Mục lục
Lời mở đầu 3
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
Bản chất và vai trò của xuất khẩu hàng hoá 5
Bản chất của xuất khẩu 5
Vai trò của xuất khẩu 6
Những nội dung cơ bản của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 8
Nghiên cứu thị trường 8
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu 12
Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng 15
Thực hiện hợp đồng 17
Sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt- Lào và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Thị trường Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam sang thị trường Lào 21
Chương II: Thực trạng về quan hệ thương mại Việt Nam- Lào và hoạt động xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Lào
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Lào 25
Nhân tố trong nước 25
Nhân tố ngoài nước 28
Đặc điểm thị trường Lào và đặc điểm hàng xuất sang thị trường Lào
Đặc điểm thị trường Lào 29
Đặc điểm hàng xuất khẩu sang thị trường Lào. 35
Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào 36
Tình hình quan hệ thương mại Việt Nam- Lào trong thời gian qua 36
Biện pháp trao đổi hàng với Lào 40
Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào 43
Khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Lào: 45
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Lào 48
Định hướng và dự báo phát triển thương mại Việt Nam – Lào trong thời gian tới 48
Định hướng phát triển thương mại Việt Nam- Lào trong giai đoạn 2001- 2010 48
Định hướng phát triển kinh tế thương mại Lào giai đoạn 2001-2010 50
Dự báo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu đến 2010. 51
Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào. 52
Nhóm các giải pháp vĩ mô 52
Nhóm các giải pháp vi mô 53
Một số biện pháp cụ thể về phát triển quan hệ thương mại Việt- Lào 69
Kết luận 71
Danh mục tài liệu tham khảo 73
Lời mở đầu
Hoạt động kinh doanh thương mại trong những năm qua giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ ở từng khu vực ở từng quốc gia. Hoạt động thương mại luôn tồn tại và phát triển khẳng định được vai trò của nó trong mọi nền kinh tế. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, thương mại thế giới không chỉ phát triển mạnh mẽ về bề rộng mà cả về bề sâu và mỗi quốc gia đều có những chính sách của mình để thúc đẩy hoạt động thương mại nhất là Việt Nam và thế giới nói chung. Việt Nam và Lào nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay. “Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại, là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong chiến lược đó hoạt động thương mại được coi là tác nhân liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập, là đòn bẩy phát triển kinh tế đất nước.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện các chính sách ngoại thương nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, gắn thị trường Việt Nam với thị trường thế giới và thị trường Việt Nam với thị trường Lào, phát huy tiềm năng của đất nước, tiếp nhận vốn kỹ thuật và trình độ quản lý từ nước ngoài và xây dựng mối quan hệ kinh tế với các nước láng giềng. Đặc biệt là mối quan hệ kinh tế Việt Nam với Lào là mối quan hệ có cội nguồn từ xa xưa, được xây đắp bởi công sức của bao thế hệ, là quan hệ của hai quốc gia láng giềng gần gũi, thân thiện, cùng giúp đỡ lẫn nhau chia ngọt sẻ bùi.
Hiện nay quan hệ Việt - Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Nhất là Việt Nam và Lào cùng chung là thành viên của ASEAN, quan hệ thương mại giữa hai nước càng có cơ hội phát triển.
* Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào.
Đề tài nhằm mục đích trình bày sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ Việt – Lào. Đồng thời phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào các Doanh nghiệp tìm ra những ưu điểm cũng như một số mặt tồn tại cần khắc phục.
Chương I
Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
I. Bản chất và vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
1. Bản chất của xuất khẩu
- Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ của một quốc gia mà sang quốc gia khác nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song hoạt động này có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian nhiều, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh và hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ các tập quán quốc tế cũng như các luật lệ khác nhau.
Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu là một trong hai hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thương mại quốc tế. Nó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên ngoài lẫn bên trong nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng tiêu dùng đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều có chung một mục đích là đem lại lợi ích cho các nước tham gia.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương nhân giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo hiệu quả cao nhất, dịch vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
2. Vai trò của xuất khẩu.
2.1. Đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
- Xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ tốt nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng giữa các nước với nhau. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước.
- Xuất khẩu có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải thiện cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao mức sống của dân.
- Nước Việt Nam là nước kinh tế còn thấp, thiếu hụt về vốn, khả năng quản lý, chỉ có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên và tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước giàu.
- Với định hướng phát triển nền kinh tế xã hội của Đảng. Chính sách kinh tế đối ngoại, xuất khẩu phải được coi là một chính sách có tầm quan trọng, chiến lược phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Đối với mọi quốc gia cũng như Việt Nam, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho thu nhập, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc trang thiết bị, hiện đại từ bên ngoài. Nguồn vốn nhập khẩu thường dựa vào các nguồn vốn chủ yếu vay, viện trợ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vay thì phải trả, nguồn vốn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn. Hơn nữa các nguồn này còn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất là xuất khẩu. Nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng gia tăng theo. Song nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và là tất yếu đối với Việt Nam. Ngày nay, đa số các nước đều lấy thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển.
Xuất khẩu góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Thị trường thế giới là thị trường to lớn song cạnh tranh quyết liệt. Để tồn tại và phát triển trong thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đổi mới, tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất.
Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động và thu nhập tương đối lớn, tăng ngày công lao động, nâng cao đời sống người lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu có tác dụng tăng trưởng sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao vị thế và vai trò Việt Nam trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có tác dụng thúc đẩy giữ uy tín, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... các quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong quan hệ quốc tế đối ngoại. Qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một nước nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc vận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước.
2.2. Đối với một doanh nghiệp.
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị trường, không ngừng đổi mới, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật.
Xuất khẩu giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường không chỉ bó hẹp ở trong nước. Doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận để mở rộng tái sản xuất có lãi và không ngừng tăng trưởng.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp tạo công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động thu hút người lao động vào doanh nghiệp, giúp cho người lao động ổn định và cải thiện đời sống.
II. Những nội dung cơ bản của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch Marketing.
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trương chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp.
* Lựa chọn mặt hàng kinh doanh.
Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của thịtrường vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm của doanh nghiệp.
