tình hình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Các doanh nghiệp muốn thắng thế trong cạnh tranh và đạt được mục tiêu của mình thì phải tiến hành nghiên cứu thị trường để
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3072 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm sản xuất ra có đủ chất lượng với giá cả hợp lý.
Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt, cùng với sự khan hiếm của các nguồn lực, việc giảm chi phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm là nhu cầu bức thiết của bất cứ đơn vị, tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh nào. Các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, hộ gia đình kinh doanh, hợp tác xã, các doanh nghiệp nước ngoài hay liên doanh đều coi đó là nhiệm vụ chiến lược để tồn tại và phát triển cho dù mục đích của mỗi loại hình doanh nghiệp có khác nhau ngoài mục đích chung trên là lợi nhuận . Đối với doanh nghiệp nhà nước, trước đây trong thời kỳ bao cấp, hoàn toàn sản xuất theo mệnh lệnh, kế hoạch nhà nước rót xuống. Sau Đại hội VI của Đảng (1986) và tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới trong các đại hội VII và VIII, doanh nghiệp nhà nước ngày càng được tự chủ hơn. Do đó, với các doanh nghiệp này việc giảm chi phí kinh doanh không ngoài mục đích tăng lợi nhuận ( với doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh), mang lại sản phẩm rẻ có chất lượng tốt cho mọi người (với doanh nghiệp nhà nước công ích) và tiết kiệm chống lãng phí và sử dụng hiệu quả nguồn lực cuả quốc gia.
Còn với loại hình doanh nghiệp khác, quản lý được tốt các chi phí cũng đều là tiền đề của hạ giá thành sản phẩm. Nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về giá. Doanh nghiệp nào có mức giá hợp lý sẽ bán được nhiều hơn và từ đó thu hồi vốn nhanh và tăng lợi nhuận. Mặt khác, nó giúp doanh nghiệp kiểm soát được các nguồn lực của mình để sử dụng có hiệu quả .
Như vậy có thể nói, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn phải nghĩ đến phương trình kinh tế cơ bản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng không dễ giải. Đó là : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Để tăng lợi nhuận thì hoặc là tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc mức tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi phí vẫn được coi là linh hồn, nhân tố chất lượng của phương trình này.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội nói riêng, bằng những kiến thức đã học ở nhà trường và nhờ sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Kế Tuấn, cùng các cô chú trong Công ty, em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội ”.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
Chương II : Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội
Chương III : Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội
Do trình độ lý luận và thời gian nghiên cứu còn hạn chế. nên bài viết của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, và các cô chú trong Công ty để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
a. Khái niệm
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của một doanh nghiệp là tạo ra những sản phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường nhằm thu được lợi nhuận. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng đều phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định.
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm nên gọi là chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Ngoài những chi phí sản xuất và chi phí sinh hoạt, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp còn bỏ ra những khoản chi phí phục vụ cho những hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp có liên quan đến quá trình kinh doanh.
Để đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh tốt đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có doanh thu từ hoạt động kinh doanh bù đắp, trang trải được toàn bộ chi phí kinh doanh và thu được lợi nhuận cao. Điều này cho thấy không phải khoản mục chi phí nào cũng được đưa vào chi phí hoạt động mà chúng ta phải xét đến tính chất, đặc điểm của nó.
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu quan trọng. Qua xem xét chỉ tiêu này có thể đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh, tình hình sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mà lợi nhuận là mục tiêu kinh doanh, mục đích cuối cùng của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến vấn đề quản lý chi phí, bởi lẽ mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó hạ thấp chi phí kinh doanh là một điều kiện để doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình và đảm bảo cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh khác nhau thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn mà chi phí cần tập hợp nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá thành sản phẩm .
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong ngành sản xuất nói chung và trong kinh doanh xây lắp nói riêng thường căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ của việc sản xuất sản phẩm (việc sản xuất sản phẩm là giản đơn hay phức tạp, liên tục hay song song)
- Loại hình sản xuất sản phẩm (sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt)
- Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đặc điểm tổ chưc bộ máy quản lý (hay yêu cầu quản lý).
- Đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp
Tổ chức sản xuất là quá trình sản xuất thi công của các doanh nghiệp XDCB có những đặc điểm riêng so với những ngành nghề khác nên đối tượng kế toán chi phí sản xuất thường được xác định là từng công trình, bộ phận thi công hay đơn đặt hàng.
Trên thực tế, các doanh nghiệp xây lắp hiện nay thường tập hợp chi phí theo công trình hoặc hạng mục công trình.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết và quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đúng đối tượng hạch toán, tập hợp chính xác các khoản chi phí phát sinh phù hợp với đặc điểm tổ chức và sản xuất của doanh nghiệp mới giúp cho tổ chức tốt công tác chi phí.
1.1.1.2. Phân loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Để phân loại chi phí sản xuất người ta có rất nhiều tiêu thức khác nhau nhưng về mặt cơ bản người ta dùng ba tiêu thức chủ yếu:
Một là, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung, tính chất kinh tế.
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
Chi phí vật tư mua ngoài là toàn bộ giá trị vật tư mua ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…
Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương là toàn bộ các khoản tiền lương, tiền công doanh nghiệp phải trả cho những người tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh; các khoản chi phí trích nộp theo lương như chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ.
Chi phí khấu hao tài sản cố định là toàn bộ số tiền khấu hao các loại tài sản cố định trích trong kỳ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả cho các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ do các đơn vị khác ở bên ngoài cung cấp như: dịch vụ điện, nước…
Chi phí khác bằng tiền là các khoản chi phí bằng tiền ngoài các khoản đã nêu trên.
Phân loại các chi phí của doanh nghiệp thành các yếu tố chi phí như trên có ý nghĩa lớn trong quản lý chi phí. Nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi phí để phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất theo yếu tố ở Bảng thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn đầu tư cho kỳ sau.
Hai là, phân loại chi phí sản xuất theo mục đích công dụng của chi phí.
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào việc chế tạo sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi BHXH, BHYT, KPCĐ của nhân công trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí được sử dụng ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh như: Tiền lương và phụ cấp lương của quản đốc, nhân viên phân xưởng, chi phí tài sản cố định thuộc phạm vi phân xưởng, chi phí vât liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ở phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ như: Chi phí tiền lương, phụ cấp trả lương cho công nhân bán hàng, tiếp thị, vận chuyển, bảo quản, các chi phí khấu hao phương tiện vận tải, chi phí vật liệu, bao bì, các chi phí dịch vụ mua ngoài, các chi phí bằng tiền khác (như: Bảo hành sản phẩm, quảng cáo).
Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí cho bộ máy quản lý doanh nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như: Khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý, chi phí công cụ dụng cụ, các chi phí khác phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp (như: Tiền lương và các khoản phụ cấp lương trả cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, nhân viên các phòng ban quản lý), chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp. Các khoản chi phí dự phòng giảm gía hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, công tác phí, các chi phí giao dịch, đối ngoại…
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể tập hợp chi phí và tính gía thành cho từng loại sản phẩm, quản lý chi phí tại địa điểm phát sinh để khai thác khả năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Ba là, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai loại: Chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Chi phí cố định: Là các chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng kể) theo sự thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thuộc loại chi phí này bao gồm: Chi phí khấu hao tài sản cố định (theo thời gian); chi phí tiền lương trả cho cán bộ, nhân viên quản lý, chuyên gia, lãi tiền vay phải trả, chi phí cho thuê tài chính, văn phòng.
