Mục lục
Chương I: TMQT và tổ chức kinh doanh hàng XNK ở các doanh nghiệp trong nền KTTT.
I. TMQT và sự tồn tại khách quan của TMQT trong nền KTQD
Khái niệm và sự tồn tại khách quan của TMQT
Tác dụng của TMQT đối với đất nước và doanh nghiệp
Đặc trưng của TMQT
II. Những nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh doanh XK ở các doanh nghiệp.
A. Nghiên cứu tiếp cận thị trường:
Nghiên cứu môi trường.
Nghiên cứu nhu cầu.
Nghiên cứu về cạnh tranh
Nghiên cứu giá cả.
Xu hướng phát triển của thị
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu than tại Công ty Coalimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường
B. Tìm kiếm đối tác trong kinh doanh.
Công tác tạo nguồn hàng.
Tìm kiếm bạn hàng.
Lên phương án kinh doanh.
Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng.
Tổ chức thực hiện hợp đồng XK
Đánh giá hiệu quả của hợp đồng XK
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2001
I. Đặc điểm kinh doanh của công ty
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
1.2. Chức năng nhiệm vụ
1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm qua
II. Thực trạng hoạt động XK than
Đặc điểm của sản phẩm
Vị trí của than trên thị trường
Xây dựng nguồn hàng tốt nhất cho XK
chuẩn bị giao dịch ngoại thương
Đàm phấn và ký kết hợp đồng
Tổ chức thực hiện hợp đồng
Đánh giá kết quả hợp đồng
III.Kết quả hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1998-2001
Thời kỳ 1995-1998
Thời kỳ 1999-2001
IV. Đánh giá hoạt động của công ty trong thời gian vừa qua
1.Kết quả đạt được
2.Tồn tại
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu than.
I. Những dự báo phân tích thị trường theo năm nay và năm tới.
II. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động XK than.
Chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá
Tiếp cận và mở rộng thị trường
Đẩy mạnh XK bằng cách giữ vững và nâng cao uy tín công ty
Lập quỹ thưởng phạt đối với hoạt động XK
Duy trì mối quan hệ với bạn hàng cũ và mở rộng các quan hệ với bạn hàng mới .
Đẩy mạnh hoạt động Marketing
Đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi
Hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả trong thanh toán quốc tế
Lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI đến nay đã có nhiều đổi mới quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nề kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, thông thương với nước ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và trên thế giới trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế một cách có lợi nhất.
Hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển.
Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu để tăng thu nhập ngaọi tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tao cơ sở cho phát triển các cơ sở hạ tầng trong nước.
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty xuất nhập khẩu than và Hợp tác Quốc tế Coalimex tôi thấy hoạt động xuất khẩu than là hoạt động kinh doanh chính của Công ty. Việc nghiên cứu thực trạng của hoạt động này là hết sức cần thiết và quan trọng. Chính vì thế tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu than tại Công ty Coalimex” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu than của Công ty Coalimex trong thời gian tới.
Trong đề tài này tôi đi nghiên cứu vào 3 vấn đề chính sau:
Chương I: Thương mại Quốc tế và tổ chức kinh doanh hàng xuất nhập khẩu ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2001.
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu than.
Chương I
TMQT và tổ chức kinh doanh hàng XNK ở các doanh nghiệp trong nền KTTT
I. Thương mại quốc tế và sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế trong nền KTTT.
1. Khái niệm và sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế .
1.1 Khái niệm :
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia.
Trong điều kiện hiện nay, xét trên phạm vi quốc tế, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan của mọi quốc gia. Đương nhiên trong mọi thời đại , nước nghèo thường bị nước giàu chèn ép, song trong điều kiện nền kinh tế được quốc tế hoá, không chỉ nước nghèo mà cả nước giàu cũng không thể phát triển nếu tự tách mình hoặc bị cô lập khỏi thị trường kinh tế thế giới . Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng của trao đổi và lưu thông hàng hoá cũng như sự phát triển của phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế
Trao đổi và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn và hiện đại hơn từ trao đổi hàng hoá với nhau trong từng vùng , giữa các vùng tiến tới vượt ra khỏi lãnh thổ của một nước để trao đổi mua bán với các quốc gia khác hình thành lên thương mại quốc tế .
1.2 Sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế :
Thương mại quốc tế có vai trò quan trọng đối với các quốc gia vì lý do cơ bản là nó mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước . Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán. Thương mại với tính chất là trao đổi hàng hoá đã xuất hiện từ lâu ở phạm vi và mức độ khác nhau từ một vùng , giữa các vùng , giữa các quốc gia gần nhau về địa lý như: Lào , Việt Nam , Trung Quốc ... Ngày nay chúng ta thấy sự giao dịch thương mại đã phát triển trên toàn cầu do xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế .
Cơ sở của thương mại quốc tế là sự trao đổi và chuyên môn hoá dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh .
Sự khác nhau giữa các nước về nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố sản xuất khác nhau như lao động và trình độ kỹ thuật , công nghệ dẫn đến sự khác biệt về chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm . Chính vì vậy mà từ xa xưa các nước đã trao đổi buôn bán với nhau . Qua sự trao đổi đó họ có thể mua từ nước ngoài những hàng hoá có chất lượng tốt hơn và giá cả laị rẻ hơn chi phí để sản xuất hàng hoá đó trong nước . Đồng thời lại có thể bán hàng hoá khác ra nước ngoài với giá cả lớn hơn nhiều so với chi phí .
Tiền đề của sự trao đổi là phân công lao động xuất phát từ điều kiện tự nhiên,
Điều kiện sản xuất . Do khả năng , tiềm lực của mỗi nước không tự sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu của quốc gia đó được hoặc có đi chăng nữa thì với chi phí cực lớn . Vì vậy muốn thoả mãn nhu cầu họ đã phải trao đổi với các nước khác . Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hóa ngày một tăng , số sản phẩm dịch vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng dồi dào và có xu hướng quốc tế hoá đồng thời sự phụ thuộc giữa các nước ngày một tăng .
Thương mại quốc tế xuất hiện trên cơ sở của sự trao đổi và chuyên môn hoá nhưng nó lại dựa trên lý thuyết về lợi thế đó là lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ).
Theo lợi thế tuyệt đối thì mỗi quốc gia theo điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao đã sản xuất ra những sản phẩm hành hoá nhất định đối với chi phí thấp hơn so với các nước kia . Điều đó sẽ dẫn đến việc nước này sẽ chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá có chi phí thấp để xuâtài sản khẩu . Đồng thời lại nhập khẩu những mặt hàng mà nước đó không sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn .
Trên thực tế lợi thế tuyệt đối không giải thích được nhiều vấn đề chẳng hạn điều gì sẽ xảy ra nếu một quốc gia tỏ ra bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng . Một nước có trình độ phát triển kinh tế , khoa học còn thấp như nước ta tại sao vẫn tham gia thương mại quốc tế cùng với các nước phát triển mạnh như Anh , Mỹ , Đức , Hàn Quốc ...
Chìa khoá để trả lời cho câu hỏi này là lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo. Lý thuyết này giải thích tại sao khi một quốc gia không có được lợi thế ở bất kỳ mặt hàng nào cũng thu được lợi ích từ việc buôn bán với các nước khác.
Lý thuyết này được xây dựng trên một loạt các giả thiết đã được đơn giản hoá như chỉ có hai nước sản xuất hàng hoá, nhân tố sản xuất duy nhất là lao động có thể di chuyển tự do trong từng nước nhưng không di chuyển được giữa các nước: chi phí sản xuất không đổi, công nghệ không đổi, thương mại hoàn toàn tự do ...
Quy luật lợi thế so sánh phát biểu rằng nếu mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng của tất cả các mặt hàng sẽ tăng lên và tất cả các nứơc đó sẽ trở nên sung túc hơn. Trong trường hợp một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn một nước khác trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì vẫn tồn tại cơ sở dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi . Cụ thể quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối nhỏ hơn và nhập khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối lớn hơn.
Qui luật lợi thế so sánh là nguyên lí quan trọng của kinh tế học nhưng việc giải thích như Ricacđô còn hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận về giá trị lao động và cho rằng nó là yếu tố sản xuất duy nhất. Trong thực tế lại không phải như vậy mà nó còn phụ thuộc vào trình độ đào tạo, năng suất, tiền lương. Sau đó các nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết về cơ hội để giải thích được sự buôn bán giữa các quốc gia.
