Lời nói đầu
Hoạt động kinh doanh thương mại trong những năm qua giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ ở từng khu vực ở từng quốc gia. Hoạt động thương mại luôn tồn tại và phát triển khẳng định được vai trò của nó trong mọi nền kinh tế. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, thương mại thế giới không chỉ phát triển mạnh mẽ về bề rộng mà cả về bề sâu và mỗi quốc gia đều có những chính sách của mình để thúc đẩy hoạt động thương mại nhất là Việt Nam và thế giới nói chung. Việt Nam v
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào của Công ty XNK nam Hà Nội (SIMEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Lào nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay. “Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại, là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong chiến lược đó hoạt động thương mại được coi là tác nhân liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập, là đòn bẩy phát triển kinh tế đất nước.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện các chính sách ngoại thương nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, gắn thị trường Việt Nam với thị trường thế giới và thị trường Việt Nam với thị trường Lào, phát huy tiềm năng của đất nước, tiếp nhận vốn kỹ thuật và trình độ quản lý từ nước ngoài và xây dựng mối quan hệ kinh tế với các nước láng giềng. Đặc biệt là mối quan hệ kinh tế Việt Nam với Lào là mối quan hệ có cội nguồn từ xa xưa, được xây đắp bởi công sức của bao thế hệ, là quan hệ của hai quốc gia láng giềng gần gũi, thân thiện, cùng giúp đỡ lẫn nhau chia ngọt sẻ bùi.
Hiện nay quan hệ Việt - Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Nhất là Việt Nam và Lào cùng chung là thành viên của ASEAN, quan hệ thương mại giữa hai nước càng có cơ hội phát triển.
* Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào của công ty xuất nhập khẩu nam Hà Nội (Simex).
Đề tài nhằm mục đích trình bày sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ Việt – Lào. Đồng thời phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào của công ty Simex tìm ra những ưu điểm cũng như một số mặt tồn tại cần khắc phục.
Chương I
Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
I. Bản chất và vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
1. Bản chất của xuất khẩu
- Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ của một quốc gia mà sang quốc gia khác nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song hoạt động này có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian nhiều, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh và hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ các tập quán quốc tế cũng như các luật lệ khác nhau.
Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu là một trong hai hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thương mại quốc tế. Nó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên ngoài lẫn bên trong nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng tiêu dùng đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều có chung một mục đích là đem lại lợi ích cho các nước tham gia.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương nhân giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo hiệu quả cao nhất, dịch vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
2. Vai trò của xuất khẩu.
2.1. Đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
- Xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ tốt nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng giữa các nước với nhau. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước.
- Xuất khẩu có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải thiện cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao mức sống của dân.
- Nước Việt Nam là nước kịnh tế còn thấp, thiếu hụt về vốn, khả năng quản lý, chỉ có tài nguyên thiên nhiên và lao động. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên và tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước giàu.
- Với định hướng phát triển nền kinh tế xã hội của Đảng. Chính sách kinh tế đối ngoại, xuất khẩu phải được coi là một chính sách có tầm quan trọng, chiến lược phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Đối với mọi quốc gia cũng như Việt Nam, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho thu nhập, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc trang thiết bị, hiện đại từ bên ngoài. Nguồn vốn nhập khẩu thường dựa vào các nguồn vốn chủ yếu vay, viện trợ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vay thì phải trả, nguồn vốn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn. Hơn nữa các nguồn này còn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất là xuất khẩu. Nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng gia tăng theo. Song nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và là tất yếu đối với Việt Nam. Ngày nay, đa số các nước đều lấy thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển.
Xuất khẩu góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Thị trường thế giới là thị trường to lớn song cạnh tranh quyết liệt. Để tồn tại và phát triển trong thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đổi mới, tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất.
Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động và thu nhập tương đối lớn, tăng ngày công lao động, nâng cao đời sống người lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu có tác dụng tăng trưởng sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò Việt Nam trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có tác dụng thúc đẩy giữ uy tín, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... các quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong quan hệ quốc tế đối ngoại. Qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một nước nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩuthì nền kinh tế có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc vận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước.
2.2. Đối với một doanh nghiệp.
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị trường, không ngừng đổi mới, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật.
Xuất khẩu giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường không chỉ bó hẹp ở trong nước. Doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận để mở rộng tái sản xuất có lãi và không ngừng tăng trưởng.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp tạo công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động thu hút người lao động vào doanh nghiệp, giúp cho người lao động ổn định và cải thiện đời sống.
II. Những nội dung cơ bản của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch Marketing.
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trương chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp.
* Lựa chọn mặt hàng kinh doanh.
Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của thịtrường vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm cảu doanh nghiệp.
Khi lựa chọn mặt hàng các doanh nghiệp phải nghiên cứu các vấn đề:
- Mặt hàng thị trường đang cần gì?
Doanh nghiệp phải nhạy bén, biết thu nhập, phân tích và sử dụng các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng các quan hệ bán hàng... để có được những thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Việc tiêu dụng các loại mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phù thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu...
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống
Một là giai đoạn triển khai. Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường. Và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm.
Hai là giai đoạn tăng trưởng ở giai đoạn này sản phẩm bắt đầu được bán trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra nhiều sản phẩm chủng loại sản phẩm độc đảo để tạo môi trường tốt cho doanh nghiệp, tăng khả năng chọn lựa của khách hàng
Ba là giai đoạn bão hoà. Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán hàng chậm và giảm dần, lợi nhuận trong kinh doanh giảm, doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm hay có một chiến lược Marketing có hiệu quả hơn.
Bốn là giai đoạn suy thoái. giai đoạn này doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội kinh doanh mới. Việc rút ra khỏi thị trường cần được dự đoán và tính toán một cách thận trọng, chính xác.
- Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu
Doanh nghiệp phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp mình xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật... để có thể đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định.
* Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Doanh nghiệp phải xác định được từng mặt hàng nào, vào thị trường nào, thời điểm nào, hình thức Marketing như thế nào cụ thể doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề:
* Thị trường và dung lượng thị trường
Doanh nghiệp cần có các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhóm hàng, từ đó có thể hiểu sâu về những thị trường này.
- Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận độngcủa tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá.
- Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động thị trường thành tựu khoa học cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình và công nghệ các biện pháp chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng.
- Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường. Đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và các sự biến động của các chính sách kinh tế xã hội, các yếu tố tác động khác.
* Vấn đề biến động giá cả trên thị trường.
Phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Trong mua bán xuất nhập khẩu, việc mua bán hàng hoá và vận chuyển chúng phải qua một thời gian dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan, phong tục tập quán...) đã làm giá cả biến động một cách phức tạp, dẫn đến các nhà xuất khẩu phải luân theo dõi, nắm bắt được sự biến động của giá cả quốc tế, từ đó có mức giá chính xác, tối ưu.
* Lựa chọn bạn hàng kinh doanh
Các nội dung để tìm hiểu đối tác buôn bán có hiệu quả.
- Quan điểm kinh doanh của đối tác.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng về tài chính ( khả năng về vốn cơ sở vật chất)
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại lý cho công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với công ty.
2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu (đảm bảo về yêu cầu chất lượng quốc tế).
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất kinh doanh cho đến nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính.
- Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu do doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
- Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu thường do các tổ chức ngoại thương làm trung gian xuất khẩu hàng hoá.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các nhiệm vụ kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu có nghĩa hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến động giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh thông qua hệ thống thu mua hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng.
* Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biểu hiện bề ngoại của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Thực hiện nay có một số hình thức sau:
- Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, qua cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng...Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên.
- Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩutheo hợp đồng là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. Đây là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nhiệm vụ mua bán. Hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nội trên thị trường. Chủ yếu là hàng nông sản chưa qua chế biến.
- Tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. Đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chọn các đại lý thu mua phù hợp.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến, các doanh nghiệp ngoại thương là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người xuất khẩu hàng xuất khẩu, hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tóm lại: các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dùng các hình thức thu mua thích hợp.
* Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nhiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.
Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương cần nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật không. trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuệt giúp đở người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. mặt khách, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước so với giá cả quốc tế như thể nào. sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, đóng gói...thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, vì vậy nó sẽ quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu.
- Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công. Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận, và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng với các chận hàng và các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phần thực hiện theo kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu
3. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng.
3.1. Các hình thức giao dịch
Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và đối tượng, năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chon phương thức giao dịch cho phù hợp.
- Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc thảo luận trực tiếp về hàng hóa giá cả, điều kiện giao dịch phương thức thanh toán... Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thiết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp.
- Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín để trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã chất lượng và số lượng hàng hoá... bằng Fax hoặc thư tay.
- Giao dịch qua điện thoại việc giao dịch qua điện thoại giúp doanh nghiệp đàm phán đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức này chỉ nên dùng cho những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chú đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán.
3.2. Đàm phán, nghệ thuật đàm phán.
Là quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng là cơ sở đi đến ký kết hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, những tranh chấp thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo.
3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Sau khi giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau trong đó bên bán phải cung cấp hàng hoá còn bên mua phải có trách nhiệm là thanh toán tiền mua hàng hoặc nhận hàng.
Một: Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các phàn sau:
- Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi.
- Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
- Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân theo những thủ tục thể thức nhất định.
Hai là: Nội dung và điều khoản của hợp đồng bao gồm:
- Tên hàng.
- Phẩm chất.
- Số lượng.
- Điều khoản giao hàng.
- Điều khoản giá cả.
- Điều kiện cơ sở giao hàng.
- Điều khoản thanh toán.
- Điều khoản bao bì, kỹ mã hiệu.
- Điều khoản bảo hành.
- Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại.
- Điều khoản bảo hiểm.
- Điều khoản bất khả kháng.
- Điều khoản khiếu nại và trọng tài
- Các điều khoản khác.
4. Thực hiện hợp đồng.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ theo luật quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm những vấn đề sau
Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Xin giấy phép xuất khẩu
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm tra
L/C
Làm thủ tục Hải quan
Giao hàng lên tàu
Mua bảo hiểm
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết khiếu nại
1) Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá:
Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp ký để tiến hành các khâu khác trong qúa trình sản xuất hàng hoá.
Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và băngf pháp luật, hàng hoá là đối tượng qoản lý có ba mức:
- Những doanh mục hàng hoá nhà nước cấm buôn bán xuất nhập khẩu hoặc tạm dừng.
- Những danh mục quả lý hàng xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch.