Chi phí biến đổi: Là các chi phí thay đổi trực tiếp theo sự thay đổi của quy mô sản xuất. Thuộc loại chi phí này bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương công nhân trực tiếp, chi phí hoa hồng bán hàng, chi phí dịch vụ được cung cấp (như: Tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…)
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi của từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể xác định được sản lượng hoà vốn cũng như quy mô kinh doanh hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất.
1.1.2.Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh chí phí mới là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí đã chi ra. Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản trong quá trình sản xuất. Đó là, kết quả sản xuất thu được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu “Giá thành sản phẩm”.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định.
Có nhiều loại doanh nghiệp sản xuất ra cùng sản phẩm nhưng do trình độ quản lý khác nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau. Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm mang tính cá biệt đối với từng doanh nghiệp.
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, giá thành sản phẩm có một ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
Giá thành là thước đo mức hao phí về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, gía cả thị trường và mức hao phí sản xuất loại sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả sản xuất loại sản phẩm đó để lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất tối ưu.
Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản phẩm, phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ.
Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
1.1.2.2. Các loại giá thành sản phẩm
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
Chi phí vật tư trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ gồm toàn bộ chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định gồm:
Giá thành sản xuất của sản phẩm
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Đứng trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp còn được chia thành:
Giá thành kế hoạch
Giá thành định mức
Giá thành thực tế
1.1.2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
*Phương pháp thứ nhất: Phương pháp tính giá thành giản đơn :
Phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục, đối tượng tính giá thành tương ứng phù hợp với đối tượng kế toán tập hợp CPSX, kỳ tính giá thành định kỳ hàng tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo . Ví dụ tính giá thành sản phẩm điện, nước, bánh kẹo, than quặng, kim loại ... .
Trường hợp cuối kỳ có nhiều sản phẩm dở dang & không ổn định, cần tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp. Trên cơ sở số liệu CPSX đã tập hợp trong kỳ & chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, tính giá thành sản phẩm hoàn thành cho từng khoản mục chi phí theo công thức:
Z
Q
Z = C + Dđk - Dck
Giá thành đơn vị sản phẩm tính như sau: z =
Trong đó:
Z, z: Tổng giá thành đơn vị sản phẩm, lao vụ sản xuất thực tế.
C: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ theo từng đối tượng.
Dđk, Dck: Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ & cuối kỳ.
Q: Sản lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang hoặc có nhưng ít & ổn định nên không cần tính chi phí của sản phẩm dở thì tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cũng đồng thời là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành: Z = C.
*Phương pháp thứ hai: Phương pháp hệ số:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm theo hệ số áp dụng đối với những DN trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất, cùng sử dụng một loại nguyên liệu, vật liệu, nhưng kết quả sản xuất thu được nhiều loại sản phẩm khác nhau như DN sản xuất hoá chất, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp nuôi ong. Khi đó đối tượng tập hợp CPSX là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm hoàn thành.
Theo phương pháp này muốn tính được giá thành cho từng loại sản phẩm phải căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật để xác định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số tính giá thành, trong đó lấy loại sản phẩm có hệ số bằng 1 làm sản phẩm tiêu chuẩn. Căn cứ vào sản lượng thực tế hoàn thành của từng loại sản phẩm & hệ số tính giá thành quy ước cho từng loại sản phẩm để quy đổi sản lượng thực tế ra sản lượng tiêu chuẩn (sản phẩm có hệ số bằng1).
Gọi Hi là hệ số tính giá thành quy ước của sản phẩm i
Qi là sản lượng sản xuất thực tế của sản phẩm i
Tính quy đổi sản lượng thực tế ra sản lượng tiêu chuẩn
Q = Qi x Hi
Trong đó Q: Tổng sản lượng thực tế hoàn thành quy đổi ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn.
Tính tổng giá thành & giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm
Dđk + C - Dck
x QiHi
Q
Zi =
Zi
Qi
zi =
*Phương pháp thứ ba: Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm theo tỷ lệ áp dụng thích hợp đối với doanh nghiệp mà cùng một quy trình công nghệ sản xuất, kết quả sản xuất được nhóm sản phẩm cùng loại, với nhiều chủng loại phẩm cất, quy cách khác nhau như sản xuất nhóm ống nước với nhiều kích thước đường kính & độ dài khác nhau, sản xuất quần áo dệt kim với nhiều cỡ số khác nhau, sản xuất chè hương với nhiều phẩm cấp khác nhau.
Trong trường hợp này, đối tượng tập hợp CPSX là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính giá thành sẽ là từng quy cách sản phẩm trong nhóm sản phẩm đó. Để tính giá thành thực tế cho từng quy cách của sản phẩm có thể áp dụng phương pháp tính hệ số hoặc phương pháp tỷ lệ.
Tính giá thành sản phẩm theo phương pháp tỷ lệ phải căn cứ vào tiêu chuẩn phân bổ hợp lý và chi phí sản xuất đã tập hợp để tính ra tỷ lệ tính giá thành. Tiêu chuẩn phân bổ thường là giá thành kế hoạch hoặc giá thành định mức. Sau đó tính giá thành cho từng thứ sản phẩm.
Cách tính như sau:
Tỷ lệ tính giá thành từng
khoản mục
=
Giá thành thực tế cả nhóm sản phẩm (theo từng khoản mục)
Tổng tiêu chuẩn phân bổ (theo từng khoản mục)
Giá thành thực tế = Tiêu chuẩn phân bổ của từng x Tỷ lệ tính giá thành
từng qui cách (theo từng khoản mục) khoản mục.
Sản phẩm chính còn thu được sản phẩm phụ. Ví dụ nhà máy đường cung một qui trình công nghệ ngoài sản phẩm chính là đương kính, còn thu được sản phẩm phụ là rỉ đường; nông trường chăn nuôi lợn thịt thì ngoài sản phẩm chính là sản lượng lợn thịt, còn có sản phẩm phụ là phân bón.
Trong qui trình sản xuất, kêt quả sản xuất thu được sản phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng qui định, còn có sản phẩm hỏng không sửa chữa được, mà các khoản thiệt hại này không được tính cho sản phẩm hoàn thành.
Đối với các phân xưởng sản xuất phụ có cung cấp sản phẩm hoặc lao vụ lẫn cho nhau, cần loại trừ ra khỏi giá thành của sản phẩm, lao vụ phục vụ cho sản xuất chính hoặc bán ra ngoài.
Trong các trường hợp này, đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ qui trình công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính, sản phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các bộ phận không phải là sản xuất phụ.
Muốn tính được giá thành của các đối tượng tính giá thành, phải lấy tổng chi phí sản xuất đã được tập hợp loại trừ chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng không được tính trong giá thành sản phẩm, chi phí phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng sản xuất phụ. Công thức tính giá thành của sản phẩm là:
Z = C + Dđk - Dck - Clt
Trong đó:
Z: Là tổng giá thành của đối tượng tính giá thành.
C: Là tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp.
Dđk và Dck: Là chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ.