Theo lý thuyết này thì chi phí của một mặt hàng là số lượng mặt hàng khác phải giảm cắt để có thể sản xuất thêm một đơn vị mặt hàng thứ nhất.
Mỗi quốc gia được coi là có lợi thế so sánh vì mặt hàng nào đó nếu mất chi phí cơ hội để sản xuất mặt hàng này tại quốc gia đó thấp hơn chi phí cơ hội để sản xuất mặt hàng đó tại quốc gia khác. Lý thuyết này dùng để xem xét quá trình sản xuất trao đổi và tiêu dùng giữa các quốc gia.
Ngoài những cơ sở trên còn rất nhiều lý do khiến TMQT trở nên quan trọng như TMQT tối cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hó sâu để có được hiệu quả kinh tế cao trong ngành công nghiệp hiện đại.
Chuyên môn hoá qui mô lớn sẽ phát huy được hiệu quả kinh tế theo qui mô.
Ngày nay trong thể Quốc tế hoá đời sống kinh tế sâu rộng, khoa học kỹ thuật phát triển cao có thể chia các công đoạn của quá trình sản xuất thành các khâu khác nhau và bố trí ở những vị trí cách xa nhau thì không một nước nào có thể tách mình biệt lập với mối quan hệ cùng có lợi với bên ngoài.
Thương mại Quốc tế đã mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Ta biểu thị qua biểu đồ dưới đây:
X
a
+
X2
X1
X1
Y2
Y1
t
E
Y
a. Khi sản xuất cố định:
Giả sử đường EF là đường giới hạn khả năng sản xuất cũng là đường giới hạn khả năng tiêu dùng của nền kinh tế.
Nếu không có thương mại Quốc tế thì khối lượng sản xuất hay khối lượng tiêu dùng chính là EF.
Giả sử nền kinh tế đang ở mức tiêu dùng tại điểm a nghĩa là sản xuất và tiêu dùng Y, mặt hàng Y và x1 mặt hàng x.
Khi có thương mại Quốc tế thì khả năngtd bây giờ sẽ là đường H đi qua a. Qua xuất nhập khẩu ta sẽ giảm đi một lượng hàng Y để đổi lấy một lượng hàng khác X nên kinh tế sẽ đạt mức tiêu dùng tại điểm b thuộc tt tương ứng với mức tiêu dùng là Y2 hàng hoá Y và x2 hàng hoá X.
Như vậy ta đã xuất khẩu một lượng hàng là DY hàng hoá Y (DY = Y1 - Y2) để đổi lấy một lượng là DX hàng hoá X (DX = X1 - X2)
Rõ ràng nếu không có xuất nhập khẩu thì theo đường giới hạn tiêu dùng nếu ta tiêu dùng ẵ hàng hoá Y thì sẽ tiêu dùng được X’2 hàng hoá X mà X’2 < X2
Do đó khi sản xuất cố định, ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng
b. Khi sản xuất thay đổi:
Đường giới hạn khả năng sản xuất hay giới hạn khả năng tiêu dùng là EF. Nhưng do có thể thay đổi được các yếu tố sản xuất ta có thể dịch chuyển điểm a đến d bằng cách chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng Y.
Đường biểu diễn khả năng tiêu dùng bây giờ khi có xuất khẩu sẽ dịch chuyển từ H đến t’t’. Điều này cho phép tiêu dùng nhiều hơn cả hai loại sản phẩm do việc chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng Y và qua giao dịch xuấ nhập khẩu đổi lấy mặt hàng X
t’
X
a
t
X2
X1
X1
Y2
Y1
t
t’
E
Như vậy: ngoại trừ điểm d.
- Nếu không có xuất nhập khẩu thì khả năng tiêu dùng luôn thuộc đường giới hạn khả năng sản xuất ở bất cứ điểm nào.
- Nếu có xuất nhập khẩu thì đường giới hạn tiêu dùng thay đổi làm cho khả năng tiêu dùng tăng lên.
Đặc biệt khi có thể thay đổi được điều kiện sản xuất thì một nước sẽ chuyên môn hoá mặt hàng mà nước đó có ưu thế (Y) để xuất khẩu và nhập khẩu mặt hàng X, nó sẽ cho phép tăng khả năng tiêu dùng của cả hai loại hàng hoá. Đó chính là lợi ích của thương mại Quốc tế. Nó đã giải thích về cơ sỏ kinh tế của việc trao đổi hàng hoá giữa các nước. Từ đó càng thấy rõ thương mại Quốc tế tồn tại khác quan và đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia tham gia trao đổi.
Nhận thức rõ điều này Đảng ta đã coi thương mại Quốc tế mà đặc biệt là xuất khẩu là công cụ để thực hiện công cuộc xây dựng đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Tác dụng của thương mại Quốc tế đối với đất nước và doanh nghiệp.
2.1 Đối với đất nước.
Tác dụng của thương mại Quốc tế chính là việc khắc phục những tồn tại của một nền kinh tế đóng cửa mà trong điều kiện Quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng cao sự phân công lao động Quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham dự tích cực hơn vào quá trình liên kết và hợp tác Quốc tế, nó không còn phù hợp. Những tồn tại đó là:
- Chính sách đóng cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, không có nguồn bổ xung kỹ thuật tiên tiến trong khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành một nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất.
- Hầu hết các nước nghèo nàn, lạc hậu đang phát triển đều thiếu vốn . Trong khi đó quá trình phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải nhập khẩu một khói lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp. Nếu không phát triển mạnh thương mại Quốc tế thiếu hụt trong cán cân thanh toán Quốc tế ngày càng lớn và găy gắt.
- Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ đảm bảo cho sự phát triển công nghiệp với qui mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm được viêc làm, một vấn đề mà các nước nghèo luôn cần giải quyết.
Vì vậy thương mại Quốc tế ra đời là một tất yếu khách quan khắc phục những tồn tại trên để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật của từng quốc gia với xu thế chung của toàn thế giới. Đó là:
Tạo vốn nước ngoài cần thiết để nhập khẩu vật tư thiết bị kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá XHCN thông qua hoạt động xuất nhập khẩu cũng như việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đã phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Kinh doanh thương mại Quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Nhà nước.
Việc xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến cạnh tranh theo dõi kiểm soát chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia sản xuất do đó chủ thể của nền kinh tế được nâng cao, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được thường xuyên và có ý thức.
Xuất nhập khẩu tiến tới xoá bỏ nhanh chóng những chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được, đồng thời góp phần quản lý cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước và mỗi địa phương thông qua các đòi hỏi hợp lý cuả các chủ thể tham gia xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện.
Kinh doanh thương mại Quốc tế trong giai đoạn hiện nay như Đảng ta nhận định là đặc biệt quan trọng góp phần tích cực nhất vào việc thẵng lợi của đường lối đổi mới và xây dựng kinh tế ở nước ta.
2.2 Đối với doanh nghiệp:
Xuất nhập khẩu là một bộ phận quan trọng của thương mại Quốc tế, nó tác động đến doanh nghiệp trên các mặt sau:
- Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội bởi vì xuất nhập khẩu dễ dàng thu được hiệu quả lớn. Khả năng phát hiện chính xác các mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả cao sẽ có ý nghĩa lớn vì nó đồng thời đuực nhiều cá nhân và tổ chức thực hiện, các luồng thông tin được khai thông các mối quan hệ được sử dụng tích cực.
- Xuất nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần còn dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngời nước một cách tự giác nhằm tạo sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực.
- Nó dẫn tới sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nước.
- Phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô đó là: nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ cũng như việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào làm cho năng suất cao, chất lượng tốt dẫn đến việc giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả công tác xuất nhập khẩu.
Bên cạnh đó xuất nhập khẩu trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường còn có những tồn tại cần khắc phục như tình trạng rối ren trong buôn bán do cạnh tranh. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Đồng thời cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể bằng các biện pháp xấu như phá hoại công việc của nhau. Trong cơ chế thị trường xuất nhập khẩu có thể dẫn tới các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội, tư tưởng như buôn lâu, trốn thuế, tha hoá cán bộ ...
3. Đặc trưng của thương mại Quốc tế.
