Chương I
Vai trò và nội dung của hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
I . hoạt động Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
1 . Khái niệm xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu Quế của Công ty XNK Tổng hợp 1 (GENERALEXIM), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này và thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mìh, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển, tuy hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước nhưng hiện nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực. Mọi điều kiện kinh tế xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản đến những máy móc có công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau.
. Vai trò của xuất khẩu.
Phương thức cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Kinh doanh xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. Có được vị trí như vậy là do xuất khẩu có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước hết xuất khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp tạo nguồn vốn để ngập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn vốn để nhập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông thiếu lao động đã qua đào tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó phải có một khối lượng ngoại tệ rất lớn.
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém
Công nghệ lạc hậu
Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp tại các nước này gặp phải. Nếu thiếu vốn doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái “vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, thiếu sẽ càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn.
Vốn? Đây là cấu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất nan giải đối với chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những vật cản chính trong quá trình phát triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn. Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội doanh nghiệp được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng trả nợ của công ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối cùng, thì bằng cách này hay cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu.
Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vốn để đổi mới máy móc thiết bị công nghệ , nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước dang phát triển nhằm hiện đại hoá và tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm tăng C, gía trị máy móc thiết bị và làm giảm V, giá trị lao động cấu thành trong giá trị của hàng hoá chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hút lượng ngoại tệ tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu.
Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu luôn là một thị trường nhiều triển vọng của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mỗi daonh nghiệp là lợi nhuận song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tói đa nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể phủ nhận là việc vuơn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân tộc, đa nhu cầu. Đặc biệt, tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phú, da dạng. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như: Thu nhập, sức mua của đồng tiền, tập tính, thói quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lựa chọn những đoạn thị trưòng phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham gia hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp có thể giảm đựoc chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô.
Ta hãy quan sát đồ thị sau :
Chi phí
Sản lượng
E1
E0
P1
Po
Q1
Q0
Như ta thấy trên đồ thị,tại điểm E1 với mức sản lượng là Q1 thì cần tới chi phí là P1.,khi tăng sản lượng từ Q1 lên Q0 thì chi phí sẽ giảm xuống còn Po<P1
Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được thị trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu của khách hàng, cùng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô.
Đặc biệt thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp có thể khai thác được. Bởi có những sản phẩm doanh nghiệp không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, hoặc thị trường trong nước không thể tiêu thụ được những sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản phẩm của doanh nghiệp, vươn ra chiếm lĩnh thị trường thông qua hoạt động xuất khẩu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng thời khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu diểm rất lớn mà xuất khẩu khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói tóm lại hoạt động giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng doanh số bán hạn chế rủi ro.
Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trưòng quốc tế. Thực hiện marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc tiến nhằm tăng khả năng thu nhập vào các thị trường lớn. Đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất với giá thị trường của nước mình nhằm tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thế giới. Từ đó tái đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt, xuất khẩu cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đây là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Và cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình. Con người luôn là chủ thể trong các quan hệ xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hút nhiều lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu công việc có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá nhân trong doanh nghiệp- đây chính là động lực để người lao động làm việc có chất lượng- nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn thế nữa, do các diều kiện tiếp xúc thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại. Nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, song song với cơ hội là những thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp phải nhận thức sự cần thiết, hiệu quả để thâm nhập thị trường nước ngoài.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp chuyên doanh XNK.
II . Nội dung của hoạt động xuất khẩu.
Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu thực tế cũng tương tự như một hoạt động mua bán trong nước nhưng có nhiều yếu tố cơ bản và phức tạp hơn do có yếu tố nước ngoài, bởi vậy doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả thì cần:
1 . Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đề ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết về thị trường của mình từ đó có thể ra quyết định kinh doanh chính xác và hiệu quả. Do vậy, nghiên cứu thị trưòng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu.
Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó.
Khi vận dụng khái niệm trên cho thị trường thế giới thì những điểm nêu trên càng rõ nét hơn, sự khác biệt và đa dạng càng trở nên sâu sắc hơn. Do vậy, thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng quốc tế tiềm năng của doanh nghiệp đó. Theo khái niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chiụ ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu tỷ mỷ.
Thật vậy, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa các nhân tố này có trường hợp được thể hiện rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn, khó nắm bắt. Việc định dạng các nhân tố này này cho phép các doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần đến ngành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức xâm nhập thị trường và các chính sách marketing khác, một cách khái quát nhất việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhân tố ảnh hưởng sau:
.Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu
Đó là các yếu tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt các hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, nhưng các nhà kinh doanh luôn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác như thuế quan, hạn ngạch, cấm vận hay hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu những sự quản lý điều tiết định hình như phân biệt đối xử tiêu chuẩn sản phẩm đối với doanh nghiệp nước ngoài.
Mặt khác các liên kết kinh tế vừa tạo lên những cơ hội song cũng tạo nen những thách thức đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu định thâm nhập vào thị trường đó. Như vậy nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu bước đầu sẽ cho doanh nghiệp một cái nhìn tổng quát trứơc khi đưa ra các quyết định kinh doanh của mình.
Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế
Khi xem xét các thị trường nước ngoài các nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước với ba đặc tính phản ánh sự hấp dẫn của một nứơc như xét một thị trường:
Trước hết là cấu trúc công nghiệp của nước đó, cấu trúc công nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực, có thể phân biệt các nứóc thành bốn loại cấu trúc như sau:
+ Nền kinh tế tự cấp tự túc: ở đó tuyệt đại dân cư làm nông nghiệp đơn giản. Họ tiêu thụ hầu hết các sản phẩm làm ra và trao đổi số còn lại để lấy những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trưòng ít hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu
+ Nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở phương diện khác, phần lớn thu nhập là nhờ xuất khẩu tài nguyên. Đây là thị trưòng rất hấp dẫn đối với trang thiết bị khai thác dụng cụ và nhiên liệu, thiết bị xử lý và phương tiện vận chuyển.
+Nền kinh tếđang công nghiệp hoá: tại các nứoc này công nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. Khi phát triển công nghiệp chế biến các nước này cần nhập khẩu nguyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng, công nghiệp hoá tạo ra một tầng lớp giàu có mới và trung lưu đang phát triển có nhu cầu về các loại hàng hoá mới, chủ yếu là hàng nhập khẩu.
+Nền kinh tế công nghiệp hoá: Đây là những nứoc xuất khẩu nhiều hàng xuất khẩu chế biến và vốn đầu tư. Họ mua bán sản phẩm hế biến và xuất khẩu sang các nước kém phát triển để đổi lấy nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Các hoạt động công nghiệp rộng lớn và da dạng cùng một tầng lớp trung lưu đông đảo tạo nên những thị trường hấp dẫn đối với mọi lợi sản phẩm.
Đặc tính thứ hai về kinh tế là phân bố thu nhập: Sự phân phối thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp song còn chịu tác động của nhân tố chính trị. Thu nhập bình quân đầu người của một nước sẽ phản ánh khả năng thanh toán của quốc gia đó cho những sản phẩm tiêu dùng mà họ nhập khẩu.
Đặc tính thứ ba là động thái của các nền kinh tế. Các nước trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bằng các tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưỏng đáng kể tới tổng mức nhu cầu của thị trường và tổng mức nhập khẩu của sản phẩm
.Nghiên cứu các nhân tố từ môi trường chính trị luật pháp
Các quốc gia rất khác nhau về môi trưòng chính trị, luật pháp, do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trườngnước ngoài cần chú ý tới một số nhân tố cơ bản sau:
Thái độ đối với các nhà kinh doanh nước ngoài: Một số nước rất khuyến khích thực sự đối với các nhà đầu tư nước ngoài, còn một số nứơc khác lại có thái độ thù địch. Do vậy, daonh nghiệp có thể gặp nhiều thuận lợi với luật khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật, về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Song cũng có thể gặp nhiều trở ngại với những yêu cầu hạn ngạch, hạn chế sử dụng ngoại tệ, quy định về sự có mặt cao của người địa phương trong hội đồng quản trị..
Sự ổn định chính trị: Một đất nước với một chế độ chính trị ổn định là điều kiện căn bản sự tin tưởng cho các nhà kinh doanh nước ngoài có thái độ kinh doanh nghiêm túc.
Sự điều tiết về tiền tệ: nhiều quy định về sử dụng ngoại hối cũng có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trường hợp lý tưởng nhất là được tự do chuyển ngoại tệ. Trường hợp ít thuận lợi hơn là các nhà đầu tư là chỉ ra các hàng hoá mà họ cần hay họ xuất khẩu ra nước khác để thu ngoại tệ mà họ cần. Trường hợp xấu nhất là nhà kinh doanh buộc phải chấp nhận những sản phẩm khó bán mà chỉ có thể bán lỗ tại các thị trường khác. Bên cạnh những hạn chế về tiền tệ, tỷ giá hối đới biến động mạnh cũng tạo ra những rủi ro cho nhà kinh doanh xuất khẩu.
Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Đó là mức độ chính quyền nước chủ nhà điều hành một hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Các quyết định mang tính chất quyết định về pháp luật và quản lý cũng cần được xem xét kỹ lưỡng như việc cấm vận hoặc cấm bán đối với số hàng hoá và doanhnghiệp, cấm một só phương thức và hoạt động thương mại, các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm..
.Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá
Mỗi nước đều có những quy tắc, tập tục, điều kiện riêng. Chúng đựoc hình thành theo điều kiện truyền thống. Văn hoá của mỗi nước có ảnh hưởng to lớn đến tập tục tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã xuất hiện khá nhiều tập tục tiêu dùng cho mọi chế độ. Song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng được thể hiện rất rõ trong sự khác biệt truyền thống giữa phương Đông và phương tây, giữa các tôn giáo và chủng tộc
Cần chú ý rằng sự khác biệt về văn hoá có thể diễn ra ngay trong thị trường của một nứơc. Trên thế giới vẫn có những thị trường có bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật..). Song cũng có những thị trường hết sức phức tạp về văn hoá (Hoa Kỳ). Vì thế, khi xem xét sự khác biệt về văn hoá không nhất thiết phải đóng khung trong ranh giới quốc gia
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức kinh doanh dược tiến hành, loại sản phẩm mà khách sẽ mua, những hình thức khuyếch trưong có thể chấp nhận được
.Nghiên cứ các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh
Sức hấp dẫn của môi trường nước ngoài còn chịu nhiều ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh trên thị trường đó
Sử dụng mô hình chuỗi giá trị cho phép phân tích đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh. Việc phận tích những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh là một trong những nội dung quan trọng khi xem xét thị trường nước ngoài song lại có thể phức tạp hơn những vấn đề khác vì hế nó phải tiến hành trong sự nhận thức của khách hàng, trong tất cả sự méo mó trong ý thức. Khó khăn nữa trong việc xác định tình hình cạnh tranh trong một số nước là do thiếu thông tin đáng tin cậy.