Clt: Là chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng giá thành của các đối tượng tính giá thành.
Để đơn giản tính toán chi phí loại trừ (Clt) thường được tính như sau:
Đối với sản phẩm phụ có thể tính giá thành theo giá thành kế hoạch hoặc có thể lấy giá bán phụ trừ lợi nhuận định mức.
Đối với sản phẩm hỏng tính theo giá thành thực tế như đối với sản phẩm hoàn thành hoặc căn cứ vào quyết định xử lý của lãnh đạo.
Đối với sản phẩm hoặc lao vụ sản xuất phụ cung cấp lẫn nhau có thể tính theo giá thành đơn vị kế hoạch, hoặc tính theo chi phí ban đầu.
*Phương pháp thứ tư: Phương pháp cộng chi phí:
Phương pháp cộng chi phí áp dụng đối với doanh nghiệp có qui trình công nghệ phức tạp, quá trình chế biến sản phẩm qua nhiều bộ phận sản xuất (bước chế biến) có sản phẩm dở dang như: Doanh khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí, chế tạo, may măc.
Đối tượng hạch toán chi phí là qui trình công nghệ của từng giai đoạn ( từng bước chế biến).
Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở các bước chế biến giá thành sản phẩm hoàn thành ở bước cuối cùng là tổng chi phí đã phát sinh ở các bước chế biến và tính như sau:
Nếu gọi C1, C2.....Cn là chi phí tổng hợp được ở giai đoạn sản xuất.
Z = Dđk + C1 + C2 + ... + Cn - Dck
z = z/Qtp
*Phương pháp thứ năm: Phương pháp tính giá thành liên hợp:
Là kết hợp nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau như kết hợp phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ, phương pháp cộng chi phí, phương phương pháp tính giá thành liên hợp áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc.
*Phương pháp thứ sáu: Phương pháp tính giá thành theo định mức:
Ap dụng: Doanh nghiệp xây dựng được định mức kinh tế kỹ thuật hoàn chỉnh.
ztt= zđm ± chênh lệch do thay đổi định mức ± chênh lệch thoát ly định mức.
1.2. Chi phí quản lý kinh doanh và giá thành sản phẩm
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Trong công tác quản trị doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua những thông tin về chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh do bộ phận kế toán cung cấp, những người quản lý doanh nghiệp nắm được chi phí sản xuất của từng bộ phận, từng khoản mục, từng loại sản phẩm, lao vụ cũng như toàn bộ hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp. Qua đó để đánh giá phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có quyết định quản lý phù hợp.
Còn về chỉ tiêu giá thành, đây là thước đo hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ xác định hiệu quả kinh doanh. Để quyết định sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần nắm được nhu cầu thị trường, giá cả và mức hao phí sản xuất tiêu thụ sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả của sản phẩm đó và quyết định khối lượng sản xuất để đạt được lợi nhuận tối đa. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất, tác động đến hiệu quả thực hiện các biện pháp kỹ thuật sản xuất. Phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến các chi phí phát sinh không hợp lý để có biện pháp loại trừ. Giá thành là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chính sách giá cả đối với từng sản phẩm.
1.2.2. Nội dung công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
Để quản lý tốt chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm thì công tác hạch toán kế toán phải được đặt lên hàng đầu. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính có vai trò tích cực trong việc quản lý điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Để đảm bảo phát huy tác dụng của công cụ kế toán đối với doanh nghiệp cần thiết phải có sự tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành. Đây cũng là điều kiện cho việc phân tích đánh giá, tổ chức quản lý và sản xuất hợp lý nâng cao hiệu quả quản trị đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp.
Riêng đối với ngành XDCB việc hạch toán đúng chi phí sản xuất và tính đủ giá thành càng trở nên quan trọng và có tính quyết định bởi sự tác động của những đặc điểm như giá cả biến động trong những thời điểm khác nhau của xây dựng, nhu cầu công nhân khác nhau, nhu cầu xây dựng cơ bản không như nhau. Thông qua chỉ tiêu giá thành ta có thể xác định được kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự sáng tạo, tìm tòi phương án giải quyết công việc có hiệu quả.
Để phát huy hết vai trò của mình, việc tổ chức hạch toán kinh tế chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đạt được những yêu cầu:
- Phản ánh kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất . Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tượng tính giá thành .
- Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối tượng tập hợp chi phí, áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật liệu, lao động sử dụng máy, kiểm tra dự toán chi phí gián tiếp, phát hiện kịp thời các khoản mục chi phí chênh lệch ngoài định mức, ngoài kế hoạch, đề ra các biện pháp ngăn ngừa kịp thời.
- Kiểm tra việc thực hiện giá thành theo từng khoản mục chi phí, theo từng hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và đề ra các biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
- Thông qua ghi chép, phản ánh tính toán để đánh giá có hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí và lập giá thành theo quy định của cơ quan chủ quản cấp trên.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
Với các yêu cầu trên, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ chi phí sản xuất thích hợp
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp.
- Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Quy định trình tự công việc, phân bổ chi phí cho từng đối tượng, từng sản phẩm chi tiết.
1.3. Tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm
1.3.1. Ý nghĩa của giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường hình thành và phát triển ở Việt Nam đã đẩy các doanh nghiệp từ chỗ được bao cấp hoàn toàn sang việc hạch toán độc lập lời ăn lỗ chịu theo đúng quy luật của thị trường. Từ chỗ chỉ lo làm kế hoạch không phải lo đầu vào, đầu ra cũng không phải trả lời câu hỏi sản xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào? Cho ai? các doanh nghiệp hiện nay đã phải trả lời câu hỏi này và phải xem xét, phận tích đánh giá vấn đề này một cách kỹ lưỡng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt thì doanh nghiệp phải tự khẳng định mình. Cơ chế thị trường khó bán hơn mua thì sự cạnh tranh quyết liệt để bán được hàng là điều tất yếu. Để có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường doanh ngiệp cần đổi mới, cải tiến sản xuất kinh doanh, mở rộng nâng cấp trang thiết bị cũ, tổ chức lại bộ máy quản lý cũ và điều quan trọng hơn là doanh nghiệp cần có hạch toán thu chi một cách chính xác và có các quyết định đúng đắn kịp thời. Để đạt được các điều kiện trên doanh nghiệp cần phải có các thông tin kinh tế cần thiết. Thông tin kinh tế này có hai loại:
+Thông tin phục vụ bên ngoài
+ Thông tin phục vụ bên trong
Các thông tin phục vụ bên ngoài chủ yếu phục vụ các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước, cơ quan chủ quản do đó mang tính bắt buộc thống nhất kiểm tra được, Ngoài ra các thông tin kinh tế phuc vụ cho nhiều đối tượng khác nhau: bạn hàng , khách hàng… Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng phải hiểu biết hết sức rõ ràng về bản thân mình thì mới có các quyết định đúng đắn. Về bản chất thì hoạt động quản trị chi phí kinh doanh là quá trình chuẩn bị và ra các quyết định quản trị do vậy bộ máy quản trị cần nắm rõ các thông tin hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới các quyết định quản trị
Như vậy, có thể nói thông tin bên trong đặc biệt quan trọng hay quản trị chi phí kinh doanh là công cụ chủ yếu cung cấp thông tin kinh tế bên trong bộ máy quản trị doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định quản trị nên nó trở thành một công cụ chủ yếu không thể thiếu của quản trị doanh nghiệp. Quản trị là quan trọng do vậy khi ra quyết định mà quản trị phải đảm bảo tính chính xác và có hiệu quả của quyết định đề ra.