Khi lựa chọn mặt hàng các doanh nghiệp phải nghiên cứu các vấn đề:
- Mặt hàng thị trường đang cần gì?
Doanh nghiệp phải nhạy bén, biết thu nhập, phân tích và sử dụng các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng các quan hệ bán hàng... để có được những thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Việc tiêu dụng các loại mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phù thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu...
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống
Một là giai đoạn triển khai. Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường. Và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm.
Hai là giai đoạn tăng trưởng ở giai đoạn này sản phẩm bắt đầu được bán trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra nhiều sản phẩm chủng loại sản phẩm độc đảo để tạo môi trường tốt cho doanh nghiệp, tăng khả năng chọn lựa của khách hàng
Ba là giai đoạn bão hoà. Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán hàng chậm và giảm dần, lợi nhuận trong kinh doanh giảm, doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm hay có một chiến lược Marketing có hiệu quả hơn.
Bốn là giai đoạn suy thoái. giai đoạn này doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội kinh doanh mới. Việc rút ra khỏi thị trường cần được dự đoán và tính toán một cách thận trọng, chính xác.
- Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu
Doanh nghiệp phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp mình xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật... để có thể đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định.
* Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Doanh nghiệp phải xác định được từng mặt hàng nào, vào thị trường nào, thời điểm nào, hình thức Marketing như thế nào cụ thể doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề:
* Thị trường và dung lượng thị trường
Doanh nghiệp cần có các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhóm hàng, từ đó có thể hiểu sâu về những thị trường này.
- Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận độngcủa tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá.
- Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động thị trường thành tựu khoa học cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình và công nghệ các biện pháp chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng.
- Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường. Đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và các sự biến động của các chính sách kinh tế xã hội, các yếu tố tác động khác.
* Biến động giá cả trên thị trường.
Phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Trong mua bán xuất nhập khẩu, việc mua bán hàng hoá và vận chuyển chúng phải qua một thời gian dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan, phong tục tập quán...) đã làm giá cả biến động một cách phức tạp, dẫn đến các nhà xuất khẩu phải luân theo dõi, nắm bắt được sự biến động của giá cả quốc tế, từ đó có mức giá chính xác, tối ưu.
* Lựa chọn bạn hàng kinh doanh
Các nội dung để tìm hiểu đối tác buôn bán có hiệu quả.
- Quan điểm kinh doanh của đối tác.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng về tài chính ( khả năng về vốn cơ sở vật chất)
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại lý cho công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với công ty.
2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu (đảm bảo về yêu cầu chất lượng quốc tế).
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất kinh doanh cho đến nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính.
- Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu do doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
- Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu thường do các tổ chức ngoại thương làm trung gian xuất khẩu hàng hoá.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các nhiệm vụ kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu có nghĩa hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến động giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh thông qua hệ thống thu mua hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng.
* Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biểu hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Thực hiện nay có một số hình thức sau:
- Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng...Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên.
- Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩutheo hợp đồng là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. Đây là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nhiệm vụ mua bán. Hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nội trên thị trường. Chủ yếu là hàng nông sản chưa qua chế biến.
- Tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. Đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chọn các đại lý thu mua phù hợp.
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến, các doanh nghiệp ngoại thương là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người xuất khẩu hàng xuất khẩu, hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tóm lại: các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dùng các hình thức thu mua thích hợp.
* Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nhiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu.
Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương cần nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật không. trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuật giúp đở người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước so với giá cả quốc tế như thể nào. sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, đóng gói...thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, vì vậy nó sẽ quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu.
- Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công. Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận, và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng với các chận hàng và các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phần thực hiện theo kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu
3. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng.
3.1. Các hình thức giao dịch
Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và đối tượng, năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chon phương thức giao dịch cho phù hợp.
- Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc thảo luận trực tiếp về hàng hóa giá cả, điều kiện giao dịch phương thức thanh toán... Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp.
- Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín để trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã chất lượng và số lượng hàng hoá... bằng Fax hoặc thư tay.
- Giao dịch qua điện thoại việc giao dịch qua điện thoại giúp doanh nghiệp đàm phán đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức này chỉ nên dùng cho những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chú đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán.
3.2. Đàm phán, nghệ thuật đàm phán.
Là quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng là cơ sở đi đến ký kết hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, những tranh chấp thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo.
3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Sau khi giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau trong đó bên bán phải cung cấp hàng hoá còn bên mua phải có trách nhiệm là thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng.
Một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các phần sau:
- Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi.
- Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
- Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân theo những thủ tục thể thức nhất định.
Hai là: Nội dung và điều khoản của hợp đồng bao gồm:
- Tên hàng.
- Phẩm chất.
- Số lượng.
- Điều khoản giao hàng.
- Điều khoản giá cả.
- Điều kiện cơ sở giao hàng.
- Điều khoản thanh toán.
- Điều khoản bao bì, kỹ mã hiệu.
- Điều khoản bảo hành.
- Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại.
- Điều khoản bảo hiểm.
- Điều khoản bất khả kháng.
- Điều khoản khiếu nại và trọng tài
- Các điều khoản khác.
4. Thực hiện hợp đồng.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ theo luật quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm những vấn đề sau
Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Xin giấy phép xuất khẩu
(nếu có)
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm tra
L/C
Làm thủ tục Hải quan
Giao hàng lên tàu
Mua bảo hiểm
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết khiếu nại
1) Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá:
Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân muốn xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy phép của bộ thương mại hoặc các bộ quản lý chuyên ngành.
Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng pháp luật, hàng hoá là đối tượng quản lý có ba mức:
1.1. Những danh mục hàng hoá nhà nước cấm buôn bán, xuất nhập khẩu hoặc tạm dừng (Phụ lục 1) Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006.
1.2. Hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện (Phụ lục 2) Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006.
1.3. Hàng hoá được phép xuất nhập khẩu không thuộc diện 1.1. và 1.2. trên đây chỉ phải làm thủ tục thông quan tại cửa khẩu.
2) Kiểm tra thư tín dụng L/C.