Mô hình 5 sức mạnh của Micheal- Porter là mô hình được nhiều nhà phân tích sử dụng đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp
Đối thủ mới - tiềm năng
Sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh
Cạnh tranh giữa các
Công ty hiện tại
Khả năng mặc cả
của người mua
Người mua
Cạnh tranh giữa các
Công ty hiện tại
Khả năng mặc cả
của người cung cấp
Nhà cung cấp
Sự đe doạ của các mặt hàng, dịch vụ thay thế
Sơ đồ 1 : Mô hình 5 sức mạnh của Micheal-Porter
Trước hết nhà kinh doanh phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa, ở đấy có thể xẩy ra 2 trường hợp theo vị thế cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh nội địa có thể được hưởng một ưu thế rất thuận tiện do những hỗ trợ của chính phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng. ở một số nước nhất là các nước đang phát triển thì ngựoc lại đối thủ cạnh tranh nội địa có thể phải ở thế bất lợi do sự tín nhiệm của khách hàng đối với uy tín của doanh nghiệp hoặc trở thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoại. Khi phân tích vị trí cạnh tranh các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác dịnh được tâm lý thị trường nội địa ở đó và mức lan truyền của nó. Những diểm này có tầm quan trọng lớn trong việc xác định các chính sách Marketing của doanh nghiệp. Song song với các đối thủ cạnh tranh nội địa, thì doanh nghiệp phải dối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài khác hoạt động trong cùng lĩnh vực và mục tiêu thị trường vì vậy doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó trực tiếp, gián tiếp với các nguồn lực có thể rất đáng kể được chính phủ chi cho cạnh tranh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các dối thủ mới- tiềm năng, các mặt hàng và dịch vụ thay thế, sức ép từ phía ngưòi mua thậm chí từ phía nhà cung cấp. Như vậy, một đòi hỏi lớn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là phải nghiên cứu, nắm bắt và chế ngự những phần nào của môi trường cạnh tranh
.Nghiên cứu nhu cầu thị trường
Một chỉ tiêu quan trọng nhất đặc trưng cho nhu cầu thị trưòng là lượng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hy vọng đạt dược trên thị trường đó:
Dữ liệu cần thiết
Dữ liệu kinh tế vĩ mô
(Dân số, sức mua, hoạt động công nghiệp...)
Tổng nhu cầu
thị trường
Nghiên cứu
Ước lượng vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của nó
Thông tin về cạnh tranh nội địa và nướcngoài
Dự báo tổng lượng bán có thể đạt được
Phản ứng của nhu cầu nội địa với giá cả
Giá cạnh tranh
Ước lượng doanh
số tiềm năng
Giá bán dự kiến
Sơ đồ 2: ước lượng doanh thu dự kiến và lợi nhuận có thể đạt được
Một khía cạnh của nghiên cứu thị trường cần được nghiên cứ là sự biến động theo thời gian của nó biểu hiện qua sự tăng giảm của tổng mức nhu cầu hoặc doanh số hay tốc độ tăng giảm của các chỉ tiêu đó. Nó sẽ phản ánh triển vọng phát triển của nhu cầu thị trường trong tương lai để doanh nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương mại
1.7 .Nghiên cứu cơ cấu của thị trường
Mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là thị trương thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm hàng rất khác nhau về mọi mặt đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội, văn hoá. Vì thế doanh nghiệp cần phân tích tỷ mỷ cơ cấu tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tôn giáo. Theo chủng loại sản phẩm tiêu dùng và mức độ tiêu dùng sản phẩm theo các dối thủ cạnh tranh chủ yếu và các sản phẩm cạnh tranh chủ yếu. Việc xác định các loại cơ cấu thị trường trên cho phép doanh nghiệp định vị từng loại thị trương mục iêu với những tập tính tiêu dùng cụ thể nhằm xác định những đoạn thị trường có triển vọng nhất và khả năng chiếm lĩnh các đoạn thị trường dó.
.Nghiên cứu hành vi hiện thực và tập tính tinh thần của khách hàng
Hành vi hiện thực của khách hàng được biểu hiện qua sự biến động của nhu cầu theo các nhân tố ảnh hưởng, những thói quen mua hàng và theo thông tin về sản phẩm. Hành vi hiện thực còn được biểu hiện qua mức độ co giãn của nhu cầu theo giá cả.
Theo tập tính tinh thần của khách hàng là những điều khách hàng suy nghĩ, cách lựa chọn sản phẩm được biểu hiện qua mức độ tự chủ của khách hàng trong các quyết định nua hàng và mức độ ảnh hưởng của gia đình, các nhóm tham khảo đối với các yếu tố chất lượng của sản phẩm và mức giá được chấp nhận
. Nghiên cứu cách thức tổ chức thị trường nước ngoài
Các nhà phân phối và người chỉ dẫn là những nhân tố tạo nên sự khác biệt giữa các thị trường nước ngoài. Số lượng các trung gian phân phối trong chu trình sản phẩm và tầm quan trọng của mỗi trung gian trong chu trình thể hiện rất khác nhau giữa nước này với nước kia. Vì vậy ,cần tìm hiểu kỹ nó khi ra quyết định về cách thức thâm nhập thị trường.
Như vậy, chín vấn đề cần quan tâm trong công tác nghiên cứu thị trường suy đến cùng là giúp cho doanh nghiệp trả lời những câu hỏi sau:
+ Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì)?
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên mà doanh nghiệp tham gia thương mại quố tế cần xác định, mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn những mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn mặt hàng ngoài yêu cầu phải đạt được tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng dược nhu cầu thị trường còn phải phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự đánh giá phân tích cẩn thận những đặc điểm nội tại với diểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp cũng như thấyđược và dự đoán được những cơ hội hay những bất lợi của doanh nghiệp khi đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế. Đồng thời xu thế các loại mặt hàng đó trên thị trường cũng phải được xem xét và dự đoán một cách tương đối chính xác cụ thể doanh nghiệp phải trả lời những câu hỏi như: Mặt hàng thị trường đang cần là gì? Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào cuả chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng xuát khẩu đó như thế nào? Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó như thế nào?
Từ đó, doanh nghiệp sẽ dưa ra những quyết định về hàng xuất khẩu sao cho có hiệu quả nhất
+ Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán đi đâu)
Trả lời câu hỏi này nghĩa là doanh nghiệp đã tìm cho mình con dường đi tới mục tiêu hiệu quả và lợi nhuận. Vì vậy, việc lựa chọn thị trường nước ngoài cho hoạt động của doanh nghiệp là khởi đầu đầy khó khăn quyết định sự thành công trong tương lai của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những phân tích và cân nhắc kỹ càng trước khi ra quyết định
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp.Nói chung khó có thể lựa chọn dứt khoát một hoặc hai chiến lược tập trung và phân tán vì sự ảnh hưởng của nhân tố theo những lượng khác nhau dẫn tới tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có được những phân tích cơ sở đánh giá những cơ hội mở rộng thị trường thì cũng sẽ tạo một bức tranh toàn cảnh giúp doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của doanh nghiệp thích hợp hơn với chiến lược tập trung hay phân tán. ở đây cần thừa nhận rằng có những nhân tố quyết định khách quan song việc lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào phần lớn dánh giá chủ quan về cơ hội và những đe doạ liên quan đến hai chiến lựoc nói trên. Hiển nhiên những đánh giá chủ quan này cũng được hình thành từ thực tiễn quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm đã được đúc kết về môi trường kinh doanh, khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Tuy vậy, những căn cứ khách quan của những phân tích cơ sở giúp cho những đánh giá của doanh nghiệp có cơ sở vững chắc hơn, hạn chế những sai lầm khi ra quyết định
+ Lựa chọn bạn hàng kinh doanh (bán cho ai)?
Một doanh nghệp có thể xuất khẩu sản phẩm của mình theo hai cách là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là một hình thức doanh nghiệp thông qua dịch vụ và các tổ chức độc lập đặt ngay tại các nước xuất khẩu để tiến hành hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế. Trong hình thức này các doanh nghiệp có thể sử dụng trung gian phân phối như hãng buôn xuất khẩu, Công ty quản lý xuất khẩu, đại lý xuất khẩu, khách vãng lai, các tổ chức phân phối chính hợp. Nhưng dù tổ chức nào đi nữa thì cũng phải có kinh nghiệm và năng lực để đảm bảo cho hai bên kinh doanh một cách thuận lợi và hiệu quả.
Hầu hết các nhà sản xuất chỉ sử dụng các trung gian phân phối trong những điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêngcủa mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị trường do họ thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hơn. Trong tình trạng hiện nay các nhà xuất khẩu phải giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài và khu vực thị trường nứơc ngoài không qua tổ chức của mình.
Tóm lại, việc lựa chọn một bạn hàng kinh doanh sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để tạo sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
2.Xây dựng chiến lược, kế hoạch xuất khẩu
Kế hoạch kinh doanh là phương án cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt đựơc các mục tiêu xây dựng trong kinh doanh. Dựa vào kết quả thu dược của việc nghiên cứu ở các khâu nêu trên, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể nhằm ứng phó với những dự doán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt dựoc khi thựchiện được quá trình này. Nội dung của việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm:
Doanh nghiệp cần có một định hướng rõ ràng trên cơ sở phân tích các yếu tố về môi trưòng kinh doanh, đưa ra những dánh giá mang tính tổng quát về cơ hội và thách thức, diểm mạnh và diểm yếu của doanh nghiệp. Định hướng là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó. Thực chất việc định hướng là hoàn thành những mục đích và mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra xuất phát từ bản chất của một hệ thống có tổ chức đê thực hiện các hoạt dộng có mục đích chung của doanh nghiệp thông quá sự hợp tác chặt chẽ giữa mọi người trong doanh nghiệp
Xây dựng các biện pháp, cách thức thực hiện để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trước đó. Cụ thể đó là những biện pháp về sản phẩm, sản xuất, tìm kiếm, bạn hàng,...với kế hoạch chi tiết trong từng lĩnh vực nên bước này đòi hỏi phải được chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng cụ thể dựa trên cơ sở phân tích các thông tin có liên quan.
Như vậy, có thể thấy rằng công tác xây dựng kế haọch kinh daonh là một công tác quan trọng và vô cùng cần thiết đối với hoạt động của một doanh nghiệp. Một kế hoạch kinh doanh khoa học và khéo léo dựa trên việc phân tích chuẩn xác các yếu tố môi trưòng có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp.