- Những danh mục hàng hoá được phép xuất nhập khẩu ngoài hạn ngạch.
Xin giấy phép xuất khẩu trước đâylà một công việc bất buộc đối với tất cả các doanh nghiệp Việtnam khi muốn xuất khẩu hàng hoá ra nưóc ngoài. Nhưng theo quyết định số 55/1998/QĐ-Ttgban hành ngày 03/03/1998 (ngày quyết định có hiệu lực), tất cả các doanh nhiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu hàng hoá phù hợp với nôị dung đăng ký kinh doanh trong nước của mình không cần phải giấy phép kinh doanh tại Bộ thương maị. Quyết định này không áp dụng với một số mật hàng đang cò quản lý theo cơ chế riêng (cụ thể là những mặt hàng gạo, sách báo, chất nổ, ngọc trai, kim loại quý, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ).
2) Kiểm tra thư tín dụng L/C.
Sau khi ký kết hợp đồng nhà nhập khẩu ở nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hậu có ngân hàng thông báo ở Việt Nam. Nhà xuất khẩu sau khi nhận được giấy báo xin mở L/C thật chặt chẽ, xem đã đúng như hợp đồng đã ký kết hoặc chưa nếu có gì chưa hợp lý cần cần báo lại cho bên phía nước ngoài để cả hai bên cùng thống nhất sửa đổi.
3) Chuẩn bị hàng xuất khẩu:
Các doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu chuẩn bị xuất khẩu bao gồm các công đoạn sau.
- Thu gom tập chung làm thành lô hàng xuất khẩu.
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. Phải lựa chọn bao bì phù hợp với mặt hàng và yêu cầu hàng hoãuất khẩu đúng với cam kết đã nêu ra trong hợp đồng, đồng thời có hiệu quả kinh tế là cao nhất.
- Kẻ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu. Phải đảm bảo nội dung thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vàvận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá. Đồng thời phải thoả mãn yêu cầu: sáng sủa, rõ ràng, dễ hiệu không gây khó khăn cho viẹc nhận biết hàng hoá.
4) Thuê tàu chuyên chở hàng hoá
Việc thuê tàu chuyên chở hàng hoá được tiến hành theo ba căn cứ sau:
- Những điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Những đặc điểm hàng hoá xuất khẩu.
- Những điều kiện vận tải.
5) Mua bảo hiểm:
Đối với hàng xuất khẩu chủ hàng chỉ mua bảo hiểm theo điều kiện CIF.
6) Kiểm tra chất lượng hàng hoá.
Trước khi giao hàng người xuất khẩu phải có nhiệm vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì, (tức là kiểm nghiệm). Nếu hàng xuất khẩu là động vật bắt buộc phải qua kiểm dịch theo qui định quốc tế.
7) Làm thủ tục Hải quan.
Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu:
- Khai báo hải quan.ư
- Xuất trình và kiểm tra hàng hoá.
- Thực hiện các quy trình của hải quan.
8) Giao hàng lên tàu.
Thực hiện điều kiện giao hàng trong hợp đồng, đến thời hạn giao hàng các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng (tuỳ theo loại mà cách thức tiến hành khác nhau).
9) Thủ tục thanh toán.
Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu được hàng hoá. Thực tế ở Việt Nam doanh nghiệp vừa thanh toán theo hai loại hình thức là tín dụng chứng từ (L/C) và phương thức nhờ thu.
10) Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, mà chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường cần có nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng.
Căn cứ để giải quyết khiếu nại là các biên bản giám định cảu cơ quan thứ ba đồng thời phải xem xét các yêu cầu khiếu nại có đầy đủ, chặt chẽ và còn trong thời hạn hiệu lực hay không. Nếu khiếu nại cócơ sở cần tìm hướng giải quyết hợp lý va kinh nghiệm cho các đợt tới.
III. Sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt-Lào và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá việt nam sang thị trường lào.
Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng chung sống lâu đời trên bán đảo Đông Dương, có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau về nhiều mặt. Sau 1975, khi nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thành lập, mối quan hệ này bước vào giai đoạn cách mạng mới, quan hệ Việt - Lào đã mang những đặc điểm mới. Từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng, hai nhà nước chuyển sang quan hệ toàn diện giữa hai Đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, từ quan hệ chủ yếu về chính trị, quân sự và đối ngoại chuyển sang quan hệ toàn diện, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế văn hoá và đối ngoại. Sự ra đời của hai nhà nước thống nhất, độc lập có chủ quyền là đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất, chi phối sâu sắc mối quan hệ giữa hai nước.
Đến nay, quan hệ Việt - Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới. Trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá của Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Sự cải thiện này được thể hiện qua nội dung các hiệp định thương mại giữa hai nước càng được thông thoáng, nhất là khi Việt Nam và Lào cùng là thành viên của ASEAN quan hệ ngoại thương giữa hai nước càng có cơ hội phát triển.
Việt Nam và Lào có chung 2069km đường biên giới, tiếp giáp 10 tỉnh từ Lai Châu đến Kontum. Hiện có 15 cửa khẩu, trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế, đó là cửa khẩu Lao Bảo - Đen Xa Vẳn, Cửa khẩu khác cầu Treo - Nậm Phao; 6 cửa khẩu chính; 7 cửa khẩu phụ; 27 đường môn qua lại giao lưu buôn bán giữa các tỉnh, huyện , xã, bản, Hiện nay phía Việt Nam đã xây dựng ._.được 11 đường biên nhằm phục vụ một cách thuận lợi việc trao đổi hàng hoá cho nhân dân hai nước ỏ phía đường biên.
Giữa Việt Nam và Lào đã ký hiệp định thương mại thời kỳ 1981 - 1985 Bộ ngoại thương Việt Nam và Bộ thương nghiệp Lào tăng cường trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực. Đầu năm 1985, Bộ chính trị Đảng nhân dân cách mạng Lào chủ trương chuyển hướng buôn bán từ Tây sang Đông. Việt Nam Lào đã ký biên bản hợp tác, quy định nội dung hợp tác, trong lĩnh vực ngoại thương giữa hai nước.
Tình hình ngoại thương giữa hai nước.
Đứng trước tình hình đổi mới trong những năm 90, tháng 2/1993, Chính phủ hai nước đã ký hiệp định thương mại cho thời kỳ 1993 - 1997, đồng thời ký nghị định thư thương mại Hiệp định thương mại này đã tác động tới hoạt động ngoại thương giữa hai nước. Sau đây là kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Lào từ 1993 - 1998.
Biểu 1: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
Việt Nam và Lào thời kỳ 1993-1998
Đơn vị
1993
1994
1995
1996
1997
1998
I. Tổng kim ngạch xuất xuất nhập khẩu.
Triệu USD
29,5
70*
80*
133,6*
111,6*
183,4*
Trong đó:
1. Xuất nhập khẩu chính ngạch
“
6,9
23,7
56,3
123,8
104,6
93
2. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch
“
22,6*
46,3*
23,7*
9,8
7,0*
90,4*
II. Tỷ trọng
%
1. Xuất nhập khẩu chính ngạch so với tổng kim ngạch
“
23,4
33,9
70,4
92,7
93,7
50,7
2. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch so với tổng kim ngạch
“
76,6
66,1
29,6
7,3
6,3
49,3
Nguồn: - Số liệu của đại sứ Việt Nam tại Lào.
- Niên giám thống kê 1996, 1997, 1998.
Qua số liệu trên cho thấy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu từ năm 1996, cho đến nay tăng hơn hẳn so với thời kỳ 1993-1995. Riêng xuất nhập tiểu ngạch 1998 có chiều hướng tăng vọt mặc dù có năm trước đó có xu hướng giảm.
Việc tăng kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch càng thể hiện rõ chiều hướng gia tăng qua số liệu năm 1999 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Lào đạt 190 triệu USD trong đó xuất khẩu chính đạt 88,5 triệu USD, 6 tháng năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 50 triệu USD, trong đó xuất khẩu chính ngạch gồm 10 triệu USD. (Số liệu báo cáo của sứ quán Việtnam tại Lào). Xuất nhập khẩu tiểu ngạch tăng là do trao đổi hàng hoá giữa các địa phương của hai nước tăng, Việc trao đổi buôn bán qua đường biển là một tất yếu khách quan đã hình thành từ lâu.
Từ năm 1976 trao đổi ngoại thương trung ương hình thành và phát triển thì trao đổi địa phương còn phát triển nhanh hơn. Đến năm 1985, trao đổi giữa các địa phương dọc tuyến biên giới phát triển rất đều. kim ngạch thời kỳ 1981 -1985 tăng hơn 22 lần thời kỳ 1976 - 1980. Thời kỳ 1993 - 1997 xuất khẩu tiểu ngạch đạt gần 20 triệu USD. Đến nay quan hệ trao đổi địa phương ngày càng phát triển nhất là khi nền sản xuất hàng hoá đã đi vào đời sống của từng làng xã các tỉnh vùng ven hai nước. Đo Việt Nam và Lào có chung biên giới từ Bắc đến Nam. Quan hệ trao đổi này đã thực sự giải quyết một số nhu cầu thiết yếu của hai bên, góp phần phát triển sản xuất ổn định đời sống nhân dân và củng cố hữu nghị đặc biệt của nhân dân vùng biên giới hai nước.
Chủ trương của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được tiếp tục đổi hàng và thanh toán nợ với Lào trong năm 2001 đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi nước, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam – Lào. Kết quả được thể hiện như sau.
Nhờ có đổi hàng, ngay từ những tháng cuối năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Lào theo phương thức đổi hàng đạt 55 triệu USD. Hàng xuất khẩu sang Lào với kim ngạch lớn là hàng cần khuyến khích xuất khẩu. Hoặc khó tìm thị trường xuất khẩu như: Hạt tiêu, Lạc nhân, hoa quả tươi và khô, đạt 7 triệu USD, hàng thủ công mỹ nghệ đạt 4 triệu USD, hàng dệt may 4 triệu USD, hàng giầy dép gần 3 triệu USD. Từ đó góp phần tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đẩy mạnh hàng hoá, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân, đặc biệt là nhân dân thuộc khu vực miền Trung.
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng Việt Nam xuất khẩu sang Lào đã và đang tăng lên rõ rệt, đồng thời qua Lào hàng hoá của Việt Nam cũng đã thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan.
Nội dung hiệp định thương mại giữa hai nước.