Sau khi ký kết hợp đồng nhà nhập khẩu ở nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hậu có ngân hàng thông báo ở Việt Nam. Nhà xuất khẩu sau khi nhận được giấy báo xin mở L/C thật chặt chẽ, xem đã đúng như hợp đồng đã ký kết hoặc chưa nếu có gì chưa hợp lý cần cần báo lại cho bên phía nước ngoài để cả hai bên cùng thống nhất sửa đổi.
3) Chuẩn bị hàng xuất khẩu:
Các doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu chuẩn bị xuất khẩu bao gồm các công đoạn sau.
- Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu.
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. Phải lựa chọn bao bì phù hợp với mặt hàng và yêu cầu hàng hoá xuất khẩu đúng với cam kết đã nêu ra trong hợp đồng, đồng thời có hiệu quả kinh tế là cao nhất.
- Kẻ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu. Phải đảm bảo nội dung thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vàvận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá. Đồng thời phải thoả mãn yêu cầu: sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu không gây khó khăn cho việc nhận biết hàng hoá.
4) Thuê tàu chuyên chở hàng hoá
Việc thuê tàu chuyên chở hàng hoá được tiến hành theo ba căn cứ sau:
- Những điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Những đặc điểm hàng hoá xuất khẩu.
- Những điều kiện vận tải.
5) Mua bảo hiểm:
Đối với hàng xuất khẩu chủ hàng chỉ mua bảo hiểm theo điều kiện CIF.
6) Kiểm tra chất lượng hàng hoá.
Trước khi giao hàng người xuất khẩu phải có nhiệm vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì, (tức là kiểm nghiệm). Nếu hàng xuất khẩu là động vật bắt buộc phải qua kiểm dịch theo qui định quốc tế.
7) Làm thủ tục Hải quan.
Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu:
- Khai báo hải quan.
- Xuất trình và kiểm tra hàng hoá (nếu cần)
- Thực hiện các quy trình của hải quan.
8) Giao hàng lên tàu.
Thực hiện điều kiện giao hàng trong hợp đồng, đến thời hạn giao hàng các nhà xuất khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng (tuỳ theo loại mà cách thức tiến hành khác nhau).
9) Thủ tục thanh toán.
Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu được hàng hoá. Thực tế ở Việt Nam doanh nghiệp vừa thanh toán theo hai loại hình thức là tín dụng chứng từ (L/C) và phương thức nhờ thu.
10) Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, mà chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường cần có nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng.
Căn cứ để giải quyết khiếu nại là các biên bản giám định của cơ quan thứ ba đồng thời phải xem xét các yêu cầu khiếu nại có đầy đủ, chặt chẽ và còn trong thời hạn hiệu lực hay không. Nếu khiếu nại có cơ sở cần tìm hướng giải quyết hợp lý và kinh nghiệm cho các đợt tới.
III. Sự cần thiết đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt-Lào và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá việt nam sang thị trường lào.
Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng chung sống lâu đời trên bán đảo Đông Dương, có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau về nhiều mặt. Sau 197._.5, khi nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thành lập, mối quan hệ này bước vào giai đoạn cách mạng mới, quan hệ Việt - Lào đã mang những đặc điểm mới. Từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng, hai nhà nước chuyển sang quan hệ toàn diện giữa hai Đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước, từ quan hệ chủ yếu về chính trị, quân sự và đối ngoại chuyển sang quan hệ toàn diện, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế văn hoá và đối ngoại. Sự ra đời của hai nhà nước thống nhất, độc lập có chủ quyền là đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất, chi phối sâu sắc mối quan hệ giữa hai nước.
Đến nay, quan hệ Việt - Lào đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn, phức tạp mới. Trong những năm qua, quan hệ trao đổi hàng hoá của Việt Nam và Lào không ngừng cải thiện. Sự cải thiện này được thể hiện qua nội dung các hiệp định thương mại giữa hai nước càng được thông thoáng, nhất là khi Việt Nam và Lào cùng là thành viên của ASEAN quan hệ ngoại thương giữa hai nước càng có cơ hội phát triển.
Việt Nam và Lào có chung 2069km đường biên giới, tiếp giáp 10 tỉnh từ Lai Châu đến Kontum hiện có 15 cửa khẩu, trong đó có:
* 6 cặp cửa khẩu quốc tế. Đó là:
- Cửa khẩu Tây Trang (Lai Châu)- Sốp Hùn (Phong Xa Lỳ)
- Cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) – Nậm Xôi (Hủa Phăn)
- Cửa khẩu Nậm Cắn (Nghệ An)- Nậm Cắn (Xiêng Khoảng)
- Cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh)- Nậm Phao (Bo li khăm xay)
- Cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình)- Na Phàu (Khăm Muộn)
- Cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) - Đen Xa Vẳn (Xa va Na khẹt)
* 5 cặp cửa khẩu quốc gia:
- Cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La) – Bản Đán (Hủa Phăn)
- Cửa khẩu Loóng Sập (Sơn La)- Pa Háng (Hủa Phăn)
- Cửa khẩu Thanh Thuỷ (Nghệ An) – Nậm On (Bo Li Khăm Xay)
- Cửa khẩu La Lay (Thừa Thiên Huế) – La Lay (Xa la văn)
- Cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum) – Phu Cưa (At Ta Pư)
* 4 cặp cửa khẩu cấp tỉnh:
- Cửa khẩu Ma lu thàng (Lai Châu) –
- Cửa khẩu Pa thơm (Lai Châu) –
- Cửa khẩu Tén Tần (Thanh Hoá) – Sổm Vẳng (Hủa Phăn)
- Cửa khẩu Ka Roòng (Quảng Bình) – Noỏng Mạ (Khăm Muộn)
Giữa Việt Nam và Lào đã ký hiệp định thương mại thời kỳ 1981 - 1985 Bộ ngoại thương Việt Nam và Bộ thương nghiệp Lào tăng cường trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực. Đầu năm 1985, Bộ chính trị Đảng nhân dân cách mạng Lào chủ trương chuyển hướng buôn bán từ Tây sang Đông. Việt Nam Lào đã ký biên bản hợp tác, quy định nội dung hợp tác, trong lĩnh vực ngoại thương giữa hai nước.
Tình hình ngoại thương giữa hai nước.