3 . Ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hợp đồng xuất khẩu. Nó đảm bảo tính pháp lý trong mỗi thương vụ làm ăn của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành hay không phụ thuộc vào những diều khoản mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng. Mọi sự vi phạm đều có thể phá vỡ hợp đồng. Tóm lại hợp đồng xuất khẩu là một văn bản pháp lý quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên thực hiện hợp dồng xuất khẩu. Và việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là cách thức mà các bên thựchiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Do vậy, ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là khâu không thể thiếu trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu cần xác định rỏtách nhiêm, nội dungvà trình tự công việc phỉ làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gay nên thiệt hại. Tất cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiéu nại. Phải yêu cầu đối phương thực hiện các nhiệm vụ theo hợp đồng.Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau :
Ký hợp đồng xuát khẩu
Xin
giấ._.y phép xuất khẩu
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng lên tàu
Chuẩn bị hàng hoá
Giả quyết khiếu nại
Làm thủ tục thanh toán
Kiểm nghiệm hàng hoá
Uỷ thác thuê tàu
Mua bảo hiểm
Kiểm tra L/C
4 . Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh .
Hiệu quả kinh doanh = S doanh thu – S chi phí
Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hiệu quả ta dùng công thức:
Hiệu quả kinh doanh
=
ồ Doanh thu
ồ chi phí
Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp còn xác định qua chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên lợi nhuận mà doanh nghiệp thu dược so với tổng vốn bỏ ra trong hoạt dộng kinh doanh xuất nhập khẩu:
Doanh lợi
=
Lợi nhuận
ồ vốn
Bên cạnh dó còn có chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh lợi
=
Lợi nhuận
Doanh thu
Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá tổng hợp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng đối với doanh nghiệp chuyên doanh hoạt động xuất nhập khẩu để đánh giá một cách chi tiết hơn hiệu quả kinh doanh có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
*Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu. Là lượng bản tệ (nội tệ) phải chi để có một đơn vị ngoại tệ:
KXK =PX/TX
Trong đó:
KXK :tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu
PX: chi phí cho lo hàng xuất khẩu
TX: Số ngoại tệ thu dược khi bán lô hàng này
NếuKXK nhỏ hơn tỷ giá hối đoái thì hoạt động xuất khẩu có hiệu quả
*Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của xuất khẩu: chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên chi phí đầy đủ để sản xuất lô hàng
Xk
=
Dxk - Fxk
Fxk
x 100%
Trong đó: Dxk :doanh thu ngoại tệ thuần tuý
Fkx :là giá trị đâỳ đủ trách nhiệm đối với xuất khẩu (quy ra ngọai tệ)
Chỉ tiêu lợi nhuận trong xuất khẩu
Px = q * ( p - f )
Trong đó:
Px : lợi nhuận đối với mặt hàng xuất khẩu
Q : Khối lượng hàng xuất khẩu
P : Giá trị một đơn vị hàng
F : Chi phí đầy đủ của một đơn vị hàng hoá
Chỉ tiêu này giúp ta phân biệt được lợi nhuận của từng mặt hàng, lô hàng hay chuyến hàng.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối ngưòi ta sử dụng chỉ tiêu tương đối như: Mức doanh lợi, chỉ tiêu về vốn kinh doanh, năng suất lao động.
Ngoài các chỉ tiêu định lượng ở trên, để xác định hiệu quả hoạt động xuất khẩu còn có các chỉ tiêu định tính. Đây là chỉ tiêu gián tiếp rất khó lượng hoá nhưng không phải là không lượng được. Chẳng hạn chỉ tiêu thu hút các nguồn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với các tổ chức tư thương nước ngoài. Chỉ tiêu mở rộng môi trường và bạn hàng kinh doanh, chỉ tiêu về uy tín do hoạt động xuất khẩu đem lại
III . Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp
Trong hoạt động thương mại bất kỳ hình thức kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của moi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo diều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh phát triển, song cũng có thể là vật cản mạnh mẽ đối với các hoạt động này. Đối với xuất khẩu, một nội dung quan trọng của thương mại quốc tế thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh phong phú và phức tạp hơn so với thương mại quốc tế trong nước. ở đây, ta có thể phân chia những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt dộng kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp thành 2 nhóm nhân tố cơ bản nhân tố vĩ mô và nhân tố vi mô
1.Nhân tố vĩ mô
ở các nước khác nhau thường có chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Để nền kinh tế quốc dân vận hành một cách có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là điều cần thết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, những công cụ chính sách chủ yếu thường dược Nhà nứơc sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động này:
Thuế quan:
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là thuế đánh vào từng đơn vị hàng hoá xuất khẩu.
Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình và mở rộng kinh tế đối ngoại. Thuế quan cũnh gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng nên khong hiệu quả và do giảm mức tiêu dùng trong nước
+Tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá sản phẩm: các quốc gia đặt những tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá hay về thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu hay nhập khẩu
+Giấy phép xuất khẩu: Nhà ước cấp giấy phép xuất khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh nhằm theo dõi việc xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu.
*Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuýên khích xuất khẩu
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đén quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thưòng kỳ để đạt dựoc mức tỷ giá hối đoái cân bằng trên thị trừơng và mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là biện pháp có tác động thúc đẩy mạnh mẽ cho việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này dược nhiều nước áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nứơc ngoài thì sự rủi ro cao hơn nhiều so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyên khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức như: miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, cho bạn hàng nước ngoài ưu tiên để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình..
Bên cạnh dó, chính phủ muốn các nhà kinh doanh trong nước hứơng ra thị trường nứơc ngoài thì phải giảm bớt tính hấp dẫn tương đối cho việc sản xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ đối với các ngành công nghiệp ưu đãi và tranh thủ quy định hạn ngạch khối lưọng nhập khẩu. Lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cũng phải giữ ở mức phù hợp với mức lợi nhuận xuất khẩu. Điều đó nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thống nhất với tất cả các mặt hàng
*Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại
Trong hoạt đông kinh doanh quốc tế nói chung giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên, biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chếnhập khẩu, cấm nhập khẩu hay vay vốn để giữ cho cán cân thanh toán đựoc cân bằng. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyên khích việc sản xuất hàng xuất khẩu. Song song với việc mở rộng quy mô xuất khẩu, da dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu trong đó chú trọng đến mặt hàng chủ lực, có nhiều quốc gia mới giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Như vậy, nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của một quốc gia
* Các quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu, khi xuất khẩu hàng hoá từ nứơc mình sang một nước nào đó tức là đưa hàng hoá thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với hàng rào thuế quan như thuế quan thu nhập (để tăng thu nhập cho quốc gia nhập khẩu), thuế quan bảo hộ (bảo hộ cho các ngành công nghiệp trong nước nhập khẩu) hay những hàng rào phi thuê quan sự phận biệt đỗỉ với các nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử hàng nước ngoài... và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu. Các hàng rào này là chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yêú vào quan hệ kinh tế song phuơng giữa các nứoc xuất khẩuvà nhập khẩu.
Trong khi đó xu hưiớng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau dược hình thành, nhiều hiệp dịnh song phưong, đa phương giữa cácnước, các khối kinh tế cũng đựơc ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào những liên minh kinh tế và những hiệp dịnh thương mại ấy thì nó sẽ là một tác nhân tích cực dẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Nếu không chính nó trở thành rào chắn đối với việc thâm nhập thị trường nước đó. Tóm lại, có được những mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo ra những tiền đề thuận tiện cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia
*Trình độ phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng có tác động rất lớn tới công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của các doanh nghiệp vào vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đặc biệt, các bến bãi, nhà ga, cảng biển có tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ thống này đựơc đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của kinh doanh quốc tế sẽ là nhân tố có tác đông tích cực tới hoạt dộng xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật chắc chắn sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể doanh nghiệp mất cơ hội kinh doanh. Như vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia tuỳ thuộc vào trình độ phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
2.Những nhân tố vi mô(thuộc bản thân doanh nghiệp)
Bên cạnh những nhân tố vĩ mô, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưỏng sâu sắc từ các nhân tố vi mô. Có thể nói đây là những nhân tố bên trong có tính chất quyết định đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp dó là:
.Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi quan hệ xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy, con người luôn dựoc dặt ở vị trí trung tâm, khi xem xét các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ vững vàng về chuyên môn, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trứơc biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê nhiệt tình trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiẹp. Ngược lại nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp muốn hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì nhất thiết phải quan tâm đào tạo, tuyển chọn các đội ngũ lao động thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng tới công tác quản lý nhằm tạo động lực cho người lao động thực sự có hiệu quả
2.1.Khả năng tài chính
Để kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp nhất thiết phải xây dựng chiến lựơc kinh doanh. Trong kinh doanh, thuật ngữ “chiến lược” được hiểu là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đến mục tiêu dã định. Chiến lựoc bao gồm: các đường lối tổng quát, các chủ trương mà doanh nghiệp sẽ thực thi trong một thời gian dài, các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, các nguồn lực, các tiềm năng được sử dụng để đạt được mục đích đó và các chính sách diều hành việc thu hút, phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng cần thiết để đạt được mục tiêu này. Bên cạnh một số yếu tố khác, khả năng tài chính là nhân tố quyết định đến mục tiêu và chiến lựơc của doanh nghiệp
Khả năng
Tài chính
Tài chính nội bộ doanh nghiệp
Tài chính bên ngoài doanh nghiệp
Mục tiêu của
doanh nghiệp
Đạt
Phát triển
ổn định
Tăng trưởng
Không đạt
Giảm sút
Phá sản
Mô hình khả năng tài chính của doanh nghiệp
Nếu có khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động chất lượng cao, tăng quy mô kinh doanh từ đó tạo thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường. Có thể nói, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưỏng rất lớn của khả năng tài chính doanh nghiệp.