Chính phủ Lào đều nhằm mục đích và nguyên tắc chung, đó là củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Quan hệ được dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn trọng truyền thông hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực thương mại giữa hai nướcvà tập quán thương mại quốc tế, đồng thời khuyến khích việc buôn bán hàng hoá do hai nước sản xuất.
Trong hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam - Lào năm 2000 đã nhấn mạnh hợp tác trong lĩnh vực giao thông, vận tải, bưu điện, phía Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phía Lào trong việc vận chuyển hàng hoá qua cảnh xuất khẩu, nhập khẩu của Lào qua lãnh thổ Việt Nam và sử dụng một số cảng biển hiện có ở Việt Nam.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Lào nói riêng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá.
Hoạt động xuất khẩu bị chi phối và tác động của nhiều nhân tố khác nhau chúng ta có thể phân thành hai nhóm chính: Nhân tố trong nước và nhân tố ngoài nước.
+ Nhân tố trong nước.
Trên phạm vi tổng thể các nhân tố sau đây có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Những qui định pháp luật và chính sách kinh tế của nhà nước đối với xuất khẩu như: thuế xuất khẩu, tỷ lệ lãi vay ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chính sách đầu tư, trợ giá quy hoạch vùng xuất khẩu, chính sách hạn chế, hay cấm xuất khẩu... Đây là những ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại nào. Bởi vậy trước khi xuất khẩu xem xét kỹ vấn đề này. Cụ thể là các nghị định, quyết định của Nhà nước về điều hành hoạt động xuất nhập khẩu.
Nghị định số 57/CP. Ngày 31/7/1998.
Điều 8: Kinh doanh xuất khẩu nhập khẩu.
1) Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu. Nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2) Các chi nhánh, Tổng công ty, công ty được nhập khẩu xuất khẩu hàng hoá theo uỷ quyền của Tổng giám đốc. Tổng công ty, Giám đốc công ty, phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Tổng công ty, công ty.
3) Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu, tại cục Hải quan, Tỉnh, Thành phố.
Tổng cục Hải quan xây dựng hệ thống mã số nói trên và hướng dẫn việc đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
* Thông tư 18 hướng dẫn thực hiện nghị định số 57/1998 NĐ - CP ngày 31/7/1998 của chính phủ về hoạt động xuất khẩu nhập khẩu.
Để thi hành Nghị định số 57/1998/NĐ - CP ngày 31/7/1998 của chính phủ quyết định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá với nước ngoài Bộ thương mại hướng dẫn một vấn đề như sau:
1) Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu:
Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật được nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá theo ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố theo quy định tại khoản 3, điều 8, Nghị định 57/1998/NĐ - CP không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại đã cấp, hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/1998.
2) Về hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu.
a) Hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của thương nhân trừ những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và những mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu.
b) Đối với mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (hàng xuất khẩu, nhập khẩu có hạn ngạch, có giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành). Thương nhân phải được cơ quan có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch hoặc cấp giấy phép.
c) Các mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu được quy định tại phụ lục một ban hành kèm theo NĐ 57/1998/NĐ - CP.
d) Các danh mục thuộc hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện quy định tại phụ lục 2, NĐ 57/1998/NĐ - CP, được xuất khẩu, nhập khẩu theo các nguyên tắc điều hành hàng năm của Thủ tướng chính phủ.
- Tình hình sản xuất ở trong nước hướng vào xuất khẩu như thế nào? hàng hóa dịch vụ nào là trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng như đường xá, phương tiện vận chuyển bảo hiểm, hệ thống kho cảng, bến bãi... như thế nào cũng ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh xuất khẩu hàng hoá.
* Trên góc độ các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố.
- Chất lượng và giá thành của hàng hoá.
- Tính đa dạng về mẫu mã, độc đáo và mới lạ của sản phẩm.
- Hình thức bao bì, sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá.
- Khả năng nhanh nhạy nắm bắt sự thay đổi của nhu cầu thị trường, kế hoạch khả năng cạnh tranh chuyển hướng sản xuất và thay đổi cơ cấu mặt hàng.
- Khả năng tạo nguồn xuất khẩu ổn định của doanh nghiệp. Điều này tuỳ thuộc vào trình độ trang thiết bị công nghệ máy móc, khả năng về vốn, lao động... của doanh nghiệp.
- Cuối cùng hoạt động kinh doanh diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ Marketing bán hàng và sức thu hút của quảng cáo.
* Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu, chịu tác động của các nhân tố.
- Do trình độ năng lực của cán bộ ngoại thương về trình độ nghiệp vụ và kinh doanh làm ăn với nước ngoài.
- Do khả năng chiếm giữ thông tin phục vụ khai thác thị trường khả năng điều hành, quản lý và tổ chức kinh doanh.
- Do chiến lược kinh doanh có thích ghi với thị trường và đối thủ cạnh tranh hay không, những chiến lược này rất quan trọng nó quyết định sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn kinh doanh là một nhân tố quan trọng cho quá trình kinh doanh, ngoài ra khả năng tổ chức hoạt động tiếp thị và xúc tiến bán hàng cũng là yếu tố giúp cho quá trình kinh doanh.
- Các nhân tố có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu với mức độ khác nhau.
+ Nhân tố ngoài nước.
Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu từ phía bên ngoài bao gồm một số nhân tố kể trên đối với thị trường các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó ngoài những đặc trưng như nhu cầu, thị hiếu, luật pháp riêng của từng nước hoạt động xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp và thông lệ quốc tế.
Nhu cầu thị trường nước ngoài là yếu tố trực tiếp quyết định việc nhập khẩu của họ.
Từ đó ảnh hưởng đến xuất khẩu của các nước khác với số lượng nhiều hay ít, chiều hướng tăng hay giảm. Nhu cầu này không diễn biến tự nhiên mà chịu sự áp đặt của những chính sách về nhập khẩu hay các biện pháp về bảo hộ mậu dịch với nước.
Những nhân tố như thị hiếu tiêu dùng, tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Ngoài ra các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một nước nói chung và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang Lào nói riêng phụ thuộc vào tình hình kinh tế khu vực trên thế giới tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ biến động mà chiều hướng sẽ tăng hay giảm.
Đối với hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường Lào cũng có các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Lào như: Môi trường văn hoá xã hội, môi trường chính trị luật pháp của Lào, môi trường kinh tế và công nghệ, môi trường cạnh tranh là yếu tố quan trọng nhất tác động tới việc hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Lào vì hàng hoá Việt Nam phải sự chịu cạnh tranh của hàng hoá các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản... môi trường địa lý: tuy Việt Nam và Lào có chung biên giới từ Bắc đến Nam nhưng việc vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn và đường xã chưa thoả mãn tốt về vận chuyển hàng hoá.
Chương II
Thực trạng về quan hệ thưƠNG mại Việt - Lào và hoạt động xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Lào
I. Đặc điểm thị trường xuất khẩu Lào và đặc điểm hàng xuất sang thị trường Lào.
1. Đặc điểm thị trường Lào.
Dân số: 5.200.000 người (số liệu 2000)
Diện tích: 236.800 km2
Tỉnh: 18 tỉnh
Từ năm 1998, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện đường lối cải cách theo hướng kinh tế thị trường. Đến nay, kinh tế xã hội Lào đã bước sang giai đoạn phát triển mới. Sau hơn 10 cải cách, nền kinh tế Lào đã có những thay đổi sâu sắc, dần dần hướng tới hội nhập nền kinh tế thế giới, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư ngân hàng, ngoại thương đã có những bước tiến hành đáng kể. Thành quả hơn 10 năm cải cách của Lào đã tạo cơ sở vững chắc để Lào bước sang thế kỷ XXI và sát cánh cùng với thành viên trong ASEAN xây dựng Đông Nam á ngày thêm lớn mạnh.
1.1 Đẩy mạnh phát triển cơ cấu kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
+ Chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường: Nền kinh tế Lào được chuyển từ kế hoạch pháp lệnh của Trung ương sang kế hoạch và điều tiết vĩ mô, để cho các đơn vị kinh tế tự quyết định nhiệm vụ sản xuất của mình theo quy luật cung cầu của thị trường.
+ Chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy luật vận hành của thị trường: Nhà nước chỉ đạo giá của các mặt hàng chủ yếu như: điện, nước chảy tự nhiên, dầu mỏ thông tin, vận tải hàng không. Sau khi thực thi chính sách này đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xí nghiệp hạn chế kết quả lam phát từ 50 - 60% năm 1989 đến nay giảm xuống còn 6 - 8%.
+ Cơ chế tiền tệ: Chuyển hoạt động ngân hàng từ chỗ chỉ có tính chất cấp phát sang hoạt động thương mại, chịu trách nhiệm điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, dự trữ với tư cách là một ngân hàng trung ương, tách kho bạc nhà nước độc lập với hệ thống Ngân hàng. Sau khi thực thi những chính sách trên, nghiệp vụ ngân hàng đã phát triển đến tỉnh và thành phố trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất và đầu tư. Dự trữ tiền tệ quốc gia của Lào ngày càng tăng lên, đồng thời cũng thu hút và mở rộng nghiệp vụ ngân hàng nước ngoài tại Lào.
+ Cải cách thể chế tài chính: Biến nghĩa vụ của các xí nghiệp và các hộ gia đình thành nghĩa vụ nộp thuế, từng bước hoàn thành các pháp quy của Nhà nước thành lập lệnh thuế. Sau một thời gian chuyển đổi như vậy, nguồn tài chính đã tăng lên 30%. Nền tài chính quốc gia đã điều tiết được trên vĩ mô một cách hiệu quả, thúc đẩy các ngành đẩy mạnh đầu tư sản xuất đặc biệt là do chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn nên thu hút được nhiều đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt là từ khi Lào gia nhập ASEAN chính sách này càng nổi rõ.
+ Cải cách thể chế quản lý kinh tế: Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế “tam quyền: lập pháp, tư pháp và hành pháp” biến cơ chế quản lý từ trung ương, tỉnh huyện trước đây thành cơ chế quản lý trực tiếp theo ngành, xác định những chức năng nhiệm vụ của các ngành, giảm bớt các đầu mối quản lý. Trung ương chỉ tập trung vào việc khống chế, điều tiết các vấn đề kinh tế vĩ mô và những quy định có tính chiến lược phát triển cùng những vấn đề trọng đại thuộc các cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện nước, bưu điện, trường học, bệnh viện...
+ Chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ, pháp qui về quản lý kinh tế - xã hội: làm có thành công cụ đắc lực để điều tiết giữa các ngành, các xí nghiệp trong phạm vi cả nước. Cho đến nay, Quốc Hội Lào đã ban bố gần 40 pháp luật, pháp quy và đã có hiệu lực mạnh mẽ đối với quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
1.2 Cải cách cơ cấu, mở rộng và động viên các thành phần tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây chủ yếu là kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, quản lý bao cấp và phân phối bình quân. Hậu quả là làm cho sản xuất mất sức sống. Vì vậy, cải cách kết cấu kinh tế - xã hội đã trở thành một trong những chính sách quan trọng trong cải cách kinh tế của Lào. Biến những xí nghiệp quốc doanh không có tính chiến lược và kém hiệu quả thành xí nghiệp sở hữu khác, làm cho nó phải đúng trên nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, có sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Những chính sách đó đã đưa lại kết quả khá rõ nét. ở Lào đã xuất hiện nền kinh tế đa sở hữu như quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác cổ phần, tư nhân và gần đây có cả liên doanh với nước ngoài v.v... các thành phần kinh tế đó đã vận hành tương đối có kết quả trong điều kiện của kiện cơ chế thị trường mà không nhất thiết phải có sự đầu tư và bao cấp của nhà nước.
Từ năm 1989, Lào bắt đầu chuyển xí nghiệp quốc doanh hiệu quả thấp thành hình thức sở hữu khác với các biện pháp như cho thuê, hợp doanh, phát mại, v.v... cho đến nay đã có hơn 400 xí nghiệp vừa và nhỏ thuộc cả trunh ương lẫn cấp tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi. Điều này chẳng những giải quyết khó khăn tài chính đối với nhà nước, mà chính phủ còn thu về một khoản tiền đến 38 tỷ kíp. Nhà nước chỉ còn giữ lại các xí nghiệp như: điện trạm bơm, hàng không, công ty xăng dầu, thông tin bưu điện, vì vậy là các công ty xí nghiệp có chiến lược.
1.3 Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Đây là khâu quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường, mỗi khi bắt đầu lại thì cũng là lúc xóa bỏ chế độ cung cấp của các cơ quan nhà nước.
Sau khi đã triển khai các chính sách như: phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy định vận hành của thị trường, cải cách thể chế tiền tệ, cải cách thể chế tài chính, cải cách thể chế kinh tế, chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ pháp quy quy về quản lý kinh tế xã hội, nó thúc đẩy sản xuất mở rộng buôn bán giữa các địa phương cũng như với nước khác, xí nghiệp tăng trưởng nhanh sức mua ở thành phố cũng như ở nông thôn tăng nhanh. Lực lượng hàng hoá năm 1998 đã tăng gấp hơn 60 lần so với năm 1997. Sức mua năm 1998 đã tăng 11,3% so với năm 1996. Hiện nay cả nước đã có 22.200 xí nghiệp với các hình thức sở hữu khác nhau, trong xí nghiệp loại lớn và vừa khoảng 1000, xí nghiệp xuất nhập khẩu là 205. Tình hình ngoại thương đang có chiều hướng phát triển tốt, đã có quan hệ buôn bán với gần 40 quốc gia và khu vực trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu ngoại thương đến năm 1997 đã đạt đến 759,7 triệu USD. Tăng 1,6% so với năm 1996 trong đó xuất khẩu tăng 274 triệu USD, nhập khẩu tăng 485 triệu USD, nhập khẩu tăng 24,4 lần và xuất khẩu tăng 24,7 lần so với năm trước.
1.4 Mở rộng hợp tác với nước ngoài.
Đâylà chính sách quan trọng của Lào nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật để phát triển đất nước. Năm 1998, bắt đầu cải cách thì đồng thời Lào cũng thực thi một chính sách đối ngoại trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và dần dần đã mang lại hiệu quả đáng phấn khởi. Bước đầu đã thoát khỏi khó khăn về tài chính. Năm 1993 Liên Xô, Đông Âu sụp đổ đã mất đi nguồn viện trợ to lớn nhưng Lào đã kịp thời điều chỉnh chính sách tranh thủ nguồn vốn và viện trợ không hoàn lại của các nước phương Tây và nhiều tổ chức quốc tế để cân bằng bội chi tài chính, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, Lào đã đưa ra luật đầu tư để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài. Từ năm 1988 đến hết năm 1997, chính phủ đã phê duyệt hơn 500 hạng mục đầu tư với tổng số vốn lên đến 5,5 tỷ USD. Phần lớn vốn được tập trung vào các ngành điện lực, khai khoáng và dịch vụ tạo điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và kinh tế - xã hội.
Bước vào thế kỷ XXI, nhà nước Lào với một tình hình chính trị ổn định trong nước và một môi trường quốc tế hoà bình. Hiện nay nước Lào với một vị thế mới của mình. Không phải chỉ là thành viên của ASEAN mà có quan hệ ngoại giao với 96 nước và quan hệ thương mại với 30 nước trên thế giới. Sự hội nhập đó đòi hỏi nhà nước Lào những nỗ lực thật to lớn để tiến kịp các nước anh em. Theo kế hoạch phát triển kinh tế 1999 - 2002 nước Lào cần phải đạt sự tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8% trở lên mới có thể tham gia vào AFTA năm 2008, muốn tham gia vào AFTA một cách có hiệu quả và tròn bổn phận, nhà nước Lào cũng đã thấy cần phát triển thị trường nội địa cải tiến cơ chế làm việc, phát triển khuôn khổ pháp lý cần thiết liên quan tới các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong những năm tới, trong kế hoạch phát triển kinh tế đến năm 2002 của mình, Lào vạch ra 8 chương trình ưu tiên quốc gia như sau.
1: Chương trình sản xuất lương thực.
2: Chương trình ổn định chuyển đổi canh tác.
3: Chương trình sản xuất hàng hoá thương mại.
4: Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng.
5: Chương trình phát triển nông thôn.
6: Chương trình phát triển nguồn nhân lực.
7: Chương trình quan hệ kinh tế đối ngoại.
8: Chương trình phát triển dịch vụ.
Cơ sở để tiềm năng nhà nước Lào sẽ thực hiện được những chương trình trên đây là: nước Lào luôn có sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào. Nhờ đó, trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã tạo được sự ổn định về chính trị. Nước Lào còn có “nhiều tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên đều có chưa được khai thác”, ngoài ra với tư cách là một thành viên đầy đủ của ASEAN, trong những năm tới nhà nước Lào sẽ tham gia vào dự án của ASEAN như dự án tiểu vùng sông Mê Công, chương trình phòng chống ma tuý Đông Nam á, xây dựng đường xuyên nội địa Đông Nam á v.v... Đó là những thách đòi hỏi những cố gắng vượt bậc, nhưng cũng là vận hội mới của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong thế kỷ XXI.
1.5 Những vấn đề và thách thức phía trước.
Trong quá trình, song song với những thanh tựu đạt được, cững còn không ít vấn đề và những thách thức, đòi hỏi Lào phải tim cách vượt qua:
- Cơ cấu trong GDP của các ngành nông-công nghiệp-dịch vụ tuy có thay đổi, nhưng tỷ trọng nông nghiệp vẫn còn rất lớn, Điều này cho thấy Lào vẫn chưa thoát khỏitình trạng là một quốc gia chậm phát triển.
- Nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là ở vùng sâu, vung sa, vùng biên giới. do thiếu các yếu tố cơ bản để phát triển như vốn, giao thông, kỹ thuật cho nên phương thức canh tác chưa được đổi mới. Theo số liệu điều tra của Liên Hiệp Quốc (1995) thì Lào có 46% người nghèo, 51% ở nông thôn, 60% nằm trong các bộ tộc, thu nhập bình quân chưa được 100 USD . Lương thực vẫn còn dựa vào tự túc tự cấp.
- Tăng trưởng bình quân trong sản xuất công nghiệpđạt khá cao (12%) nhưng chưa kết hợp và thúc đẩy nông nghiệp. Công nghiệp phục vụ cho các ngành lâm nghiệpcòn rất kém (chỉ chiếm có 0,5% trong công nghiệp). phần lớn hàng tiêu dùng không đáp ứng được nhu cầu xã hội, 90 các mặt hàng thường ngày như xà phòng, cá khô, dầu ăn, dầu nhựa,v.v... đều phải nhập khẩu.
- Dịch vụ phát triển khá nhanh, nhưng lại là dịch vụ xa xỉ tập trung ở các thành phố như nhà hàng, khách sạn. Các dịch vụ dulịch truyền thống chưa phát triển ra cả nước, Các dịch vụ vận tải quá cảnh chưa được củng cố phát triển. Thương nghiệp chưa có tác dụng thúc đẩy sản xuất mà chỉ là một khâu trong tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài.
- Đâu tư của nước ngoài tăng nhanh đặc biệt làđã là thành viên của ASEAN, tuy nhiên nhiều trong nước chưa được chửn bị, do đó gặp khó khăn không ít. Như thiếu đội ngũ cán bộ, thiếu số liệu điều tra cơ bản, cơ sở hạ tầng yếu kém, v.v... không giám sát được các hạng mục đầu tư nước ngoài.
Trong tiến trình cải cách, chuyển đổi theo hướng kinh tế thị trường Lào còn thiếu một đội ngũ cán bộ có tri thức, thiếu kinh nghiệm về kinh tế thị trường khiến ảnh hưởng không nhỏ đến bước phát triển. trong khi bộ mặt ở các thành phố khá phồn vinh thì ở nông thôn chưa thay đổi đáng kể. Thách thức lớn hiện nay là sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa người nghèo ngày càng lớn. môi trường kinh tế-xã hội bắt đầu bị ô nhiễm. Nguồn nhân lực trước hết là những người có trinh độ , chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ) còn rất thiếu. Hiện tượng lao động nông thôn kéo ra thanh phố kiếm sống ngày càng nhiều. Cơ sở hạ tầng để phát triển (giao thông, bưu điện, v.v...) còn yếu kém và chưa về đến các tỉnh. Tài chính-ngoại thương mất cân đối, thiếu vốn để phát triển. Rừng bị phá hoại, nguồn nước cạn kẹt ảnh hưởng không ít đến phát triển trước mắt.
Tỷ lệ người thoát nạn mù chữ chiếm 50% tuổi thọ bình quân 51, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi (số trẻ sơ sinh, só trẻ bị suy dinh dưỡng ) lên đến 204/100 em cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, những người được dùng nước sạch mới đạt 29% và 67% dược dùng các dịch vụ y tế.