3.1 Sự khác nhau giữa thương mại Quốc tế với buôn bán trong nước:
Giao dịch thương mại Quốc tế là sự mở rộng của giao dịch buôn bán trong nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xu hướng quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển. Trong hệ thống kinh tế thế giới thì mỗi quốc gia có vai trò như một mắt xích, các mắt xích này liên kết chặt chẽ với nhau.
Xét về mặt giao dịch thì thương mại Quốc tế và buôn bán trong nước có những điểm giống nhau chẳng hạn như bước chào hàng, bước thoả thuận về điề kiện mua bán. Bên cạnh đó có những mặt khác với buôn bán trong nước, đó là
- Do điều kiện không gian nên thời gian giao dịch thường là lâu hơn so với thời gian giao dịch mua bán trong nước.
- Hợp đồng thương mại Quốc tế là hợp đồng mang tính chất thông lệ Quốc tế vì đó là sự giao dịch ký kết giữa các quốc gia có hệ thống pháp luật không gióng nhau.
- Ngôn ngữ của hợp đồng phải là ngôn ngữ mà cả hai bên cùng hiểu và nhất trí để dễ dàng đàm phán ký kết. Nó có thể là ngon ngữ của một trong hai nước nhưng cũng có thể là ngôn ngữ của một nước thứ ba. Thông thường người ta hay chọn tiếng Anh vì tính phổ thông của nó trên thế giới.
3.2 Phương thức giao dịch phức tạp hơn so với buôn bán trong nước.
- Thời gian vận chuyển dài hơn so với buôn bán trong nước do khoảng cách giữa các nước.
- Điều kiện bảo quản phức tạp bởi lẽ điều kiện thời tiết khí hậu khác nhau qua các quốc gia, đồng thời hàng hoá lại phải qua một thời gian vận chuyển dài. Do vậy hay xẩy ra các khiếu nại, tranh chấp đối với việc hàng hoá không đảm bảo chất lượng.
- Phương thức vận tải phức tạp: vì là vận tải Quốc tế nên vấn đề chọn phuơng thức vận tải, chọn hàng vận tải cũng không đơn giản. Trong trường hợp chưa đủ trình đọ đàm phán ký kết hợp đồng vận chuyển thì không nên trực tiếp đàm phán ký kết mà nên thông qua trung gian là các đại lý. Đồng thời trong quá trình vận tải còn gặp các khó khăn đó là hệ thống vận đơn không thống nhất. Bên cạnh đó là vấn đề bảo hiểm: lựa chọn loại nào, hàng nào, điều kiện nào ... rất phức tạp.
3.3 Thanh toán và giải quyết tranh chấp:
- Trong thương mại Quốc tế thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định phần lớn sự thành bại của quá trình giao dịch. Nhưng đồng thời nó cũng là vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi trình độ và nghiệp vụ cao, bởi vì: phải lựa chọn đồng tiền thanh toán như thế nào cho có lợi nhất: ngân hàng nào được lựa chọn cũng như phương thức thanh toán như thế nào cho có lợi ..
- Do tính chất phức tạp của thương mại Quốc tế mà thường có xẩy ra các tranh chấp. Trong trường hợp có tranh chấp thì các bên phải chủ động thoả thuận với nhau về cách giải quyết trên cơ sở của thiện chí và cùng có lợi. Nếu không tự thoả thuận được thì sẽ đưa trọng tài thương mại Quốc tế. Điều này bất lợi vì phải chịu chi phí lớn và giảm uy tín của nhau.
3.4 Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia ảnh hưởng rất lớn tới chính sách thương mại, cụ thể:
- Chính sách đầu tư và khuyến khích xuất nhập khẩu các loại hàng hoá dịch vụ của mỗi quốc gia.
- Tỷ giá hối đoái từ phía các quốc gia có đồng tiền mạnh và đồng tiền có khả năng chuyển đổi hoàn toàn.
-Tổ chức ngoại thương của các quốc gia được phép kinh doanh xuất nhập khẩu đa dạng làm ảnh hưởng đến các ảnh hưởng đến các hình thức và phương pháp kinh doanh.
3.5 xu hướng phát triển kinh doanh thương mại trực tiếp:
Trước đây xuất nhập khẩu là công tác riêng của các Công ty xuất nhập khẩu. Ngày nay trong điều kiện kinh tế mở nó không chỉ là công việc của riêng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nữa mà các doanh nghiệp sản xuất cũng tham gia tích cực vào lĩnh vực này là vì những lý do sau: các Công ty buôn bán không theo kịp về sự cấu tạo sản phẩm, tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép sản phẩm có cấu tạo thường xuyên thay đổi và theo xu hướng ngày càng gọn và tinh vi hơn, số lượng nhiều do vậy các nhà thương mại thuần tuý không theo kịp.
- Ngày nay dịch vụ đã trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng thì càng đòi hỏi phải có sự tham gia trực tiếp của các nhà sản xuất vào thương mại Quốc tế.
- Do khuynh hướng đào tạo, các nhà xuất nhập khẩu trước đây không được đào tạo dẫn đến không am hiểu về kỹ thuật đặc biệt kỹ thuật bảo hành đối với các hàng hoá gọn nhẹ đòi hỏi kỹ thuật cao. Bên cạnh đó thì các nhà sản xuất ngày nay lại am hiểu và có nghiệp vụ kinh doanh thương mại Quốc tế như trình độ ngoại ngữ, trình độ đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng sao cho có hiệu quả ....
II. Những nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu là một quá trình kinh doanh bao gồm nhiều công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn lại bao gồm nhiều hoạt động mang những đặc điểm riêng được tiến hành theo những cách thức nhất định. Hoạt động xuất khẩu mang tính phức tạp hơn hoạt động thương mại trong nước bởi nhiều lẽ như: bạn hàng ở cách xa nhau, bất đông ngôn ngữ, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống pháp luật, phong tục tập quán, thói quen tâm lý khác nhau, hệ thống tài chính khác nhau ... Do đó trước khi vào giao dịch đơn vị kinh doanh cần chuẩn bị chu đáo.
A. Nghiên cứu tiếp cận thị trường và xác định mặt hàng xuất khẩu:
Có thể khẳng định rằng thị trường là yếu tố sống còn của bất cứ quá trình kinh doanh nào. Thị trường là yếu tố vận động không ngừng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chỉ ra phương thức hoạt động của nó như thế nào.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá có hệ thống và tỉ mỷ để xử lý các vấn đề Marketing với mục đích tìm ra những điều cần thiết, thích hợp để tìm ra thị trường cho các loại hàng hoá, dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian và nguồn tài lực hạn chế.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu có nhứng đặc thù và khó khăn:
- Đó là một lĩnh vực rất rộng, cần có được mọi hiểu biết phong phú và đa dạng trong những lĩnh vực mà không phải bao giờ cũng được chuẩn bị sẵn. Nó có thể được miêu tả qua sơ đồ sau:
Nhu cầu
Người chỉ dẫn
Người phân phối
Cạnh tranh nội địa và nước ngoài
Cung cấp
Môi trường
kinh tế
Môi trường
văn hoá - xã hội
Môi trường
công nghệ
Môi trường
pháp lý
- Những khó khăn về kỹ thuật thu thập thông tin. Các bí quyết kỹ thuật nghiên cứu thương mại trên thị trường nội địa lại thường khó vận dụng do những đặc trưng riêng của thị trường nước ngoài.
Sự thiếu thông tin thống kê đủ tin cậy cũng gây khó khăn cho việc nghiên cứu thăm dò và không thể xây dựng một mẫu đại diện cho tổng thể cần nghiên cứu.
Tại hiện trường, việc thu nhập thông tin cũng gặp khó khăn rất lớn. Trước hết đó là vấn đề hạn chế theo luật pháp, đặc biệt là một số nước Trung Phi và Nam Mỹ, việc nghiên cứu thị trường chỉ có thể được tiến hành sau khi chính quyên địa phương cho phép.
Việc nghiên cứu thị trường phải được tiến hành dựa trên một số phương pháp nhất định, chứ không phải chỉ đơn thuần dựa vào cảm tính.
- Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng:
Nghiên cứu tại văn phòng cơ bản là thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu có xuất bản hoặc không xuất bản. Theo phương pháp này cần có đội ngũ chuyên gia có khả năng phân tích, phải sử dụng các công cụ tiên tiến.
Nguồn tư liệu để phục vụ có thể lấy từ các nguồn sau:
+ Nguồn tài liệu có xuất bản từ các tổ chức, các cơ quan chẳng hạn như thông tin thị trường của các phòng thương mại, văn phòng chính phủ ....