Đứng trước tình hình đổi mới trong những năm 90, tháng 2/1993, Chính phủ hai nước đã ký hiệp định thương mại cho thời kỳ 1993 - 1997, đồng thời ký nghị định thư thương mại Hiệp định thương mại này đã tác động tới hoạt động ngoại thương giữa hai nước.
Từ năm 1976 trao đổi ngoại thương trung ương hình thành và phát triển thì trao đổi địa phương còn phát triển nhanh hơn. Đến năm 1985, trao đổi giữa các địa phương dọc tuyến biên giới phát triển rất đều. kim ngạch thời kỳ 1981 -1985 tăng hơn 22 lần thời kỳ 1976 - 1980. Thời kỳ 1993 - 1997 xuất khẩu tiểu ngạch đạt gần 20 triệu USD. Đến nay quan hệ trao đổi địa phương ngày càng phát triển nhất là khi nền sản xuất hàng hoá đã đi vào đời sống của từng làng xã các tỉnh vùng ven hai nước. Do Việt Nam và Lào có chung biên giới từ Bắc đến Nam. Quan hệ trao đổi này đã thực sự giải quyết một số nhu cầu thiết yếu của hai bên, góp phần phát triển sản xuất ổn định đời sống nhân dân và củng cố hữu nghị đặc biệt của nhân dân vùng biên giới hai nước.
Chủ trương của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được tiếp tục đổi hàng và thanh toán nợ với Lào trong năm 2001 đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi nước, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam – Lào. Kết quả được thể hiện như sau.
Nhờ có đổi hàng, ngay từ những tháng cuối năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Lào theo phương thức đổi hàng đạt 55 triệu USD. Hàng xuất khẩu sang Lào với kim ngạch lớn là hàng cần khuyến khích xuất khẩu. Hoặc khó tìm thị trường xuất khẩu như: Hạt tiêu, Lạc nhân, hoa quả tươi và khô, đạt 7 triệu USD, hàng thủ công mỹ nghệ đạt 4 triệu USD, hàng dệt may 4 triệu USD, hàng giầy dép gần 3 triệu USD. Từ đó góp phần tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đẩy mạnh hàng hoá, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân, đặc biệt là nhân dân thuộc khu vực miền Trung. Năm 2006 kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam và Lào đạt 260 triệu USD. Trong đó Việt Nam xuất siêu.
Trong 4 tháng đầu năm 2007 kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam- Lào đạt 92,3 triệu USD (nguồn báo Điện tử- Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 16/8/2007)
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng Việt Nam xuất khẩu sang Lào đã và đang tăng lên rõ rệt, đồng thời qua Lào hàng hoá của Việt Nam cũng đã thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan.
Nội dung hiệp định thương mại giữa hai nước.
Chính phủ Lào đều nhằm mục đích và nguyên tắc chung, đó là củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Quan hệ được dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn trọng truyền thống hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực thương mại giữa hai nước và tập quán thương mại quốc tế, đồng thời khuyến khích việc buôn bán hàng hoá do hai nước sản xuất.
Trong hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam - Lào đã nhấn mạnh hợp tác trong lĩnh vực giao thông, vận tải, bưu điện, phía Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phía Lào trong việc vận chuyển hàng hoá quá cảnh xuất khẩu, nhập khẩu của Lào qua lãnh thổ Việt Nam và sử dụng một số cảng biển hiện có ở Việt Nam.
Hiện nay Việt Nam và Lào đang gấp rút hoàn chỉnh dự án xây dựng tuyến đường sắt Lào - Việt Nam theo thiết kế, tuyến đường sắt này có tổng chiều dài 519 km, đoạn trên đất Việt Nam dài 119 km. Lộ trình tuyến đường sắt bắt đầu từ cảng Vũng áng- Hà Tĩnh chạy sang Nam Lào, dọc theo tuyến đường 12. Dự án đường sắt Lào- Việt Nam cũng là một phần trong dự án đường sắt xuyên á rất có ý nghĩa phát triển hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt- Lào.
Chương II
Thực trạng về quan hệ thương mại Việt Nam- Lào và hoạt động xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Lào
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Lào.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá.
Hoạt động xuất nhập khẩu bị chi phối và tác động của nhiều nhân tố khác nhau, chúng ta có thể phân thành 2 nhóm chính: Nhân tố trong nước và nhân tố ngoài nước.
Nhân tố trong nước:
Trên phạm vi tổng thể các nhân tố sau đây có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Những quy định pháp luật và chính sách kinh tế của Nhà nước đối với xuất khẩu như: Thuế xuất khẩu, tỷ lệ lãi vay ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chính sách đầu tư, trợ giá quy hoạch vùng xuất khẩu, chính sách hạn chế hay cấm xuất khẩu… Đây là những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại nào. Bởi vậy, trước khi xuất khẩu xem kỹ vấn đề này. Cụ thể là những nghị định, quyết định của Nhà nước ảnh hưởng tới xuất khẩu.
Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998.
Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 08/8/2001 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu- nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
Để thi hành các Nghị định trên, chính phủ quyết định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá với nước ngoài, Bộ Thương mại hướng dẫn một số vấn đề sau:
1.1. Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu :
* Đối với thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (dưới đây gọi tắt là thương nhân).
Trừ hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hoá thuộc danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, thương nhân được xuất khẩu- nhập khẩu hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Chi nhánh thương nhân được xuất khẩu- nhập khẩu hàng hoá theo uỷ quyền của thương nhân.
* Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty và chi nhánh Công ty nước ngoài tại Việt Nam
Các thương nhân, Công ty, chi nhánh khi tiến hành hoạt động thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh tại Nghị định này, ngoài việc thực hiện các quy định tại Nghị định này, còn thực hiện theo các quy định khác của pháp luật có liên quan và cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký kết hoặc gia nhập.
Căn cứ pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế, Bộ trưởng bộ Công thương công bố lộ trình và phạm vi hoạt động kinh doanh của thương nhân.
1.2. Về hàng hoá xuất nhập khẩu
“Tất cả các loại hàng hoá, trừ hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, đều được xuất nhập khẩu”. Hàng hoá cấm xuất khẩu cấm nhập khẩu, hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu có điều kiện, thực hiện như sau:
Hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu:
Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ ban hành cho từng thời kỳ trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan.
Hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu chỉ được xuất khẩu- nhập khẩu trong trường hợp đặc biệt khi được phép của Thủ tướng Chính phủ.
Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu có điều kiện
+ Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu có điều kiện bao gồm:
Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu theo hạn ngạch.
Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại
Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành.
Hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu theo quy định riêng của Thủ tướng Chính phủ.
* Trên góc độ các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động xuất khẩu- nhập khẩu của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố:
Chất lượng và giá thành của hàng hoá
Tính đa dạng về mẫu mã, độc đáo và mới lạ của sản phẩm.
Hình thức bao bì, sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá.
Khả năng nhanh, nhạy nắm bắt sự thay đổi của nhu cầu thị trường.
Kế hoạch, khả năng cạnh tranh chuyển hướng sản xuất và thay đổi cơ cấu mặt hàng.
Khả năng tạo nguồn xuất khẩu ổn định của doanh nghiệp. Điều này tuỳ thuộc vào trình độ, trang thiết bị công nghệ, máy móc, khả năng về vốn, lao động … của doanh nghiệp.
Cuối cùng hoạt động kinh doanh nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ marketing bán hàng và sức thu hút của quảng cáo.
* Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu, chịu tác động của các nhân tố:
Do trình độ năng lực của cán bộ ngoại thương về trình độ nghiệp vụ và kinh doanh làm ăn với nước ngoài.
Do khả năng chiếm giữ thông tin phục vụ khai thác thị trường, khả năng điều hành quản lý và tổ chức kinh doanh.
Do chiến lược kinh doanh có thích nghi với thị trường và đối thủ cạnh tranh hay không. Những chiến lược này rất quan trọng, nó quyết định sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh là một nhân tố quan trọng trong quá trình kinh doanh, ngoài khả năng tổ chức hoạt động tiếp thị, xúc tiến bán hàng cũng là yếu tố giúp cho quá trình kinh doanh thành công.
Các nhân tố có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu với mức độ khác nhau.
Nhân tố ngoài nước:
Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu từ phía bên ngoài bao gồm một số nhân tố kể trên đối với thị trường đáp ứng nhập khẩu. Bên cạnh đó ngoài những đặc trưng như nhu cầu, thị hiếu, pháp luật riêng của từng nước, hoạt động xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng bởi pháp luật và thông lệ quốc tế.
Nhu cầu thị trường nước ngoài là yếu tố trực tiếp quyết định sự nhập khẩu của họ. Từ đó ảnh hưởng đến xuất khẩu của các nước khác với số lượng nhiều hay ít, chiều hướng tăng hay giảm. Nhu cầu này không diễn biến tự nhiên mà chịu sự áp đặt của những chính sách về nhập khẩu hay các biện pháp về bảo hộ mậu dịch với các nước.
Những nhân tố như thị hiếu tiêu dùng, tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Ngoài những hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một nước nói chung và kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam sang Lào nói riêng phụ thuộc vào tình hình kinh tế khu vực, trên thế giới, tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ biến động mà chiều hướng tăng hay giảm.
Đối với hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường Lào cũng có nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam như: Môi trường văn hoá, xã hội, môi trường chính trị, luật pháp của Lào, môi trường kinh tế và công nghệ, môi trường cạnh tranh là yếu tố quan trọng nhất tác động tới việc kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Lào. Vì hàng hoá Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh của hàng hoá các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản… Môi trường địa lý tuy Việt Nam và Lào có chung đường biên giới từ Bắc đến Nam, nhưng việc vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn, đường xá chưa thoả mãn tốt về vận chuyển hàng hoá.
Đặc điểm thị trường Lào và đặc điểm hàng xuất sang thị trường Lào
1. Đặc điểm thị trường Lào.
Dân số: 5.900.000 người (số liệu tháng 6 năm 2005)
Diện tích: 236.800 km2
Tỉnh: 18 tỉnh
Từ năm 1988, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện đường lối cải cách theo hướng kinh tế thị trường. Đến nay, kinh tế xã hội Lào đã bước sang giai đoạn phát triển mới. Sau hơn 15 cải cách, nền kinh tế Lào đã có những thay đổi sâu sắc, dần dần hướng tới hội nhập nền kinh tế thế giới, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư ngân hàng, ngoại thương đã có những bước tiến hành đáng kể. Thành quả hơn 15 năm cải cách của Lào đã tạo cơ sở vững chắc để Lào bước sang thế kỷ XXI và sát cánh cùng với thành viên trong ASEAN xây dựng Đông Nam á ngày thêm lớn mạnh.
1.1 Đẩy mạnh phát triển cơ cấu kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
+ Chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường: Nền kinh tế Lào được chuyển từ kế hoạch pháp lệnh của Trung ương sang kế hoạch và điều tiết vĩ mô, để cho các đơn vị kinh tế tự quyết định nhiệm vụ sản xuất của mình theo quy luật cung cầu của thị trường.
+ Chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy luật vận hành của thị trường: Nhà nước chỉ đạo giá của các mặt hàng chủ yếu như: điện, nước chảy tự nhiên, dầu mỏ thông tin, vận tải hàng không. Sau khi thực thi chính sách này đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xí nghiệp hạn chế kết quả lam phát từ 50 - 60% năm 2000 đến nay giảm xuống còn 6 - 8%.
+ Cơ chế tiền tệ: Chuyển hoạt động ngân hàng từ chỗ chỉ có tính chất cấp phát sang hoạt động thương mại, chịu trách nhiệm điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, dự trữ với tư cách là một ngân hàng trung ương, tách kho bạc nhà nước độc lập với hệ thống Ngân hàng. Sau khi thực thi những chính sách trên, nghiệp vụ ngân hàng đã phát triển đến tỉnh và thành phố trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất và đầu tư. Dự trữ tiền tệ quốc gia của Lào ngày càng tăng lên, đồng thời cũng thu hút và mở rộng nghiệp vụ ngân hàng nước ngoài tại Lào.