2.3.Trình độ tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra những cơ hội, nhưng cũng gây lên nguy cơ đối với tát cả các ngành nghề nói chung và đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng những công nghệ mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của chính mình trên thị trường
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa ra ứng dụng những công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp các dơn vị sản xuất tạo ra những sản phảm mới với chất lượng cao hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm sẽ được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đồng thời nó cũng gíup cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả hơn thông qua việc tác động tới hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, ..Tuy vậy, hiệu quả công nghệ còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt nam không ít các doanh nghiệp chỉ quan tâm chạy theo khẩu hiệu “hiện đại hoá” đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết hiệu quả công nghệ do sự hạn chế về khả năng sử dụng của người lao động. Vì vậy, nhập công nghệ hiện đại nhưng phải phù hợp với trình độ ngưòi lao động thì mới có hiệu quả. Đặc biệt trong quá trình chuyển giao công nghệ cần có cán bộ kỹ thuật có trình độ hoặc những chuyên gia giỏi để tránh bị thua thiệt trước “tiểu xảo” của đối tác nước ngoài. Tóm lại, trình độ tiếp thu công nghệ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
2.4.Vị trí dịa lý
Nếu dựoc bố trí gần nơi cung cấp các yéu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga, cảng biển doanh nghiệp sẽgiảm được chi phí vận chuyển- đây là cơ sở dể doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách địa lý với nhà cung cấp yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thuờng xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động xuất khẩu. Như vậy, để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn vị trí tối ưu, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
2.5.Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp được đo bằng nhữg “lá phiếu” mà khách hàng dành cho sản phẩm của doanh nghiệp. Quyết định mua hàng của người tiêu dùng ngoài một số nhân tố khách quan, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp. Từ dó khách hàng tự xây dựng biểu tưọng về doanh nghiệp để làm “kim chỉ nam” cho hành động mua hàng của mình. Như vậy, uy tín của doanh nghiệp là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thị trưòng
IV.Kinh nghiệm về tổ chức xuất khẩu của một số doanh nghiệp Việt nam
Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra khá sôi dộng và dạt dược nhiều thành tựu đáng kể, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường thế giới và kinh doanh có hiệu quả. Bài học kinh nghiệm từ những doanh nghiệp này rất nhiều, ở đây chỉ đưa ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác tổ chức xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu và đầu tư KonTum, Công ty xuất nhập khẩu An Giang, Xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản Cần Thơ, công ty XNK Vĩnh Long
1.Công ty XNK và đầu tư Kon Tum vươn lên trong cơ chế thị trường nhờ mạnh dạn đầu tư cho sản xuất chế biến hàng xuất khẩu
Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tổng hợp, đa dạng, công ty đã thành lập các đội liên doanh trên từng lĩnh vực. Từ một trụ sở đặt tại 104Lê Hồng Phong thị xã Kon Tum, đến nay Công ty đã có 9 đơn vị trực thuộc gồm 5 xí nghiệp, 2 phân xưỏng và 2 chi nhánh kinh doanh xuất nhập khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Doanh số tăng lên đều hàng năm, năm 1995 giá trị tổng sản lượng đạt 80.7 tỷ đồng, năm 1996 đạt 97.17 tỷ đồng, năm 1997 đạt 110.28 tỷ đồng, năm 1998 con số này lên tới 125.3 tỷ đồng, năm 1999 tổng doanh số bán ra là 141.13tỷ đồng
Đồng thời với mục tiêu kinh doanh, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, được uỷ ban nhân dân tỉnh và các ban ngành chức năng ủng hộ, công ty dã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị hiện đại vào công nghệ tính chế gỗ. Từ buổi đầu với nhiệm vụ chính là kinh doanh lâm sản ở dạng nguyên liệu và sơ chế, đến nay công ty đã tạo được những sản phẩm đa dạng, được thị trường nước ngoàii chấp nhận.
Đến năm 2001, Công ty quyết tâm đầu tư theo chiều sâu vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp tạo vòng khép kín từ sản xuất đến chế biến hàng xuất khẩu. Công ty quyết tâm đầu tư hoàn chỉnh dự án phát triển vùng nguyên liệu sẵn có với vốn đầu tư trong 3 năm khoảng 12 tỷ đồng, nhằm tập trung thu mua xuất khẩu 16 nghìn tấn sắn lát khô và chế biến 20 nghìn tấn sắn tinh bột, hàng năm tạo ra nguyên liệu bán thành phẩm xuất khẩu. Nếu điều kiện cho phép, Công ty sẽ xây dựng nhà máy chế biến cà phê và cao su bán thành phẩm xuất khẩu hàng hoá, tạo thêm ngành nghề mới cho địa bàn
Như vậy, hoạt động xuất khẩu của Công ty không những phát triển theo chiều rộng mà còn phát triển theo chiều sâu. Trong tổ chức xuất khẩu, công ty đã đầu tư cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nhằm ổn định nguồn hàng dựa trên cơ sở nguồn lực của địa phương.
2.Công ty XNK An Giang phát triển nhờ gắn với địa phương và kinh doanh có hiệu quả
Đến nay Côngty XNK An Giang đã có bề dày lịch sử hơn 20 năm phát triển. Đó là chặng đường vất vả, có những thời kỳ tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Nhưng nhờ có sự đoàn kết nhất trí của cán bộ công nhân viên, sự lãnh đạo sâu sát của tỉnh uỷ và Bộ thương mại, công ty đâ đứng vững trong cơ chế thị trường, kinh doanh có hiệu quả, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước
Công ty làm ăn có hi0…..ệu quả là nhờ sự đổi mới trong công tác tổ chức xuất khẩu. Công ty đã đầu tư vào lĩnh vực sản xuất gắn liền với kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngay từ năm 1988, công y đã mở rộng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất chế biến nông sản, thực phẩm xuất khẩu, đầu tư công nghệ hiện đại với 5 cụm nhà máy chế biến xay xát lưong thực xuất khẩu với công suất 150 nghìn tấn/năm, hệ thống kho có sức chứa 25 nghìn tấn. Từ năm 1990 đén năm 1999 công ty đã trang bị 10 bộ máy vi tính và một số trang thiết bị hiện đại khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Phương thức sản xuất, chế biến, kinh doanh được khép kín từ khâu tổ chức thu mua đến khâu bảo quản chế biến, đóng gói bao bì và xuất khẩu trực tiếp, không thông qua trung gian nên chất lượng đảm bảo, giá thành hợp lý, hàng hoá có sức cạnh tranh và tiêu thụ được nhiều hơn trên thị trường quốc tế
Ngoài ra, công ty còn góp vốn vào Công ty liên doanh ANGIMEX_KITOKU (Nhật bản) chế biến gạo và xuất khẩu và xí nghiệp liên doanh ANGIMEX-VIETSING (Hồng Kông) sản xuất chế biến bắp non, nấm rơm, đậu đỏ, mè đen xuất khẩu với tổng giá trị 738 nghìn USD vào năm 1999
Công ty luôn xác định con người là yếu tố quyết định trong công tác quản lý và sản xuất kinh doanh. Do vậy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của cán bộ công nhân vien luôn được đảm bảo và đáp ứng yêu cầu của Công ty.
Bài học kinh nghiệm cho công tác XNK ở dây là gắn sản xuất , chế biến với kinh doanh xuất khẩu tạo sức mạnh cạnh tranh về mọi mặt bằng cách liên doanh, liên kết với các đơn vị khác, coi con người là yếu tố trung tâm, quyết định sự thành công trong kinh doanh.
3. CAFATEX nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu
Xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản xuất khảu Cần Thơ thành lập tháng 7 năm 1992 trên cơ sở xí nghiệp cung ứng sản phẩm thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu cho hệ thống SEAPRODEX Việt Nam
Đến nay CAFATEX đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước: Mỹ, Canađa, Hồng Kông.....năm 1997, kim ngạch xuất khẩu đạt 43 triệu USD, năm 1998 đạt 45.2 triệu USD, năm 1999 đạt49 triệu USD và năm 2000 đạt 50.6 triêu USD
Năm 1996, công ty nhanh chóng đầu tư nâng cấp toàn bộ hệ thống nhà xưởng, máy móc, công nghệ, lắp đặt nhiều thiết bị hiện đại của Mỹ, Thuỵ Điển, Anh.. Xí nghiệp còn tiến hành xây dựng hệ thống công nghệ mới theo hướng nhằm tiếp nhận và phát triển kỹ thuật mới, nhanh chóng đạt đựoc trình độ chế biến hàng đầu xuất khẩu như các nước trong khu vực ASEAN
Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu công ty đặt cho mình 2 mục tiêu. Thứ nhất là tăng kim ngạch xuất khẩu bằng cách nâng cao công suất chế biến thuỷ hải sản cao cấp, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu chưa qua chế biến. Thứ 2 đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, khai thác thêm thế mạnh về hàng nông sản, rau quả sẵn có ở các địa phương
Bài học kinh nghiệm về đứng vững trên thị trưòng thời gian qua của công ty là luôn nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên để nắm bắt kịp thời công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh danh.
Chương II
tình hình hoạt động xuất khẩu quế ở công ty XNK tổng hợp 1
I.Khái quát về công ty XNK tổng hợp I.
1.Sự hình thành và phát triển của Công ty
Sự hình thành của công ty
Đầu những năm 1980, nhà nước ban hành những chủ trương chính sách nhằm đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, trong đó có việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương được sử dụng ngoại tệ do xuất khẩu vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ tiêu phải nộp công tác xuất nhập khẩu lên mạnh mẽ.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa khuyến khích xuất nhập khẩu ở địa phương vừa chấn chỉnh, từng bước lặp lại kỷ cương hoạt động này. Muốn như vậy thì một lúc phải tôn trọng các quy luật kinh tế, vừa phải đi đúng đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và vừa phải mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân.
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ góp phần đưa công tác xuất nhập khẩu đi đúng hướng, thu hút các đầu mối nhỏ về một mối.
Theo đề nghị của đồng chí Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Bộ trưỏng bộ ngoại thương (nay là bộ thương mại) đã quyết định thành lập Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1. Công ty này chính thức được thành lập từ ngày 15/2/1981 theo quyết định số 1365/TCCB của Bộ ngoại thương, nhưng phải đến tháng 8/1982 mới thực tế đi vào hoạt động, với trụ sở chính đặt tại 46 Ngô Quyền – Hà Nội và lấy tên giao dịch là GENERALEXIM - Hà Nội.
Công ty trực thuộc Bộ thương mại, hoạt động theo chế độ hoạch toán, có tư cách pháp nhân, vốn và tài sản riêng tại ngân hàng. Biên chế ban đầu là 50 cán bộ được giao 139 000 đồng (thời giá năm 1981) với nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu là xuất nhập khẩu uỷ thác.
Năm 1993, theo quyết định số 858/TCCN của Bộ thương mại đã quyết định hợp nhất Công ty phát triển sản xuất và xuất nhập khẩu vào Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1, giúp tạo nên cho Công ty những thế lực mới hết sức to lớn.
1.2 Sự vận hành và phát triển của Công ty
Từ khi thành lập và thực sự đi vào hoạt động cho đén nay, Công ty đã nằm trong những thời điểm đất nước trải dài những biến đổi sâu sắc về kinh tế xã hội, chính trị. Vì vậy, sự vận hành của Công ty được chia thành các giai đoạn như sau:
1.2.1 Giai đoạn 1 (Từ tháng 12/1981 đến cuối năm 1984)
Bảng 3: Kim ngạch xuât nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 giai đoạn 1982-1984
Năm
Thực hiện (USD)
Hoàn thành kế hoạch(%)
1982
11 800 000
100
1983
12 674 000
103
1984
19 163 000
108
Nguồn tài liệu tham khảo số 4,5
Trong những năm này, Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Từ đó có thể thấy đựoc cố gắng vượt bậc của Công ty trong giai đoạn đầu mới thành lập với những khó khăn của nền kinh tế nước nhà.