- Phương pháp nghiên cứu tại chỗ
Nghiên cứu tại chỗ là việc thu nhập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với khách hàng, người kinh doanh trên thị trường
Việc nghiên cứu tại chỗ thường thu thập được nhứng thông tin không mang tính hệ thống đòi hỏi người nghiên cứu phải thống kê, phân tích để tìm ra quy luật của thị trường
Thành công của việc nghiên cứu hiện trường ở nước ngoài đòi hỏi phải thoả mãn được rất nhiều điều kiện
- Tiếp cận nguồn thông tin
- Thích ứng được các kỹ thuật thu thập dữ liệu
- Hiểu được khung cảnh chính trị, luật pháp, xã hội, văn hoá, thị trường
- Thích ứng được việc nghiên cứu với nhu cầu và với các hạn chế của doanh nghiệp
Việc tiến hành nghiên cứu tại hiện trường có thể trong cậy theo hai hướng
- Nhân viên của doanh nghiệp, bằng cách tổ chức một êkíp tạm thời để nghiên cứu thị trường
- Dựa vào các công ty bên ngoài theo hướng sử dụng dịch vụ nghiên cứu thị trường
- Dựa vào các công ty bên ngoài theo hướng sử dụng dịch vụ nghiên cứu thị trường
Để hoạt động hữu hiệu trên thị trường nước ngoài cần phải mô tả một cách chính sác tối đa những nguyên tắc hoạt động của n. Việc nghiên cứu này bao gồm những nội dung cơ bản sau
1. Nghiên cứu môi trường;
Loại nghiên cứu này đã được đề cập ở trên khi ta xét mức độ rộng rãi và đa dạng của lĩnh vực áp dụng của nó. Mặt khác đó cũng là khó khăn đầu tiên trong việc xác định những điểm nhậy cảm, đặc thù nhất của môi trường để định hướng trước tiên việc tìm hiểu thông tin.
1.1 Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến việc kinh doanh thường được biểu thị bằng các chỉ tiêu như thu nhập quốc dân, tốc độ tăng trưởng ... trên phạm vi rộng qui mô phát triển kinh tế của một thị trường tác độngtới đuờng hướng kinh doanh và những biện pháp kinh doanh khả thi ở một nước.
Từ những năm 50 hình thành những liên kết kinh tế mang tính hệ thống khu vực. Hệ thống này tác động đến mọi hình thức của hoạt động buôn bán Quốc tế. đặc biệt là xuất khẩu.
1.2. Môi trường văn hoá - xã hội.
Môi trường văn hoá xã hội ảnh hưởng đến thái độ của khách hàng - yếu tố hợp thành của thị trường.
Sự hiểu biết về văn hoá, trình độ nhận thức, quyết định sự thắng lợi Marketing xuất khẩu. Vậy bản sắc văn hoá là gì ? Một số quan điểm cho rằng văn hoá là sản phẩm của con người, nó được nhận thức và truyền rộng từ người này sang người khác. Văn hoá được những thành viên của xã hội sáng tạo ra, những nét cư xử của họ, tất cả biểu lộ trong những thể chế của một xã hội và thành bản sắc văn hoá dân tộc.
1.3. Môi trường chính trị, luật pháp.
Khi nghiên cứu môi trường chính trị - luật pháp cần phải nghiên cứu vai trò của chính phủ. Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế như thế nào : xúc tiến, cạnh tranh hay ngăn cản xuất khẩu.
Kiểm soát của chính phủ cũng có vai trò vô cùng quan trọng như là những đòi hỏi bắt buộc về giấy phép, thuế quan xuất khẩu, hạn ngạch, thuế phụ thu, điều tiết về hối đoái. ...
Kiểm soát của chính phủ cũng có vai trò vô cùng quan trọng như là những đòi hỏi bắt buộc về giấy phép, thuế quan xuất khẩu, hạn ngạch, thuế phụ thu, điều tiết về hối đoái ...
1.4. Môi trường công nghệ.
Công nghệ có vai trò quan trọng trong đời sống, nghiên cứu môi trường công nghệ tức là phân tích các ảnh hưởng khi các tiến bộ khoa học được áp dụng trong sản xuất kinh doanh. Tiến bộ của công nghệ có ảnh hưởng tốt hoặc ngược lại là một rủi ro đặc biệt đối với tốc độ lỗi thời của sản phẩm.
2. Nghiên cứu nhu cầu :
Quá trình thể hiện nhu cầu của thị trường đang được chú ý đặc biệt trong Marketing quốc tế. Trong trường hợp hàng hoá là trang thiết bị côg nghiệp thì thành phần của chúng mua sắm và vai trò đặc biệt của các tác nhân này có thể dao động rất nhiều từ nước này qua nước khác. Tất cả các nhà công nghiệp khi tiếp cận thị trường Trung Quốc chẳng hạn đều nhanh chóng nhận sự phức tạp của vấn đề : những người phụ trách ngành hoặc địa phương đều có vai trò rất xác định song theo một cách thức rất bí ẩn và khó hiểu đối với người nước ngoài. Hành vi của những người ra quyết định ở địa phương có thể làm nhà xuất khẩu lạc hướng. ở Nhật các quyết định trong doanh nghiệp thường được thông qua rất chậm vì phải chờ đợi ý kiến ưng thuận. Song một sự chín muồi rất chậm trước khi ra quyết định là bù lại bằng việc thực hiện rất nhanh chóng. Lời nói đưa ra và những cam kết bằng văn bản cũng không có cùng mức độ bắt buộc như nhau ở mọi nước Tôn giáo phổ biến, cách thức tổ chức xã hội, hình ảnh mà một người được đánh giá trong con mát của những người khác sẽ dẫn đến tập tính khác nhau. Một nhà xuất khẩu non nớt sẽ có xu hướng nhận xét những điều đó là nghịch lý hoặc thiếu logic khi gặp một đất nước với những tập quán và logic khác thói quen của người đó. Việc học được “Ngôn ngữ im lặng” trong qua lại công việc tất nhiên là rất quan trọng và khó khăn. Kết quả của việc nghiên cứu thị trường sẽ định hướng cho việc phát hiện các mục tiêu để không bị lạc hướng.
Nhu cầu là một nhân tố chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các yếu tố môi trường kinh tế, môi trường văn hoá - xã hội, môi trường chính trị - luật pháp, môi trường công nghệ. Sau khi nghiên cứu thị trường, chúng ta có thể ước lượng doanh số dự kiến và lợi nhuận có thể thu được theo mô hình sau :
Dữ liệu cần thiết
Dữ liệu kinh tế vĩ mô
(dân số, sức mua ,...
hoạt động công nghiệp )
Giá bán dự kiến
Ước lượng doanh số tiềm năng
Giá cạnh tranh
Phản ứng của nhu cầu nội địa với giá cả
Dự báo tổng lượng bán có thể đạt được
Ước lượng vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của nó
Thông tin chung về cạnh tranh nôi địa và nước ngo._.ài
Tổng nhu cầu thị trường
Nghiên cứu
Ta có thể áp dụng một số kỹ thuật ước lượng qui mô thị trường xuất khẩu.
- Phân tích mẫu cầu.
- Độ co dãn thu nhập.
- Phương pháp phân tích ngoại suy.
- Dự đoán tương tự.
- Các các chỉ đa nhân tố
- Phương pháp phân tích hồi qui.
- Phương pháp phân tích nhóm
3. Nghiên cứu về cạnh tranh.
thị trường mục tiêu nước ngoài hiếm khi là một không gian tinh khiết cho mọi sự hiện diện thương mại. Các doanh nghiệp luôn gạp phải sự cạnh tranh gay gắt :
- Ai có thể là đối thủ cạnh tranh ? Việc xác định các đối thủ cạnh tranh hữu hiệu hay tiềm năng có vẻ là đơn giản. Song một mặt nó cho phép tránh những tình huống khó chịu, chẳng hạn trong việc đặt hàng, phải từ chối một doanh nghiệp sau khi biết tên của nó, và mặt khác nó thông tin cho doanh nghiệp về danh tính chính xác của các đối thủ cạnh tranh khác về những mối liên hệ pháp lý, tài chính hoặc thương mại mà các đối thủ này có thể thiết lập với các doanh nghiệp quan trọng hơn và nổi tiếng hơn.