Để thoát khỏi tinh trạng nghèo nàn lạc hậu trên đây và bước sang thế kỷ 21, Lào đang đẩy mạnh tiến trình cải cách, khởi dậy những tiềm lực trong nước, áp dụng những chính sách mới đưa Lào đứng vào hàng ngũ các nước phát triên trong khu vực với những chỉ cụ thể từ năm 2000 đến 2002 là:
Tốc độ phát triển kinh tế đạt bình quân 8-10%năm;
Thu nhập bình quân đầu người đạt 500 USD.
Giá trị sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng 25% trong GDP , dịch vụ 25%. Xuất khẩu chiếm 70-80% trong xuất nhập khẩu. Có 60%tổng số người trong độ tuổi 16-60 được thoát nạn mù chữ.
Với những chỉ tiêu mang tính khả thi nêu trên, dó là bước đi mới của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hoàn toàn có thể trở thành một trong những quốc gia phát triển trong thế kỷ tương lai tại khu vực Đông Nam á.
2. Đặc điểm hàng xuất khẩu sang thị trường Lào.
- Mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang Lào theo nghị định thư quy định 39 mặt hàng của các ngành lương thực thực phẩm, dệt may, giầy da, sắt thép, ximăng, vật liệu xây dựng, thuỷ, hải sản đóng hộp và đông lạnh, trâu bò sống và lợn sữa.... vài năm gần đây trong cơ chế thị trường ngoài trao đổi hàng nông thuỷ sản và hàng tiêu dùng ở chợ đường biên có thêm mặt hàng giấy vở học sinh, đồ nhựa các loại và một số hàng tiêu dùng thiết yếu khác.
- Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin đối với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng hoá của Việt Nam xuất hiện ở Lào đã và đang tăng lên rõ rệt. Đồng thời qua Lào hàng hoá Việt Nam cũng thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan, đặc biệt là 6 tỉnh Đông Bắc Thái Lan.
- Trong năm 2001, việc xuất khẩu đổi hàng với Lào thực hiện theo quy định: khuyến khích các doanh nghiệp (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá do Việt Nam sản xuất sang Lào, theo danh mục hàng hoá.
+ Hàng cơ khí, kim khí.
+ Hàng thủ công mỹ nghệ.
+ Muối.
+ Sản phẩm chăn nuôi.
+ Hàng nông sản.
+ Dược liệu thực phẩm.
+ Sản phẩm cao su.
+ Hàng điện, điện tử gia dụng có tỷ lệ nội địa hoá trên 60%.
+ Hàng dệt, may, tơ tằm.
Bộ thương mại hướng dẫn cụ thể danh mục các mặt hàng xuất khẩu đổihàng với Lào nêu trên.
Từ đầu năm 2001 do sự phối hợp tốt hơn giữa các ngành và tiếp tục duy trì việc đổi hàng, 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch XNK 144 triệu USD tăng 4,5 lần so với cung kỳ năm 2000.
Trong đó Việt Nam xuất sang Lào khoảng 79,6 triệu USD gồm các nhóm hàng chính như.
+ Nhóm hàng nông sản: hạt tiêu, lạc tỏi... 31 triệu USD.
+ Nhóm hàng thuỷ sản: tôm, cá đông lạnh....7 triệu USD.
+ Nhóm hàng công nghệ phẩm: vải, quần áo, đồ dùng gia đình 25,3 triệu USD.
+ Nhóm hàng mỹ nghệ: đồ gốm1,2 triệu USD.
+ Nhóm khoáng sản: thiếc thỏi 1,3 triệu USD.
Với chủ trương mong muốn hàng Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Lào, ngày 02/6/1997 Thủ tướng Chính phủ Lào cho phép các công ty nhà nước của các doanh nghiệp sớm hợp tác mua bán với Trung Quốc và Việt Nam những mặt hàng mà thị trường Lào và Thái Lan có nhu cầu. Được nộp thuế một tại cửa khẩu và thu giảm xuống để giảm giá hàng hoá. Ngày 18/9/1997 Thủ tướng Chính phủ Lào có văn bản số 1577/TT cho phép các mặt hàng nhập khẩutừ Việt Nam và Trung Quốc được giảm 50% thuế với điều kiện.
“Trong tờ khai thuế nhập khẩu phải tính giá trị nộp thuế đúng theo giá trị nộp thuế đúng theo giá trị thực tế và theo mức giá quy định trong luật hiện hành, nhưng khi thu tiền thực tế với các công ty có liên quan sẽ chỉ thu có một nửa (1/2) của tổng giá trị nộp thuế”.
II. Tình hình quan hệ thương mại Việt - Lào trong thời gian qua và hoạt động xuất khẩu của công ty SIMEX sang thị trường Lào.
1. Tình hình quan hệ thương mại Việt - Lào trong thời gian qua.
Cơ sở pháp lý đầu tiên của quan hệ thương mại giữa Việt - Lào là hiệp định thương mại ngày 13/7/1961. Tuy vậy trong thời kỳ 1961 -1975 quan hệ giữa hai nước chỉ mới phát triển dưới hình thức đổi hàng giữa nhân dân hai nước vùng biên giới. Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) được thành lập (tháng 12/1975) tiếp tục ký các hiệp định 5 năm và các Nghị định thư thương mại hàng năm. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này giữa hai nước trung bình đạt từ 3,5 - 4 triệu rúp clearing, chủ yếu là trao đổi mậu dịch chính ngạch, phía Lào nhập siêu của Việt Nam khoảng 11,5 triệu USD từ năm 1982 - 1992 Lào vẫn tiếp tục nhập siêu của Việt Nam trên 0,5 triệu rúp. Mặt hàng Việt Nam xuất chủ yếu là hàng nông sản như cà phê, cao su, gạo, giầy dép các loại, hải sản hàng dệt may, hạt điều, rau quả các loại.
Tháng 2/1993, hiệp định thương mại 1993 - 1997 được ký giữa hai chính phủ, hai bên thoả thuận chấm dứt hình thức ký Nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, xzoá bỏ tình trạng bao cấp của nhà nước, mở ra thời kỳ mới cho quan hệ thương mại hai nước Việt - Lào. Hiệp định thương mại trong thời kỳ này cho phép mở rộng đối tượng trao đổi, không hạn chế các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi hàng hoá, không hạn chế kim ngạch trao đổi hàng hoá, mở rộng danh mục trao đổi trừ các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập.
Với cơ chế phù hợp với tình hình mới. Kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu hai chiều Việt Nam - Lào có sự thay đổi tăng nhanh hơn so với trước đây.
biểu 2: Tổng Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Làothời kỳ 1993 - 1997
Đơn vị: 1.000 USD
1993
1994
1995
1996
1997
S.L
K.N
S.L
K.N
S.L
K.N
S.L
K.N
S.L
K.N
I. Tổng kim ngạch 2 chiều
45.035
73.000
56.258
138.275
80.000
II. Việt Nam xuất khẩu sang Lào
36.710
61.400
14.390
18.427
20.000
Các mặt chủ yếu:
- Gạo (+)
2000
383
200
38
1.970
443
1.905
514
300
95
- Thịt lợn, thịt bò (+)
400
305
700
534
37.22
942
3.404
1.984
- Thực phẩm công nghệ (đường, rượu bia...)
44
100
85
116
110
- Trâu bò (con)
8.580
4.073
9.800
4.655
1.280
610
2.300
1.100
- Vải (1000m)
5.200
5.600
7.300
7.718
2.214
1.370
580
354
500
310
- Dụng cụ gia đình (1000 USD)
4.200
6.500
500
720
700
- Xi măng các loại (tấn)
96.652
5.314
70.000
45.000
1.920
141
- Sắt thép xây dựng (+)
9.300
3.200
14.000
4.700
5.300
1.252
3.842
1.50._.ề sau:
- Lựa chọn các nguồn hàng hợp lý có khả năng về tài chính và năng lực sản xuất, đảm bảo uy tín, thực hiện đầy đủ hợp đồng mua hàng để ký kết.
- Thiết lập mạng lưới mua hàng cơ động, thuận tiện. Bố trí các kho hàng hợp lý.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua, đặc biệt cần bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, thiết bị kiểm nghiệm hàng hoá.
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hoá. Muốn vậy, cần nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ thu mua, nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho người thu mua hoàn thành nhiệm vụ.
3. Nâng cao hiệu quả công tác bán hàng xuất khẩu tại công ty.
Các doanhg nghiệp thương mại nói chung và Simex nói riêng, các hoạt động mua hàng tạo nguồn, nghiên cứu thị trường, nhằm mục đích là bán được hàng. Bán hàng là vấn đề khó khăn nhất trong phần lớn các công việc kinh doanh đối với công ty thương mại, nhưng ít khi mọi người chịu bỏ thời gian ra để hoạch định những chiến lược khả thi sẽ đem lại khảon lợi nhuận lâu dài. Nhiều công ty lại tin rằng của mình sẽ bán được mà không cần một chiến lược bán hàng được tổ chức tốt và đúng thể thức.
Song sẽ không có gì huyền diệu hay bí hiểm trong việc bán hàng cả, với điều kiện việc hoạch định một chiến lược chi tiết đảm bảo phải được tiến hành trước khi bắt đầu chiến lịch bán hàng. Sự hoạch định kế hoạch bán hàng một cách kỹ lượng và chi tiết là điều tới quan trọng đảm bảo cho việc thu nhập thị trường có "bài bản" và phù hợp. Nó phải được kết lập để chỉ dẫn cho công ty và đội ngũ bán hàng, tiếp thị đi theo con đường gắn nhất đến thành công.
Trên cơ sở nắm vững đặc điểm về sách lược bán hàng, Simex có thể đề ra chiến lược bán hàng phù hợp cho mình.
* Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Vận dụng được sách lược này không ngừng doanh nghiệp có khả năng tăng được doanh số bán hàng mà còn lấy được sự tín nhiệm và thu hút được khách hàng.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc ký kết hợp đồng.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình chuyển đưa hàng hoá tới tận tay khách hàng.
- Có các ưu đãi trong quá trình thanh toán, giá cả với những khách hàng truyền thống, khách hàng mua với số lượng lớn và những khách hàng đến với công ty lần đầu.
* Đón nhu cầu khách hàng.