1.1.2 Giai đoạn 2 (1895-1989)
Giai đoạn 2 là giai đoạn mà hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển chậm hơn, kinh doanh mang đặc tính quản lý bao cấp hơn phục vụ. Tiền tệ biến động phức tạp do việc đổi tiền năm 1985, lạm phát liên tục tăng cao, chính sách thuế cũng đầy biến động, phát sinh nhiều sắc thuế mới như thuế xuất nhập khẩu, thuế vốn, thuế lợi tức (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp) ,thuế doanh thu. Tỷ suất thuế đã cao lại hay điều chỉnh không phù hợp với chu kỳ hàng hoá
Vượt qua khó khăn thử thách này, sau những năm mày mò và sơ bộ khẳng định được một số yếu tố cần phải tập trung xây dựng, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế, Công ty đã tập trung sức lực của mình để phát triển.
Qua việc chấn chỉnh và nâng cao nhận thức, Công ty đã thu được những tiến bộ đáng kể bất chấp sự thay đổi theo hướng bất lợi của thời cuộc. Sau đây là chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty giai đoạn 1985-1989
Năm
Thực hiện (nghìn USD)
Hoàn thành kế hoạch(%)
1985
35 560
114
1986
46 813
116
1987
51 349
118
1988
49 257
115
1989
44 418
109
Nguồn tài liệu tham khảo số 8, 9
Do chính sách đổi mới của Đảng, kinh tế thị trưòng thay thế cho nền kinh tế với cách quản lý theo cơ chế kế hoạch tập trung vừa bị suy kiệt do khủng hoảng kéo dài hàng năm, sự thay đổi vào thời điểm năm 1985- 1989 này khiến cho kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty có giảm đôi chút tuy nhiên, Công ty vẫn thực hiện hoàn thành vựơt mức kế hoạch 9%. Có được kết quả này do sự quản lý có hiệu quả với những bước đi đúng hướng của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
1.1.3 Giai đoạn 3 (1991-2001)
Trong giai đoạn này, lịch sử nên kinh tế đất nước thực sự bước sang trang mới. Lĩnh vực xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trưòng có nhiều thay đổi trong việc quản lý vĩ mô Nhà nước như: Số lượng Công ty xuất nhập khẩu tăng lên nhiều, nhiều đơn vị chuyên doanh đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh đó việc thu hẹp thị trường do khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, tính cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Nhưng Công ty đã xác định được đúng hướng trong sản xuất và kinh doanh, biết vận dụng linh hoạt phương thức kinh doanh, nhạy bén tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước tìm ra những sản phẩm mà thị trườg đang có nhu cầu và phù hợp với khả năng kinh doanh của Công ty. Kết quả năm 1990 Công ty bắt đầu triển khai công tác sản xuất chế biến và xuất khẩu mặt hàng quế. Đây là một mặt hàng mới và khá mới mẻ đối với Công ty cũng như đối với thị trường Việt Nam nói chung.
Bảng 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty năm 1991-2001
Năm
Tổng kim ngạch XNK(nghìn USD)
Thực hiện
So với kế hoạch%
1991
37 000
100
1992
41 000
106
1993
47 177
114
1994
49 222
103
1995
56 611
113
1996
63 560
115
1997
78 432
135
1998
64 448.642
102.29
1999
70 420
104
2000
71 684
102.6
2001
75 520
105.3
Nguồn tài liệu tham khảo số 8, 9
Lĩnh vực xuất khẩu quế đối với Công ty thực sự là mới mẻ song thời gian đầu chập chữngvới những chuyến hàng xuất khẩu ít ỏi, Công ty dã dần mở rộng thị trườngvà đưa kim ngạch xuất khẩu quế lên những con số đáng khích lệ.
Tóm lại trong giai đoạn này co nhiều biến động,nhiều khó khăn song Công ty đã bám sát thực tế thị trường, mạnh dạn tìm phương thức làm ăn mới. Biến từ nhận thức tới hành động cho nên đến nay Công ty không những trụ vững mà còn đang phát triển mạnh mẽ, giữ vững được uy tín với khách hàngvà cơ quan quản lý cấp trên.
Là một công ty mang tên Công ty xuất nhập khẩu tông hợp I, chức năng nhiệm vụ chính của Công ty thể hiện đúng như tên gọi, đó là xuất nhập khẩu tổng hợp các mặt hàng trong đó có mặt hàng truyền thống như: lạc nhân, dựoc liệu, tinh dầu, phân bón, sắt thép, sản phẩm gỗ...nhưng từ năm 1982 chủ trương của Đảng và Nhà nước thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, đồng thời tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc.Trong hoàn cảnh này Công ty cần tạo ra hướng đi phù hợp để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường , một trong những hưóng chủ yếu đó là tích cực xâm nhập vào thị trường nước ngoài...Đây là một hướng đi đúng đắn trong việc lựa chọn phương hướng phát triển Công ty.
1.1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Suốt 19 năm thực tế đi vào hoạt động cho tới nay, Công ty đã giữ vững và phát huy truyền thống là đơn vị làm ăn tương đối tốt. Quá trình hoạt động gần đây tuy gặp không ít khó khăn trở ngại do các nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan, nhưng Ban lãnh đạo cùng tập thể công nhân viên đã nỗ kực tìm tòi, phấn đấu luôn hoàn thành vuợt mức các chỉ tiêu kế hoạch mà Bộ đã đề ra.
Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch mà Bộ đã đề ra nhưng kim ngạch xuất khẩu năm 1998 lại không đạt chỉ tiêu kế hoạch mà chỉ thực hiện được 74.46%
Về tốc độ tăng trưởng: Nhìn chung kim ngạch xuất nhập khẩu năm sau cao hơn năm trước
Bảng 7: Về cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty
Năm
Chỉ tiêu %
(1000USD)
Tỷ lệ
XK/NK
Kim ngạch nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch XNK
1995
Giá trị
42/48
32 601
23 910
56 611
1996
Giá trị
37/63
40 022
23 538
63 560
%96/95
+22.7
-1.5
+12
1997
Giá trị
42/58
45 845
32 587
78 432
%97/96
+14.5
+38.4
+23.4
1998
Giá trị
36/64
41 365
23 083
64 448
%98/97
-9.7
-29.17
-17.83
1999
Giá trị
31/54
43 260
24 700
67 960
%99/98
4.58
+7.0
+5.45
2000
Giá trị
31/51
46 020
28 500
74 520
%00/99
+6.38
+15.38
+9.65
2001
Giá trị
29/48
48 130
29 680
77 810
%01/00
+4.58
+4.14
+4.42
2002
(dự kiến)
Giá trị
30/50
50090
30100
80190
%02/01
+3.91
+1.39
Năm 1995: Kinh tế thế giới phục hồi cùng với những thắng lợi lớn trong quan hệ Việt Nam với Mỹ, ASEAN, EU là vận hội mới cho nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu của Công ty chững lại do những nguyên nhân sau:
Nhà nước tập trung đầu mối một số mặt hàng lớn ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động của Công ty.
Nhập khẩu hàng tiêu dùng vốn là thế mạnh của Công ty chẳng những bị hạn chế bằng 20% hàng xuất khâủ mà còn phải duyệt 2 lần một năm khiến Công ty bị động trong kinh doanh, không thể xây dựng được các hợp đồng dài hạn.
Năm 1996: Ra đời hàng loạt tổng Công ty chi phối sản xuất lưu thông hầu hết tất cả các mặt hàng xuất khẩu lớn. Nhà nước bãi bỏ giấy phép xuất nhập khẩu tưởng sẽ thúc đẩy xuất nhập kỳ hải quan lại không đồng bộ gây nhiều vướng mắc. Ngoài ra chính sách quản lý thanh toán hối đoái chặt chẽ, chính sách thuế cao và chồng chéo khiến nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu của Công ty giảm hoặc không có hiệu quả nữa như xe máy CKH. Vì vậy kết quả xuất khẩu năm 1996 giảm 2%
Năm 1997: Hàng nhập khẩu bị nhà nước hạn chế, hàng xuất khẩu bị giảm giá mạnh do khủng hoảng khu vực, nhưng do Công ty đã sớm nhận ra dược khó khăn trước mắt nên từ cuối năm 1996 đã ._.SD/tấn thì cũng gây thiệt hại: 3000*70 = 210 000USD
Con số này không lớn nhưng nếu đem so sánh với kim ngạch của cả ngành quế Việt Nam năm 1996 thì số thiệt hại này chiếm xấp xỉ 14% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
210 000/ 6 200 000 *100% = 3.68%
Còn đối với Công ty mỗi năm cũng thiệt hại khoảng 35 000 USD (trung bình 500 tấn/năm)
2.6 Kết quả xuất khẩu quế
Việt Nam có khí hậu và điều kiện phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây quế và do quế là mặt hàng có giá trị nên nó được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty.
Trước năm 1990 do tình hình thu mua và chế biến quế gặp nhiều khó khăn nên sản lượng xuất khẩu của Công ty XNK tổng hợp 1 chỉ khoảng 50 – 70 tấn/ năm, giá trị kim ngạch 70 000 – 100 000USD
Từ năm 1990 đến nay, sản lượng xuất khẩu đã không ngừng tăng lên chúng ta có thể thấy điều này qua bảng sau:
Bảng 12: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty XNK tổng hợp 1
Năm
Sản lượng (tấn)
Kim ngạch (USD)
1990
95
171 000
1991
120
216 000
1992
197
374 300
1993
240
456 000
1994
320
624 000
1995
390
780 000
1996
475
850 000
1997
530
950 000
1998
500
900 000
1999
556
1 000 000
2000
664
1 200 000
2001
801
1 460 000
Bảng 13: So sánh vè giá trị tổng sản lượng và kim nhạch xuất khẩu qua các năm (năm sau/năm trước)
92/91
93/92
94/93
95/94
96/95
97/96
98/97
99/98
00/99
01/00
Sản lượng
164.2
121.8
133.3
121.9
120.0
111.6
94.34
111.2
119.4
121.9
Kim ngạch
173.1
121.9
136.8
125
111.7
111.8
94.74
111.1
120.0
121.6
Qua hai bảng trên ta thấy từ năm 1990-1997 và 1999-2001 sản lượng kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty không ngừng tăng lên, năm 1997 sản lượng và kim ngạch tăng gấp 5.6 lần so với năm 1990. Năm 1998 tình hình xuất khẩu quế giảm so với năm 1997, nguyên nhân là do Công ty cũng chịu ảnh hưởng không tốt từ cuộc khủng hoảng tiền tệ cùng với những chính sách mới của Nhà Nước làm hạn chế xuất khẩu do đó làm giảm kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Sang năm 1999 do Công ty có những chính sách phù hợp làm cho kim nhạch xuất khẩu quế lại tiếp tục tăng lên.