- Cơ cấu cạnh tranh như thế nào ? Số lượng các đối thủ cạnh tranh và sự tham gia của họ vào thị trường tương ứng sẽ cho ta hình ảnh rõ ràng khá thú vị về cơ cấu cạnh tranh hiện tại. Một tình trạng độc quyền, một cách tổ chức ít độc quyền hay một sự cạnh tranh hoàn toàn mở có thể sinh ra bầu không khí kinh doanh rất khác nhau.
- Cạnh tranh như thế nào ? Từ nước ngày sang nước khác, cùng một sản phẩm hay dịch vụ không đảm bảo là được đánh giá tốt như nhau. Vì vậy, cần kiểm tra sản phẩm cho phép có lợi thế cạnh tranh hơn. Tất nhiên là có cạnh tranh về giá song cũng còn có cạnh tranh về độ tin cậy, sự đổi mới công nghệ hay sản phẩm mới, dịch vụ sau bán hàng, khuyếch trương và quảng cáo.
4. Nghiên cứu về giá cả hàng hoá.
Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là vấn đề quan trọng đối với bất cứ đơn vị kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp bắt đầu tham gia vào kinh doanh chưa đủ mạng lưới nghiên cứu và cung cấp thông tin.
- Giá quốc tế : Có tính chất đại diện đối với một loạt hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Đó phải là giá của các giao dịch thương mại thông thường kèm theo một điều kiện đặc biệt nào mà có thể thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được.
Trong thực tế thì nó có thể là giá cả của nước xuất hay nhập khẩu chủ yếu đối với hàng không có trung tâm giao dịch truyền thống, là giá cả tham khảo ở các trung tâm giao dịch đối với hàng hoá thuộc đối tượng buôn bán của trung tâm : là giá cả của hãng sản xuất chủ yếu đối với loại hàng là máy móc thiết bị.
- Xu hướng biến động giá trên thị trường quốc tế rất ophức tạp và chịu chi phối của các nhân tố sau :
+ Nhân tố chu kỳ, tức là sự vận động có tính chất qui luật như là tình hình kinh tế của các nước phương Tây.
+ Nhân tố lũng đoạn giá cả.
+ Nhân tố cạnh tranh.
+ Nhân tố lạm phát.
5. Xu hướng phát triển của thị trường.
Trong hoạt động xuất khẩu của bất cứ một doanh nghiệp nào thì không thể chỉ biết đến thị trường xuất khẩu hiện tại mà luôn luôn phải tím kiếm bạn hàng mới và cố gắng duy trì những bạn hàng đang có. Thị trường thế giới luôn biến động tuỳ tình hình kinh tế của mỗi quốc gia. Do vậy trong chiến lược phát triển của mình quốc gia nào cũng phải quan tâm rất nhiều đến xu thế để phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu. Sự tìm kiếm và cạnh tranh của các hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới giữa các công ty nhằm mở rộng của mình trở nên khá gay gắt.
Chính vì thế khi nghiên cứu thị trường để xuất khẩu các nhà kinh doanh xuất khẩu không thể bỏ qua sự nghiên cứu xu hướng phát triển của thị trường.
B. Tìm kiếm đối tác trong kinh doanh.
1. Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu :
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá và dịch vụ của một công ty hoặc của một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được.
Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản suất kinh doanh đến các nghiệp vụ nghiên cưú thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu.
- Loại những hoạt động sản suất và tiếp tục quá trình sản suất hàng hoá cho xuất khẩu. Tuy nhiên tuỳ theo doanh nghiệp mà có hay không có loại hình này. Đối với doanh nghiệp sản suất hàng hoá xuất khẩu thì hoạt động này là cơ bản và quan trọng.
- Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu. Những nghiệp vụ này thường là của tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian cho sản suất hàng hoá.
Ngày nay rất nhiều doanh nghiệp sản suất làm công tác xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài thông qua các tổ chức trung gian. Do vậy công tác tạo nguồn họ phải làm tất cả các khâu, công việc đã nêu ở trên.
Như vậy để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản suất, có thể thu gom hoặc ký kết các hợp đồng thu mua với các chân hàng, với các đơn vị sản suất. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành hàng mà người ta có thể tự tổ chức sản suất hoặc ký hợp đồng thu mua kết hợp với hướng dẫn kỹ thuật. Với xu hướng giảm xuất khẩu sản phẩm thô, nhiều doanh nghiệp sản suất hoặc ngoại thương của chúng ta đã tổ chức thêm bộ phận sơ chế hoặc chế biến nhằm tăng giá trị hàng xuất khẩu.
1.1. Phân loại nguồn hàng xuất khẩu :
Việc phân loại có thể dựa vào ba tiêu thức
- Phân loại có thể dựa vào ba tiêu thức :
+ Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước
+ Nguồn hàng ngoài kế hoạch Nhà nước.
- Phân loại theo đơn vị giao thông : Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu có thể thu mua huy động :
+ Từ xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương.
+ Từ các xí nghiệp nông lâm ngư nghiệp.
+ Từ các cơ sở sản suất tiểu thủ công nghiệp.
+ Từ hợp tác xã, tư nhân, gia đình.
+ Từ các xí nghiệp sản suất của thương nghiệp.
+ Từ các xí nghiệp trực tiếp thuộc cơ quan mình.
- Phân loại theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu gồm:
+ Nguồn hàng trong địa phương là nguồn hàng nằm trong khu vực hoạt động của đơn vị kinh doanh đó.
+ nguồn hàng ngoài địa phương là nguồn hàng không thuộcp hạm vi phâncông cho đơn vị đó thu mua, nhưng đơn vị đã tranh thủ lập được quan hệ cung ứng hàng xuất khẩu.
1.2. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu
Thông qua việc nghiên cứu nguồn hàng ta có thể nắm bắt được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của đơn vị trung và ngoài ngành, trong địa phương và ngoài địa phương, quốc doanh và tư nhân để khai thác huy động cho xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng còn tạo cơ sở chắc chắn cho việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng.
+ Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu : Theo phương pháp này người ta nghiên cứu tình hình sản suất và tiêu thụ của từng mặt hàng và thường làm phiếu theo dõi đối với từng mặt hàng. Dùng phương pháp này có thể biết được tình hình chung về khả năng sản suất và nhu cầu xuất khẩu của từng mặt hàng.
+ Lấy cơ sở làm đơn vị nghiên cứu : Theo phương pháp này người ta nghiên cứu từng cơ sở sản suất. Năng lực này thể hiện thông qua cácchỉ tiêu : số lượng và chất lượng hàng cung cấp hàng năm, giá thành , tình trạng trang thiết bị, công nhân ... Phương pháp này giúp ta nắm được tình hình của từng xí nghiệp địa phương nhưng lại không nắm được sản suất hoặc tiêu thụ từng mặt hàng.
Do vậy trong thực tế các đơn vị sản suất kinh doanh hàng xuất khẩu thường sử dụng cả hai phương pháp để bổ xung lẫn nhau.
2. Tìm kiếm bạn hàng.
2.1. Chuẩn bị cho giao dịch tìm bạn hàng :
Sau khi nghiên cứu, phân tích tỷ mỷ thị trường xuất khẩu để chuẩn bị cho công tác giao dịch. Chúng ta phải nhận biết đầy đủ các tính chất của hàng hoá - đối tượng của giao dịch - từ đó có cách thức hợp lý lựa chọn khách hàng.
2.2. Lựa chọn đối tượng để giao dịch.
Việc nghiên cứu thị trường giúp cho doanh nghiệp lựa chọn thị trường, tìm hiểu thời cơ, lựa chọn phương thức mua bán thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp kết quả kinh doanh tuỳ thuộc vào khách hàng. Trong cùng điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì không. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh phải lựa chọn đối tượng giao dịch.
Việc lựa chọn khách hàng để giao dịch cần phải căn cứ vào các điều kiện sau :
- Tình hình kinh doanh.
- Khả năng vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Quan điểm kinh doanh.
- Uy tín, quan hệ.
- Thái độ chính trị.
3. Lên phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quảnghiên cứu thị trường, đơn vị lập một phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hành động của đơn vị nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau :
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân. Trong bước này người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích lợi nhuận và khó khăn trong kinh doanh.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan.
- Đề ra mục tiêu : Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như : sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá cả bao nhiêu sẽ thâm nhập vào những thị trường nào ?