Muốn làm được điều đó cần phải tính đến các vấn đề chi phí kinh doanh mà bản chất nó là mô tả các quá trình có ý nghĩa kinh tế diễn ra trong kinh doanh.
Trong điều kiện có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực thì doanh nghiệp ngoài việc cạnh tranh với nhau bằng chất lượng còn cạnh tranh cả về giá cả mà đấu thầu trong xây dựng là một điển hình. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải giảm tối đa các khoản chi phí để hạ giá thành mà vẫn đảm bảo được chất lượng để có thể cạnh tranh, tồn tại và đứng vững trên thị trường.
Muốn chiến thắng trong cạnh tranh, một vấn đề quan trọng mà bất cứ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào cũng phải quan tâm là giảm chi phí sản xuất. Hạ thấp chi phí không những chứng tỏ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn là nguồn tích luỹ chủ yếu cho nền kinh tế. Con đường duy nhất để doanh nghiệp đứng vững trong nền kinh tế thị trường là phải thường xuyên cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ được giá thành. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, hạ giá thành là con đường cơ bản để tăng doanh lợi, nó cũng là tiền đề để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường kể cả trong và ngoài nước, góp phần cải thiện đời sống vật chất cho người lao động. Ta có thể thấy ý nghĩa cụ thể của việc hạ giá thành là:
Hạ giá thành sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận, nếu giá thành sản phẩm thấp so với giá bán trên thị trường thì doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Mặt khác, gía thành sản phẩm thấp thì doanh nghiệp có thể hạ được giá bán nhờ đó mà tăng khối lượng tiêu thụ, thu được nhiều lợi nhuận.
Hạ giá thành là cơ sở cho doanh nghiệp giảm bớt lượng vốn lưu động đã sử dụng vào sản xuất, khi hạ giá thành sản phẩm tức là doanh nghiệp đã tiết ._.kiệm được chi phí về nguyên vật liệu, chi phí tiền lương, chi phí quản lý. Nghĩa là với khối lượng sản xuất như cũ doanh nghiệp chỉ cần một lượng vôn ít hơn. Trong điều kiện đó doanh nghiệp có thể rút bớt vốn lưu động trong sản xuất hoặc mở rộng tăng thêm khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
Việc hạ giá thành sản phẩm được thực hiện thông qua hai chỉ tiêu: mức hạ gía thành và tỷ lệ hạ giá thành. Khi xem xét việc hạ giá thành sản phẩm cần kết hợp cả hai chỉ tiêu này và chỉ xem xét cho những sản phẩm so sánh được.
n
i =1
Mz
Mz = ∑[(si1 x Zi1) – (Si1 x Zio)]
∑(Si1 x Zio )
n
Tz =
i =1
Trong đó:
Mz: Mức hạ giá thành sản phẩm hàng hóa so sánh được
Zi0: Giá thành đơn vị kỳ báo cáo
Zi1: Giá thành đơn vị sản phẩm kỳ kế hoạch
Si1: Số lượng sản phẩm kỳ kế hoạch
Tz: Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được
Như vậy, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm của các ngành nghề sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội. Nó sẽ làm tăng tổng số lợi nhuận của các doanh nghiệp đồng thời cũng làm tăng ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy tiết kiệm chi phí trong sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm không chỉ là vấn đề quan tâm của các nhà sản xuất mà nó còn là mối quan tâm của từng ngành và toàn xã hội.
1.3.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
Để quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý không chỉ cần phải nắm vững nội dung, bản chất và kết cấu của các khoản mục trong chi phí sản xuất kinh doanh mà còn phải thấy được các nhân tố tác động đến chi phí sản xuất kinh doanh. Có nhiều nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến chi phí, song có thể quy lại một số nhân tố chủ yếu sau:
a. Nhân tố tiến bộ khoa học và công nghệ
Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, các máy móc thiết bị, phương pháp công nghệ hiện đại được sử dụng ngày càng nhiều tạo nên khả năng lớn cho việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động vật hoá trong quá trình sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp nào nắm bắt và ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuât sẽ có được nhiều lợi thế trong cạnh tranh, tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ gía thành và nâng cao chất lượng sản phẩm.
b. Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất, quản lý tài chính của doanh nghiệp
Nếu trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại mà quản lý lại không tốt thì chi phí không có xu hướng giảm mà còn có xu hướng tăng lên. Do vậy, phải tổ chức quản lý chi phí sản xuất sao cho hợp lý, bố trí các khâu sản xuất ăn khớp với nhau sẽ hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, năng lượng điện lực. Mặt khác, tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động dẫn đến giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Đặc biệt bộ máy quản lý phải là những người có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, năng lực sáng tạo sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được phương án sản xuất tối ưu làm cho lượng chi phí bỏ ra hợp lý nhất; phân công bố trí lao động đúng ngành, đúng năng lực lao động sẽ làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế góp phần tích cực vào việc hạ giá thành sản phẩm.
Việc phát huy đầy đủ vai trò của quản lý tài chính cũng ảnh hưởng rất lớn tới khả năng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Việc tổ chức đầy đủ vốn, đảm bảo kịp thời với chi phí sử dụng vốn thấp nhất sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh có hiệu quả. Việc phân phối, sử dụng hợp lý, tăng cường kiểm tra giám sát sử dụng vốn sẽ tạo điều kiện sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và có hiệu quả cao, bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó có tác động đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất góp phần tích cực hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
c. Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nhiều trường hợp, điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp khó khăn hay thuận lợi cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành.
Chẳng hạn đối với các doanh nghiệp khai thác, nguồn tài nguyên cũng như điều kiện khai thác có ảnh hưởng quan trọng tới khả năng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành. Nguồn tài nguyên phong phú, điều kiện khai thác thuận lợi thì chi phí khai thác sẽ thấp và ngược lại.
d. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng nhiều đến chi phí kinh doanh. Do đặc điểm của các sản phẩm xây dựng là làm theo đơn đặt hàng là chủ yếu do đó đòi hỏi những người tiến hành sản xuất phải nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời tránh được những sai sót có thể phải phá đi làm lại vừa gây lãng phí vừa gây tốn kể cả thời gian và tiền bạc. Để làm tốt việc này đòi hỏi những nhà quản lí không ngừng cải tiến, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường công tác quản lý con người nhằm hạ thấp chi phí, nâng cao chất lưọng sản phẩm , đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Như vậy có thể thấy chất lượng sản phẩm ảnh hưỏng không nhỏ đến việc hạ thấp chi phí và giảm giá thành sản phẩm.
e. Nhân tố giá cả
Thị trường không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán mà nó còn thể hiện quan hệ hàng hoá và tiền tệ. Do thị trường được coi là môi trường kinh doanh. Nó là nơi tập trung đầy đủ nhất những gì mà con người đã và sẽ cần đáp ứng cung cầu về hàng hoá và thị trường còn là yếu tố quan trọng nhất trực tiếp quyết định đến giá cả. Mà đặc biệt là giá cả thị trường nó lại có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm. Khi giá cả thị trường tăng lên làm chi phí kinh doanh cũng tăng theo dẫn đến giá thành sản phẩm cũng tăng. Ngược lại, khi giá cả thị trường giảm xuống sẽ là điều kiện hạ thấp chi phí kinh doanh do đó giá thành sản phẩm cũng giảm. Trong điều kiện thị trường luôn biến động, giá cả hàng hoá tiêu thụ cũng biến động theo. Sự thay đổi của giá cả hàng hoá sẽ làn ảnh hưởng đến chỉ tiêu tỷ suất chi phí vì nó ảnh hưởng đến doanh số bán. Sự ảnh hưởng của giá cả hàng hoá tiêu thụ đến tỉ suất chi phí là một nhân tố khách quan do sự điều tiết của thị trường. Việc xác định mức độ ảnh hưởng của giá đến tổng mức phí và tỉ suất phí được thực hiện trên cơ sỏ tính toán chi tiết.
