Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Thị trường Lào của Công ty XNK nam Hà Nội (Simex)

LỜI NÓI ĐẦU Hoạt động kinh doanh thương mại trong những năm qua giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ ở từng khu vực ở từng quốc gia. Hoạt động thương mại luôn tồn tại và phát triển khẳng định được vai trò của nó trong mọi nền kinh tế. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, thương mại thế giới không chỉ phát triển mạnh mẽ về bề rộng mà cả về bề sâu và mỗi quốc gia đều có những chính sách của mình để thúc đẩy hoạt động thương mại nhất là Việt Nam và thế giới nói chung. Việt Nam v

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Thị trường Lào của Công ty XNK nam Hà Nội (Simex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Lào nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay. “Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại, là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Trong chiến lược đó hoạt động thương mại được coi là tác nhân liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập, là đòn bẩy phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện các chính sách ngoại thương nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, gắn thị trường Việt Nam với thị trường thế giới và thị trường Việt Nam với thị trường Lào, phát huy tiềm năng của đất nước, tiếp nhận vốn kỹ thuật và trình độ quản lý từ nước ngoài và xây dựng mối quan hệ kinh tế với các nước láng giềng. Đặc biệt là mối quan hệ kinh tế Việt Nam với Lào là mối quan hệ có cội nguồn từ xa xưa, được xây đắp bởi công sức của bao thế hệ, là quan hệ của hai quốc gia láng giềng gần gũi, thân thiện, cùng giúp đỡ lẫn nhau chia ngọt sẻ bùi. Hiện nay quan hệ Việt – Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Nhất là Việt Nam và Lào cùng chung là thành viên của ASEAN, quan hệ thương mại giữa hai nước càng có cơ hội phát triển. “Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào của công ty xuất nhập khẩu nam Hà Nội (Simex)”. Đề tài nhằm mục đích trình bày sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ Việt – Lào. Đồng thời phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào của công ty Simex tìm ra những ưu điểm cũng như một số mặt tồn tại cần khắc phục. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ. 1.Bản chất của xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ của một quốc gia mà sang quốc gia khác nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song hoạt động này có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian nhiều, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh và hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ các tập quán quốc tế cũng như các luật lệ khác nhau. Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu là một trong hai hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thương mại quốc tế. Nó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên ngoài lẫn bên trong nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng tiêub dùng đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều có chung một mục đích là đem lại lợi ích cho các nước tham gia. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương nhân giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo hiệu quả cao nhất, dịch vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 2. Vai trò của xuất khẩu. 2.1. Đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia. - Xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ tốt nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng giữa các nước với nhau. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước. - Xuất khẩu có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải thiện cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao mức sống của dân. - Nước Việt Nam là nước kịnh tế còn thấp, thiếu hụt về vốn, khả năng quản lý, chỉ có tài nguyên thiên nhiên và lao động. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên và tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước giàu. - Với định hướng phát triển nền kinh tế xã hội của Đảng. Chính sách kinh tế đối ngoại, xuất khẩu phải được coi là một chính sách có tầm quan trọng, chiến lược phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Đối với mọi quốc gia cũng như Việt Nam, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho thu nhập, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc trang thiết bị, hiện đại từ bên ngoài. Nguồn vốn nhập khẩu thường dựa vào các nguồn vốn chủ yếu vay, viện trợ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vay thì phải trả, nguồn vốn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn. Hơn nữa các nguồn này còn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất là xuất khẩu. Nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng gia tăng theo. Song nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và là tất yếu đối với Việt Nam. Ngày nay, đa số các nước đều lấy thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển. Xuất khẩu góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Thị trường thế giới là thị trường to lớn song cạnh tranh quyết liệt. Để tồn tại và phát triển trong thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đổi mới, tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động và thu nhập tương đối lớn, tăng ngày công lao động, nâng cao đời sống người lao động, tăng thu nhập quốc dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu có tác dụng tăng trưởng sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò Việt Nam trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có tác dụng thúc đẩy giữ uy tín, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... các quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong quan hệ quốc tế đối ngoại. Qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một nước nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩuthì nền kinh tế có tốc độ phát triển cao. Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc vận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. 2.2. Đối với một doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị trường, không ngừng đổi mới, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật. Xuất khẩu giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường không chỉ bó hẹp ở trong nước. Doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận để mở rộng tái sản xuất có lãi và không ngừng tăng trưởng. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp tạo công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động thu hút người lao động vào doanh nghiệp, giúp cho người lao động ổn định và cải thiện đời sống. II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch Marketing. Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trương chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp. * Lựa chọn mặt hàng kinh doanh. Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm cảu doanh nghiệp. Khi lựa chọn mặt hàng các doanh nghiệp phải nghiên cứu các vấn đề: - Mặt hàng thị trường đang cần gì? - Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? - Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống Một là giai đoạn triển khai Hai là giai đoạn tăng trưởng Ba là giai đoạn bão hoà. - Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu * Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Doanh nghiệp phải xác định được từng mặt hàng nào, vào thị trường nào, thời điểm nào, hình thức Marketing như thế nào cụ thể doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề: * Thị trường và dung lượng thị trường - Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận độngcủa tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá. - Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động thị trường thành tựu khoa học cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình và công nghệ các biện pháp chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng. - Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường. Đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và các sự biến động của các chính sách kinh tế xã hội, các yếu tố tác động khác. * Vấn đề biến động giá cả trên thị trường. Phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. * Lựa chọn bạn hàng Các nội dung để tìm hiểu đối tác buôn bán có hiệu quả. - Quan điểm kinh doanh của đối tác. - Lĩnh vực kinh doanh của họ. - Khả năng về tài chính ( khả năng về vốn cơ sở vật chất) - Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh. - Những người đại lý cho công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với công ty. 2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu (đảm bảo về yêu cầu chất lượng quốc tế). Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất kinh doanh cho đến nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính. - Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu do doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu thường do các tổ chức ngoại thương làm trung gian xuất khẩu hàng hoá. Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các nhiệm vụ kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu có nghĩa hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến động giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh thông qua hệ thống thu mua hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng. * Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. - Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩutheo hợp đồng là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. - Tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà doanh nghiệp kinh doanh. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến, các doanh nghiệp ngoại thương là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người xuất khẩu hàng xuất khẩu, hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. 3. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. 3.1. Các hình thức giao dịch Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và đối tượng, năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chon phương thức giao dịch cho phù hợp. - Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc thảo luận trực tiếp về hàng hóa giá cả, điều kiện giao dịch phương thức thanh toán. - Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín để trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã chất lượng và số lượng hàng hoá... bằng Fax hoặc thư tay. - Giao dịch qua điện thoại việc giao dịch qua điện thoại giúp doanh nghiệp đàm phán đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. 3.2. Đàm phán nghệ thuật đàm phán. Là quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng là cơ sở đi đến ký kết hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, những tranh chấp thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo. 3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Sau khi giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau trong đó bên bán phải cung cấp hàng hoá còn bên mua phải có trách nhiệm là thanh toán tiền mua hàng hoặc nhận hàng. Một: Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các phàn sau: - Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi. - Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. - Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. - Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân theo những thủ tục thể thức nhất định. Hai là: Nội dung và điều khoản của hợp đồng bao gồm: - Tên hàng. - Phẩm chất. - Số lượng. - Điều khoản giao hàng. - Điều khoản giá cả. - Điều kiện cơ sở giao hàng. - Điều khoản thanh toán. - Điều khoản bao bì, kỹ mã hiệu. - Điều khoản bảo hành. - Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại. - Điều khoản bảo hiểm. - Điều khoản bất khả kháng. - Điều khoản khiếu nại và trọng tài - Các điều khoản khác. 4. Thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ theo luật quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm những vấn đề sau: Ký kết hợp đồng xuất khẩu Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng xuất khẩu Uỷ thác thuê tàu Kiểm tra L/C Làm thủ tục Hải quan Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại 1) Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá: Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp ký để tiến hành các khâu khác trong qúa trình sản xuất hàng hoá. 2) Kiểm tra thư tín dụng L/C. Sau khi ký kết hợp đồng nhà nhập khẩu ở nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hậu có ngân hàng thông báo ở Việt Nam. Nhà xuất khẩu sau khi nhận được giấy báo xin mở L/C thật chặt chẽ, xem đã đúng như hợp đồng đã ký kết hoặc chưa nếu có gì chưa hợp lý cần cần báo lại cho bên phía nước ngoài để cả hai bên cùng thống nhất sửa đổi. 3) Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Các doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu chuẩn bị xuất khẩu bao gồm các công đoạn sau. - Thu gom tập chung làm thành lô hàng xuất khẩu. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. - Kẻ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu. 4) Thuê tàu chuyên chở hàng hoá Việc thuê tàu chuyên chở hàng hoá được tiến hành theo ba căn cứ sau: - Những điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. - Những đặc điểm hàng hoá xuất khẩu. - Những điều kiện vận tải. 5) Mua bảo hiểm: Đối với hàng xuất khẩu chủ hàng chỉ mua bảo hiểm theo điều kiện CIF. 6) Kiểm tra chất lượng hàng hoá. Trước khi giao hàng người xuất khẩu phải có nhiệm vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì, (tức là kiểm nghiệm). Nếu hàng xuất khẩu là động vật bắt buộc phải qua kiểm dịch theo qui định quốc tế. 7) Làm thủ tục Hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu: - Khai báo hải quan.