- Đề ra biện pháp thực hiện, những biện pháp này là công cụ để đạt được mục tiêu đề ra, những biện pháp này có thể là :
+ Biện pháp trong nước : như đầu tư vào sản suất trong nước, cải tiến bao bì ký kết hợp đồng kinh tế...
+ Các biện pháp ở nước ngoài : đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài mở rộng mạng lưới đại lý.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh. Hiệu quả kinh tế của một hoạt động kinh doanh được đánh giá bằng các chỉ tiêu :
+ Tỷ suất ngoại tệ.
+ Thời gian hoà vốn.
+ Tỷ suất doanh lợi.
+ Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
4. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế.
Trước khi tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau. Người xuất khẩu và người nhập khẩu thường phải trải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với các điều kiện giao dịch . trong giao dịch xuất khẩu có những bước sau:
4.1 Chào hàng :(offer) là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý chí của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Trong chào hàng người ta nêu rõ : tên hàng, qui cách phẩm chất , số lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, thời hạn thanh toán bao bì kí mã hiệu.
Chào hàng có hai loại
+Chào hàng ổn định : là việc chào bán một lô hàng cho một người mua nào đó nêu rõ thời gian mà người chào hàng chịu trách nhiệm vào lời đề nghị của mình.
+Chào hàng tự do : là loại chào hàng không chịu ràng buộc trách nhiệm . Việc chào hàng tự do cần phải làm rõ khi chào hàng , thường ghi bằng cách chào hàng cam kết .
4.2 Hoàn giá : (counter - offer ) khi người nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới thì lời đề nghị mới này gọi là hoàn giá. Mỗi lần giao dịch thương qua nhiều lần hoàn giá.
4.3. Chấp nhận (cceptance) là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp thuận muốn có hiệu lực về mặt pháp luật cần đảm bảo các điều kiện sau :
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận.
- Phải đồng ý hoàn toàn về điều kiện mọi nội dung của chào hàng (đặt hàng).
- Phải chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của chào hàng.
- Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị.
4.4. Xác nhận (confimation).
Hai bên mua và bán đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch có khi cẩn thận ghi lại mọi điều kiện đã thoả thuận giữ cho đối phương. Đó là văn kiện xác nhận, thường được lập thành 02 bản.
4.5. Ký kết hợp đồng xuất khẩu :
Việc giao dịch đàm phán có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. ở Việt nam hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản, có thể được thành lập bằng nhiều cách :
Hợp đồng gồm 1 văn bản trong đó ghi rõ nội dung mua bán, mọi điều kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký của 2 bên.
Hợp đồng gồm nhiều văn bản, như điện báo, thư từ giao dịch. Chẳng hạn hợp đồng 2 văn bản như : Đơn chào hàng cố định của người bán và chấp nhận của người mua hoặc đơn đặt hàng của người mua và chấp nhận của người bán.
Một hợp đồng cần phải có đầy đủ các điều kiện để tránh sự tranh chấp giữa hai bên. Khi ký kết cần lưu ý các điểm sau :
- Cơ sự thoả thuận thống nhất các điều khoản cần thiết trước khi ký kết.
- Trước khi ký kết phải xem lại thật kỹ các điều khoản.
- Cần trình bày sáng sủa, tránh tình trạng có thể suy luận nhiều cách.
- Các điều khoản của hợp đồng phải xuất phát từ đặc điểm hàng hoá.
- Người đứng ký hợp đồng phải có thẩm quyền.
- Ngôn ngữ xây dựng hợp đồng phải là thứ ngôn ngữ cả hai bên cùng thông thạo.
5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Việc tổ chức hợp đồng xuất khẩu vật tư hàng hoá thường được tiến hành theo các bước sau :
5.1. Xin giấy phép xuất khẩu .
Việc xin giấy phép là tiền đề về mặt pháp lý để thực hiện các khâu sau này:
Hồ sơ bao gồm :
- Đơn xin phép.
- Phiếu hạn ngạch.
- Bản sao hợp đồng đã ký với người nướic ngoài trong phạm vi nghị định thư thì không phải xin phép.
5.2. Mở L/C.
Kiểm tra xem L/C có đúng nội dung hợp đồng đã ký không.
- Thu gom hàng lại, hoặc hàng đơn vị tự sản suất thì căn cứ theo đúng hợp đồng về số lượng, bao bì đóng gói, ký mã hiệu.
- Bao bì phải hợp với hàng hoá vật tư, bảo đảm chuyên chở đến đích, có tính đến điều kiện khí hậu, phương tiện vận chuyển hoặc chuyển tải dọc đường(nếu chở bằng máy bay bao bì phải nhẹ, không dễ cháy, an toàn cao).
- Ký mã hiệu phải ghi rõ ràng, viết bằng mục không dễ phai, ghi đúng địa chỉ, ghi đủ và lưu ý ghi cả ký hiệu ần thiết như hàng "tránh ẩm", "tránh lạnh", "tránh mặt trời", "dễ vỡ" ...
5.3. Kiểm tra hàng hoá.
- Cấp cơ sở : Do KCS làm. Đối với động vật ,thực vật phải qua các trạm kiểm định cơ sở.
- Kiểm tra cửa khẩu. Bước này do chi nhánh hoặc các trung tâm thuộc cơ quan trung ương tiến hành.
Thông thường chậm nhất 7 ngày trước khi bốc hàng lên tàu, chủ hàng xuất khẩu phải khai báo cho các cơ quan liên quan, sắp xếp hàng hoá thuận tiện và trung thực để kiểm tra.
Trong trường hợp bán CIF hoặc mua FOB phải thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu :
+ Đối với hàng khối lượng ít không cồng kềnh thì thường thuê tàu chợ để chở gồm 4 bước sau :
Chủ hàng điện để đăng ký thuê tàu.
Hãng tàu xác nhận đồng ý.
Khi bốc hàng lên tàu lấy vận đơn (B/L).
Thanh toán cước phí.
+ Hàng có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến (như chở than, quặng, ngũ cốc ...) gồm 6 bước.
Người chủ hàng xuất khẩu phải nghiên cứu thị trường thuê tàu.
Chủ tàu phát giá cước.
Hai bên hoàn giá, (mặc cả).
Ký hợp đồng thuê tàu.
Sau khi tàu đến đúng thời gian thì bốc hàng lên tàu và lấy vận đơn.
Thanh toán tiền cước (tiền thưởng, bốc dỡ, nếu có )
5.4 Mua bảo hiểm :( Nếu bán CIF hoặc mua FOB)
Điều kiện mua bảo hiểm do người mua và bán yêu cầu hoặc khi nhập khẩu trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hàng hoá và tiền phí bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm cần phải cân nhắc nên mua loại bảo hiểm nào dựa trên các điểm sau :
- Tính chất hàng hoá .
- Tình trạng bao bì
- Vị trí xếp hàng lên tàu.
- Tình hình chính trị - xã hội.
Tuỳ theo kế hoạch chuyên chở hàng hoá mà mua loại bảo hiểm năm, bảo hiểm chuyến ,tiến hành trả tiền và lấy giấy bảo hiểm sao cho phù hợp.
5.5. Làm thủ tục hải quan.
Nhìn chung thủ tục xuất khẩu đều phải trải qua 3 bước sau :
- Làm thủ tục xuất khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan hải quan địa phương chủ hàng xuất khẩu làm giấy hải quan gồm :
+ Giấy phép xuất khẩu.
+ Bản sao hợp đồng hoặc L/C.
+ Hoá đơn để tính thuế.
+ Bảng kê chi tiết hàng hoá.
- Kiểm tra tại kho hàng, chủ hàng phải sắp xếp hàng hoá thuận tiện cho kiểm tra cung cấp công nhân và công cụ đóng mở hàng hoá. hải quan phải đối chiếu hàng hoá khai trên giấy tờ với thực tế.
- Quyết định xử lý của hải quan.
Sau khi kiểm tra, đối chiếu cán bộ hải quan sẽ quyết định xử lý theo các vấn đề sau.
+ Cho hàng hoá đi, xác nhạn đã làm xong thủ tục hải quan.
+ Cho đi nhưng phải nộp thuế (nếu hàng thuộc diện nộp thuế).
+ Cho đi nhưng phải bổ xung giấy tờ, thủ tục
+ Không cho đi.
+ Giao nhận hàng hoá với tàu.