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi nhân tố có phạm vi và mức độ tác động khác nhau, làm sao hạn chế ảnh hưởng tiêu cực, phát huy tích cực nhằm có biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ KINH DOANH VÀ
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CỔ PHẦN LILAMA HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội tiền thân là Công ty Lắp Máy và Xây Dựng Hà Nội (Viết tắt là LILAMA Ha Nội) là Doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Tổng công ty Lắp Máy Việt Nam (LILAMA), được chuyển từ Công ty Lắp máy và Xây dựng Hà nội thành Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội tháng 2 năm 2007, có giấy phép đăng ký kinh doanh số 109587, do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp.
LILAMA Hà Nội là doanh nghiệp cổ phần có tư cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản, con dấu riêng để giao dịch.
Trụ sở của Công ty đóng tại số 52 đường Lĩnh Nam, phường Mai Động, quận Hoàng Mai , thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 04.8625813.
Với bề dày hơn 45 năm xây dựng và phát triển, với sự phấn đấu bền bỉ của tập thể cán bộ công nhân viên toàn công ty, LILAMA Hà Nội đã xây dựng cho mình được một tên tuổi không chỉ với bạn bè trong nước mà còn với bạn bè quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp công nghiệp. Sự tín nhiệm của các bạn bè, niềm tin của Đảng thể hiện qua hàng chục những tấm Huân chương, Bằng khen và hàng trăm công trình xây dựng trên mọi miền đất nước được đánh giá cao: như công trình Nhà máy sợi Nha trang, Huế, Nhà máy thức ăn gia súc EH Tiên Sơn, Nhà máy gạch Cotto Hạ Long, Nhà máy nhiệt điện Uông bí, khu thể thao dưới nước Seagames 23,Công Trình Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia, Nhà máy thép Thái Nguyên ... Năm 2007, công ty cũng đã đầu tư và chính thức đưa vào hoạt động Nhà máy Thép mạ màu LILAMA tại khu công nghiệp Quang Minh tỉnh Vĩnh Phúc, cách trung tâm Hà Nội trên đường cao tốc Thăng Long Nội Bài. Với công nghệ hiện đại của cộng hoà Liên bang Đức, Ý, hoạt động với công suất 130.000tấn/ năm. Sản phẩm là thép mạ kẽm, galfan, mạ màu với tiêu chuẩn tốt nhất hiện nay, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công ty luôn luôn theo đuổi mục tiêu không những đảm bảo chất lượng công trình mà còn cung cấp cho khách hàng và nhà đầu tư những sản phẩm trọn gói, chất lượng ngày càng cao hơn.
Bảng 01:
Kết quả hoạt động kinh doanh trong 3 năm gần đây
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh thu thuần
124.122.212.647
130.215.419.537
135.539.872.120
Giá vốn HB
116.319.552.139
120.637.928.112
121.941.537.943
DT HĐ tài chính
465.660.870
62.591.627
715.927.315
CP HĐ tài chính
3.123.111.478
415.637.219
4.166.579.822
Cp quản lý DN
4.314.074.100
4.351.123.570
435.569.989
LN từ HĐ KD
831.135.800
5.436.646.963
9.712.111.681
TN khác
928.311.436
1.025.637.860
1.256.987.522
Thuế TN DN
341.867.916
3.748.468.662
4.763.683.369
LN sau thuế
726.469.320
9.638.919.418
12.249.471.520
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công ty.
Chức năng: LILAMA Hà Nội có chức năng chính là xây dựng và tư vấn xây dựng các công trình.
Nhiệm vụ: Công ty có nhiệm vụ kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước khách hàng và trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ công ty cung cấp.
Quyền hạn: Công ty có quyền kinh doanh tất cả các ngành nghề đã đăng ký và được hưởng tất cả các quyền lợi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.1.3. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ.
2.1.3.1. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm xây lắp có các đặc điểm nổi bật:
+ Sản phẩm xây lắp có thời gian sản xuất lâu dài, có giá trị lớn, sản xuất mang tính đơn chiếc.
+ Tính chất hàng hoá không được thể hiện rõ.
+ Quá trình sản xuất rất phức tạp, không ổn định và có tính lưu động cao, chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau.
2.1.3.2. Quy trình công nghệ.
Để có công trình xây dựng phải trải qua các bước sau:
Khi có thư mời thầu, Phòng KT - KT tiến hành lập dự toán chi phí.
Giá trị dự toán từng Giá thành dự toán
công trình, hạng mục = từng công trình, hạng + Lãi định mức
công trình mục công trình
Đây cũng chính là giá đưa ra đấu thầu.
Nếu công ty trúng thầu, hai bên sẽ chính thức ký kết hợp đồng kinh tế.
Như vậy có thể khái quát quy trình công nghệ của công ty như sau:
Hợp Đồng
Dự Toán
Thi Công
Bàn Giao
2.1.3.3. Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Công ty.
Công ty kinh doanh trong các lĩnh vực chính sau:
Lắp đặt đường dây tải điện, trạm biến áp 220KV, hệ thống điều hoà không khí, điện lạnh, điện dân dụng.
Sản xuất và kinh doanh thép mạ kẽm, mạ màu, sản xuất phụ tùng, cấu kiện kim loại cho xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng.
Thi công các công trình kỹ thuật hạ tầng, xây dựng công trình công nghiệp, lắp ráp thiết bị máy móc cho các công trình.
Lắp đặt thiết bị và cấu kiện các công trình kể cả công trình điện nhóm B và các công trình dân dụng.
Lắp đặt cơ, điện, nước công trình, chế tạo và lắp đặt nồi hơi.
Xây dựng nhà ở, trang trí nội thất, lắp đặt thang máy.
Khảo sát, thiết kế, tư vấn XD các công trình công nghiệp, dân dụng.
Tư vấn, thiết kế các dây truyền sản xuất vật liệu xây dựng, các dây truyền công nghệ chế biến lương thực, thực phẩm.
Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà ở.
2.1.3.5. Bộ máy quản lý.
Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo nguyên tắc điều hành trực tiếp.
Bộ máy quản lý của công ty gồm có: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành, Ban kiểm soát. Giúp đỡ ban quản lý quản lý các xí nghiệp, tổ đội xây dựng là các phòng ban chức năng: Phòng kế toán, phòng tổ chức, phòng hành chính, phòng kinh tế kỹ thuật ...