2.6.2 Thị trường
Thời kỳ trước năm 1990, thị trường xuất khẩu quế của Công ty chủ yếu là các nước XHCN cũ ở Đông Âu và Liên Xô, sản phẩm xuất cho các nước này chủ yếu là nguyên liệu ở dạng sơ chế nên giá không cao. Ngoài chỉ tiêu thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, phần còn lại Công ty xuất khẩu sang các nước khác như: Singapore, Hồng Kông để thu ngoại tệ mạnh và nhập khẩu những hàng hoá thiết yếu phục vụ cho đời sống xã hội như vải vóc, đồ điên tử....Nhưng quế Việt Nam lại xuất khẩu ở dạng sơ chế nên mọi bất lợi cho Công ty tổng hợp 1 nói riêng và Việt Nam nói chung.
Sau năm 1990, để bù đắp cho thị trường giảm sút từ các nước Đông Âu là sự tăng lên cả về sản lượng lẫn kim ngạch ở thị trường các nước Châu á lẫn Châu Mỹ. Ta có thấy qua bảng sau:
Bảng 14: Kết quả xuất khẩu theo thị trường
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Thị trường
Sản lượng(tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng(tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng(tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng(tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng(tấn)
Tỷ trọng(%)
Singgapore
133
28
135
25.5
124
24.8
118
21.2
126
18.9
Nhật Bản
110
23.2
120
22.6
112
22.4
120
21.58
135
20.3
Hông Kông
51
10.8
63
11.9
96
19.2
104
18.7
132
19.8
Mỹ
142
30
165
31.1
160
32
176
31.65
190
28.6
Đông Âu
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Khu vực khác
39
8
47
8.9
8.0
1.6
38
6.8
81
12.2
Tổng cộng
475
100
530
100
500
100
556
100
664
100
(Nguồn: Tài liệu phòng nghiệp vụ 7)
Bảng trên cho ta thấy,sang đầu năm 1996, lượng quế xuất khẩu chủ yếu tăng vào thị trường Mỹ, đây là thị trường lớn, có nhiều hứa hẹn. Hy vọng trong những năm tới Công ty sẽ có nhiều hợp đồng với thị trưòng này.
III.Đánh giá tình hình xuất khẩu của Công ty XNK tổng hợp I trong thời gian qua
1.Những thành tựu
Trong thời gian qua, Công ty XNK tổng hợp 1 đã có nhiều cố gắng trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu quế đạt được những thành tích đáng kể, bước đầu gây dựng được uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Bảng 7 cho ta thấy năm sau công ty xuất khẩu hơn năm trước gấp nhiều lần. Nếu năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 59 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 171 000 USD thì năm 1994 sản lượng là 320 tấn, kim ngạch xuất khẩu là
624 000USD tăng 3.3 lần so với năm 1990. Đến năm 1998 sản lượng là 500 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 900 000USD, tăng 5.2 lần so với năm 1990 và tăng 1.56 lần so với năm 1994 về sản lượng. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng chung của doanh nghiệp xuất khẩu quế Việt Nam.
Chất lượng của quế xuất khẩu ngày càng được quan tâm và được đánh giá là có hàm lượng tinh dầu cao. Công ty đang hạn chế dần xuất khẩu quế sơ chế, tăng lượng xuất khẩu quế đã qua chế biến nhằm thu lợi nhuận cao nhất.
Thị trường của Công ty ngày càng được mở rộng và phát triển. Trước đây thị trường của Công ty chủ yếu là Châu á, giờ đây Công ty nhằm vào mọi thị trường lớn có nhu cầu trên thế giới, nhất là thị trường Mỹ, là một thị trường khổng lồ và đầy hứa hẹn. Công ty XNK tổng hợp 1- một trong những nhà xuất khẩu quế lớn nhất Việt Nam. Điều này được chứng minh qua bảng sau:
Bảng 15: Thị phần xuất khẩu quế của Công ty XNK tổng hợp 1
Năm
Giá trị xuất khẩu của Công ty (USD)
Giá trị xuất khẩu của toàn ngành quế Việt Nam (USD)
Tỷ trọng
(%)
1992
374 000
3 800 000
9.85
1993
456 000
4 600 000
9.91
1994
624 000
4 700 000
13.28
1995
780 000
5 400 000
14.44
1996
850 000
5 700 000
14.91
1997
950 000
6 200 000
15.32
1998
900 000
6 00 000
15
1999
1 000 000
6 140 000
16.29
2000
1 200 000
6 200 000
19.35
2001
1 460 000
6 488 000
22.5
(Nguồn: Báo cáo của phòng nghiệp vụ 7 qua các năm 1992-2001)
Bảng trên cho thấy thị phần xuất khẩu quế của Công ty đã không ngừng tăng lên. Năm 1992, kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty chiếm 9.85% của cả nước thì năm 1997 đã tăng lên tới 15.32%. Nhưng đến năm 1998 kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty giảm do tác động của một số yếu tố khách quan làm cho lượng quế xuất khẩu sang thị trường Châu Âu bị giảm sút. Sang năm 1999, 2000 kim ngạch xuất khẩu quế của Công ty tiếp tục tăng và đén năm 2001 thì Công ty đã chiếm một phàn khá lớn về lĩnh vực xuất khẩu quế trong cả nước góp phần không nhỏ vào quá trình xuất khẩu quế trong nước tăng lên đáng kể. Công ty đặt ra chỉ tiêu phải thực hiện được sản lượng xuất khẩu quế trong năm 2002 là 850 tấn với kim ngạch xuất khẩu đạt 1 700 000 USD
2 . Những khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn. Mặc dù sản lượng hàng năm của Công ty tương đối lớn nhưng nếu so với nhu cầu đáp ứng thì đây là con số quá nhỏ. Công ty đã gặp phải một só khó khưn tong việc kinh doanh xuất khẩu quế từ khâu thu mua, gom hàng và chế biến.
2.1.Hoạt động thu mua, gom hàng.
Quế là loại nông sản trồn trên phạm vi cả nước, kéo dài từ Yên Bái đến tận Quảng Bình nên công tác thu mua gom hàng thực sự gặp nhiều khó khăn, đồng thời Công ty mới chỉ mua được từ người nông dân một lượng nhỏ còn lại là mua từ các cơ sở trung gian khác, đẩy giá thành lên cao. Công ty đã timf những biện pháp thích hợp để mua trực tiếp từ người nông dân.
2.2.Về chất lượng sản phẩm
Quế Việt Nam được đánh giá là có hàm lượng tinh dầu cao so với quế Inđonêxia, Trung Quốc..Hàm lượng này khoảng 3-3.5%. Ngoài quy định về hàm lượng tinh dầu, chất lượng quế còn phụ thuộc vào khâu làm sạch vàchế biến.
Quế của Công ty nói chung đạt tiêu chuẩn về hàm lượng tinh dầu nhưng khâu chế biến còn sơ sài, trình độ công nghệ còn lạc hậu, chủ yếu là sơ chế. Công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy chế biến quế để gia tăng chất lượng về quế nhưng đén nay vẫn chưa đi vào hoạt động.
2.3.Chi phí sản xuất
Chi phí đầu vào của quế bao gồm chi phí thu mua, vận chuyển vàchi phí chế biến. Việc phải đi thuê ngoài chế biến làm giảm lợi nhuận của Công ty. Công ty đã có biện pháp thích hợp khắc phụ khó khăn này
2.4.Trình độ cán bộ công nhân viên
Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém, chêch lệch so với đối tác nước ngoài, đội ngũ cán bộ Công ty XHK tổng hợp 1 mặc dù đã được đào tạo và đào tạop lại một cách cơ bản, khoa học nhưng do kinh nghiệm thực tế còn thiếu và phương tiện làm việc không đầy đủ đã cản trở họ trong công việc giao dịch, ký kết hợp đồng với các đối tác. Mặt khác, vì Công ty kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau, đội nhũ cán bộ công nhân viên cần phải có sự phân công chuyên môn hoá theo từng nhóm ngành hàng ddể hoạt động có hiệu quả hơn. Với sự giúp đỗ của nhà nứoc, quốc tế Công ty đã và đang cố gắng đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên của mình
Chương III
Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu quế của công ty XNK tổng hợp I trong thời gian tới
I.Chiến lược phát triển quế của Việt Nam
1.Tiềm năng sản xuất quế của Việt nam
Về trồng quế, Việt Nam có tiềm năng khá lớn, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý sẽ hứa hẹn thành một trung tâm trồng quế lớn. Tiềm năng này thể hiện ở:
1.1Về đất đai
Tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 11157 triệu ha, trong đó khoảng gần 4 triệu ha là cây công nghiệp hàng năm và 2.3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ sử dụng khoảng 65% quỹ đất nông nghiệp, chất lượng đất của Việt Nam có tầng dầy, đất tơi xốp, chất dinh dưỡng cho cây trồng khá cao nhất là đất phù sa. Chủng loại đất rất phong thú với 64 loại thuọc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm sẽ là cơ sở tốt để cây quế phát triển nếu chúng ta biết khai thác một cách hợp lý khoa học.
1.2. Về khí hậu
Khí hậu Việt nam là khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phân biệt rõ ràng từ Bắc vào nam. Quế là cây trồng rất thích hợp với khí hậu nhiệt đới ở nước ta, nhiệt dộ trung bình 20 – 250C, lượng mưa trên 1500mm/năm.
1.3. Về nhân lực
Với dân số 79 triệu người, 70% dân số sản xuất nông nghiệp, có thể nói nguồn nhân lực Việt Nam rất dồi dào. Người Việt Nam có đặc điểm cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, trồng cấy lâu năm như quế.
1.4.Các chính sách của Nhà nước
Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước, Việt Nam coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, vì vậy việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu những sản phẩm của cây nông nghiệp lâu năm như quế rất được chú trọng. Việc ưu đãi về mọi mặt vào ngành này đã tạo động lực cho sự phát triển của ngành.
Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu quế ở nước ta trong những năm tới rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào đẻ khai thác tiềm năng đó một cách tốt nhất. Điều này phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, các ngành có liên quan.
2 . Hướng chiến lược của Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta đã đưa chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh phát triển ngành quế.
Nhà nước chủ trương khuyến khích xuất khẩu quế với hàm lượng tinh dầu lớn hay nói cách khác là xuất khẩu quế đã qua chế biến có chất lượng tiêu chuẩn cao đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Thị trường xuất khẩu là Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Hồng Kông làm thị trường chính. Nhà nước khuyến khích các Công ty tìm kiếm thị trường mới, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu quế ngày càng phát triển.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất chế biến quế. Các doanh nghiệp này thu hút lao động, góp phần giải quyết vấn nạn thất nghiệp.
Từ những định hướng trên, mục tiêu của nước ta là tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quế từ 600 000 USD/ năm hiện nay lên 1 400 000 USD vào năm 2000.
II . Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu quế của Công ty XNK tổng hợp 1
1 . Mở rộng thị trường xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu quế của Công ty XNK tỏng hợp I nói riêng ngày càng phát triển, được các thị trường lớn trên thế giới ngày càng biết đến. Tuy vây, sản lượng của Công ty vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng 600 tấn/năm) và đang bị sức ép từ các doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu quế.