Dựa vào đặc điểm, công dụng của hàng hoá, kết quả nghiên cứu thị trường nước nhập khẩu để nắm bắt chính xác nhu cầu của khách hàng mà công ty có khả năng cung cấp, từ đó thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
* Mở rộng mạng lưới phân phối.
Hiện nay, việc bán hàng chủ yếu là khách hàng tìm đến công ty qua các quảng cáo. Vì vậy nhiều lúc công ty rơi vào thế bị động, công ty xem xét cân nhắc các thị trường tiềm năng, lựa chọn thị trường hẫp dẫn mở các văn phòng đại diện nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng bán hàng. Mỗi văn phòng đại diện ở nước ngoài đảm trách nhiệm vụ thu thập thông tin về thị trường, tìm kiếm khách hàng, giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tạo điều kiện đưa hàng hoá đến với khách hàng tốt nhất, nhanh nhất.
* Giá
Giá là một trong bốn yếu tố mà bất kỳ nhà kinh doanh nào cũng phải quan tâm đến, nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Định giá bán là một nghệ thuật trong kinh doanh, đề ra các quyết về giá để chiếm được ưu thế trong cạnh tranh là yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp. Sai lầm về giá có thể dẫn tới. Định giá bán cao gây ra tình trạng khó bán hàng, mất khách hàng, giảm khả năng cạnh tranh. Định giá thấp không bù đắp được chi phí, lợi nhuận giảm.
+ Để xác định được mức giá phù hợp, công ty cần chú ý tới những vấn đề sau:
- áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng khách hàng cụ thể.
- Có chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng mua hàng (giảm giá chiếu cố giá cho những đối tượng khách hàng khác nhau).
- Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến giá: cung cầu, chi phí và đặc biệt là đối với hàng nông sản giá cả thị trường thế giới ảnh hưởng rất lớn đên các quyết dịnh về giá của công ty.
+ Công ty có thể định giá bán trên căn cứ sau:
Giá mua cộng các chi phí khác.
Nhu cầu và sức mua của khách hàng.
Thị trường và tình hình cạnh tanh.
* Xúc tiến bán hàng
việc tung ra sản phẩm mới hay mở rộng hơn nữa phạm vi hoạt động đòi hỏi sự đẩy mạnh quảng cáo, sự tiếp xúc với công chúng và sự có mặt trong triễn lãm, hội trợ được lựa chọn cận thận.
+ Quảng cáo.
- Quảng cáo của công ty ược xẽm như điều kiện tiên quyết để phát triển thị phân và mở rộng cơ sở khách hàng. Trong rất nhiều công việc kinh doanh, quảng cáo ít khi được nâng cao tới tầm quan trọng xứng đáng của nó và được đầu tư quá thấp so với hiệu quả muốn đạt được. Hoạt động quảng cao của công ty tuy được thực hiện song không tập trung, kinh phí hoạt động không đáng kể. Công ty cần lập ra kế hoạch quảng cáo cụ thể.
- Việc lựa phương tiện quảng cáo có lợi nhất cần được tiên hành hết sức cẩn thẩn, Công ty nên sử dụng tổng hợp các phương tiện quảng cào như: báo chí trong nước và nước ngoài, radio, truyền hình, quảng cáo trên internet...
Khi tiến hành quảng cáo trên báo chí cần lưu ý: số lượng phát hành và độc giả không nói lên gì nhiều nếu đại đa số độc giả không thích hợp với tiêu chuẩn mua sản phẩm của công ty.
Công ty nên quan tâm tới việc quảng cáo trên mạng Internet. sự có mặt của công ty trong World Wide Web là vô cùng cần thiết. Qua WWW côngty có thể gửi danh thiếp tới hàng nghìn hàng triệu khách hàng ở bất cuqs đâu, giới thiệu hàng hoá của mình một cách đầy đủ nhất và cập nhật nhất. Và khi có nhu cầu khách hàng có thể liên hệ một cách rất đơn giản, bất cứ lúc nào. Hơn nữa công ty có thể lấy dược những thông tin phản hồi chính xác và nhanh nhất. Vì vậy công ty không thể bỏ qua một phương tiện đa năng và tương đối rẻ như Internet. Quảng cáo trên Internet mặc dù không thể thay thến hững phương tiện khác nhưng lại là một “ khí giới” không thể thiếu để quảng cáo trong đời sống văn minh. Công ty nên chọn ưebe site có số lần truy cập lớn, có đối tượng và nọi dung phù hợp với mục tiêu quảng cáo của công ty. Các quảngcáo sẽ đạt được hiệu quả cao hơn nếu chúng nằm trang đầu Webe site. khách hàng có thể liên lạc ngayvới công ty . Nó sẽ bao gồm đầy đủ các thông tin về công ty và sản phẩm công ty muón quảng cáo.
- Quảng cáo chỉ nên nằm ở trong khu vực thị trường được xác định kỹ lưỡng là có khả năng đưa ra những cơ hội bán hàng. Quảng cáo cần phải được tiến hành thường xuyên. Luôn tính được hiệu Quả thu được sao là tối đa nhất. Các hoạt động o\phải đuợc đề ra chi tiết và theo dõi thường xuyên tiến độ thực hiện. Kết quả của việc quảng cáo khó có thể xác định một cách chính xác. Hiệu quả của nó phải thu được sau một thời gian. Ngoài ra công ty cần phải can đối giữa các tài khoản mục chi phí, xác định kinh phí cho quảng cáo một cách hợp lý. Quá ít sẽ không mang lại kết quả , quá nhiều ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty. Mục đích của quảng cáo đem lại lầ tăng doanh thu bán hàng, Tăng lợi nhuận cho công ty không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai.
-Hội trợ triển lãm.
Công ty phải can nhắc kỹ lưỡng giá trị sự có mặt của mình tại các cuộc hội trợ triển lãm đối với toan bộ chi phí kéo theo và những lợi ích dự kiến thu được, tránh việc tham gia kgông có mục đích thực tế, Nếu loại hình hội trợ triển lãm, vị trí của nó và khu vực thị trường được nhắm vào không mang về cho công ty những cơ hội bán hàng tiềm tàng thì không nên tham gia. Nếu việc tham gia được xác định là có ích lợi nhiều cho kinh doanh, thì một nỗ lực phải được tập trung để tạo ra sức thu hút khách hàng.
Huấn luyện nhân viên bán hàng để bán được nhiều hàng tại các cuộc hội trợ triẻn lãm, lập ra hững hộp lưu thẻdoanh nghiệp, để khi những khách hàng tiềm tàng có thời gian hạn chế hoặc bận rộn có thể để lại thẻ và sau này nhân viên bán hàng có dịp nối quan hệ với họ.
- Liên doanh liên kết
Doanh nghiệp có thể tăng khả năng bán hàng của mình bằng cách liên doanh liên kết với các công ty sản xuất chế biến các sản phẩm của công ty ở nước ngoài. Điều này giúp doanh nghiệp tạo được mối tiêu thụ hàng hoá ổn định, lâu dài và có tính chắc chắncao. Công ty có điều kiện có được những đơn đặt hàng lớn hàng năm.
Tóm lại kế hoạch bán hàng có tính chất ụ thể, đa dạng và linh hoạt nên rất khó có một mô hình cố định, bất di bất dịch. Công ty muốn thành công thì phải dựa vào tình hình thay đổi của thị trường để điều chỉnh kịp thời kế hoạch bán hàng của mình cho phù hợp.
4. Nâng cao sức cạnh tranh hàng xuất khẩu tại công ty.
Việt Nam được đánh giá là một nước có vị trí thuận lợi, có đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất phủ hợp với việc chồng các cây nông nghiệp và các cây công nghiệp: cà phê, cao su, điều... hơn nữa Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh. Chính vì thế Việt Nam rất có thể trong việc sản xuất và xuất khẩu. Thực hiện tế đã chứng minh bằng việc sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới và đứng thứ 2 Châu á. Tuy nhiên khả năng cạnh tranh của hàng xuất của Việt Nam cũng như của công ty SIMEX, trong thời gian qua còn thấp.
Trước hết, nói đến khả năng cạnh tranh là phải nói đến chất lượng, mà chúng ta phải thừa nhận rằng mặc dù đã hết sức cố gắng song trong năm qua chất luợng hàng xuất khẩu của công ty rất thấp, chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô chưa qua chế biến. Chính vì chất lượng thấp nên hàng xuất khẩu của công ty không có khả năng cạnh tranh, rất khó khăn trong tiêu thụ. và bắt buộc công ty bán với giá thấp hơn nhiều so với giá thế giới. nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất vẫn là khâu chế biến. Đ ặc điểm là công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu nên khâu ché biến do các cơ sở sản xuất, chế biến liên doanh với công ty đảm nhận. Công nghệ và kỹ thuật quá cũ kỹ, lạc hậu, lại không được đầu tư xứng đáng của các công ty, cơ sở này đã gây ra tình trạng chất lượng hàng xuất khẩu (nông sản) không đảm bảo. Bởi khâu chế biến là khâu quyết tới chất lượng hàng xuất khẩu (nông sản)
Ngoài yếu tố chất lượng, bao bì, mẫu mã, kiểu dáng dơn giản nên cũng không được ưa chuộng trên thị trường thế giới.
Công tác tiếp thị và nghiên cứu thị trường chưa được đầu tư thoả đáng nên công ty rất bị động trong việc tìm kiếm thị trường. Hàng sản xuất (nông sản) của công ty thường bị ép giá do vậy không có khả năng cạnh tranh.
Do khả năng cạnh tranh yếu, khong có khả năng về tài chính nên những năm qua công ty chủ yéu xuất khẩu qua trung gian. Số lượng hàng xuất khẩu trực tiếp chưa nhiều. Có thể nói chính khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của công ty do đóđã làm cho hoạt động xuất khẩu của công ty trở nên không hiệu quả .
Thực trạng sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm , cùng với những thông tin về thị trường trên thế giới cho thấy trong những năm tới cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt và khốc liệt, trong khi đó khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu (nông sản) của công ty yếu. Như vậy đòi hỏi cấp bách hiện naylà phải làm sao nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu , cần có những giải pháp cụ thể cho thời gian tới.
* Tăng cường đầu tư cho khâu chế biến.