ư - Xuất trình và kiểm tra hàng hoá. - Thực hiện các quy trình của hải quan. 8) Giao hàng lên tàu. Thực hiện điều kiện giao hàng trong hợp đồng, đến thời hạn giao hàng các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng (tuỳ theo loại mà cách thức tiến hành khác nhau). 9) Thủ tục thanh toán. Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu được hàng hoá. Thực tế ở Việt Nam doanh nghiệp vừa thanh toán theo hai loại hình thức là tín dụng chứng từ (L/C) và phương thức nhờ thu. 10) Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, mà chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường cần có nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng. Căn cứ để giải quyết khiếu nại là các biên bản giám định cảu cơ quan thứ ba đồng thời phải xem xét các yêu cầu khiếu nại có đầy đủ, chặt chẽ và còn trong thời hạn hiệu lực hay không. Nếu khiếu nại cócơ sở cần tìm hướng giải quyết hợp lý va kinh nghiệm cho các đợt tới. III. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG VIỆT – LÀO VÀ THÚC ĐẨY HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG. Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng chung sống lâu đời trên bán đảo Đông Dương, có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau về nhiều mặt. Sau 1975, khi nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thành lập, mối quan hệ này bước vào giai đoạn cách mạng mới, quan hệ Việt – Lào đã mang những đặc điểm mới. Từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng, hai nhà nước chuyển sang quan hệ toàn diện giữa hai Đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, từ quan hệ chủ yếu về chính trị, quân sự và đối ngoại chuyển sang quan hệ toàn diện, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế văn hoá và đối ngoại. Sự ra đời của hai nhà nước thống nhất, độc lập có chủ quyền là đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất, chi phối sâu sắc mối quan hệ giữa hai nước. Đến nay, quan hệ Việt – Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới. Trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá của Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Sự cải thiện này được thể hiện qua nội dung các hiệp định thương mại giữa hai nước càng được thông thoáng, nhất là khi Việt Nam và Lào cùng là thành viên của ASEAN quan hệ ngoại thương giữa hai nước càng có cơ hội phát triển. Việt Nam và Lào có chung 2069km đường biên giới, tiếp giáp 10 tỉnh từ Lai Châu đến Kontum. Hiện có 15 cửa khẩu, trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế, đó là cửa khẩu Lao Bảo - Đen – Xa – Vẳn, Cửa khẩu khác cầu Treo – Nậm Phao; 6 cửa khẩu chính; 7 cửa khẩu phụ; 27 đường môn qua lại giao lưu buôn bán giữa các tỉnh, huyện , xã, bản, Hiện nay phía Việt Nam đã xây dựng được 11 đường biên nhằm phục vụ một cách thuận lợi việc trao đổi hàng hoá cho nhân dân hai nước ỏ phía đường biên. Giữa Việt Nam và Lào đã ký hiệp định thương mại thời kỳ 1981 – 1985 Bộ ngoại thương Việt Nam và Bộ thương nghiệp Lào tăng cường trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực. Đầu năm 1985, Bộ chính trị Đảng nhân dân cánh mạng Lào chủ trương chuyển hướng buôn bán từ Tây sang Đông. Việt Nam Lào đã ký biên bản hợp tác, quy định nội dung hợp tác, trong lĩnh vực ngoại thương giữa hai nước. Tình hình ngoại thương giữa hai nước. Đứng trước tình hình đổi mới trong những năm 90, tháng 2/91, Chính phủ đã ký hiệp định thương mại cho thời kỳ 1991 – 1995, đồng thời ký nghị định thư thương mại Hiệp định thương mại nay đã tác động tới hoạt động ngoại thương giữa hai nước. Sau đây là kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Lào từ 1991 đến nay. Tổng kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu Việt Nam và Lào Đơn vị 1991 1992 1993 1994 1995 1996 I. Tổng kim ngạch xuất triệu USD 29,5 70* 80* 133,6* 111,6* 183,4* Trong đó: 1. Xuất nhập khẩu chính ngạch “ 6,9 23,7 56,3 123,8 104,6 93 2. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch “ 22,6* 46,3* 23,7* 9,8 7,0* 90,4* II. Tỷ trọng % 1. Xuất nhập khẩu chính ngạch so với tổng kim ngạch “ 23,4 33,9 70,4 92,7 93,7 50,7 2. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch so với tổng kim ngạch “ 76,6 66,1 29,6 7,3 6,3 49,3 Việc tăng kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch càng thể hiện rõ chiều hướng gia tăng qua số liệu năm 1997 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Lào đạt 190 triệu USD trong đó xuất khẩu chính đạt 88,5 triệu USD, 6 tháng năm 1998, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 50 triệu USD, trong đó xuất khẩu chính ngạch gồm 10 triệu USD. Từ năm 1976 trao đổi ngoại thương trung ương hình thành và phát triển thì trao đổi địa phương còn phát triển nhanh hơn do Việt Nam và Lào có chung biên giới từ Bắc đến Nam. Quan hệ trao đổi này đã thực sự giải quyết một số nhu cầu thiết yếu của hai bên, góp phần phát triển sản xuất ổn định đời sống nhân dân và củng cố hữu nghị đặc biệt của nhân dân vùng biên giới hai nước. Chủ trương của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được tiếp tục đổi hàng và thanh toán nợ với Lào trong năm 1999 đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi nước, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam – Lào. Kết quả được thể hiện như sau. 1998 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Lào theo phương thức đổi hàng đạt 55 triệu USD. Hàng xuất khẩu sang Lào với kim ngạch lớn là hàng cần khuyến khích xuất khẩu. Hoặc khó tìm thị trường xuất khẩu như: Hạt tiêu, Lạc nhân, hoa quả tươi và khô, đạt 7 triệu USD, hàng thủ công mỹ nghệ đạt 4 triệu USD, hàng dệt may 4 triệu USD, hàng giầy dép gần 3 triệu USD. Từ đó góp phần tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đẩy mạnh hàng hoá, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân, đặc biệt là nhân dân thuộc khu vực miền Trung. Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng Việt Nam xuất khẩu ở Lào đã và đang tăng lên rõ rệt, đồng thời qua Lào hàng hoá của Việt Nam cũng đã thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan. Nội dung hiệp định thương mại giữa hai nước. Chính phủ Lào đều nhằm mục đích và nguyên tắc chung, đó là củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Quan hệ được dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn trọng truyền thông hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực thương mại giữa hai nướcvà tập quán thương mại quốc tế, đồng thời khuyến khích việc buôn bán hàng hoá do hai nước sản xuất. Trong hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam – Lào năm 1998 đã nhấn mạnh hợp tác trong lĩnh vực giao thông, vận tải, bưu điện, phía Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phía Lào trong việc vận chuyển hàng hoá qua cảnh xuất khẩu, nhập khẩu của Lào qua lãnh thổ Việt Nam và sử dụng một số cảng biển hiện có ở Việt Nam. IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÓI CHUNG VÀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG LÀO NÓI RIÊNG. 