5.6. Giao hàng xuất khẩu :
Nắm vững chi tiết hàng hoá và nộp bản đăng ký hàng hoá chuyên chở gồm : tên hàng, ký mã hiệu, số lượng, trọng lượng, kích thước, bao bì, tên địa chỉ người nhập, trao bản đăng ký này cho hãng tàu (đại lý) để đổi lấy sơ đồ xếp.
- Theo dõi điều độ để hết ngày giờ đến lượt tàu mình.
- Xem xét và đưa hàng vào cảng.
- Bốc hàng hoá tàu với sự giám sát của hải quan và kiểm nghiệm.
- Đổi lấy lại vận đơn hoàn hảo.
6. Đánh giá hiệu quả hợp đồng xuất khẩu.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu rất quan trọng, nó là nhân tố quyết định nhất để doanh nghiệp tiếp tục tham gia vào hoạt động này, thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả của hoạt động này còn là một yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Như vậy đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sau khi thực hiện một hợp đồng đòi hoỉ doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá lại hiệu quả của nó doanh nghiệp thấy được những mặt mạnh, mặt yếu qua đó rút kinh nghiệm trong thời gian tới.
Để đánh giá hiệu quả của một hợp đồng xuất khẩu trong phạm vi một doanh nghiệp người ta sử dụng các chỉ tiêu sau :
- Chỉ tiêu về lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tăng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản suất kinh doanh. Nó là tiền đề quan trọng để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, để cải thiện và nâng cao mức sống người lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì đất nước mới giàu có phát triển và ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản.
Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí và tính bằng công thức :
LN = TR - TC.
LNkt = TR - TCkt
LNtt = TR - TCtt.
Trong đó :
LN : lợi nhuận. LNkt : Lợi nhuận kinh tế.
TR : Doanh thu LNtt : Lợi nhuận tính toán.
TC : Chi phí TCkt : Chi phí kinh tế
TCtt : Chi phí tính toán.
- Hiệu quả kinh tế xuất khẩu
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ do xuất khẩu (Giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản suất hàng hoá xuất khẩu đó (Giá trị dân tộc của hàng hoá).
Trong đó :
Hx : Hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu.
Tx : Doanh thu (bằng ngoại tệ) từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ (giá quốc tế).
Cx : Tăng chi phí của việc sản suất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận tải đến cảng xuất đến các chi phí khác có liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
Chỉ tiêu này cho ta biết số thu bằng ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1998 - 2001
----
I. Đặc điểm kinh doanh của công ty.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty.
Thực hiện chủ trương của Đảnông nghiệp và Nhà nước trong việc gắn sản suất với thị trường công tác xuất nhập khẩu than và nhập khẩu thiết bị toàn bộ của ngành than được chuyển giao từ Bộ ngoại thương sang Bộ Mỏ và Than (và là Bộ công nghiệp), do đó công ty xuất nhập than và cung ứng vật tư - tên giao dịch là Coalimex - đã được ra đời theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Mỏ và than số 65 MT - TCCB3 ngày 29/12/1981. Quyết định có hiệu lực và công ty Coalimex đã chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01/01/1982. Từ đó đến nay đã 15 năm.
Các đơn vị của công ty Coalimex bao gồm :
1. Xí nghiệp hoá chất mỏ :
Có nhiệm vụ sản suất và cung ứng vật liệu nổ cho các ngành công nghiệp khai thác công nghiệp.
2. Xí nghiệp xây dựng cơ bản :
Có nhiệm vụ xây lắp kho tàng phục vụ ngành.
3. Xí nghiệp vật tư 1 :
Có nhiệm vụ tiếp nhận bảo quản và cung ứng vật tư thiết bị nhập khẩu cho ngành than.
4. Xí nghiệp giao nhận vận chuyển.
Có nhiệm vụ tiếp nhận hàng vật tư lẻ và thiết bị toàn bộ ở cảng về (hàng chủ yếu nhập từ Nga).
5. Chi nhánh Colimex thành phố Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ đại diện cho công ty về việc tìm hiểu khách hàng và đón tiếp khách ở phía Nam.
6. Chi nhánh Colimex Quảng Ninh thực hiệm nhiệm vụ giao than xuất khẩu.
Về cơ cấu tổ chức của công ty Coalimex bao gồm :
- Ban giám đốc :
+ Gồm 1 giám đốc : chịu trách nhiệm chính về hoạt động xuất nhập của công ty.
+ 2 Phó giám đốc : có nhiệm vụ hỗ trợ giám đốc trong việc ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Ban giám đốc
Phòng hành chính quản trị
Phòng kế hoạch kinh tế tài chính
Phòng tổ chức nhân sự thanh tra
Phòng xuất nhập khẩu
I
Phòng xuất nhập khẩu và hợp tác QT
Phòng xuất nhập khẩu IV
Phòng xuất nhập khẩu III
Phòng xuất nhập khẩu II
Phòng chuẩn bị dự án Đt và liên doanh
Phòng hợp tác lao động & đào tạo
Chi nhánh TP.HCM
Chi nhánh Quảng Ninh
Khách sạn Thanh Nhàn
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Các phòng ban :
+ Phòng tổ chức nhân sự thanh tra : điều động người ravào công ty, quản lý cán bộ trong công ty.
+ Phòng kế hoạch kinh tế tài chính : lên kế hoạch hoạt động cho từng tháng, từng năm của công ty, tổng kết các hoạt động xuất nhập của công ty trong từng giai đoạn, thời kỳ.
+ Phòng hành chính quản trị : Thực hiện công tác quản lý trong doanh nghiệp thương mại.
+ Phòng xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế: Có nhiệm vụ thực hiện các hợp đồng xuất than và thực hiện công tác đối ngoại giao dịch và bạn hàng quốc tế.
+ Phòng xuất nhập khẩu I, II, III, IV, IV thực hiện các công tác xuất và nhập các phụ kiện ngành than, các hoá chất dùng trong công nghiệp mỏ.
+ Phòng hợp tác lao động và đào tạo : Thực hiện chức năng ký kết các hợp đồng đưa người lao động ra nước ngoài làm việc và đào tạo.
+ Phòng chuẩn bị dự án và liên doanh : Có chức năng chuẩn bị cho các dự án sắp được ký kết và đại diện cho công ty thực hiện hoạt động liên doanh với nước ngoài.
+ Khách sạn Thanh Nhàn : Có chức năng đưa đón cán bộ của ngành than ra nghỉ ngơi, công tác và làm việc tại Hà nội.
- Chí nhánh Quảng Ninh và chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh : có chức năng là đại diện của Coalimex ở hai địa phương trên, thực hiện nhiệm vụ giao dịch và đón khách, thực hiện các hoạt động như Coalimex nhưng nhỏ hơn.
1.2. Chức năng - nhiệm vụ của công ty Coalimex.
1.2.1. Xuất khẩu :
Công ty Coalimex có nhiệm vụ chủ yếu là xuất khẩu mặt hàng than các loại bao gồm : than cám các loại, than cục các loại. Đối với các loại than cục đặc biệt, các loại than cám tốt có độ tro từ 15% trở lên, giá cao mà trong nước chưa có nhu cầu sử dụng đặc biệt hoặc sử dụng không kinh tế cần dành cho xuất khẩu để lấy thiết bị vật tư sử dụng cho ngành than.
Trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 1996 các đơn vị sản suất đòi hỏi xuất khẩu rất lớn. Xuất khẩu than với giá trị ngoại tệ thu được gắn liền với sự phát triển và tồn tại của ngành than.Vì vậy trong những năm Coalimex được giao làm nhiệm vụ xuất khẩu than cho các ngành đã được sự chỉ đạo sát sao của bộ năng lượng cũ và đã cùng các đơn vị sản suất than đề ra và thực hiện các biện pháp tích cực có hiệu quả nên đã nâng dần được khối lượng và trị giá than xuất khẩu. Khối lượng than xuất khẩu tăng trưởng trung bình hàng năm (từ 1991 đến 1996) năm sau cao hơn năm trước 1,5 lần. Đặc biệt 1996 là năm Coalimex đạt khối lượng xuất khẩu than trên 1,6 triệu tấn là khối lượng cao nhất so với các năm trước đó. Năm 1996 xuất khẩu tăng gấp 7 lần so với năm 2001.
Công ty đã tìm kiếm được thị trường xuất khẩu than lớn như Nhật Bản, Tây Âu, Nam Triều Tiên. Các thị trường này hàng năm đều tăng trưởng và ổn định.