Sơ đồ 1:
SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÝ CÔNG TY
Xưởng Quang Minh
Phòng KT - KT
PGĐ KINH
DOANH
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG
BAN KIỂM SOÁT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
PGĐ KỸ THUẬT
PGĐ PHỤ TRÁCH SX
THÉP MẠ KẼM
MẠ MÀU
Phòng kỹ thuật
Ban QA-QC
Phong tài chính kế toán
Dây chuyền
mạ kẽm
Xưởng Mai ĐỘNG
Phòng kinh - doanh
XNK
Dây chuyền
mạ màu
Đội lắp đặt KCT 1
Đội lắp đặt KCT 2
Phòng kế hoạch và
đầu tư
Đội LĐ hệ thống
điện 1
Phòng cung ứng
vật tư
Đội LĐ hệ thống
điện 2
Phong tổ chức
Đội LĐ
hệ thống ống
Phòng hành chính
Đội LĐ thanh máy
2.2. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại công ty.
LILAMA Hà Nội là doanh nghiệp hoạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng để giao dịch.
2.2.1. Tổ chức bộ máy kế toán.
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán:
Công ty áp dụng mô hình kế toán tập trung.
Sơ đồ 02:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN
Bộ
phận
KT
TSCĐ
Bộ phận
KT
tổng
hợp
Bộ
phận
KT
tiền
lương
Bộ
phận
thủ
quỹ
Bộ
phận
KT
thanh
toán
Kế toán trưởng
Bộ
phận
KT
vật
tư
Nhân viên kinh tế ở các đội, các phòng của các đơn vị trực thuộc
Nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy kế toán:
Với mô hình tổ chức như trên, phòng kế toán được biên chế gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu công việc đặt ra.
Kế toán trưởng: Kế toán trưởng là người chỉ đạo toàn bộ công tác kế toán - tài chính của công ty.
Kế toán TSCĐ: Kế toán TSCĐ có trách nhiệm theo dõi tình hình biến động TSCĐ .
Kế toán tiền lương: Theo dõi việc tính lương và thanh toán tiền lương cho người lao động.
Bộ phận kế toán tổng hợp: Bộ phận kế toán tổng hợp quản lý chi phí giá thành, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Bộ phận Kế toán vật tư: Kế toán vật tư có trách nhiệm theo dõi chi tiết vật tư nhập, xuất kho.
Bộ phận Kế toán thanh toán: Kế toán thanh toán chịu trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ thanh toán của công ty.
Thủ quỹ: Thủ quỹ có nhiệm vụ theo dõi về tiền mặt tại quỹ công ty.
2.2.2. Khái quát tình hình tài chính của Công ty.
2.2.2.1. Tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của công ty
Vốn là linh hồn của doanh nghiệp. Một công ty muốn chớp được cơ hội trong kinh doanh thì cần phải đảm bảo về vốn. Vì vậy, đòi hỏi công ty phải biết cách sử dụng sao cho hợp lý để một đồng vốn bỏ ra thu được lợi nhuận tối đa.
Bảng 02: Tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của công ty
Đơn vị tính: đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Tỷ trọng (%)
1
Vốn lưu động
2259207573
36,56
1324799321
32,14
-934408252
-41,36
45,41
2
Vốn bằng tiền
289681569
4,68
145999511
3,54
-143682058
-49,6
6,98
3
Các khoản phải thu
2686560873
43,48
429581083
10,42
-2256979790
-84,01
1,09
4
Hàng tồn kho
1901745
0,03
0
0
-1901745
0
0,09
5
TSLĐ khác
-
-
-
1438894801
6
Vốn cố định
3820494714
61,83
2797172774
100
-1023321940
-26,1
49,73
7
Tổng nguồn vốn
6179457282
100
4121745090
100
-2057730192
-33,3
100
8
Nợ phải trả
3521866008
56,6
1715853119
41,41
-1806012889
-51,28
9
Nợ ngắn hạn
412758456
6,63
412758456
9,96
0
0
0
10
Nợ dài hạn
0
0
0
0
0
0
0
11
Nợ khác
0
0
0
0
0
0
0
12
Nguồn vốn CSH
2697173030
43,37
2427455727
58,58
-269717303
-10
100
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tổng vốn kinh doanh đầu năm 2007 của công ty là 6179457282đ, đến cuối năm thì tổng vốn kinh doanh của Công ty là 4121745090đ. Như vậy, trong năm 2007 tổng vốn kinh doanh của Công ty đã giảm 2057730192 đ tương ứng với -33,3% đi sâu phân tích từng khoản mục ta thấy:
Tổng Vốn lưu động giảm 934408252đ tương ứng với -41,36% trong đó:
Vốn bằng tiền của Công ty cuối năm 2007 so với đầu năm giảm 143682058đ tương ứng với –49,6%. Điều này cho thấy khả năng thanh toán của Công ty đã giảm.
Giá trị các khoản phải thu đến cuối năm 2007 so với năm 2006 giảm 2256979790đ tương ứng với - 84,01%. Điều này cho thấy các khoản vốn bị chiếm dụng của doanh nghiệp đã giảm rất nhiều và tỷ trọng các khoản phải thu giảm đi khá nhiều trên tổng vốn lưu động.
Giá trị hàng tồn kho của Công ty đến cuối năm 2007 là 0đ so với đầu năm đã giảm 1901745đ.
Tài sản lưu động khác, số cuối năm 2007 tăng 1438894801đ so với đầu năm.
Giá trị Vốn cố định của Công ty cuối năm 2007 là 2797172774đ, giảm 1023321940đ so với năm 2006 hay giảm 26,1% .
Tổng nguyên giá tài sản cố định hữu hình giảm 1327517485đ. Điều này có thể là do trong năm công ty đã tiến hành bán một số tài sản cố định.
Qua bảng trên ta thấy tổng nguồn vốn của Công ty đã giảm 2057730192đ tương ứng với - 33,3% so với năm 2006.
Tổng nợ phải trả giảm đi 1806012889đ hay –51,28%% trong đó:
Riêng các khoản nợ ngắn hạn đã được công ty thanh toán hết hay giảm 100%. Mặc dù nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng không nhiều nhưng việc thanh toán hết nợ ngắn hạn đã giúp công ty giảm khoản nợ phải trả đi rất nhiều.
Các khoản nợ dài hạn của công ty không thay đổi vì công ty không sử dụng nguồn vốn vay dài hạn.
Nguồn vốn chủ sở hữu đã giảm 269717303đ ứng với 10% cho thấy dấu hiêu phát triển chưa được tốt của Công ty.
Ngoài ra các khoản khác không biến động nên không có ảnh hưởng gì.
2.2.2.2. Kết quả kinh doanh của công ty trong thời gian qua
Sau hai năm kể từ ngày thành lập, Công ty đã đạt được một số thành tựu khả quan chứng tỏ con đường mà công ty lựa chọn là đúng đắn.