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá. Hoạt động xuất khẩu bị chi phối và tác động của nhiều nhân tố khác nhau chúng ta có thể phân thành hai nhóm chính: Nhân tố trong nước và nhân tố ngoài nước. + Nhân tố trong nước. Trên phạm vi tổng thể các nhân tố sau đây có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. - Những qui định pháp luật và chính sách kinh tế của nhà nước đối với xuất khẩu như: thuế xuất khẩu, tỷ lệ lãi vay ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chính sách đầu tư, trợ giá quy hoạch vùng xuất khẩu, chính sách hạn chế, hay cấm xuất khẩu... Đây là những ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại nào. Bởi vậy trước khi xuất khẩu xem xét kỹ vấn đề này. Cụ thể là các nghị định, quyết định của Nhà nước về điều hành hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định số 57/CP. Ngày 31/7/1998. Điều 8: Kinh doanh xuất khẩu nhập khẩu. 1) Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu. Nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 2) Các chi nhánh, Tổng công ty, công ty được nhập khẩu xuất khẩu hàng hoá theo uỷ quyền của Tổng giám đốc. Tổng công ty, Giám đốc công ty, phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Tổng công ty, công ty. 3) Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu, tại cục Hải quan, Tỉnh, Thành phố. Tổng cục Hải quan xây dựng hệ thống mã số nói trên và hướng dẫn việc đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. * Thông tư 18 hướng dẫn thực hiện nghị định số 57/1998 NĐ - CP ngày 31/7/1998 của chính phủ về hoạt động xuất khẩu nhập khẩu. Để thi hành Nghị định số 57/1998/NĐ - CP ngày 31/7/1998 của chính phủ quyết định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá với nước ngoài Bộ thương mại hướng dẫn một vấn đề như sau: 1) Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu: Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật được nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá theo ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố theo quy định tại khoản 3, điều 8, Nghị định 57/1998/NĐ - CP không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại đã cấp, hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/1998. 2) Về hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu. a) Hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của thương nhân trừ những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và những mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu. b) Đối với mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (hàng xuất khẩu, nhập khẩu có hạn ngạch, có giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành). Thương nhân phải được cơ quan có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch hoặc cấp giấy phép. c) Các mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu được quy định tại phụ lục một ban hành kèm theo NĐ 57/1998/NĐ - CP. d) Các danh mục thuộc hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu có điều kiện quy định tại phụ lục 2, NĐ 57/1998/NĐ - CP, được xuất khẩu, nhập khẩu theo các nguyên tắc điều hành hàng năm của Thủ tướng chính phủ. - Tình hình sản xuất ở trong nước hướng vào xuất khẩu như thế nào? hàng hóa dịch vụ nào là trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Điều kiện cơ sở hạ tầng như đường xá, phương tiện vận chuyển bảo hiểm, hệ thống kho cảng, bến bãi... như thế nào cũng ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. * Trên góc độ các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố. - Chất lượng và giá thành của ._.hàng hoá. - Tính đa dạng về mẫu mã, độc đáo và mới lạ của sản phẩm. - Hình thức bao bì, sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá. - Khả năng nhanh nhạy nắm bắt sự thay đổi của nhu cầu thị trường, kế hoạch khả năng cạnh tranh chuyển hướng sản xuất và thay đổi cơ cấu mặt hàng. - Khả năng tạo nguồn xuất khẩu ổn định của doanh nghiệp. Điều này tuỳ thuộc vào trình độ trang thiết bị công nghệ máy móc, khả năng về vốn, lao động... của doanh nghiệp. - Cuối cùng hoạt động kinh doanh diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ Marketing bán hàng và sức thu hút của quảng cáo. * Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu, chịu tác động của các nhân tố. - Do trình độ năng lực của cán bộ ngoại thương về trình độ nghiệp vụ và kinh doanh làm ăn với nước ngoài. - Do khả năng chiếm giữ thông tin phục vụ khai thác thị trường khả năng điều hành, quản lý và tổ chức kinh doanh. - Do chiến lược kinh doanh có thích ghi với thị trường và đối thủ cạnh tranh hay không, những chiến lược này rất quan trọng nó quyết định sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn kinh doanh là một nhân tố quan trọng cho quá trình kinh doanh, ngoài ra khả năng tổ chức hoạt động tiếp thị và xúc tiến bán hàng cũng là yếu tố giúp cho quá trình kinh doanh. - Các nhân tố có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu với mức độ khác nhau. + Nhân tố ngoài nước. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu từ phía bên ngoài bao gồm một số nhân tố kể trên đối với thị trường các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó ngoài những đặc trưng như nhu cầu, thị hiếu, luật pháp riêng của từng nước hoạt động xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp và thông lệ quốc tế. Nhu cầu thị trường nước ngoài là yếu tố trực tiếp quyết định việc nhập khẩu của họ. Từ đó ảnh hưởng đến xuất khẩu của các nước khác với số lượng nhiều hay ít, chiều hướng tăng hay giảm. Nhu cầu này không diễn biến tự nhiên mà chịu sự áp đặt của những chính sách về nhập khẩu hay các biện pháp về bảo hộ mậu dịch với nước. Những nhân tố như thị hiếu tiêu dùng, tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Ngoài ra các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một nước nói chung và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang Lào nói riêng phụ thuộc vào tình hình kinh tế khu vực trên thế giới tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ biến động mà chiều hướng sẽ tăng hay giảm. Đối với hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường Lào cũng có các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Lào như: Môi trường văn hoá xã hội, môi trường chính trị luật pháp của Lào, môi trường kinh tế và công nghệ, môi trường cạnh tranh là yếu tố quan trọng nhất tác động tới việc hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Lào vì hàng hoá Việt Nam phải sự chịu cạnh tranh của hàng hoá các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản... môi trường địa lý: tuy Việt Nam và Lào có chung biên giới từ Bắc đến Nam nhưng việc vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn và đường xã chưa thoả mãn tốt về vận chuyển hàng hoá. Chương II THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT - LÀO VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LÀO. I. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LÀO VÀ ĐẶC ĐIỂM HÀNG XUẤT SANG THỊ TRƯỜNG LÀO. 1. Đặc điểm thị trường Lào. Dân số: Diện tích: Tỉnh: Từ năm 1996, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện đường lối cải cách theo hướng kinh tế thị trường. Đến nay, kinh tế xã hội Lào đã bước sang giai đoạn phát triển mới. Sau hơn 10 cải cách, nền kinh tế Lào đã có những thay đổi sâu sắc, dần dần hướng tới hội nhập nền kinh tế thế giới, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư ngân hàng, ngoại thương đã có những bước tiến hành đáng kể. Thành quả hơn 10 cải cách của Lào đã tạo cơ sở vững chắc để Lào bước sang thế kỷ XXI và sát cánh cùng với thành viên trong ASEAN xây dựng Đông Nam Á ngày thêm lớn mạnh. * Đẩy mạnh phát triển cơ cấu kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. + Chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường: Nền kinh tế Lào được chuyển từ kế hoạch pháp lệnh của Trung ương sang kế hoạch và điều tiết vĩ mô, để cho các đơn vị kinh tế tự quyết định nhiệm vụ sản xuất của mình theo quy luật cung cầu của thị trường. + Chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy luật vận hành của thị trường: Nhà nước chỉ đạo giá của các mặt hàng chủ yếu như: điện, nước chảy tự nhiên, dầu mỏ thông tin, vận tải hàng không. Sau khi thực thi chính sách này đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xí nghiệp hạn chế kết quả lam phát từ 50 – 60% năm 1989 đến nay giảm xuống còn 6 – 8%. + Cơ chế tiền tệ: Chuyển hoạt động ngân hàng từ chỗ chỉ có tính chất cấp thiết sang hoạt động thương mại, chịu trách nhiệm điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, dự trữ với tư cách là một ngân hàng trung ương, tách kho bạc nhà nước độc lập với hệ thống Ngân hàng. Sau khi thực thi những chính sách trên, nghiệp vụ ngân hàng đã phát triển đến tỉnh và thành phố trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất và đầu tư. Dự trữ tiền tệ quốc gia của Lào ngày càng tăng lên, đồng thời cũng thu hút và mở rộng nghiệp vụ ngân hàng nước ngoài tại Lào. + Cải cách thể chế tài chính: Biến nghĩa vụ của các xí nghiệp và các hộ gia đình thành nghĩa vụ nộp thuế, từng bước hoàn thành các pháp quy của Nhà nước thành lập lệnh thuế. Sau một thời gian chuyển đổi như vậy, nguồn tài chính đã tăng lên 30%. Nền tài chính quốc gia đã điều tiết được trên vĩ mô một cách hiệu quả, thúc đẩy các ngành đẩy mạnh đầu tư sản xuất đặc biệt là do chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn nên thu hút được nhiều đầu tư trong và ngoài nước. + Cải cách thể chế quản lý kinh tế: Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế “tam quyền: lập pháp, tư pháp và hành pháp” biến cơ chế quản lý từ trung ương, tỉnh huyện trước đây thành cơ chế quản lý trực tiếp theo ngành, xác định những chức năng nhiệm vụ của các ngành, giảm bớt các đầu mối quản lý. Trung ương chỉ tập trung vào việc khống chế, điều tiết các vấn đề kinh tế vĩ mô và những quy định có tính chiến lược phát triển cùng những vấn đề trọng đại thuộc các cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện nước, bưu điện, trường học, bệnh viện... + Chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ, pháp qui về quản lý kinh tế – xã hội: làm có thành công cụ đắc lực để điều tiết giữa các ngành, các xí nghiệp trong phạm vi cả nước. Cho đến nay, Quốc Hội Lào đã ban bố gần 40 pháp luật, pháp quy và đã có hiệu lực mạnh mẽ đối với quản lý kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô. * Cải cách cơ cấu, mở rộng và động viên các thành phần tham gia phát triển kinh tế – xã hội. Trước đây chủ yếu là kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, quản lý bao cấp và phân phối bình quân. Hậu quả là làm cho sản xuất mất sức sống. Vì vậy, cải cách kết cấu kinh tế – xã hội đã trở thành một trong những chính sách quan trọng trong cải cách kinh tế của Lào. Biến những xí nghiệp quốc doanh không có tính chiến lược và kém hiệu quả thành xí nghiệp sở hữu khác, làm cho nó phải đúng trên nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, có sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Những chính sách đó đã đưa lại kết quả khá rõ nét. Ở Lào đã xuất hiện nền kinh tế đa sở hữu như quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác cổ phần, tư nhân và gần đây có cả liên doanh với nước ngoài v.v... các thành phần kinh tế đó đã vận hành tương đối có kết quả trong kiện cơ chế thị trường mà không nhất thiết phải có sự đầu tư và bao cấp của nhà nước. * Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Sau khi đã triển khai các chính sách như: phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy định vận hành của thị trường, cải cách thể chế tiền tệ, cải cách thể chế tài chính, cải cách thể chế kinh tế, chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ pháp quy quy về quản lý kinh tế xã hội, nó thúc đẩy sản xuất mở rộng buôn bán giữa các địa phương cũng như với nước khác, xí nghiệp tăng trưởng nhanh sức mua ở thành phố cũng như ở nông thôn tăng nhanh. Lực lượng hàng hoá năm 1996 đã tăng gấp hơn 60 lần so với năm 1995. Sức mua năm 1996 đã tăng 11,3% so với năm 1994. Hiện nay cả nước đã có 22.200 xí nghiệp với các hình thức sở hữu khác nhau, trong xí nghiệp loại lớn và vừa khoảng 1000, xí nghiệp xuất nhập khẩu là 205. Tình hình ngoại thương đang có nhiều hướng phát triển tốt, đã có quan hệ buôn bán với gần 40 quốc gia và khu vực trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu ngoại thương đến năm 1995 đã đạt đến 759,7 triệu USD. Tăng 1,6% so với năm 1994 trong đó xuất khẩu tăng 274 triệu USD, nhập khẩu tăng 485 triệu USD, nhập khẩu tăng 24,4 lần và xuất khẩu tăng 24,7 lần so với năm trước. * Mở rộng hợp tác với nước ngoài. Là chính sách quan trọng của Lào nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật để phát triển đất nước. Năm 1996, bắt đầu cải cách thì đồng thời Lào cũng thực thi một chính sách đối ngoại trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và dần dần đã mang lại hiệu quả đáng phấn khởi. Bước đầu đã thoát khỏi khó khăn về tài chính. Năm 1991 Liên Xô, Đông Âu sụp đổ đã mất đi nguồn viện trợ to lớn nhưng Lào đã kịp thời điều chỉnh chính sách tranh thủ nguồn vốn và viện trợ không hoàn lại của các nước phương Tây và nhiều tổ chức quốc tế để cân bằng bội chi tài chính, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế – xã hội. Ngoài ra, Lào đã đưa ra luật đầu tư để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài. Từ năm 1988 đến hết năm 1995, chính phủ đã phê duyệt hơn 500 hạng mục đầu tư với tổng số vốn lên đến 5,5 tỷ USD. Phần lớn vốn được tập trung vào các ngành điện lực, khai khoáng và dịch vụ tạo điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và kinh tế - xã hội. Bước vào thế kỷ XXI, nhà nước Lào với một tình hình chính trị ổn định trong nước và một môi trường quốc tế hoà bình. Hiện nay nước Lào với một vị thế mới của