Khâu chế biến là khâu quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành của hàng xuất khẩu. Simex là doanh nghiệp thương mại nên không thể trực tiếp tác động tới khâu chế biến song có thể tác động gián tiếp thông qua các công ty, các cơ sở sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Công ty liên doanh, liên kết cùng với họ để tập trung đưa tiến bộ kỹ thuật vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất hao hụt sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Không chỉ chú trọng công tác chế biến, cần tăng cường hơn nữa công đoạn bảo quản sau khi chế biến cũng như sau khi thu hoạch.
* áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000.
Một doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc liên tục giảm giá thành và cải tiến chất lượng là điều tất yếu không quan tâm. Chính vì vậy, vấn đề chất lượng ngày nay trên thế giới không chỉ được đặt ra ở cấp độ công ty mà còn là mối quan tâm của cả quốc gia. Chất lượng đã và đang trở thành một trong những mục tiêu có tầm chiến lược quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế của nhiều nước, làm thế nào tăng chất lượng sản phẩm mà lại giảm được giá thành? Chìa khoá của vấn đề là phải thực hiện quản lý chất lượng có hiệu quả vì chất lượng không phải là tự phát nó cần được quản lý.
Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 và các tiêu chuẩn quản lý chất lượng khác hơn lúc nào hết trở thành mục tiêu thực hiện cấp thiết của các doanh nghiệp Việt Nam. Một doanh nghiệp Việt Nam được tổ chức quốc tế có uy tín cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 thì có thể coi như doanh nghiệp đó đã nắm trong tay tấm giấy thông hành để vững bước vào thị trường quốc tế. Con đường để các doanh nghiệp Việt Nam đạt được tiêu chuẩn ISO 9000 là áp dụng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM.
* Tăng cường hoạt động Marketing.
Trong thời gian qua, hoạt động marketing của công ty trong hoạt động xuất khẩu còn chưa phát triển, chính vì thế làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Công ty cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu hàng xuất khẩu của công ty, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu cần được thoả mãn. đồng thời không bị khách hàng ép giá cũng như các điều kiện khác.
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng cáo ở những nơi mà công ty có kế hoạch chinh phục ở hiện tại cũng như tương lai.
5. Xây dựng và củng cố tiềm lực vô hình của công ty trong hoạt động xuất khẩu.
Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh trong hoạt động xuất khẩu thông qua khả năng "bán hàng" gián tiếp của doanh nghiệp. Sức mạnh thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và tác động đến sự lựa chọn, chấp nhận và quyết định mua hàng của khách hàng. Vô hình bởi người ta không thể lượng hoá một cách trực tiếp mà phải “ Đo ” qua các tham số trung gian. Tiềm lực vô hình không tự nhiên mà có. Tuy có thể hình thành một cách tự nhiên, nhưng nhìn chung cần được tạo dựng một cách ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có uy tín là doanh nghiệp luôn có vị trí cao và hình ảnh đẹp trong con mắt và ấn tượng của khách hàng. Điều đó có nghĩa là sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì khả năng ký lợi, doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong cạnh tranh. Tuy nhiên, tín nhiệm luôn ở trạng thái động của thị trường, nghĩa là nó có thể nhận khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là yếu tố quyết định. Tiếng lành đồn xa, có được sự tín nhiệm sẽ không ngừng mở rộng được thị trường, đây là cái đích mà nhiều doanh nghiệp đang hướng tới.
Trong những năm qua, Simex đã tạo dựng được một sự tín nhiệm đối với khách hàng. Vì vậy củng cố và nâng cao sự tín nhiệm của mình là bước tiếp theo. Có như vậy công ty mới luôn giữ được hình ảnh đẹp đẽ và lòng tin của khách hàng.
* Tạo dựng và củng cố tín nhiệm về chất lượng sản phẩm.
Các sản phẩm có tín nhiệm về chất lượng trên thị trường là những sản phẩm được người tiêu dùng tin tưởng, chỉ cần nói nhãn hiệu của sản phẩm đó là người ta bỏ tiền ra mua không hề hoài nghi về chất lượng.
Simex là một doanh nghiệp thương mại chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu chứ không phải là doanh nghiệp sản xuất, do vậy công ty không thể tự mình tác động trực tiếp vào sản phẩm nhằm cải tiến chất lượng của nó được. vì vậy đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng của sản phẩm đòi hỏi công ty phải có sự khéo léo sáng suốt trong việc lựa chọn nguồn hàng xuất khẩu. Vì khi đó uy tín chất lượng sản phẩm của công ty dựa trên uy tín và chất lượng sản phẩm của nguồn hàng thu mua đã chọn.
Sau sự phát triển của đời sống làm cho nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên thay đổi. Bên cạnh đó là sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp nếu không bắt kịp nhu cầu của thị trường thì doanh nghiệp sẽ tụt lại phía sau. Thành công chỉ giành cho người nhạy bến. Các công ty đều có thể chiếm lĩnh được thị trường nếu họ phát hiện ra xu thể của thị trường hoặc kẽ hở của thị trường để len chân vào. Sản phẩm doanh nghiệp cho là tốt chưa đủ, mà còn phải xem sự chấp nhận của thị trường về sản phẩm đó như thể nào. Bản thân doanh nghiệp cố gắng, ngoài ra còn cần phải nhìn ra xung qoanh để phát hiện ra xu thể mới để chuyển đổi. Ngày nay xu thể xuất khẩu hàng hoá (Nông sản thô giảm), các nước xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá qua chế biến. Công ty phải nhận thức điều này để củng cố và nâng cao chất lượng sản phẩm ngày một đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường sẽ giúp SIMEX củng cố được sự tín nhiệm của khách hàng đã giành cho công ty.
* Tạo dựng và củng cố tác phong kinh doanh.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ xây dựng tín nhiệm trách chất lượng sản phẩm mà còn phải xây dựng tác phong kinh doanh. Đó là việc tuân thủ thời gian, tuân thủ hợp đồng và có tinh thần trách nhiệm cao trong quan hệ với các bạn hàng ,khách hàng. Công ty sẽ có thêm nhiều bạn hàng và khách hàng nếu công ty có uy tín trong tác phong kinh doanh. Nếu công ty chỉ chú trọng đến chất lượng sản phẩm mà quên không chú ý tới tác phong kinh doanh thì công ty sẽ dần mất khách hàng, thậm chí dẫn tới sự đi xuống của công ty. Một công ty mất hết uy tín thì không có khách hàng muốn quan hệ với họ nữa.
Tạo tín nhiệm về tác phong kinh doanh phải bằng sự chân thành, trung thực có như vậy, công ty sẽ giành được sự tin tưởng của khách hàng, uy tín của công ty ngày càng được củng cố và nâng cao.
6. Nâng cao hiệu quả công tác huy động và sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu.
Vốn là yêu cầu thiết yếu của tất cả các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp hoạt đông trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Vốn của công ty trong những năm qua được huy động từ các nguồn sau:
- Vốn ngân sách cấp: bao gồm vốn cố định, vốn lưu động, vốn XDCB do ngân sách hoặc vốn có nguồn gốc lợi nhuận để lại, chênh lệch tỷ giá không phải nộp, các vốn vay sau khi đã trả song nợ và lãi suất tiền vay, các quỹ xí nghiệp.
- Vốn liên doanh liên kết.
- Vốn tín dụng gồm: tiền vay ngắn hạn, vay dài hạn ngân hàng hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trong những năm qua công ty luôn phải tự cân đối vốn do nguồn vốn quá eo hẹp, nhiều lúc công ty rơi vào thế bị động khi có hợp đồng lớn, qua xem xét tình hình trong công ty cũng như tình hình bên ngoài công ty, có thể thấy được rằng có các nguồn mà công ty có khả năng huy động để tăng cường, mở rộng khả năng tài chính.
* Nguồn liên doanh, liên kết
Trên địa bản thành phố HCM và HN hiện nay có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xuâts nhập khẩu quy mô nhỏ, đặc biệt kinh doanh các mặt hàng nông sản giống như công ty. Họ cũng có như cầu cao về đầu tư và phát triển. Đây là cơ hội để công ty có khả năng tăng thêm vốn tài chính phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
* Vốn vay từ Ngân hàng
Đây là nguồn vốn có thể giúp công ty thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt các nguồn vay ngắn hạn. đối với hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam, tại trợ cho hoạt động xuất khẩu đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm. Hơn nữa, chủ trường của Chính phủ hiện nay là đưa ra các tỷ lệ lãi xuất hớp dẫn nhằm kích thích các doanh nghiệp vay vốn để kinh doanh. Điều này phù hợp với mong muốn của công ty. Công ty nên tận dụng các khoản vay của Ngân hàng để mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
* Vốn từ hoạt động cổ phần hoá.
Công ty mới chuyển sang cổ phần hoá, điều này gây cho công ty không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh song cũng đưa đến cho công ty một phương thức làm ăn mới, có hiệu quả hơn, với đặc điểm là một công ty cổ phần, công ty có thể huy động vốn bằng cách bán các cổ phiếu. Đối tượgn ở đây là các cán bộ, nhân viên trong công ty, sau mới đến những người ngoài công ty. Bằng cách này ngoài việc huy động một lượng vốn nhàn rỗi của các cán bộ, công nhân viên trong công ty mà cong thúc đẩy tinh thần lao động, sáng tạo, trách nghiệm của mối của công ty.
Huy động được vốn là điều vô cùng khó song sử dụng đồng vốn giao cho có hiệu quả lại khó khăn hơn nhiều. Trong những năm qua công ty đã chú ý tập trung đầu tư mở rộng nguồn vốn, điển hình VLĐ, VCĐ tăng qua các năm. Song tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu nông sản trên VKD giảm, hiệu quả sủ dụng vốn giảm. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu nông sản công ty cần thực hiện các biện pháp sau:
- Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán dúng thời hạn, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn.
- Phân bổ cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh, ưu tiên sử dụng VLĐ vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn. Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hoá 8.2 tức là 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực.
- Trong quá trình kinh doanh thường xuyên xem xét việc sử dụng vốn sao cho tránh lãng phí mà vấn đem lại hiệu quả. Tập trung vào các chi phí bất hợp lý trong khâu thu mua và giao dịch.
7. Hạn chế rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, công ty thường gặp những rủi ro như: bạn hàng không đủ khả năng thanh toán việc thanh toán chậm, chứng từ bị thiếu sót. Những điều này có thể dẫn tới các tranh chấp, khiếu nại đáng tiếc xảy ra, làm ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu trước mắt cũng như mối quan hệ thương mại lâu dài. Có rất nhiều cách thức để giảm bớt và hạn chế rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.