Bảng 03: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 2006 - 2007
Đơn vị tính: đồng
TT
Tên chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
So sánh
Chênh lệch
TL(%)
1
Doanh thu thuần
7410261117
19698074625
12287813508
165,8
2
Lợi nhuận trước thuế
120981990
767566532
646584542
534,4
3
Thuế và các khoản phải nộp
88284155
533463956
445179801
504,3
4
Lợi nhuận sau thuế
32697835
234102576
201404741
615,9
5
Thu nhập bình quân người lao động
750
850
Qua bảng kết quả trên ta thấy doanh thu của công ty năm 2007 tăng 12287813508đ so với năm 2006, tương ứng với tỷ lệ tăng là 165,8%. Lợi nhuận đạt được của công ty năm 2007 tăng so với năm 2006 với tỷ lệ tăng là 615,9% tương ứng với số tiền là 201404741đ. Nghĩa vụ nộp với ngân sách nhà nước tăng 504,3% với số tiền là 445179801đ. Đây là một bước tiến thực sự quan trọng của công ty. Là một đơn vị hạch toán độc lập, lấy thu bù chi, kinh doanh có lãi nên thu nhập của người lao động tuy chưa cao song từng bước được cải thiện. Người lao động có công ăn việc làm ổn định, được sự quan tâm sâu sắc của đoàn thể quần chúng và được tạo mọi điều kiện để chứng tỏ mình.
Những kết quả sản xuất kinh doanh trên phần nào đã nói lên sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong Công ty đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, năng động sáng tạo, sự đoàn kết phối hợp nhịp nhàng trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ khi ký hợp đồng, lập kế hoạch đến tổ chức thi công và nghiệm thu công trình.
2.3. Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm của Công ty.
2.3.1. Công tác tập hợp chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành ở Công ty
Đối tượng tập hợp chi phí
Trong doanh nghiệp xây lắp, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở Công ty được xác định là từng công trình, hạng mục công trình, một bộ phận của hạng mục công trình, nhóm hạng mục công trình. Mỗi công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành bàn giao đều được mở riêng những tờ kê chi tiết chi phí sản xuất phát sinh cho từng công trình, hạng mục công trình đó.
Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất và chi phí sản xuất, cho công tác hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán kinh tế toàn doanh nghiệp, phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời, chính xác.
* Nội dung các khoản mục chi phí
Giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm các khoản chi phí có liên quan đến việc thi công xây lắp công trình, nội dung các khoản mục bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Gồm tất cả các chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho thi công xây lắp như:
Vật liệu xây dựng: Là giá thực tế của cát, đá, sỏi, sắt, thép, xi măng…
Vật liệu khác: Bột màu, đinh, dây …
Nhiên liệu: xăng, dầu diezel…
Vật kết cấu: Bê tông đúc sẵn…
Thiết bị gắn liền với vật kiến trúc như: Thiết bị vệ sinh, thông gió, ánh sáng, thiết bị sưởi ấm … (kể cả công xi mạ, bảo quản thiết bị).
Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp của công nhân trực tiếp tham gia công tác thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị dụng cụ gồm:
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp thi công xây lắp kể cả công nhân phụ.
Các khoản phụ cấp theo lương như phụ cấp làm đêm, thêm giờ, phụ cấp trách nhiệm, chức vụ…
Tiền lương phụ của các công nhân trực tiếp thi công xây lắp.
Các khoản chi BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp.
Chi phí sử dụng máy thi công: Gồm các chi phí trực tiếp liên quan đến việc sử dụng máy thi công như:
Tiền lương của công nhân điều khiển máy móc thi công, kể cả công nhân phục vụ máy và các khoản phụ cấp theo lương, kể cả khoản tiền ăn giữa ca của công nhân điều khiển máy thi công.
Chi phí khấu hao tài sản cố định là máy thi công.
Chi phí về công cụ dụng cụ dùng cho máy móc thi công.
Chi phí về sữa chữa, bảo trì, điện nước cho máy thi công, tiền thuê TSCĐ, chi phí trả trước cho nhà thầu.
Chi phí quản lý máy thi công.
Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí trực tiếp khác (trừ những chi phí trực tiếp kể trên) và các chi phí về tổ chức, quản lý phục vụ sản xuất xây lắp, các chi phí có tính chất chung cho hoạt động xây lắp gắn liền với từng đơn vị thi công như tổ, đội, công trường thi công, bao gồm:
Chi phí nhân viên phân xưởng: Gồm tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp lương, phụ cấp lưu động phải trả cho nhân viên quản lý đội xây dựng…
Chi phí vật liệu: Gồm chi phí vật liệu cho đội xây dựng như vật liệu dùng để sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, công cụ dụng cụ thuộc đội xây dựng quản lý và sử dụng, chi phí lán trại tạm thời.
Chi phí dụng cụ sản xuất xây lắp: Gồm các chi phí về công cụ dụng cụ dùng cho thi công như cuốc xẻng, dụng cụ cầm tay, xe đẩy, ván khuân và các loại công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất và quản lý đội xây dựng.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: Gồm các chi phí khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt động của đội xây dựng.
* Đối tượng tính giá thành
Đối tượng tính giá thành xây lắp là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị.
Kỳ tính giá thành là theo năm.
Đối với các công trình được giao (hay chỉ định thầu): Căn cứ vào bản thiết kế kỹ thuật và khối lượng công việc chủ yếu, đơn giá do cơ quan Nhà nước ban hành thì Phòng kế hoạch lập dự toán, xác định giá dự toán công trình. Giá dự toán được sử dụng để hai bên xem xét, ký hợp đồng (bên chỉ định và bên được chỉ định).
Đối với công trình tham gia dự thầu: Khi nhận được thông tin mời thầu thì Công ty cùng với các phòng ban liên quan tiến hành khảo sát, xác định khối lượng thi công, biện pháp thi công để lập hồ sơ dự thầu, xác định rõ giá dự thầu. Trong quá trình đấu thầu Phòng Tài chính – kế toán tuỳ theo tình hình có thể thay đổi giá trị dự thầu trong phạm vi cho phép một cách hợp lý. Nếu trúng thầu thì giá trị dự thầu là cơ sở ký kết hợp đồng, xác định giá trị hợp đồng.
Trong quá trình lập và tính giá thành sản phẩm xây lắp, công ty lấy giá trị dự toán làm giá trị sản lượng kế hoạch do đó trong kết cấu giá thành sản xuất kế hoạch công trình gồm:
Chi phí nguyên vật liệu
Chi phí nhân công
Chi phí máy thi công
Chi phí sản xuất chung
* Phương pháp lập kế hoạch giá thành
Do hoạt động trong ngành xây lắp, sản phẩm mang tính đơn chiếc, có sự khác biệt về nhiều mặt: Đặc điểm về chủng loại, số vật liệu, thời gian tiêu hao. Nên công tác lập kế hoạch ở Công ty là theo từng công trình cụ thể, đảm bảo tính toán giá thành chính xác, sát với thực tế.
Trước hết dựa vào bản vẽ kỹ thuật hoặc thiết kế thi công để xác lập vốn đầu tư xây dựng và quản lý chi phí xây dựng công trình. Những công trình thiết kế kỹ thuật theo từng đợt thì tổng dự toán được lập theo từng đợt.
Căn cứ vào định mức dự toán xây dựng cơ bản của từng địa phương, định mức hao phí nguyên vật liệu, nhân công, máy thi công cho một khối lượng đơn vị.