Với mục tiêu nâng dần sản lượng xuất khẩu đến năm 2002 là 1000 tấn với giá trị kim ngạch khoảng 2 000 000 USD. Để đạt được mục tiêu này, Công ty phải có những biện pháp chủ yếu sau:
1.1.Mở rộng thị trường xuất khẩu
Công tác thị trường từ trước đến nay vẫn là tìm kiếm và mở rộng thị trường để tăng kim ngạch xuất khẩu. Công ty cần xác định thị trường nào là thị trường trọng điểm để tập trung khai thác nhằm đưa lại cho Công ty nhiều lợi nhuận.
Công ty là Công ty hoạt động hoạch toán độc lập bằng nguồn vốn tự có nên có thể linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin cần thiết sau: xu hướng thị trường, nhu cầu và tình hình cung cấp, khả năng tiêu thụ...Công ty đã có những bạn hàng truyền thống như Singapore, Hồng Kông..Nhưng các nước này chủ yếu là làm công việc tạm nhập tái xuất nên họ chỉ muốn nhập quế sơ chế với giá rẻ. Nhận thức được vấn đề này Công ty đang cố gắng tăng lượng xuất khẩu đã qua chế biến và giảm lượng quế xuất khẩu sơ chế để giảm thiệt hại. Vì vậy, hoạt động xuất khẩu gần đây với các nước này đang có xu hướng chững lại.
Ngoài thị trường truyền thống, Mỹ vẫn được coi là một thị trường quan trọng. Đây là một thị trường khổng lồ, có khả năng tiêu thụ lớn. Công ty phối hợp với Bộ thương mại đang nghiên cứu xâm nhập thị trường này thông qua một loạt các kế hoạch xâm nhập cụ thể có khả năng trong năm 1999 có những hợp đồng đầu tiên.
* . Chủ động tìm cách xâm nhập thị trường Mỹ
Quan hệ thương mại Việt Mỹ ngày càng được cải thiện theo chiều hướng tốt đẹp. Chính phủ ta hiện nay đang chuẩn bị đàm phán với chính phủ Mỹ để có thể được hưởng quy chế tối huệ quốc. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa rất lớn trong quan hệ bao gồm giữa hai nước và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với xí nghiệp kinh doanh hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Nhận thức rõ điều này, Công ty tích cực tìm kiếm khách hàng, khảo sát thị trường Mỹ với mục đích nâng cao hiệu quả và tính chế khi xuất khẩu mặt hàng quế sang nước Mỹ.
Muốn thực hiện được vấn đề này Công ty cần phải tập trung giái quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Cong ty phải tìm cách nâng dần số lượng hàng hoá xuất sang Mỹ với khối lượng tăng tư ít đến nhiêù, tăng chủng loại hàng hoá với giá cả hợp lý, đảm bảo chất lượng và thời gain giao hàng.
Thứ hai: Những điều mà Công ty Mỹ mong đợi ở các Công ty thoả thuận, hợp đồng phải được bảo trọng, chất lượng sản phẩm phải được bảo đảm, giá cả hợp lý, phải giữ đúng thời gian giao hàng và yếu tố ổn dịnh, lâu dài cũng được coi trọng. Ngoài ra, Cong ty cũng phải tìm cách với các công ty Mỹ chuyên sản xuất dược phẩm và chế biến gia vị từ quế. Do đó. Công ty phải nỗ lực để hiểu cách thức mà nền công nghệ Mỹ hoạt động thông qua tiếp thị, giới tiệu,mời chào, thăm viếng và chứng minh được Công ty có khả năng trở thành nhà cung cấp lớn trong thị trường Mỹ.
Thứ ba: Công ty phải cung cấ các thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm và giới thiệu khả năng thu mua và chế biến của Công ty với các doanh nghiệp Mỹ. Hoạt động này đựơc thể hiện qua việc quảng cáo và các cuộc hội đàm kinh doanh.
Cuối cùng:Công ty phải xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ cụ thể với các hoạt động như:
+ Xây dựng mục tiêu về thị trường, bao gồm các mục tiêu là xâm nhập thị trường và tăng khả năng bán hàng trên thị trường Mỹ
+ Phân đoạn thị trường và định hướng thị trường
+ Các đặc tính sản phẩm dựa vào sự tổng hợp các yếu tố về thị trường
Tóm lại, trên đây là một số phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu quế của Công ty trên thị trường Mỹ. Vấn đề khó khăn nhất là sự thực hiện những vấn đề này như thế nào để đạt dược hiệu quả tốt là vâns đề mà Công ty đang quan tâm và đang dần đi vào thực hiện
2 . Nâng cao chất lượng nguồn hàng xuất khẩu
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, Công ty áp dụng một số biện pháp sau:
2.1.Tăng cường cung cấp tín dụng cho người trồng trọt
Cấp tín dụng cho những người trồng trọt tuy không phải là biện pháp mới nhưng vẫn phát huy hiệu qủa cao. Với một số vốn ít ỏi, người nông dân không thể mở rộng khả năng trồng trọt của mình. Đồng thời, Nhà nước chủ yếu hỗ trợ về mặt chính sách chứ không thể cấp vốn cho tất cả những người nông dân trồng quế.
Các doanh nghiệp có nguồn hàng và được ưu đãi từ năm 1992. Thời gian gần đây, Công ty chủ yếu cung cấp tín dụng cho các hộ sản xuất lớn, là những người bạn hàng chính của Công ty. Sau này số hộ ngày càng tăng và tính đến cuối năm 1997, Công ty đã cung cấp 200 triệu đồng cho các hộ gia đình.
Để Công ty cung cấp tín dụng, các hộ gia đình phải là người trồng trọt quế có kinh nghiệm, có độ tin tưởng cao, hộ phải cam kết bán sản phẩm của mình cho Công ty.
2.2. Hỗ trợ cho người nông dân kỹ thuật mới
Cho đến nay, phương pháp gieo trồng, chăm sóc quế của người nông dân vẫn là phương pháp thủ công, cổ truyền nhưng mang lại hiệu quả cao.
Với chủ trương giúp đỡ người nông dân tăng sản lượng cũng như chất lượng quế phục vụ cho xuất khẩu, Công ty đã phối hợp với trường đại học Nông nghiệp I cử cán bộ kỹ thuật lên giúp đỡ bà con trồng quế ở huyện Văn Yên (Yên Bái) về phương pháp trồng và chăm sóc quế mới. Thông qua sự hỗ trợ này, người dân Văn Yên đã tăng được sản lượng và chất lượng quế của mình, tăng thêm thu nhập. Mặt khác, giúp cho Công ty tăng sản lượng thu mua, phục vụ đầu vào cho xuất khẩu và tăng chất lượng quế xuất khẩu. Thông qua việc này uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao, được bà con nông dân tin cậy và thuận tiện trong việc thu gom quế
Trong những năm tới, Công ty tiếp tục phối hợp với trường Đại học Nông nghiệp I hỗ trợ bà con nông dân ở tỉnh Yên Bái và một số nơi khác về kỹ thuật gieo trồng và chăm sóc quế tiên tiến nhất
2. 3 . Đẩy mạnh, chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm
Chế biến xuất khẩu quế là một công doạn hết sức cần tiết, nó giúp các nhà xuất khẩu tăng thêm giá trị hàng hoá. Chế biến còn giúp cho việc bảo quản và vận chuyển hàng một cách đơn giản, đỡ tốn kém.
Quế xuất khẩu của Công ty XNK tổng hợp 1 từ trước đến nay chủ yếu thuê ngoài gia công chế biến. Thông qua hợp đồng ký kết đối với các đối tác nước ngoài, Công ty xác định mức độ chế biến mà từ đó thuê các đơn vị làm công tác chế biến. Việc thuê ngoài chế biến làm nảy sinh một số vấn đề sau:
Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. Đây là một vấn đề rất dễ nảy sinh khi thuê nhiều đơn vị khác nhau chế biến. Trong quá trình chế biến, mỗi đơn vị chế biến do khác nhau về trình độ công nghệ hoặc tay nghề dẫn tới chất lượng sản phẩm khác nhau. Đây là một bất lợi rất lớn, dễ mất uy tín làm ăn đối với các đối tác nước ngoài.
Chi phí tăng làm cho giá thành tăng, lợi nhuận giảm. Khi thuê ngoài gia công chế biến, tất nhiên Công ty phải trả chi phí. Điều này làm tăng thêm chi phí đầu vào và làm tăng giá thành sản phẩm.
Để hạn chế những thiệt hại gây ra, đồng thời tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, Công ty đã tiến hành khảo sát, thiết kế và lập luận chứng kinh tế kỹ thuật cho việc xây dựng nhà máy chế biến quế và các nông sản khác cho xuất khẩu. Bản luận chứng này đã được Bộ thương mại đồng ý và được UBND thành phố Hà Nội cấp đất xây dựng tại Gia Lâm .
Ngoài ra do sản lượng quế ngày càng tăng, Công ty vẫn tiếp tục thuê các đơn vị bên ngoài để chế biến nhưng sẽ tiến hành kiểm tra chặt chẽ về chất lượng, hạn chế đến mức tối đa những sơ xuất.
3 .Thực hiện các hỗ trợ marketing trong kinh doanh mặt hàng quế.
Các hỗ trợ marketing ngày càng phát triển và thực hiện hoàn thiện hơn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay có nhiều đơn vị cùng tham gia xuất khẩu.
Chính sách giao tiếp và khuyếch trương là một công cụ quan trọng để Công ty áp dụng và thực hiện chiến lược marketing của mình nhằm ngăn ngừa rủi ro, tăng khối lượng bán, giảm chi phí kinh doanh.
Dự kiến trong thời gian tới, nhằm làm cho mặt hàng quế của công ty có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới, ban lãnh đạo Công ty đã đề ra chủ trương tăng cường tham gia giới thiệu các sản phẩm tại các cửa hàng, quầy hàng, hội chợ kinh doanh, triển lãm, Công ty đã đạt được những thành tựu đámg kể. Điều này mở ra cho Công ty một hướng mới để bán hàng của mình dưới hình thức xuất khẩu tại chỗ, thu ngoại tệ tại các trung tâm ngoại tệ của Công ty.
Hoạt động giao tiếp của Công ty bao gồm các mối quan hệ ngang, đó là các đơn vị có liên quan đến dịch vụ mua, bán và mối quan hệ dọc là các cơ quan cấp trên, các đơn vị trực thuộc, các cửa hàng đại lý của Công ty. Để tăng cường lực lượng cạnh tranh, Công ty chủ trương củng cố sản phẩm của mình về chất lượng, nhãn hiệu, bao gói.