mình. Không phải chỉ là thành viên của ASEAN mà có quan hệ ngoại giao với 96 nước và quan hệ thương mại với 30 nước trên thế giới. Sự hội nhập đó đòi hỏi nhà nước Lào những nỗ lực thật to lớn để tiến kịp các nước anh em. Theo kế hoạch phát triển kinh tế 1997 – 2000 nước Lào cần phải đạt sự tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8% trở lên mới có thể tham gia vào AFTA năm 2008, muốn tham gia vào AFTA một cách có hiệu quả và tròn bổn phận, nhà nước Lào cũng đã thấy cần phát triển thị trường nội địa cải tiến cơ chế làm việc, phát triển khuôn khổ pháp lý cần thiết liên quan tới các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong những năm tới, trong kế hoạch phát triển kinh tế đến năm 2000 của mình, Lào vạch ra 8 chương trình ưu tiên quốc gia như sau. 1: Chương trình sản xuất lương thực. 2: Chương trình ổn định chuyển đổi canh tác. 3: Chương trình sản xuất hàng hoá thương mại. 4: Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng. 5: Chương trình phát triển nông thôn. 6: Chương trình phát triển nguồn nhân lực. 7: Chương trình quan hệ kinh tế đối ngoại. 8: Chương trình phát triển dịch vụ. Cơ sở để tiềm năng nhà nước Lào sẽ thực hiện được những chương trình trên đây là: họ luôn có sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào. Nhờ đó, trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã tạo được sự ổn định về chính trị. Nước Lào còn có “nhiều tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên đều có chưa được khai thác”, ngoài ra với tư cách là một thành viên đầy đủ của ASEAN, trong những năm tới nhà nước Lào sẽ tham gia vào dự án của ASEAN như dự án tiểu vùng sông Mê Công, chương trình phòng chống ma tuý Đông Nam Á, xây dựng đường xuyên nội địa Đông Nam Á v.v... Đó là những thách đòi hỏi những cố gắng vượt bậc, nhưng cũng là vận hội mới của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong thế kỷ XXI. 2. Đặc điểm hàng xuất khẩu sang thị trường Lào. - Mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang Lào theo nghị định thư quy định 39 mặt hàng của các ngành lương thực thực phẩm, dệt may, giầy da, sắt thép, ximăng, vật liệu xây dựng, thuỷ, hải sản đóng hộp và đông lạnh, trâu bò sống và lợn sữa.... vài năm gần đây trong cơ chế thị trường ngoài trao đổi hàng nông thuỷ sản và hàng tiêu dùng ở chợ đường biên có thêm mặt hàng giấy vở học sinh, đồ nhựa các loại và một số hàng tiêu dùng thiết yếu khác. - Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin đối với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng hoá của Việt Nam xuất hiện ở Lào đã và đang tăng lên rõ rệt. Đồng thời qua Lào hàng hoá Việt Nam cũng thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan, đặc biệt là 6 tỉnh Đông Bắc Thái Lan. - Trong năm 1999, việc xuất khẩu đổi hàng với Lào thực hiện theo quy định: khuyến khích các doanh nghiệp (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá do Việt Nam sản xuất sang Lào, theo danh mục hàng hoá. + Hàng cơ khí, kim khí. + Hàng thủ công mỹ nghệ. + Muối. + Sản phẩm chăn nuôi. + Hàng nông sản. + Dược liệu thực phẩm. + Sản phẩm cao su. + Hàng điện, điện tử gia dụng có tỷ lệ nội địa hoá trên 60%. + Hàng dệt, may, tơ tằm. Bộ thương mại hướng dẫn cụ thể danh mục các mặt hàng xuất khẩu đổihàng với Lào nêu trên. Từ đầu năm 1999 do sự phối hợp tốt hơn giữa các ngành và tiếp tục duy trì việc đổi hàng, 6 tháng đầu năm 1999 kim ngạch XNK 144 triệu USD tăng 4,5 lần so với cung kỳ năm 1998. Trong đó Việt Nam xuất sang Lào khoảng 79,6 triệu USD gồm các nhóm hàng chính như. + Nhóm hàng nông sản: hạt tiêu, lạc tỏi... 31 triệu USD. + Nhóm hàng thuỷ sản: tôm, cá đông lạnh....7 triệu USD. + Nhóm hàng công nghệ phẩm: vải, quần áo, đồ dùng gia đình 25,3 triệu USD. + Nhóm hnàg mỹ nghệ: đồ gốm1,2 triệu USD. + Nhóm khoáng sản: thiếc thỏi 1,3 triệu USD. Với chủ trương mong muốn hàng Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Lào, ngày 02/6/1997 Thủ tướng Chính phủ Lào cho phép các công ty nhà nước của các doanh nghiệp sớm hợp tác mua bán với Trung Quốc và Việt Namnhững mặt hàng mà thị trường Lào và Thái Lan có nhu cầu. Được nộp thuế một tại cửa khẩu và thu giảm xuống để giảm giá hàng hoá. Ngày 18/9/1997 Thủ tướng Chính phủ Lào có văn bản số 1577/TT cho phép các mặt hàng nhập khẩutừ Việt Nam và Trung Quốc được giảm 50% thuế với điều kiện. “Trong tờ khai thuế nhập khẩu phải tính giá trị nộp thuế đúng theo giá trị nộp thuế đúng theo giá trị thực tế và theo mức giá quy định trong luật hiện hành, nhưng khi thu tiền thực tế với các công ty có liên quan sẽ chỉ thu có một nửa (1/2) của tổng giá trị nộp thuế”. II. TÌNH HÌNH QUAN HỆ VIỆT – LÀO TRONG THỜI GIAN QUA VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY SIMEX SANG THỊ TRƯỜNG LÀO. 1. Tình hình quan hệ thương mại Việt – Lào trong thời gian qua. Cơ sở pháp lý đầu tiên của quan hệ thương mại giữa Việt – Lào là hiệp định thương mại ngày 13/7/1961. Tuy vậy trong thời kỳ 1961 – 1975 quan hệ giữa hai nước chỉ mới phát triển dưới hình thức đổi hàng giữa nhân dân hai nước vùng biên giới. Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) được thành lập (tháng 12/1975) tiếp tục ký các hiệp định 5 năm và các Nghị định thư thương mại hàng năm. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này giữa hai nước trung bình đạt từ 3,5 – 4 triệu rúp clearing, chủ yếu là trao đổi mậu dịch chính ngạch, phía Lào nhập siêu của Việt Nam khoảng 11,5 triệu USD từ năm 1982 – 1990 Lào vẫn tiếp tục nhập siêu của Việt Nam trên 0,5 triệu rúp. Mặt hàng Việt Nam xuất chủ yếu là hàng nông sản như cà phê, cao su, gạo, giầy dép các loại, hải sản hàng dệt may, hạt điều, rau quả các loại. Tháng 2/1991, hiệp định thương mại 1991 – 1995 được ký giữa hai chính phủ, hai bên thoả thuận chấm dứt hình thức ký Nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, xzoá bỏ tình trạng bao cấp của nhà nước, mở ra thời kỳ mới cho quan hệ thương mại hai nước Việt – Lào. Hiệp định thương mại trong thời kỳ này cho phép mở rộng đối tượng trao đổi, không hạn chế các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi hàng hoá, không hạn chế kim ngạch trao đổi hàng hoá, mở rộng danh mục trao đổi trừ các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập. Với cơ chế phù hợp với tình hình mới. Kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu hai chiều Việt Nam – Lào có sự thay đổi tăng nhanh hưon so với trước đây. Tổng Kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu Việt Nam – Lào thời kỳ 1991 – 1995. Theo từng giai đoạn, tính chất, số lượng các mặt hàng nhóm mặt hàng xuất, nhập khẩu cũng được tăng giảm phù hợp với nhu cầu thị trường của mỗi nước. Giai đoạn từ năm 1991 – 1995 các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu sang Lào chủ yếu là: gạo, thịt lợn, thịt bò, trâu bò, chiếm tỷ trọng kim ngạch khá thấp (Bảng 1). Giai đoạn 1996 – 2000 các mặt hàng nông nghiệp được tăng lên đáng chú ý là: cà phê, lạc nhân, hạt tiêu hoa quả tươi khô với số lượng đáng kể. Đặc biệt là năm 1999 hải sản của Việt Nam đã chiếm được thị phần khác lớn so với các mặt hàng mà Việt Nam xuất sang Lào (Bảng 2) làm cho giá trị hàng xuất khẩu của nông, lâm, ngư tăng lên đáng kể so với những năm trước đây. về giá trị hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp và chế biến như: sắt, thép, ximăng, vải, xăng. Các mặt hàng xuất khẩu của Lào là xe máy nguyên chiếc, phụ tùng xe máy, ôtô vận tải, ôtôdu lịch trong giai đoạn (1991 – 1995) và linh kiện xe máy dạng CKD, SKD và xe máy nguyên chiếc (giai đoạn 1996 – 2000) là gỗ, các sản phẩm từ gỗ, sắt, ximăng, máy móc phụ tùng, thạch cao được nhập với khối lượng thấp và không được điều đặn. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam – Lào thời kỳ 1996 – 2000 Bảng (2) 1996 1997 1998 1999 2000 S.L KN SL KN SL KN SL KN SL KN Tổng kim ngạch hai chiều 188.000 110.000 216 359 Việt nam xuất sang Lào 120.000 46.135 73.291 164.263 - Hàng dệt may 666 3.151 2.246 8.867 - Cà phê 1.592 2.395 54 50 - Hiải sản 13.321 - Gạo 30 5.571 2.867 823 494 107 - Chè 59 60 - Quế 0,350 - Lạc nhân 18.667 12.401 - Hạt tiêu 6816 26.426 - Thiếc 484 2.485 - Hàng thủ công mỹ nghệ 3.981 - Linh kiện vi tính và phụ kiện 8 - Hoa quả tười khô 629 211 4.456 9.234 - Giầy dép các loại 234 2.730 - Hạt điều 103 - Việt Nam nhập khẩu từ Lào 68.000 53.700 144.308 195.000 - máy móc thiết bị phụ tùng 105 NPL dệt may da 5 - ôtô nguyên chiếc các loại 98 965 4 133 19 - Linh kiện xe máy dạy GKD, SKD 38.082 52.429 23.332 28.806 173.487 (bộ) 173.016 - Phân bón các loại 5000 584 - Sắt thép các loại 1 230 - Xe máy nguyên chiếc 5252 7.502 2190 2.925 - Xi măng các loại 2516 (tấn) 125 Để giải quyết vấn đề này chính phủ, ngành thương mại các cơ quan hữu quan hai nước đã phối hợp trao đổi cùng đưa ra chính sách ưu tiên lẫn nhau cho hoạt động thương mại mà đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng kinh tế ASEAN. Quá trình lịch sử của hai nước cũng như mối quan hệ Việt – Lào đều có điểm tương đồng và điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh tế thương mại phát triển. Hiện nay cả hai nước cùng quy định con đường XHCN cùng đổi mới, cùng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việt Nam – Lào cùng thể hiện chính sách đối ngoại mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt song phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vựuc trên nguyên tắc của mình. Hai nước chuẩn bị gia nhập khub vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Hai nước từng bước hội nhập quốc tế với vị thế ngày càng được nâng cao. 2. Biện pháp trao đổi hàng với Lào. Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp ngày 08/01/1999. Bàn về hợp tác đổi hàng với Lào, trên cơ sở các ý kiến của Bộ, ngành qua phân tích các mặt được cũng như tồn tại của việc thực hiện phương thức đổi hàng với Lào Bộ thương mại xin: Đề nghị Thủ tướng chính phủ cho phép tiếp tục chủ trương đổi hàng với Lào để nhập khẩu lại một số mặt hàng nhập khẩu có điều kiện trong đó cso xe máy hoặc linh kiện trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi. Để phát huy nữa những mặt tích cực, đồng thời giảm thiểu những yếu tố có thể gây vướng mắc trong điều hành hoặc làm phát sinh gian lận thương mại, cơ chế quản lý đổi hàng với Lào trong năm 2000 cần có một số điều chỉnh được trình bày trong phụ lục kèm theo. Năm 2000 theo dự kiến của Bộ thương mại, với cơ chế đổi hàng nếu được nhà nước cho phép tiếp tục thì số lượng xe máy đổi bằng cũng chỉ ở mức 150.000 bộ/năm đạt kim ngạch 180 triệu USD. Ngoài xe máy hàng của bạn mà ta có thể đổi chỉ còn gỗ nhưng hàng năm Bạn chỉ có thể xuất sang ta khoảng 2 triệu USD. Ngoài ra bạn dự kiến sẽ nhờ ta mua hàng dầu tái xuất và thanh toán bằng ngoại tệ (khoảng 70 triêụ USD). Trừ đi phần kim ngạch xuất khẩu đổi hàng và khoản xăng dầu Bạn thanh toán bằng ngoại tệ ta cần xuất khẩu tăng thêm khoảng 200triệu USD. Một số biện pháp khác: Để thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu sang Lào, ngoài đổi hàng Bộ thương mại xin kiến nghị thêm một số biện pháp hỗ trợ, khuyến khích như sau: (*) Cho phép doanh nghiệp bán hàng trên đất Lào thu tiền kíp được chuyển đổi qua ngân hàng liên doanh Lào – Việt. Căn cứ Hiệp định thanh toán đã đăng ký giữa ngân hàng Nhà nước Việt Nam và ngân hàng Nhà nước CHDCND Lào, căn cứ chức năng nhiệm cụ của ngân hàng liên doanh Lào – Việt, để Ngân hàng liên doanh sau khi nhận tiền gửi của doanh nghiệp, chuyển đổi sang tiền kíp hoặc tiền đồng theo tỷ giá công bố tại thời điểm nhận tiền để chuyển về nước cho doanh nghiệp. Nếu ngân hàng làm tốt được khâu chuyển đổi tiền, giá hàng hoá có thể giảm 20% do doanh nghiệp không phải cộng thêm % lạm phát củ tiền kíp. (*) Áp dụng cơ chế ưu đãi tín dụng. - Định mức vòng quay vốn 2 tháng, không tính lãi vay Ngân hàng đối với khoản vay mua hàng xuất khẩu – sau khi xuất khẩu có bộ chứng từ và khế ước vay tiền được kho bạc Nhà nước cho thoái thu laic vay ngân hàng. - Cơ chế cho Lào trả chậm 90, 120, 180, 270 và 360 ngày với lãi suất cho vay thấp nhất đối với các mặt hàng như: ximăng, sắt thép, phân bón, máy nông nghiệp. Trong đàm phán dịp Hôi chợ Thạt Luổng 99, phía Lào đã có được sử dụng tín dụng của Việt Nam. Với cơ chế này cần có bảo lãnh của ngân hàng và cao hơn là đảm bảo của chính phủ hai nước. (*) Miễn mọi loại thuế. - Miễn thuế xuất khẩu đối với những mặt hàng có thể xuất khẩu. - Thủ tục nhanh chóng cho doanh nghiệp được thoái thu thuế VAT đối với hàng xuất khẩu khi đã xuất trình đầy đủ chứng từ. - Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các lô hàng xuất sang Lào. (*) Chính sách đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư 100% vốn sang Lào, đề nghị chính phủ cho phép đưa sản phẩm về tiêu thụ trong nước, những sản phẩm này được giảm 50% thuế nhập khẩu như đối với những mặt hàng có C/O Lào theo Bản thoả thuận Cửa Lò 1999. Quy định và thủ tục xuất nhập khẩu đổi hàng. - Căn cứ luật Thương mại, Nghị định số 57/1998/NĐ - CP. Ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ và các quy định tại văn bản này, Bộ Thương mại quy định mẫu Hợp đồng xuất khẩu theo phương thức hàng đổi hàng với Lào trong đó có quy định bảo đảm cho các doanh nghiệp Việt Nam tránh được rủi ro. - Căn cứ các qui định tại văn bản này, hợp đồng mẫu do Bộ Thương mại quy định, các doanh nghiệp thực hiện việc ký hợp đồng giá làm thủ tục với Hải quan cửa khẩu để giao hàng theo hợp đồng đã ký. 3. Tình hình xuất khẩu của công ty SIMEX sang thị trường Lào trong thời gian qua. Trong thời gian qua nhờ phát huy được lợi thế của các mặt hàng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế, đồng thời dựa vào tiềm lực của mình công ty đã tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu và đạt được đạt được những kết quả đáng kể. Thể hiện qua bảng sau. Kết quả kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng 1995 – 1998 Mặt hàng xuất khẩu 1995 1996 1997 1998 Giá trị TH Tỉ trọng (%) Giá trị TH Tỉ trọng (%) Giá trị TH Tỷ trọng (%) Giá trị TH Tỉ trọng (%) Cà phê 8.395,8 44,6 8.327,3 36,4 13055,7 33,8 9.310,4 38,8 Hạt điều thô 2567,8 13,6 450 1,9 Hạt điều nhân 2732,8 11,9 246,5 0,7 422,2 1,8 Tiêu 900,1 1270 5,5 11579,4 30,0 5358,2 22,3 Đậu các loại 147,9 0,8 504,8 2,2 420,3 1,9 107,3 0,4 Mực , tôm khô 3508 18,6 4735 20,7 594,4 15,5 3155,3 13,2 Cá đông các loại 210,1 1,1 549,4 2,4 737,5 1,92 Da trâu bò muối 822,4 4,4 878,2 3,8 754,9 2,0 472,7 2,0 Thủ công mỹ nghệ 161,6 0,9 654,4 2,8 127,9 0,3 692,5 2,9 Trà 321,2 1,7 753,4 3,3 945,5 2,5 899,4 3,8 Dược liệu 38,7 0,2 66,3 0,3 Ngô 248,2 1,3 244,9 1 Gỗ thành phẩm 1561,2 8,3 1775,9 7,8 1958,3 5,1 2309,2 9,6 Dụng cụ thể thao 32,0 0,08 99,1 0,4 Củ hành khô 413,2 1,1 71,9 0,3 TP chế biến 318,2 1,3 Da, thịt trăn 132,7 0,5 Tơ ren 468,2 19 Hàng khác 2309,1 6 197,9 0,8 18833,8 100 22889,7 100 38.589,7 100 23978,4 100 GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU TRÊN TỪNG THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 Xuất khẩu Giá trị TH Tỉ trọng (%) Giá trị TH Tỉ trọng (%) Giá trị TH Tỷ trọng (%) Giá trị TH Tỷ trọng (%) Singapore 10833,7 57,5 8297 36,2 16417,3 42,5 8007,2 33,4 Thái Lan 956,6 5,1 2998,5 13,1 4900,8 12,7 752,3 3,2 Nhật 731 3,9 1247,2 5,4 1949,1 5,05 976,0 4,07 Hồng Kông 246,6 1,3 1408,1 6,1 618,9 1,6 581,2 2,4 Hnà Quốc 96,3 0,51 2105,8 9,2 2770,7 7,18 664,3 2,8 Pháp 741,3 3,9 1241,4 5,4 2081,0 5,4 1278,0 5,3 Anh 94,5 0,5 512,6 1,3 56,3 0,23 Bỉ 301,1 1,6 342,3 1,5 95,4 0,2 Mỹ 342,2 1,5 2275,5 5,9 808,9 3,4 úc 77,8 0,41 124,3 0,5 99,3 0,25 1588,8 6,6 Hà Lan 262,2 1,4 321,0 1,40 2492,4 6,45 266,0 1,1 Đức 503,8 2,7 447,1 1,90 1759,9 4,6 488,3 2,0 Đan Mạch 1086,0 5,8 83,0 0,40 28,3 0,07 86,4 0,4 Ý 534,0 1,4 727,9 3,0 Ba Lan 74,8 0,19 Thuỵ sĩ 1541 8,2 450,7 1,2 Indonesia 200 1,1 1100,2 4,80 400,0 1,04 Malaysia 397 1,06 231,2 1,01 265,0 0,7 Philippin 124.6 0,32 525,6 2,2 Lào 355,9 1,89 242,6 1,09 27.2 0,07 71,5 0,3 Ấn Độ 400,1 2,1 Pakistan 16.3 0,04 Trung Quốc 402,9 2,13 2423,9 10,6 220.3 0,57 409,5 1,7 Tây Ban Nha 220.0 0,57 110,0 0,5 Nga 276.0 0,7 Đài Loan 4771,7 19,9 Phần Lan 11,2 0,05 Mã Lai 226,4 1,1 Tiệp Khắc 123,8 0,5 Thuỷ Điển 1221,0 5,1 Tổng 18833,8 100 22889,9 100 38589,7 100 23976,5 100 Thị trường xuất khẩu đã được công ty chia thành thị trường truyền thống và thị trường mới. Trên hai thị trường này công ty đều xác định cho mình thị trường trọng điểm, nơi mà công ty có thể tập trung mọi nguồn lực cho kinh doanh. Thị trường truyền thống của công ty bao gồm: Singapore, Nhật, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc. Các nước này có sự gần gũi về văn hoá cũng như về truyền thống với nước ta do đó tạo điều kiện thuận lợi cho công ty mở rộng thị phần của mình trên thị trường này. Trong thị trường truyền thống, trị giá xuất khẩu sang Singapore một tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Thị trường mới bao gồm các nước thuộc cộng đồng kinh tế Châu Âu như: Hà Lan, Pháp, Ý, Anh ... và các nước thuộc các khu vực khác trên thế giới như Ấn Độ, Philippin, Trung Quốc.... trị giá hàng xuất khẩu sang các thị trường này không lớn trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Nhưng với quy mô lớn của thị trường thì đây là những tiềm năng công ty có thể khai thác. III. ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM CỦA CÔNG TY SIMEX SANG THỊ TRƯỜNG LÀO TRONG THỜI GIAN QUA. Trong suốt 10 năm qua, từ năm 1991 – 2000, mặc dù buôn bán giữa hai nước ngày càng được thuc đẩy hơn nhưng nếu xét về cán cân thương mại giữa Việt Nam và Lào thì chúng ta nhập siêu khá lớn với thời gian khá dài (7 năm trong giai đoạn 10 năm), đặc biệt như năm 1994 và năm 1998. Ta nhập siêu/ kim ngạch xuất, nhập khẩu tương ứng là 101.421.000 USD/139.848.000 USD và 71.017.000 USD/ 217.599.000 USD. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn về một khía cạnh nói trên thì chưa thể đánh giá đầy đủ vấn đề khi mà chưa đề cập tới tiềm năng, nhu cầu của thị trường mỗi nước. Nhìn chung các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Lào có chủng loại đa dạng hơn so với các mặt hàng nhập từ Lào về. Số lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Lào là khá lớn so với nhu cầu tiêu thụ của Lào. Tuy nhiên, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam - Lào chưa tương xứng với tiềm năng, với mối quan hệ đặc biệt và lâu đời giữa hai nước. Để giải quyết vấn đề này Chính phủ, ngành thương mại, các cơ quan hữu quan hai nước đã phối hợp trao đổi cùng đưa ra những chính sách ưu tiên lẫn nhaucho hoạt động khủng hoảng kinh tế ASEAN; khi mà đồng kíp Lào bị phá giá và mất ổn định; từ chỗ lạm phát trước khủng hoảng dưới 10% có lúc lên tới 19,4% năm 1995, 13% năm 1996 và hiện nay ở mức 15% hàng năm. Năm 1997, Chính phủ Lào đã quyết định thực hiện giảm 50% thuế các mặt hàng nhập từ Việt Nam (Văn bản 1577/TT, ngày 18/9/1997). Đáp lại chính phủ Việt Nam cũng đã quyết định cho phép giảm 50% thuế xuất, nhập khẩu thông thường đối với hàng hoá sản xuất tại Lào. Theo đó, các bộ tài chính thương mại, Tổng cục hải quan có thông tư liên bộ hướng dẫn cho phép 5 nhóm mặt hàng chủ yếu được miễn 50% thuế xuất, nhập khẩu. Sau một năm thực hiện, ngày 23/8/1999, Chính phủ Việt Nam đã đồng ý giảm 50% thuế cho các hàng hoá có xuất xứ từ Lào với 6 nhóm 38 mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Trong những năm qua, bằng sự nỗ lực và cố gắng không ngừng của mình, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà đã thu được những thành tựu đáng ghi nhận thể hiện: * Quy mô thị trường của Công ty không ngừng được mở rộng. Nếu như năm 1996, công ty mới chỉ có quan hệ buôn bán với 16 quốc gia khác nhau với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thu được là 22.889.900 USD thì năm 1999 công ty đã thiết lập được quan hệ buôn bán ở 22 quốc gia với tổng kim ngạch xuất khẩu thu được là 27.921.340 USD tăng 21,98% so với năm 1996. Mặt khác, nếu như trước đây, thị trường của Simex tập trung chủ yếu ở khu vực Châu Á thì giờ đây, ngoại khu vực thị trường truyền thống này, thị trường EO, thị trường Mỹ và Úc dần trở thành những bạn hàng quen thuộc của Simex, đóng góp đáng kể vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty. Đây không chỉ đơn thuộc là sự lớn mạnh về quy mô mà còn thể hiện sự chiếm lĩnh được lòng tin của khách hàng trong quan hệ làm ăn buôn bán của công ty. Điều này là nền tảng vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Simex sau này. Để có kết quả như vậy, Công ty đặc biệt chú trọng và quan tâm đến công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường, ưu tiên hàng đầu vào việc nghiên cứu và tìm kiếm những nguồn hàng có chất lượng cao giá rẻ, mạnh dạn đầu tư vào hoạt động sản xuất, chế biến và bảo quản hà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8433.doc
Tài liệu liên quan