+ Cải cách thể chế tài chính: Biến nghĩa vụ của các xí nghiệp và các hộ gia đình thành nghĩa vụ nộp thuế, từng bước hoàn thành các pháp quy của Nhà nước thành lập lệnh thuế. Sau một thời gian chuyển đổi như vậy, nguồn tài chính đã tăng lên 30%. Nền tài chính quốc gia đã điều tiết được trên vĩ mô một cách hiệu quả, thúc đẩy các ngành đẩy mạnh đầu tư sản xuất đặc biệt là do chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn nên thu hút được nhiều đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt là từ khi Lào gia nhập ASEAN chính sách này càng nổi rõ.
+ Cải cách thể chế quản lý kinh tế: Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế “tam quyền: lập pháp, tư pháp và hành pháp” biến cơ chế quản lý từ trung ương, tỉnh huyện trước đây thành cơ chế quản lý trực tiếp theo ngành, xác định những chức năng nhiệm vụ của các ngành, giảm bớt các đầu mối quản lý. Trung ương chỉ tập trung vào việc khống chế, điều tiết các vấn đề kinh tế vĩ mô và những quy định có tính chiến lược phát triển cùng những vấn đề trọng đại thuộc các cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện nước, bưu điện, trường học, bệnh viện...
+ Chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ, pháp qui về quản lý kinh tế - xã hội: làm cấu thành công cụ đắc lực để điều tiết giữa các ngành, các xí nghiệp trong phạm vi cả nước. Cho đến nay, Quốc Hội Lào đã ban bố gần 50 pháp luật, pháp quy và đã có hiệu lực mạnh mẽ đối với quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
1.2 Cải cách cơ cấu, mở rộng và động viên các thành phần tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây chủ yếu là kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, quản lý bao cấp và phân phối bình quân. Hậu quả là làm cho sản xuất mất sức sống. Vì vậy, cải cách kết cấu kinh tế - xã hội đã trở thành một trong những chính sách quan trọng trong cải cách kinh tế của Lào. Biến những xí nghiệp quốc doanh không có tính chiến lược và kém hiệu quả thành xí nghiệp sở hữu khác, làm cho nó phải đúng trên nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, có sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Những chính sách đó đã đưa lại kết quả khá rõ nét. ở Lào đã xuất hiện nền kinh tế đa sở hữu như quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã, Doanh nghiệp cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài v.v... các thành phần kinh tế đó đã vận hành tương đối có kết quả trong điều kiện cơ chế thị trường mà không nhất thiết phải có sự đầu tư và bao cấp của nhà nước.
Từ năm 1989, Lào bắt đầu chuyển xí nghiệp quốc doanh hiệu quả thấp thành hình thức sở hữu khác với các biện pháp như cho thuê, hợp doanh, phát mại, v.v... cho đến nay đã có hơn 800 xí nghiệp vừa và nhỏ thuộc cả trung ương lẫn cấp tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi. Điều này chẳng những giải quyết khó khăn tài chính đối với nhà nước, mà chính phủ còn thu về một khoản tiền lớn từ các doanh nghiệp chuyển đổi này. Nhà nước chỉ còn giữ lại các xí nghiệp như: điện, trạm bơm, hàng không, công ty xăng dầu, thông tin bưu điện và là các công ty xí nghiệp có tính chiến lược.
1.3 Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Đây là khâu quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường, mỗi khi bắt đầu lại thì cũng là lúc xóa bỏ chế độ cung cấp của các cơ quan nhà nước.
Sau khi đã triển khai các chính sách như: phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, chuyển cơ cấu ngoại hối và nhiều loại giá theo quy định vận hành của thị trường, cải cách thể chế tiền tệ, cải cách thể chế tài chính, cải cách thể chế kinh tế, chấn chỉnh và hoàn thành các điều lệ pháp quy về quản lý kinh tế xã hội, nó thúc đẩy sản xuất mở rộng buôn bán giữa các địa phương cũng như với nước khác, xí nghiệp tăng trưởng nhanh sức mua ở thành phố cũng như ở nông thôn tăng nhanh. Hiện nay cả nước đã có khoảng 42.500 xí nghiệp với các hình thức sở hữu khác nhau, trong xí nghiệp loại lớn và vừa khoảng 2100, xí nghiệp xuất nhập khẩu là 350. Tình hình ngoại thương đang có chiều hướng phát triển tốt, đã có quan hệ buôn bán với gần 50 quốc gia và khu vực trên thế giới.
1.4 Mở rộng hợp tác với nước ngoài.
Đây là chính sách quan trọng của Lào nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật để phát triển đất nước. Năm 1988, bắt đầu cải cách thì đồng thời Lào cũng thực thi một chính sách đối ngoại trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và dần dần đã mang lại hiệu quả đáng phấn khởi. Bước đầu đã thoát khỏi khó khăn về tài chính. Năm 1993 Liên Xô, Đông Âu sụp đổ đã mất đi nguồn viện trợ to lớn nhưng Lào đã kịp thời điều chỉnh chính sách tranh thủ nguồn vốn và viện trợ không hoàn lại của các nước phương Tây và nhiều tổ chức quốc tế để cân bằng bội chi tài chính, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, Lào đã đưa ra luật đầu tư để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài. Từ năm 1988 đến hết năm 1997, chính phủ đã phê duyệt hơn 500 hạng mục đầu tư với tổng số vốn lên đến 5,5 tỷ USD. Phần lớn vốn được tập trung vào các ngành điện lực, khai khoáng và dịch vụ tạo điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và kinh tế - xã hội.
Bước vào thế kỷ XXI, nhà nước Lào với một tình hình chính trị ổn định trong nước và một môi trường quốc tế hoà bình. Hiện nay nước Lào với một vị thế mới của mình. Không phải chỉ là thành viên của ASEAN mà có quan hệ ngoại giao với 106 nước và quan hệ thương mại với 50 nước trên thế giới. Sự hội nhập đó đòi hỏi nhà nước Lào những nỗ lực thật to lớn để tiến kịp các nước anh em. Theo kế hoạch phát triển kinh tế 2000 - 2007 nước Lào cần phải đạt sự tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8% trở lên mới có thể tham gia vào AFTA năm 2008, muốn tham gia vào AFTA một cách có hiệu quả và tròn bổn phận, nhà nước Lào cũng đã thấy cần phát triển thị trường nội địa cải tiến cơ chế làm việc, phát triển khuôn khổ pháp lý cần thiết liên quan tới các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong những năm tới, trong kế hoạch phát triển kinh tế đến năm 2010 của mình, Lào vạch ra 8 chương trình ưu tiên quốc gia như sau.