4 . Từng bước giảm giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, tình hình cạnh tranh luôn xảy ra ở tất cả các loại hàng hoá. Người ta cạnh tranh với nhau về giá cả, trình độ khoa học công nghệ... Với các loại hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao thì chủ yếu là cạnh tranh về trình độ tiên tiến của sản phẩm. Với các loại sản phẩm nông nghiệp thì cạnh tranh chủ yếu xoay quanh vấn đề gía cả và chất lượng. Cạnh tranh hoạt động mua bán quế cũng vậy, chủ yếu là cạnh tranh qua giá cả và chất lượng của hàng hoá. Để giành thắng lợi trong cạnh tranh, tiêu thụ được sản phẩm của mình, Công ty không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, khai thác tiến tới giảm giá cả xuất khẩu. Để giảm giá quế xuất khẩu mà không gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty thì biện pháp chủ yếu được tiến hành là cắt giảm chi phí không cần thiết triệt để tiết kiệm. Một số chi phí sau đây có thể cắt giảm:
- Chi phí thu mua: Chi phí này có thể cắt giảm thông qua việc xây dựng nhà máy chế biến hiện đại của Công ty. Như vậy vừa giảm được chi phí gia công thuê ngoài chế biến, vừa giảm được chi phí nhân công cho một đơn vị hàng hoá nhờ máy móc hiện đại.
- Chi phí vận chuyển nội địa cũng như vận chuyển quốc tế. Quế là loại hàng hoá cồng kềnh, lại đòi hỏi có độ bao bì đóng gói riêng lại nằm rải rác nên chi phí vận chuyển về kho, về nhà máy khá lớn. Trong những năm tới việc giảm bớt chi phí này là cần thiết để giảm giá thành sản phẩm đẩy mạnh khả năng cạnh tranh
Với vận tải quốc tế, quế thường được đống goí vào container với các mức trọng lượng sau:
+ Loại 20 feet chứa tối đa 7 tấn quế vụn hoặc 4,5 tấn quế ống.
+ Loại 40 feet chứa tối đa 14 tấn quế vụn hoặc 9 tấn quế ống.
Khi xuất khẩu công ty thường đóng gói vào container 40 feet vì khi đó trọng lượng tăng lên gấp đôi trong khi chi phí vận tải chỉ tăng 30%,như vậy tiết kiệm hơn so với loại container 20 feet.
Qua việc cắt giảm một số chi phí lãng phí đó, Công ty có điều kiện cắt giảm đáng kể giá thành đầu vào của sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh.
5 . Hoàn thiện khâu thanh toán
Có thể nói khâu thanh toán thu tiền là khâu cuối cùng trong quá trình xuất khẩu. Nó thể hiện kết quả kinh doanh của công ty tốt hay xấu, là thước đo mọi hoạt động của Công ty. Thu tiền cho công ty là một làm có ý nghĩa giúp cho công ty thanh toán mọi chi phí trong quá trình hoạt động, nộp ngân sách nhà nước và tiếp tục phát triển kinh doanh.
Hoàn thiện khâu thanh toán - Để làm tốt công việc này, Công ty cần thực hiện tốt các công tác sau :
Tổ chức hoàn thiện tốt các hình thức thanh toán, nhất là hình thức thư tín dụng L/C
Cố gắng sử dụng vốn của các đối tác bằng hình thức ứng trước vốn với công ty nước ngoài.
Việc thu tiền về càng thuận lợi, càng nhanh chóng càng tốt, làm tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn, tăng lợi nhuận cho công ty.
III . Một số kiến nghị với nhà nước.
1 . Thành lập hiệp hội các nhà kinh doanh xuất khẩu quế
Việc thành lập hiệp hội các nhà kinh doanh xuất khẩu quế không thể do các doanh nghiệp tự thành lập được mà phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Các cơ quan nhà nước với vai trò, chức năng của mình sẽ xúc tiến, tiếp xúc với doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng tham gia vào hiệp hội.Việc thành lập các hiệp hội giữa các doanh nghiệp ở nước ta còn rất xa lạ, mới mẻ ở nước ta, nhưng ở các nứoc phát triển hầu như nghành hàng nào cũng có hiệp hội. Họ đoàn kết với nhau khống chế thị trường cũng như tránh dựoc tình trạng cạnh tranh lộn xộn giữa các doanh nghiệp trong cùng một mặt hàng.
Hiệp hội các nhà kinh doanh quế được thành lập là biện pháp quan trọng hàng đầuđể đối phó với tình trạng tranh mua, tranh bán hiện nay. Mặt khác có thể củng cố thị trường trong nước, giữ vững được giá xuất khẩu, và có thể ủng hộ giúp đỡ nhau trên thị trường thế giới.
Trong thời gian đầu có nhiều khó khăn thì hiệp hội chỉ tạm thời thoả ước giữa các công ty cùng tham gia xuất khẩu về giá cả thị trường. Sau này mọi việc đã đi dần vào ổn định và đủ lớn để hiệp hội có thể quản lý luôn từ khâu đầu tư sản xuất đến khâu chế biến và xuất khẩu
Hiệp hội phải đưa ra được khung giá co dãn thích hợp, kịp thời với biến động cung cầu trên thị trường, nhằm đảm bảo thu ngoại tệ cho đất nước mà vẫn giữ được thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để thực hiện được điều này hiệp hội phải thành lập một phòng nghiên cứu thị trường riêng, chi phí cho hoạt động này do các công ty thành viên đóng góp. Phòng thị trường này phải đưa ra được những phương án cụ thể để khai thác triệt để tiềm năng trong nước, kết hợp với những thông tin chính xácthị trường nứoc ngoài để tạo lợi thế tối đa cho mặt hàng cuả mình.
Hiện nay công ty XNK tổng hợp I và một số công ty khác cùng hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu quế cùng với các cơ quan chức năng xúc tiến thành lập hiệp hội xuất khẩu quế cho các doanh nghiệp, dự kiến khi hiệp hội ra đời giá xuất khẩu quế từ khoảng 2000USD/tấn hiện nay tăng lên 2200-2300/tấn và cả ngành quế Việt Nam sẽ tăng khoảng 1.00.000USD, đây là một con số đáng kể nếu so sánh với tổng kim ngạch xuất khẩu quế của ngành quế Việt Nam khoảng 6.000.000-7.000.000 USD/năm.
2 . Hỗ trợ nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới.
Việc nghiên cứu thị trường mới để từ đó thâm nhập thị trường là việc quan trọng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành. ở các nước phát triển do có khả năng về tài chính, hoạt động điều tra nghiên cứu này thường do chính doanh nghiệp bỏ vốn, sức lao động ra tiến hành hoặc nghiên cứu từ các Công ty chuyên nghiên cứu về thị trường
ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mới được áp dụng hơn 10 năm, các doanh nghiệp chủ yếu của Việt Nam là trung bình và nhỏ trên thế giới nên việc bỏ vốn ra đầu tư nghiên cứu thị trường là quá tốn kém nên không thể thực hiện được. Nhưng việc điều tra nghiên cứu thị trường là rất quan trọng, vì mở rộng thị trường sẽ tăng khả năng sản xuất kinh doanh cũng như sản lượng kim ngạch xuất khâủ của doanh nghiệp.
Do đó, trong giai đoạn hiện nay để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của cácdoanh nghiệp, Nhà nước mà đại diện là Bộ thương mại cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp ở khâu điều tra, nghiên cứu khả năng thị trường mới tham gia thương mại tại thị trường đó.
3 . Trợ giúp xuất khẩu về vốn.
Nhà nước tạo điều kiện về vốn cho các công ty xuất khẩu quế. Quế là một mặt hàng mà việc sản xuất và thu mua mang tính chu kỳ, thời gian dài. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại diễn ra suốt năm và giá cao hơn trong các kỳ giáp cụ nên đoì hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đủ sức thu mua trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu cả năm.
Nhà nước đẩy mạnh các hoạt động thương mại và cung cấp các thông tin về thị trường thế giới cho các Công ty, vì ở Việt Nam thông tin về mặt hàng lâm sản còn thiếu và chậm, độ chính xác không cao. Thời gian tới, Nhà nước đặc biệt chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
4. Ngăn chặn tình trạng khai thác và buôn lậu quế qua biên giới.
Trong những năm gần đây, hoạt động buôn lậu hàng hoá qua biên giới đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn quy mô. Buôn lậu không chỉ làm thất thu thuế mà còn gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp gây rối loạn thị trường. Nhà nước nên có những biện pháp để ngăn chặn những hoạt động này sao cho có hiệu quả nhất.
Tài liệu tham khảo
1 . Giáo trình Thưong mại quốc tế – NXB Thống kê 1997
Chủ biên PGS – TS Nguyễn Duy Bột
2 . Giáo trình Quản trị kinh doanh Thương mại quốc tế – NXB Giáo Dục
Chủ biên PGS – TS Trần Chí Thành
3 . Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Giáo Dục 1998
4 . Báo cáo tổng kết tình hình kinh doanh của Công ty XNK tổng hợp I các năm 1996-1997-1998-1999-2000-2001
5 . Tài liệu thống kê của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I.
6 . Tài liệu thống kê của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
7 . Niên giám thống kê 1998-1999.
8 . Báo cáo phát triển xuất nhập khẩu thời kì 1996-2001 của Bộ thương mại
9 . Marketing quốc tế – NXB Giáo dục 1999.
Chủ biên: Nguyễn Văn Cao
Lời cảm ơn
Qua thời gian thực tập ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I em đã nhận được sự gíup đỡ nhiệt tình của các cô chú cán bộ trong công ty, cùng với sự tận tình hướng dẫn của thầy Trần Văn Bão em đã hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Trần Văn Bão đã tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài .
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc,phòng nghiệp vụ 7, xí nghiệp chế biến NLS và xuất khẩu quế, phòng tài vụ công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã giúp đỡ em trong việc thu thập số liệu và nhận thức tình hình thực tế, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Do trình độ và kinh nghiệm thực tế có hạn , cho nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.Vì vậyem kính mong nhận được những đóng góp quý báu của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Kết luận
Quế là mặt hàng được ưa chuộng rộng rãi trên khắp thế giới với nhu cầu ngày càng tăng. Điều đáng chú ý là việc sản xuất quế phù hợp với khí hậu nhiệt đới trong đó có Việt Nam. Với nhu cầu quế ngày càng tăng, Công ty XNK tổng hợp 1 tạo mọi điều kiện tốt cho xuất khẩu mặt hàng quế goáp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy vẫn còn một số vướng mắc trong hoạt độngkinh doanh xuất khẩu nói chung và quế nói riêng, song do chính sách của Nhà nước, do sự nỗ lực của bản thân mình, Công ty XNK tổng hợp I đã dứng đầu trong các doanh nghiệp Việt Nam về xuất khẩu quế. Sản phẩm quế của Công ty được nhiều bạnhàng trên thế giới biết đến. Hy vọng, với cố gắng của mình, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong tương lai không xa, hoạt động xuất khẩu quế của Công ty ngày càng phát triển, tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách Công ty, làm đà phát triển cho các ngành khác của Công ty
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0440.doc