Việc tìm được thị trường để tăng khối lượng xuất khẩu than vào khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1996 là những năm thị trường than nội địa gặp khó khăn lớn nên giá bán nội địa rất thấp, lúc đó bình quân 1 tấn than xuất khẩu có trị giá gấp 2 đến 3 lần so với 1 tấn than tiêu thụ trong nước.
Cũng vào khoảng thời gian này khi các nước Liên Xô và Đông Âu XHCN sụp đổ từ năm 1994, chế độ cấp hàng theo nghị định thư hàng năm cho ngành than không còn được bao cấp như trước nên việc tăng sản lượng trị giá xuất khẩu than đúng vào lúc này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đã giải quyết khó khăn rất lớn cho hàng vạn công nhân viên ngành than đồng thời có ngoại tệ nhập khẩu thiết bị vật tư để ổn định và phát triển sản suất cho ngành.
1.2.2. Nhập khẩu :
Nhập khẩu vật tư và thiết bị từ các thị trường trong 15 năm qua chưa tính nhập theo nghị định thư (1982 á 2000) đạt giá trị 134.151.054 USD. Trung bình hàng năm nhập 8.943.403 USD.
Trị giá nhập khẩu theo thời gian.
+ 5 năm đầu mới thành lập (1982 á 1991) tổng giá trị nhập 67.982.818 USD trung bình hàng năm nhập 13,6 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 nhập với giá trị lớn nhất là 17.834.937 USD.
+ 5 năm tiếp theo (1991 á 1995) tổng giá trị nhập khẩu là 34.535.595 USD trung bình hàng năm nhập 6,9 triệu USD.
+ 5 năm cuối (1996 á 2000) tổng giá trị nhập khẩu 31.633.641 USD trung bình hàng năm nhập 6,3 triệu USD.
Từ năm 1995 theo nghị định 388 của chính phủ về thành lập các doanh nghiệp trong ngành có nhiều công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu nên giá trị kim ngạch xuất khẩu qua Coalimex giảm dần đến năm 2000 tăng lên so với các năm trước đó đã đạt 7.821.061 USD.
Nhập khẩu thiết bị từ thị trường tư bản nhìn chung trong 15 năm qua đã đưa thiết bị sản suất từ các nước tư bản vào sử dụng ở vùng mỏ Việt Nam góp phần đáng kể cho sản suất. Công ty Coalimex cùng với các đơn vị sản suất trực tiếp sử dụng thiết bị đã chọn được loại thiết bị từ thị trường tư bản (chủ yếu là Nhật Bản) đưa vào sử dụng rất thich hợp và có hiệu quả ở điều kiện sản xuất cuả ngành than. Các thiết bị nhạp về đèu được phía người bán bảo hành chu đáo nên phần lớn đã nâng cao được hiệu qủa sử dụng như các loại ôtô chở đất đá, xe gạt...
1.2.2.1. Nhập khẩu thiết bị phụ tùng vật tư:
Nhập khẩu thiết bị phụ tùng vật tư cho sản suất từ thị trường XHCN cứ theo chế độ nghị định thư. Đối với các thị trường XHCN từ năm 1982 đến năm 1994 công ty đã nhập thiết bị phụ tùng vật tư theo chế độ nghị định thư cung cấp cho các đơn vị sản suất trong ngành với tổng giá trị 85060562 rúp chuyênr nhượng.
Các mặt hàng nhập về lúc đó chiếm vị trí quan trọng bổ xung thiết bị phụ tùng vật tư để duy trồng trọtì và phát triển sản suất hàng năm cho các đơn vị.
Những mặt hàng nhập về vào những năm cuối cùng của chế độ nghị định thư ngành than chưa có tiền thanh toán công ty đã xin được nhà nước số hàng hoá này đưa sang hàng dự trữ trị giá 23,6 tỷ đồng, bán cho các đơn vị sản suất đến đâu thanh toán tiền cho nhà nước đến đó. Những mặt hàng này sử dụng tốt cho ngành than trong mấy năm gần đây và hiện nay.
Khi chế độ mua bán theo nghị định thư không còn, công ty Coalinux tiếp tục nhập khẩu các thiết bị phụ tùng vật tư từ các thị trường SNG và Đông âu, thanh toán theo luật chung của thị trường quốc tế, nhập khẩu phục vụ tốt các đơn vị có nhu cầu.
1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm qua:
Bảng 1: Hoạt động kinh doanh của công ty trong 2 năm 2000 - 2001.
Chỉ tiêu
2000
2001
1. Tổng doanh thu
2.Các khoản giảm trừ ( thuế Dthu)
3. Doanh thu thuần
4. Giá vốn hàng bán
5. Chi phí bán hàng
Chi phí QLDN
6. Lợi tức
7. Tỷ lệ lợi tức/ tổng doanh thu
8. Các khoản nộp ngân sách
9. TN bình quân đầu người/tháng
14633178085
960.139.835
13.673.038.250
7.960.953.808
3.028.501.586
3.777.918.018
600.335.162
0,04
1.220.000.000
1.160.000
29609993748
1.666.138.202
27.943.855.546
16.675.160.648
7.192.983.380
3.777.958.095
697.753.423
0,02
1.776.633.112
1.172.000
Nhìn vào bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty ta nhận thấy trong hai năm gần đây, 2000 - 2001 doanh thu của công ty đã tăng lên 14.966.815.663. Mặc dù đây là hai năm khó khăn đối với công ty bởi vì trước đây công ty được hạch toán độc lập và là cơ quan duy nhất của Nhà nước có chức năng xuất nhập khẩu than, nhưng đến năm 1999. Tổng công ty than được thành lập và công ty hoạt động dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Tổng công ty do vậy có nhiều khó khăn vì phản hạn chế sản lượng xuất để chia xẻ cho các công ty khác trực thuộc Tổng công ty.
Với những khó khăn đó công ty vẫn không chịu lùi bước, và đã tự tìm hướng đi, bạn hàng cho mình. ngân sách hàng năm nộp cho nhà nước năm sau (2001) cao hơn năm trước và vượt cả kế hoạch đề ra 247%).
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu than tại công ty.
1. Đặc điểm của sản phẩm than :
Than việt nam chủ yếu là than antraxit với trữ lượng 3,6 tỷ tấn hầu hết ở Quảng Ninh (chiếm 90%) ngoài ra còn ở Thái Nguyên, Lạng Sơn ... đang được khai thác để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu : than là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt nam.
than antranxit của Việt nam với chất lượng tốt, ít khói, nhiệt lượng cao, hàm lượng lưu huỳnh, ni tơ ít không gây ô nhiễm môi trường đã nổi tiếng trên thế giới. Hơn 30 năm qua đặc biệt là trong 10 năm gần đây than antraxit của Việt nam đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Anh, Pháp, Trung Quốc, Triều Tiên ... đã chiếm một vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế. Gần đây tổ chức quản lý chất lượng quốc tế (International Quality Managent) đã cấp giấy chứng nhận và tặng huy chương bạc cho than antraxit của Việt nam về chất lượng và những đóng góp của nó trong việc baỏ vệ môi trường.
Than Antraxit của Việt nam đã được dùng là nguồn nhiên liệu quan trọng cho các ngành chế biến vật chất khác như : luyện kim, điện lực, hoá chất ... nhu cầu sinh hoạt của nhân dân và cho nhu cầu sưởi ấm ở Tây Âu. Than Antraxit của Việt nam được chia ra nhiều loại khác nhau với số lượng cơ hạt thành phần của than, độ ẩm độ tro. Mỗi một thị trường tuỳ theo những nhu cầu mục đích sử dụng mà người ta lựa chọn được loại than phù hợp.
Ta có thể tham khảo về thành phần và đặc tính của than theo các bảng số liệu sau :
Bảng 2 : Thành phần của than Antraxit của Việt nam
Loại than
%H2
%N
%O
%P
SiO2
Al2O3
Fe2O3
TiO2
Cao
MgO
K2O
Na2O
1
2,05
0,90
1,54
0,009
49,1
34,10
3,91
1,20
2,00
1,40
2,70
0,70
2
2,09
0,77
1,42
0,008
49,2
32,70
3,8
1,20
2,10
1,30
2,60
0,80
3
2,10
0,97
1,95
0,008
48,1
36,00
5,10
1,20
2,00
1._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33974.doc