Bảng tính tiền lương ngày công bao gồm lương cơ bản và các khoản phụ cấp có tính chất lương theo cấp bậc do phòng Tài chính – kế toán lập.
Bảng cước giá nguyên vật liệu xây dựng của định mức giai đoạn xây dựng cơ bản của địa phương nơi có công trình mà chi phí đang thi công tại thời điểm tính toán.
Ngoài ra còn căn cứ vào tổ chức mặt bằng thi công, cự ly, cấp đường từ những căn cứ đó và khối lượng thi công theo kế hoạch tính các khoản mục hay công trình.
Kế hoạch giá thành năm được lập trên cơ sở tổng giá thành kế hoạch các công trình đang xem xét trong năm và kế hoạch chi phí quản lý doanh nghiệp.
2.3.2. Tình hình công tác quản lý chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của Công ty
Để thấy rõ tình hình thực hiện nhiệm vụ quản lý chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần LILAMA Hà Nội , đánh giá được cụ thể đâu là nguyên nhân chính ảnh hưởng, những nhân tố tích cực, những tồn tại cần được giải quyết. Do các công ty xây dựng có nhiều công trình khác nhau nên em chỉ thực hiện phân tích một công trình là công trình ép cọc Trung tâm thương mại Thăng Long.
Giá thành quyết toán được xác định căn cứ vào chi phí chung và chi phí trực tiếp trong giá trị quyết toán.
Trong khi phân tích tình hình thực hiện giá thành trong một công trình thực hiện cần phải đi sâu phân tích chi phí quản lý doanh nghiệp ở công trình đó. Phương pháp phân tích này phù hợp với tính chất là chi phí chung, phù hợp với đặc điểm xây dựng cơ bản có chu kỳ sản xuất dài, một số chi phí thuộc nhóm chi phí quản lý doanh nghiệp bỏ ra một lần cho cả quá trình thi công, phù hợp với đặc điểm công tác lập kế hoạch giá thành xây dựng đó là hai bộ phận: Kế hoạch giá thành sản phẩm xây lắp riêng biệt và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Bảng 04: Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành công trình TTTM- Thăng Long
Đơn vị tính: VNĐ
Diễn giải
Kế hoạch
(dự toán)
Thực tế
So với kế hoạch
Mứctăng(+)
Mức hạ (-)
Tỷlệ %
1
2
3
4
5 = 4 – 3
6=5/3
A
Chi phí vật liệu
6531624500
5975275533
-556348967
-8,51
B
Chi phí nhân công
310245563
299046858
-11198705
-3,6
C
Chi phí máy
1388589562
1291466756
-97122806
-6,994
D
Chi phí chung
24614257
23019133
-1595124
-6,48
E
Giá thành SX
E=A+B+C+D
8255073882
7588808280
-666265602
-8,07
F
Chi phí QLDN
169946172
151547013
-18399159
-10,82
G
Giá thành toàn bộ G = E + F
8425020054
7740355293
-684664761
-8,12
Qua bảng số liệu trên ta thấy công ty đã hoàn thành kế hoạch giá thành sản xuất. Ở công trình này, giá thành sản xuất thực tế so với kế hoạch giảm 684.664.761 đồng tương ứng với tỷ lệ hạ là 8,12%. Tỷ lệ hạ là khá cao, vì thế Công ty đã tiết kiệm được lượng chi phí khá lớn cho quá trình thi công mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Điều đó phản ánh một sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, sự năng động sáng tạo, phấn đấu không ngừng nghỉ. Công ty đã thực sự quan tâm đến việc hạ giá thành sản phẩm và từng bước thành công, đây là thành tích cần phát huy. Tuy nhiên để đánh giá xem Công ty đã phát huy hết khả năng hạ giá thành sản phẩm của mình chưa, các mặt mạnh yếu trong cách thức quản lý từng khoản mục chi phí thì ta cần đi sâu phân tích các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Khoản mục chi phí nguyên vật liệu
Khoản chi phí nguyên vật liệu phu thuộc vào hai yếu tố là khối lượng vật tư tiêu hao và giá vật liệu xuất dùng. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch về tiêu hao một số vật liệu chính của công trình này, có thể xem qua sự biến động về định mức tiêu hao trong đơn giá chi tiết.
Bảng 05: Định mức tiêu hao nguyên vật liệu trong đơn giá chi tiết công trình
Đơn vị tính: VNĐ
TT
Khoản mục
đơn vị
Tiêu hao định mức
So sánh thực tế/kế hoạch
Kế hoạch
Thực tế
Tăng(+)
giảm(-)
Tỷ lệ %
1
đá khan 4*6
M3
0,883
0,723
-0.16
-18,1
2
Đá dăm đệm
M3
1,30
1,21
-0.09
-8,7
3
Xi măng PC40
Kg
469,45
468,11
-1.34
-0,3
4
Thép tấm
Kg
3,6
3,54
-0,06
-1,7
5
thép hình
Kg
1,56
1,57
+0,01
+0,6
6
Que hàn
Kg
0,165
0,165
0
0
7
Dầu bôi trơn
Kg
0,52
0,5
-0,02
-0,039
8
Bu lông M28*105
Cái
0,62
0,62
0
0
9
Tà vẹt gỗ 14*22
Thanh
0,14
0,14
0
0
10
Đăng tơ
Cái
0,032
0,03
-0,02
-6,25
Qua bảng trên ta thấy việc quản lý định mức tiêu hao nguyên vật liệu của Công ty thực hiện tương đối tốt, tiêu hao nguyên vật liệu thực tế có xu hướng giảm xuống so với kế hoạch.
Đạt được điều đó là Công ty đã quản lý chặt chẽ nguyên vật liệu trong sản xuất do vậy đã tiết kiệm được nguyên vật liệu, hạn chế được lượng nguyên vật liệu tiêu hao. Về khâu quản lý thực hiện định mức, Công ty tiến hành theo dõi giữa việc xuất nguyên vật liệu đem sử dụng và quá trình sản xuất ở từng bộ phận, tổ đội sản xuất, xí nghiệp trên cơ sở đó phát hiện những bộ phận không hoàn thành định mức kế hoạch. Xác định số chi phí tăng lên do không hoàn thành định mức tiêu hao nguyên vật liệu và thực hiện khấu trừ vào lương của bộ phận đó. Đối với bộ phận hoàn thành tốt định mức, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu thì Công ty có biện pháp khuyến khích vật chất kịp thời.
Yếu tố chi phí nguyên vật liệu: phụ thuộc vào hai yếu tố là khối lượng vật tư tiêu hao và giá vật liệu xuất dùng. Nhìn chung nếu một công ty mà biết sử dụng tốt chi phí nguyên vật liệu thì công ty đó có lợi rất nhiều, giảm được nhiều chi phí cho công ty.
Khoản mục chi phí nhân công
Qua bảng 04 ta thấy chi phí nhân công thực tế so với kế hoạch giảm 11198705 đồng tương ứng với tỷ lệ hạ 3,6%. Công ty đã hoàn thành kế hoạch về khoản mục chi phí nhân công, đây là một nỗ lực lớn cần phát huy. Xem xét cụ thể nguyên nhân thực tế do:
Giá thành công trình được lập trên cơ sở khối lượng công tác và đơn giá Nhà nước ban hành. Công ty đã sử dụng đơn giá do sở xây dựng thành._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7783.doc