- Công ty có thể quyết định không bán với những bạn hàng mà công ty chưa có đủ thông tin về họ, có nhiều mối quan hệ. Những thị trường mà xác suất gặp rủi ro cao.
- Đảm bảo hàng xuất khẩu của công ty không phải tập trung tất cả vào một thị trường mà mỗi sản phẩm có vài ba thị trường trọng điểm và có nhiều thị trường bổ sung.
- Sử dụng công cụ bảo hiểm.
Với những rủi ro xảy ra, doanh nghiệp hạn chế đến mức tối đa những thiệt hại bằng việc thực hiện những bảo hiểm có thể được lựa chọn công ty bảo hiểm có uy tín để quan hệ. Kinh doanh mà không có bảo hiểm thì không phải là làm kinh tế mà chỉ là một cuộc đánh bạc. Không thể coi đồng tiền bảo hiểm như là một thứ có thể cắt xén được. Sai lầm nếu như chi bảo hiểm một cách tuỳ tiện, không tính toán, luôn có các khoản bảo hiểm cho những hoạt động có khả năng gặp rủi ro lớn.
8. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên.
Trong kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Có người đã đặt con người ở vị trí số một, trên cả vốn và tài sản khi đánh giá sức mạnh của một doanh nghiệp. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội.
Trong những năm tới công ty cần định ra cho mình, một chương trình nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu cho cán bộ, nhân viên và đào tạo lại những nhân viên trình độ không còn phù hợp với yêu cầu hiện nay.
Người cán bộ phải là người có nhận thức và khả năng vận dụng các qui luật kinh tế, chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước... để có những quyết định phù hợp với yêu cầu đặt ra. Họ phải có tầm nhìn xa trông rộng có bản lĩnh và ý chí, tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với mọi thử thách. Hơn nữa họ phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có sự am hiểu về luật pháp, có ý thức ham học hỏi. Một công ty gồm nhiều cán bộ giỏi chắc chắn sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, vững vàng đi lên và không ngừng phát triển doanh nghiệp.
Kinh doanh trong cơ chế thị trường cần những người vừa có đức vừa có tài. Người cán bộ quản trị kinh doanh, có vị trí, trách nhiệm càng cao, phạm vi càng rộng thì đòi hỏi càng cao về phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, người cán bộ phải biết tạo ra bầu không khí đoàn kết, thân mật giữa các thành viên trong công ty. Như vậy, nhân viên trong công ty cố gắng làm hết sức mình vì lợi ích của cá nhân và lợi ích của tập thể.
Trong các năm tới, dự đoán quy mô hoạt động của công ty sẽ tăng, do đó có thể nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Đây là điều kiện quan trọng giúp công ty bổ sung thêm được cán bộ có trình độ cao. Công ty cần có kế hoạch tuyển dụng hợp lý, việc tuyển dụng, lao động thật công minh, với những người có bằng cấp, sức khoẻ tốt, kinh nghiệm, trình độ thật sự.
Nâng cao chất lượng lao động, tạo động lực và sự nhiệt tình cho người lao động, công ty phải quan tâm đích đáng đến lợi ích của công nhân viên. Có vậy, cán bộ công nhân viên mới góp hết sức mình vì công ty.
III. Một số biện pháp cụ thể về phát triển quan hệ thương mại Việt - Lào.
Các kế hoạch tiếp theo trong hợp tác giữa Việt Nam và Lào trong thời gian tới.
1. Việt Nam và Lào tiếp tục đầu tư vốn để nâng cấp đường 9 và các cảng Cửa Lò, Đà Nẵng bảo đảm thông thường từ Lào đến các cảng miền Trung của Việt Nam. Nâng cấp sửa chữa các tuyến đường 217 (Lang Tra - Na Mèo) phía Việt Nam và đường 6A phía Lào, quốc lộ 43 (Sơn La - Hủa Phàn), quốc lộ 49 (Thừa Thiên Huế - Xalavan), tiếp tục chuẩn bị đầu tư đường 18B (KonTum - Attapu) đường 7 (Nghệ An - Xiêm Khoảng), đường 42 (Lai Châu - phôngxaly). Phía Việt Nam sớm hoàn thành tuyến đường nối từ quốc lộ 1 đến cảng Vũng áng và thiết kế cảng giai đoạn 1 để sớm triển khai xây dựng vào cuối năm 2000.
2. Hai bên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ngành thương mại hai nước, tăng nhanh kim ngạch XNK hàng hoá, khuyến khích trao đổi hàng hoá phục vụ dân cư khu vực biên giới. Bộ thương mại Việt Nam nhanh chóng ban hành chính sách và mặt hàng cụ thể miễn giảm thuế xuất nhập khẩu qua cửa khẩu và đường biên giới hai nước, phù hợp với các chính sách phía Lào đã ban hành (chỉ thu thuế một lần tại cửa khẩu, mức thuế thấp hơn hiện nay, ưu tiên miễn thuế cho các mặt hàng sản xuất tại 2 nước).
3. Bộ thương mại Việt Nam uỷ ban nhân dân tỉnh sớm hoàn tất các chợ đường biên tại nơi có cửa khẩu và đường biên giới chung với Lào. Xây dựng các trung tâm thương mại ở các thị xã tỉnh lỵ để giới thiệu và bán hàng Việt Nam, đảm bảo chất lượng và giá cả phải chăng. Trước mắt khẩn trương đưa hàng hoá sang bán tại cửa hàng siêu thị LAVINTERSHOP. (Chi nhánh thương mại đầu tiên của Việt Nam mở tại Viêng Chăn). Với ưu đãi của Lào cho phép hàng hoá mang sang chưa tính thuế xuất nhập khẩu, nếu không bán hết mang về không thu thuế.
4. Tích cực xúc tiến mở trung tâm giới thiệu và bán hàng tại SAVANAKHET, và một số tỉnh khác của Lào, nhanh chóng hoàn thành quy chế để đưa khu thương mại đường biển Lao Bảo - Đenxavẳn.
5. Mở rộng thị trường lên các tỉnh bắc Lào, Mianma, Nam Trung Quốc, nâng cấp cửa khẩu Pahang (Sơn La) và cửa khẩu Tây trang (Lai Châu).
6. Trước mặt nhà nước cần có chủ trương trợ cứu vận tải, hỗ trợ một phần lỗ cho doanh nghiệp buôn bán, sản xuất kinh doanh ở Lào, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của họ không bị lỗi thời nhằm tạo ra cho họ một vị thế trên thị trường Lào.
7. Củng cố tổ chức quản lý các cửa khẩu đường biên, thực hiện đúng quy chế biên giới và cửa khẩu được thoả thuận trong nghị định thư 3/8/1999 tại Thừa Thiên Huế, tạo điều kiện đi lại dễ dàng, đồng thời kiểm soát được buôn bán ma tuý.
8. Ngân hàng nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các công ty, đơn vị, cá nhân buôn bán và tổ chức sản xuất kinh doanh đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh với các công ty; đơn vị cá nhân Lào, vay vốn ưu đãi lãi suất thấp hoặc không lãi để kích thích việc đầu tư sản xuất, buôn bán hàng hoá với Lào. Đồng thời, tổ chức, triển khai hoạt động ngân hàng tín dụng ở các cửa khẩu, sớm thành lập các đại diện chi nhánh ngân hàng ở các trung tâm kinh tế và thương mại của Lào, trước mắt là chi nhánh ngân hàng tại Viêng Chăn để hỗ trợ vốn và giải quyết phương thức thanh toán cho các doanh nghiệp hoạt động.
Qua tình hình trao đổi hàng hoá và một số kế hoạch trong hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Lào trong thời gian tới đã khẳng định giữa hai nước có mối quan hệ đặc biệt và được gắn bó từ lâu đời. Các quan hệ trong thời gian tới đã khẳng định giữa hai nước có mối quan hệ đặc biệt và được gắn bó từ lâu đời. Các quan hệ trong thời gian tới của Việt Nam phần nào đó thể hiện được chiến lược phát triển kinh tế của Lào, là Chính phủ Lào quan hệ mua bán với nhiều nước, không để một nước nào độc quyền, chủ trương dành ưu tiên mở rộng quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá với Việt Nam và Trung Quốc, nhằm giảm dần sự lệ thuộc vào hàng hoá Thái Lan, quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Lào có xu hướng ngày càng tốt đẹp, có hiệu quả và lâu đời.
kết luận
Trong thương mại nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng có vai trò
rất quan trọng, thúc đẩy Việtnam tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực nền kinh té tăng. Trong những na3ưm qua mỗi quan hệ thương mại Việtnam-Lào đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, đánh dấu một điểm quan trọng trong quá trình phát triển mối quan hệ lâu dài.
Hoà chung với tăng trưởng xuất khẩu Việtnam công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà Nội trong những năm qua đã đạt được những thành tích kích lệ, góp phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việtnam.
Thời gian trước mắt là giai đoạn chứa nhiều thử thách song cũng nhiều cơ hội thành công đối với kinh doanh xuất khẩu của công ty. Để nắm bắt được cơ hội kinh doanh cần thực hiện chiến lược kinh doanh đa dạng hoá kết hợp với chuyên môn hoá tăng cường hoạt động kinh doanh xuất khẩu thị trường các nước nói chung và thị trường Lào nói riêng về chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu.
trong quá trình thực tập tại công ty, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú của công ty. Để hoàn thiện luận văn này em đã được sự hướng dẫn giúp đỡ của PGS-TS Đặng Đình Đào. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó.
tài liệu tham khảo
1 giáo trình (QTKDTMQT) (NXB) giáo dục
2 Giáo trình (TMQT) (NXB) giáo dục
3 Kinh tế thương mại dịch vụ (NXB) thống kê Hà Nội
4 Tài liệu cổ phần hoá của công ty SIMEX
5 Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 1999,2000,2001 công ty SIMEX
6 Các tài liệu kế toán của công ty SIMEX từ năm 1998-2001
7 Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1999, Bộ thương mại
8 Thời báo kinh tế thế giới
Thời báo kinh tế thế giới (s1-99)
Thanh tựu sau 10 cải cách của Lào (số 2/98)
Tình hình trao đổi hàng hoá của Việtnam qua cửa khẩu và biên giới vào cộng hoà DCND Lào (5/98)
9 Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á số 6(39) - 2002
10 Nghị định 57/CP (31/07/1998) thong tư hướng dẫn thực hiện
NĐ 57/CP
11 Các luận văn tốt nghiệp khoá 37,38
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0384.doc