1: Chương trình sản xuất lương thực.
2: Chương trình ổn định chuyển đổi canh tác.
3: Chương trình sản xuất hàng hoá thương mại.
4: Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng.
5: Chương trình phát triển nông thôn.
6: Chương trình phát triển nguồn nhân lực.
7: Chương trình quan hệ kinh tế đối ngoại.
8: Chương trình phát triển dịch vụ.
Cơ sở để tiềm năng nhà nước Lào sẽ thực hiện được những chương trình trên đây là: nước Lào luôn có sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng
Lào. Nhờ đó, trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã tạo được sự ổn định về chính trị. Nước Lào còn có “nhiều tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên đều có chưa được khai thác”, ngoài ra với tư cách là một thành viên đầy đủ của ASEAN, Lào sẽ tham gia vào dự án của ASEAN như dự án tiểu vùng sông Mê Công, chương trình phòng chống ma tuý Đông Nam á, xây dựng đường xuyên nội địa Đông Nam á v.v... Đó là những thách thức, đòi hỏi, những cố gắng vượt bậc, nhưng cũng là vận hội mới của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong thế kỷ XXI.
1.5 Những vấn đề và thách thức phía trước.
Trong quá trình phát triển, song song với những thành tựu đạt được, cũng còn không ít vấn đề và những thách thức, đòi hỏi Lào phải tìm cách vượt qua:
- Trình độ phát triển kinh tế- xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện đang còn thấp.
Trong 3 nước cùng trên bán đảo Đông Dương, và cả trong ASEAN Lào là nước duy nhất không cố biển; Là nước đất rộng người thưa, mật độ dân số 24,6 người / km2 , đứng thứ 10 trong 10 nước ASEAN. Là nước có tỷ lệ sinh nhiều nhất trong các nước ASEAN: 3,48%. Cũng lại là nước có tỷ lệ chết nhiều nhất: 1,22% và cũng là nước có tuổi thọ thấp nhất trong các nước ASEAN. Năm 2003, tuổi thọ nam giới: 54 năm, của nữ: 56 năm. Theo phân loại của Liên hợp quốc, trong khoảng 60 nước thuộc nhóm thu nhập thấp có Lào. Nếu xếp theo trình độ phát triển, Lào cùng với Campuchia, Mianma trong nhóm 51 nước kém phát triển trên thế giới; Còn nếu theo chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2004, thì Lào được xếp thứ 133 trong 177 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thật vậy, GDP của Lào thấp nhất trong các nước ASEAN, năm 2004 đạt 2437 triệu USD. Nếu tính theo GDP bình quân đầu người đạt 423 USD. Cũng theo UNDP công bố chỉ số tuổi thọ năm 2004 là chỉ đạt 0,5 chỉ số giáo dục, cũng chỉ đạt 0,66 - mức đạt thấp nhất trong các nước ASEAN.
2. Đặc điểm hàng xuất khẩu sang thị trường Lào.
- Mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang Lào theo nghị định thư quy định 39 mặt hàng của các ngành lương thực thực phẩm, dệt may, giầy da, sắt thép, ximăng, vật liệu xây dựng, thuỷ, hải sản đóng hộp và đông lạnh, trâu bò sống và lợn sữa.... vài năm gần đây trong cơ chế thị trường ngoài trao đổi hàng nông thuỷ sản và hàng tiêu dùng ở chợ đường biên có thêm mặt hàng giấy vở học sinh, đồ nhựa, cáp viễn thông, xe máy, gạch chịu lửa... và một số hàng tiêu dùng thiết yếu khác.
- Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Lào vừa nhiều về số lượng, vừa phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng bảo đảm, gây được lòng tin đối với người tiêu dùng Lào. Trên thực tế hàng hoá của Việt Nam xuất hiện ở Lào đã và đang tăng lên rõ rệt. Đồng thời qua Lào hàng hoá Việt Nam cũng thâm nhập ngày càng nhiều vào Thái Lan, đặc biệt là 6 tỉnh Đông Bắc Thái Lan.
- Trong năm 2001, việc xuất khẩu đổi hàng với Lào thực hiện theo quy định: khuyến khích các doanh nghiệp (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá do Việt Nam sản xuất sang Lào, theo danh mục hàng hoá.
+ Hàng cơ khí, kim khí.
+ Hàng thủ công mỹ nghệ.
+ Muối.
+ Sản phẩm chăn nuôi.
+ Hàng nông sản.
+ Dược liệu thực phẩm.
+ Sản phẩm cao su.
+ Hàng điện, điện tử gia dụng có tỷ lệ nội địa hoá trên 60%.
+ Hàng dệt, may, tơ tằm.
Bộ thương mại hướng dẫn cụ thể danh mục các mặt hàng xuất khẩu đổihàng với Lào nêu trên.
Từ đầu năm 2001 do sự phối hợp tốt hơn giữa các ngành và tiếp tục duy trì việc đổi hàng, 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch XNK 144 triệu USD tăng 4,5 lần so với cung kỳ năm 2000.
Trong đó Việt Nam xuất sang Lào khoảng 79,6 triệu USD gồm các nhóm hàng chính như.
+ Nhóm hàng nông sản: hạt tiêu, lạc tỏi... 31 triệu USD.
+ Nhóm hàng thuỷ sản: tôm, cá đông lạnh....7 triệu USD.
+ Nhóm hàng công nghệ phẩm: vải, quần áo, đồ dùng gia đình 25,3 triệu USD.
+ Nhóm hàng mỹ nghệ: đồ gốm1,2 triệu USD.
+ Nhóm khoáng sản: thiếc thỏi 1,3 triệu USD.
Với chủ trương mong muốn hàng Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Lào, ngày 31/8/2005 Bộ Tài chính đã có quyết định số 60/2005/QĐ-BTC về việc thuế suất thúê nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất sứ từ Lào. Để đáp lại chính phủ Lào cho phép các mặt hàng nhập khẩu có xuất xứ từ Việt Nam được giảm 50% thuế nhập khẩu.
III- Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào
1. Tình hình quan hệ thương mại Việt - Lào trong thời gian qua.
Cơ sở pháp lý đầu tiên của quan hệ thương mại giữa Việt - Lào là hiệp định thương mại ngày 13/7/1961. Tuy vậy trong thời kỳ 1961 -1975 quan hệ giữa hai nước chỉ mới phát triển dưới hình thức đổi hàng giữa nhân dân hai nước vùng biên giới. Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) được thành lập (tháng 12/1975) tiếp tục ký các hiệp định 5 năm và các Nghị định thư thương mại hàng năm. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này giữa hai nước trung bình đạt từ 3,5 - 4 triệu rúp clearing, chủ yếu là trao đổi mậu dịch chính ngạch, phía Lào nhập siêu của Việt Nam khoảng 11,5 triệu USD từ năm 1982 - 1992 Lào vẫn tiếp tục nhập siêu của Việt Nam trên 0,5 triệu rúp. Mặt hàng Việt Nam xuất chủ yếu là hàng nông sản như cà phê, cao su, gạo, giầy dép các loại, hải sản hàng dệt may, hạt điều, rau quả các loại.
Tháng 2/1993, hiệp định thương mại 1993 - 1997 được ký giữa hai chính phủ, hai bên thoả thuận chấm dứt hình thức ký Nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, xoá bỏ tình trạng bao cấp của nhà nước, mở ra thời kỳ mới cho quan hệ thương mại hai nước Việt - Lào. Hiệp định thương mại trong thời kỳ này cho phép mở rộng đối tượng trao đổi, không hạn chế các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi hàng hoá, không hạn chế kim ngạch trao đổi hàng hoá, mở rộng danh mục trao đổi trừ các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập.
Với cơ chế phù hợp với tình hình mới. Kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu hai chiều Việt Nam - Lào có sự thay đổi tăng nhanh hơn so với trước đây
Theo từng giai đoạn, tính chất, số lượng các mặt hàng nhóm mặt hàng xuất, nhập khẩu cũng được tăng giảm phù hợp với nhu cầu thị trường của mỗi nước. Giai đoạn từ năm 1993 - 1997 các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu sang Lào chủ yếu là: gạo, thịt lợn, thịt bò, trâu bò, chiếm tỷ trọng kim ngạch khá thấp.
Giai đoạn 1998 - 2001 các mặt hàng nông nghiệp được tăng lên đáng chú ý là: cà phê, lạc nhân, hạt tiêu hoa quả tươi khô với số lượng đáng kể. Đặc biệt là năm 2001 hải sản của Việt Nam đã chiếm được thị phần khá lớn so với các mặt hàng mà Việt Nam xuất sang Lào (Bảng 1) làm cho giá trị hàng xuất khẩu của nông, lâm, ngư nghiệp tăng lên đáng kể so với những năm trước đây. về giá trị hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp và chế biến như: Cà phê, Lạc nhân, Hạt tiêu, hoa quả tươi, khô….
Các mặt hàng xuất khẩu của Lào là xe máy nguyên chiếc, phụ tùng xe máy, ôtô vận tải, ô tô du lịch trong giai đoạn (1993 - 1997) và linh kiện xe máy dạng CKD, SKD và xe máy nguyên chiếc (giai đoạn 1998 - 2001) là gỗ, các sản phẩm từ gỗ, sắt, ximăng, máy móc phụ tùng, thạch cao được nhập với khối lượng thấp và không được điều đặn
Biểu 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Làothời kỳ 1998 - 2001
Đơn vị: 1000 USD
1998
1999
2000
2001
S.L
KN
SL
KN
SL
KN
SL
KN
Tổng kim ngạch hai chiều
188.000
110.000
216
359
Việt nam xuất sang Lào
120.000
46.135
73.291
164.263
- Hàng dệt may
666
3.151
2.246
8.867
- Cà phê
1.592
2.395
54
50
- Hải sản
13.321
- Gạo
30
5.571
2.867
823
494
107
- Chè
59
60
- Quế
0,350
- Lạc nhân
18.667
12.401
- Hạt tiêu
6816
26.426
- Thiếc
484
2.485
- Hàng thủ công mỹ nghệ
3.981
- Linh kiện vi tính và phụ kiện
8
- Hoa quả tươi khô
629
211
4.456
9.234
- Giầy dép các loại
234
2.730
- Hạt điều
103
Việt Nam nhập khẩu từ Lào
68.000
53.700
144.308
195.000
- máy móc thiết bị phụ tùng
105
NPL dệt may da
5
- ôtô nguyên chiếc các loại
98
965
4
133
19
-Linh kiện xe máy dạy CKD, SKD
38.082
52.429
23.332
28.806
173.487 (bộ)
173.016
-Phân bón các loại
5000
584
- Sắt thép các loại
1
230
- Xe máy nguyên chiếc
5252
7.502
2190
2.925
- Xi măng các loại
2516 (tấn)
125
Nguồn: - Vụ quan hệ Lào và Campuchia
- Bộ kế hoạch và Đầu tư
Để giải quyết vấn đề này chính phủ, ngành thương mại các cơ quan hữu quan hai nước đã phối hợp trao đổi cùng đưa ra chính sách ưu tiên lẫn nhau cho hoạt động thương mại mà đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng kinh tế ASEAN.
Giai đoạn 2002 đến nay Việt Nam xuất khẩu sang Lào đã tăng lên về số lượng và chủng loại. Ngoài những mặt hàng truyền thống như gạo, cà phê, lạc nhân, hải sản vẫn duy trì tốt, thì bên cạnh đó các mặt hàng công nghiệp, các sản phẩm công nghiệp và chế biến như khai khoáng, bưu chính viễn thông, vật liệu xây dựng, vải, quần áo, đồ nhựa gia dụng. Đặc biệt là mặt hàng xe máy từ 1998 đến 2001 Việt Nam nhập khẩu từ Lào, thì từ năm 2005 đến nay Việt Nam xuất khẩu xe máy sang Lào với số lượng năm sau cao hơn năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu từ Lào chủ yếu vẫn là gỗ, sản phẩm gỗ, thạch cao, …
Quá t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3472.doc