Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty phát triển XNK và Đầu tư VIEXIM

Lời nói đầu Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, xuất khẩu hàng hoá đang trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngo

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty phát triển XNK và Đầu tư VIEXIM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại tệ. Với ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu, chúng ta có thể mua sắm các loại hàng hoá cần thiết từ các nước trên thế giới nhằm phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng như thoã mãn các nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của nước ta (ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu ). Từ đó đến nay, vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang trở thành một vấn đè được nhiều người quan tâm với mục đích tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có hiệu quả. Bởi vì, thực tiễn hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam cho thấy, bên cạnh một số thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang gặp không ít những khó khăn trong hoạt động này. Công ty phát triển Xuất Nhập khẩu và Đầu tư - VIEXIM là một doanh nghiệp ngoại thương có chức năng chính là kinh doanh Xuất Nhập khẩu tổng hợp các loại hàng hoá. Qua thời gian thực tập tại Công ty VIEXIM, với sự hiểu biết của mình cùng với sự giúp đõ của các thầy cô giáo, các cán bộ trong Công ty và thực tiễn hoạt động của Công ty, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty phát triển Xuất Nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM”. Với cơ sở số liệu minh hoạ được lấy tại Công ty VIEXIM, phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tế, từ đó rút ra những ý kiến nhận xét và đề xuất các giải pháp. Nội dung chuyên đề gồm ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Phát triển Xuất Nhập khẩu và Đầu tư - VIEXIM Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu ở Công ty VIEXIM Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, của Công ty VIEXIM và bạn đọc. Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các cán bộ của khoa Thương Mại trường ĐHKTQD. Đặc biệt tôi bầy tỏ sự biết ơn đến thầy Trần Văn Bão, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập và viết chuyên đề. Tôi cũng xin cảm ơn chị Mai Anh cùng toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty VIEXIM vì sự giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình tôi thực tập tại Công ty và tôi chúc Công ty sẽ gặt hái được nhiều thành công. Hà Nội, Ngày 08 tháng 06 năm 2000 Sinh Viên Thiều Tăng Tới Lời nói đầu Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường I. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. 1 1. Sự ra đời của Thương mại Quốc tế 1 2. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu 2 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường 3 3.1.Đối với nền kinh tế quốc dân. 3 3.2. Đối với doanh nghiệp 5 II. Các hình thức Xuất khẩu chủ yếu hiện nay 6 1. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp 6 2. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác 6 3. Hoạt động gia công xuất khẩu 7 4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu 8 5. Hoạt động xuất khẩu theo Nghị định thư 8 6. Một số loại hình xuất khẩu khác 8 6.1. Tạm nhập tái xuất 9 6.2. Chuyển khẩu hàng hoá 9 6.3. Quá cảnh hàng hoá 9 III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp 9 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu 10 2. Lập phương án kinh doanh 11 3. Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu 12 3.1. Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu 13 3.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu 14 4.Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu 15 4.1. Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu 15 4.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu 16 5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 17 5.1. Xin giấy phép xuất khẩu 18 5.2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu 18 5.3. Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu 18 5.4. Thuê tàu lưu cước 19 5.5. Mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu 19 5.6. Làm thủ tục hải quan 20 5.7. Giao hàng lên tàu 20 5.8. Làm thủ tục thanh toán 21 5.9. Khiếu nại với trọng tài (nếu có). 22 6. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu 22 6.1. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng 22 6.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính 24 IV. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động Xuất khẩu của các doanh nghiệp 24 1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng trong nước 25 1.1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp 25 1.2. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp 27 2. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng ngoài nước 27 Chương II Thực trạng hoạt động Xuất khẩu của công ty phát triển xuất nhập khẩu và đầu tư - VIEXIM I. Tổng quan về Công ty 29 1. Quá trình thành lập và phát triển 29 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty 30 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty 32 II. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty VIEXIM 35 1. Mặt hàng kinh doanh của Công ty 35 1.1 Kinh doanh trong nước 35 1.2. Kinh doanh xuất nhập khẩu 35 2. Vốn kinh doanh, khả năng huy động và sử dụng vốn của Công ty 35 3. Mối quan hệ trong kinh doanh của Công ty 37 4. Nguồn nhân lực của Công ty 37 5. Một số kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 37 5.1 Các kết quả chung 37 5.2 Các kết quả từ hoạt động xuất nhập khẩu 38 5.3 Tình hình nộp ngân sách của Công ty 39 III. Thực trạng hoạt động Xuất khẩu của Công ty VIEXIM 40 1. Vị trí hoạt động xuất khẩu của Công ty 40 2. Nguồn hàng xuất khẩu của Công ty 42 2.1. Nguồn hàng xuất khẩu 42 2.2. Các hình thức tạo nguồn 44 3. Thị trường xuất khẩu của Công ty 45 4. Mặt hàng xuất khẩu của Công ty 46 5. Các loại hình xuất khẩu của Công ty 51 6. Một số vấn đề khác trong hoạt động xuất khẩu của Công ty 52 IV. Những đánh giá rút ra từ nghiên cứu hoạt động Xuất khẩu của Công ty VIEXIM 53 1. Những thành tựu và hạn chế của Công ty trong thời gian qua 53 1.1. Những thành tựu đạt được 53 1.2. Hạn chế 54 2. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty 55 Chương III Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu ở Công ty phát triển Xuất Nhập khẩu và đầu tư- VIEXIM I. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty 57 1. Những thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh của Công ty 57 1.1. Thuận lợi 57 1.2. Khó khăn 58 2. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty 58 2.1. Các định hướng dài hạn chung 58 2.2. Phương hướng trong những năm tới 60 II. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu của Công ty VIEXIM 61 1. Các biện pháp về phía Công ty 61 1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường xuất khẩu 62 1.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu.............................63 1.3. Tạo lập được các nguồn hàng xuất khẩu ổn định, phù hợp, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu 65 1.4. Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 66 1.5. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu của công ty 66 1.6. Không ngừng nâng cao uy tín của công ty 67 1.7. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả 68 1.8. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ XNK 69 2. Một số kiến nghị với Nhà nước 70 2.1. Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô 70 2.2. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý XNK 71 2.3. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu 72 2.4. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế 72 Kết luận 73 Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo 1. Đàm phán và ký kết hợp đồng-PGS.TS. Tô Xuân Dân 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế-PGS. TS. Trần Chí Thành 3. Giáo trình Kinh tế thương mại-PGS. TS. Đặng Đình Đào 4. Giáo trình Thương mại quốc tế – PGS. TS. Nguyễn Duy Bột 5. Hướng Phát triển thị trường XNK Việt nam đến năm 2010-NXB Thống kê, Hà nội 1997 6. Kinh doanh quốc tế - Đỗ Đức Bình-NXB GD 1997 7. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương-PGS. Vũ Hữu Tửu 8. Tài liệu tại công ty VIEXIM 9. Tạp chí Thương mại quốc tế 10. Thời báo Kinh tế Việt nam Chương I CƠ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường I. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. 1. Sự ra đời của thương mại quốc tế Hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói riêng diễn ra trên thế giới đều có những cơ sở nhất định của nó. Các nhà kinh tế cho rằng:Sở dĩ có các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt ra ngoài biên giới quốc gia vì nó xuất phát từ những cơ sở sau: Thứ nhất, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của các quốc gia, của các khu vực trên thế giới qui định sự khác biệt về khả năng sản xuất của mỗi quốc gia, đã dẫn đến các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau. Trên thế giới các quốc gia khác nhau thì điều kiện về thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn cũng khác nhau. Do vậy, một quốc gia không thể sản xuất được tất cả các loại hàng hoá khác nhau phục vụ cho nhu cầu đa dạng cuả quốc gia mình. Sự hạn chế về khả năng sản xuất này buộc các quốc gia phải bán một số sản phẩm mà mình có và mua những sản phẩm mà mình cần từ các quốc gia khác trên thế giới. Kết quả là hoạt động thương mại quốc tế ra đời. Thứ hai, lợi thế so sánh giữa các quốc gia là khác nhau đã thôi thúc các quốc gia tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau. Lợi thế so sánh của một quốc gia biểu hiện ở chi phí cơ hội để sản xuất ra một hoặc một vài sản phẩm của quốc gia đó. Các quốc gia sẽ sản xuất những sản phẩm có lợi với chi phí thấp nhất rồi sau đó tiến hành trao đổi với các quốc gia khác. Hoạt động thương mại thương mại quốc tế trên cơ sở này đã giúp cho các quốc gia tiêu dùng nhiều hơn những sản phẩm so với khi các quốc gia này tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá mà không tiến hành trao đổi thương mại quốc tế. Thứ ba, sự chuyên môn hoá sản xuất làm cho chi phí sản xuất ra các sản phẩm thấp hơn cũng là một động lực thúc đẩy các quốc gia thực hiện quá trình phân công lao động quốc tế. Đây là một quá trình mà trong đó diễn ra sự chuyên môn hoá sản xuất, chi tiết sản phẩm. . . Sau đó tiến hành trao đổi các sản phẩm của nhau giữa các quốc gia tham gia vào quá trình phân công. Có thể nói, sự chuyên môn hoá sản xuất là một cơ sở của hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động xuất khẩu . Thứ tư, sự đa dạng về nhu cầu tiêu dùng, sở thích tiêu dùng cũng dẫn đến quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Ngày nay, nhu cầu về sản phẩm hàng hoá phát triển ở một mức rất cao. Người tiêu dùng không chỉ mong muốn thoả mãn nhu cầu sinh lý, tự nhiên mà còn mong muốn thoả mãn các nhu cầu về mặt văn hoá, tinh thần. . . Chính điều này giải thích cho nhiều hiện tượng xảy ra trong thế giới người tiêu dùng khi họ thích tiêu dùng sản phẩm ngoại thay vì các sản phẩm được sản xuất trong nước. Như vậy sự khác biệt và đa dạng của nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia cũng là động lực thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế. Trên đây là một số cơ sở chính dẫn đến sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, còn có nhiều cơ sở khác thôi thúc hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc gia như quan hệ hỗ trợ, quan hệ vay nợ. . . 2. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá Từ sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế có thể nói: Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt. Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hoá của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu nhoại tệ. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình trao đổi hàng hoá (bán hàng), đó là quá trình thực hiện giá trị hàng hoá của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý, các đặc điểm đó là: Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, giữa hai loại khách hàng này có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống, phong tục tập quán. . . Điều này sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần phải có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng hoá phù hợp. Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt qua phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn, có nhiều nhân tố ràng buộc hơn. Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả. Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp đồng. . . đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia. 3. 1. Đối với nền kinh tế quốc dân Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trong trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu cuả họ cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ. Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế: - Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuât khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ qui mô. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đâu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó. + Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới. + Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần. - Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng ttriệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế. . . phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 3. 2. Đối với doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lới đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng… Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tao ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia xẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của công ty. Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia. II. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu hiện nay Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu. . . Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau: 1. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến). Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, dây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá. Khi tiến hành theo hình thức xuất khẩu trực tiếp, doanh nghiệp ngoại thương có thể căn cứ vào nguồn hàng, vào khách hàng, đó là: - Danh nghiệp có thể tiến hành thu gom hàng hoá trước, sau đó tiến hành ký kết các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng. Cách này chỉ nên áp dụng cho trường hợp nguồn hàng khó khăn và đầu ra chắc chắn. - Doanh nghiệp có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng nước ngoài trước, sau đó tiến hành thu gom hàng tại các đơn vị chân hàng trong nước. Nói chung đây là cách các doanh nghiệp thường thực hiện vì đầu ra hiện nay khó khăn và khả năng tài chính của các đơn vị còn hạn chế. 2. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này, hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh. Doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện hình thức xuất khẩu uỷ thác theo các bước sau: - Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị trong nước có hàng hoá xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. Sau đó tiến hành giao hàng và thực hiện thanh toán tiền hàng. - Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị uỷ thác. Trong thực tế, doanh nghiệp ngoại thương cũng có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với nước ngoài, sau đó tiến hành ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị có hàng trong nước. Hình thức xuất khẩu uỷ thác có thể áp dụng khi doanh nghiệp thiếu hàng cho khách hàng và các đơn vị cung cấp không muốn bán hàng cho doanh nghiệp mà họ chỉ muốn doanh nghiệp làm vai trò trung gian. 3. Hoạt động gia công xuất khẩu Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được khoản tiền thù lao gia công. Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thoả thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm. Để thực hiện hoạt động gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện theo các bước sau: - Ký kết hợp đồng gia công với các đơn vị nhận gia công trong nước. - Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên vật liệu, bán thành phẩm. - Giao nguyên vật liệu, bán thành phẩm cho đơn vị nhận gia công. - Thu hồi thành phẩm và xuất thành phẩm sang cho khách hàng đặt gia công. - Thanh toán phí gia công cho các đơn vị nhận gia công và nhận khoản thù lao do đã thực hiện dịch vụ này từ phía khách hàng đặt gia công. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà doanh nghiệp ngoại thương có thể tiến hành ký hợp đồng gia công với khách hàng nước ngoài trước, sau đó mới ký hợp đồng gia công với các đơn vị nhận gia công. 4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu Theo hình thức này, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với trị giá của lô hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất khẩu này để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba. 5. Hoạt động xuất khẩu theo Nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường là hàng trả nợ được thực hiện theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như: Khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. 6. Một số loại hình xuất khẩu khác Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới dây cũng được coi là xuất khẩu hàng hoá: 6.1. Tạm nhập tái xuất Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến. Đối với những hàng hoá nhập nhẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không dược coi là hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất. Thời gian hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở Việt Nam là 60 ngày. 6.2. Chuyển khẩu hàng hoá Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. 6.3. Quá cảnh hàng hoá Hàng hoá của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu có đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập. Như vậy, có thể có rất nhiều các hình thức xuất khẩu khác nhau. Các doanh nghiệp ngoại thương nên lựa chọn thực hiện các hình thức xuất khẩu phù hợp với doanh nghiệp mình. Chủ trương là tận dụng tối đa khả năng sẵn có cũng như tăng khả năng đó để đa dạng hoà các loại hình xuất khẩu hàng hoá. III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như các cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thì nội dung cơ bản có thể được thực hiện theo các bước sau: 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh nhận ra được qui luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường. Qua đó giúp các nhà kinh doanh giải quyết được những vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường; so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động của thị trường. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch Marketing. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước và nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. - Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về qui mô, cơ cấu, sự vận động của thị trưòng, các yếu tố ảnh hửng đến thị trường như môi trường kinh doanh, môi trường chính trị- luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá- xã hội, môi trường sinh thái. . . - Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Phương pháp nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu bằng cách thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai và xử lý các thông tin đó. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được. Thông thường, nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc sau: - Phân tích tình hình cung: Trước hết c._.ần nắm sơ tình hình cung, đó là toàn bộ khối lượng hàng hoá đã, đang và có khả năng bán ra trên thị truờng. Cần xem xét giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị trường, xem xét tính cạnh tranh của mặt hàng đó . - Phân tích tình hình cung cầu: Từ những thông tin về hàng hoá đang bán trên thị trường mà cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Vì vậy cần xác định: + Người tiêu dùng là ai, tuổi, giới tính, nghề nghiệp + Lý do mua hàng của khách hàng + Nhịp điệu mua hàng của khách hàng + Ai đó có khả năng trở thành người tiêu dùng hàng hoá của công ty + Sản phẩm của công ty liệu có kéo dài được chu kỳ sống hay không. - Phân tích những điều kiện của thi trường: Phải phân tích cẩn thận tất cả những điều kiện mà việc thương mại hoá sản phẩm của công ty có thể gặp như về cơ chế quản lý, về tài chính, kỹ thuật, về con người và tâm lý… - Lựa chọn đối tác buôn bán: Để lựa chọn đối tác buôn bán có hiệu quả, nên tìm hiểu các nội dung sau: + Quan điểm kinh doanh của đối tác + Lĩnh vực kinh doanh của đối tác + Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của họ + Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ + Những người chịu trách nhiệm trong kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với công ty. 2. Lập phương án kinh doanh. Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh phải lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xác định phương án kinh doanh bao gồm: - Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn. - Lựa chọn mặt hàng, thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. - Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán là bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào. - Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được muc tiêu: Những biện pháp này bao gồm đầu tư vào sản xuất, cải tiến mẫu mã bao bì hàng hoá, ký hợp đồng kinh tế, tham gia hội chợ quốc tế, tổ chức quảng cáo, mở rộng mạng lưới đại lý, lập chi nhánh ở nước ngoài. . . - Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu cơ bản như: + Chỉ tiêu tỉ suất ngoại tệ + Chỉ tiêu tỉ suất doanh lợi + Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn + Điểm hoà vốn 3. Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu được, nghiã là nguồn hàng cho xuất khẩu phải đảm bảo những yêu cầu về chất lượng quốc tế. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất, kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy, công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính: - Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì hoạt động này cơ bản và quan trọng nhất. - Loại những hoạt đông nghiệp vụ phục vụ công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá. Thu mua tạo nguồn hàng hoá cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bản trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu. Công tác này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến bộ giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh . Thông qua hệ thống các đại lý thu mua hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng xuất khẩu là một trong những chiến lược của doanh nghiệp nhất là trong tình hình ngày nay cạnh tranh đang diễn ra gay gắt. 3. 1. Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biển hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Dưới đây là một số hình thức thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu điển hình đang diễn ra trong thực tế hiện nay. - Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng: Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, qui cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng. . . Đơn hàng thường là căn cứ để ký hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng, đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên. - Thu mua tạo nguồn xuất khẩu theo hợp đồng: Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa . Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng . . . thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng: Là hình thức mua bán trao tay. Sau khi người bán giao hàng và nhận tiền, người mua nhận hàng và trả tiền thì kết thúc nghiệp vụ mua bán. Hình thức này thường được sử dùng để thu mua hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là hàng nông sản chưa qua có sơ chế. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất: Đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu . Việc đầu tư để tạo nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý: Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chọn các đại lý thu mua cho phù hợp . - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng: Đây là hình thức phổ biến trong trường hợp doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, vật liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quí hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Tóm lại, các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, tuỳ theo mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dụng các hình thức thu mua thích hợp. 3. 2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau: - Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp lý, làm cơ sở vững chắc cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu và đáp ứng được nhu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu xác định được giá cả trong nước của hàng hoá và so sánh với giá cả quốc tế của hàng hoá đó. Sau khi đã tính các chi phí mua hàng, vận chuyển, bao gói. . . thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương. - Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu: Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Phải lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua để tạo nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng hoá xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá giữa các doanh nghiệp ngoại thương với người sản xuất hoặc giữa các bạn hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công…Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. - Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi đã ký kết hợp đồng với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch. - Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu. 4. Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu 4.1. Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu. Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình trong đó diễn ra sự trao đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng nước ngoài về các điều kiện mua bán một loaị hàng hoá để đi đến thoả thuận, nhất là giữa hai bên. Hiện nay, trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, quá trình giao dịch đàm phán thường diễn ra theo các bước sau: Bước 1: Chào hàng(offer) Chào hàng là việc doanh nghiệp ngoại thương thể hiện rõ ý định bán hàng của mình hay lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với các khách hàng nước ngoài. Trong lời chào hàng của mình doanh nghiệp cần nêu rõ loại hàng gì, với quy cách chất lượng, khối lượng, mẫu mã, bao bì, giá cả, thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán và các điều kiện dịch vụ kèm theo ( nếu có). Để thể hiện ý định chào hàng của mình, doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hai hình thức chào hàng sau: - Chào hàng cố định: Đây là hình thức chào bán một lô hàng nhất định cho một khách hàng cụ thể. Trong đơn chào hàng theo hình thức này cần nêu rõ thời gian mà doanh nghiệp bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình. Thời gian này được gọi là thời gian có hiệu lực của chào hàng. Trong thời gia có hiệu lực của chào hàng, nếu khách hàng chấp nhận hoàn toàn lời chào hàng đó thì hợp đồng xuất khẩu coi như đã được ký kết. - Chào hàng tự do: Là hình thức chào bán không kèm theo ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đã phát ra nó. Trong cùng một thời gian, doanh nghiệp có thể chào bán tự do cho nhiều khách hàng khác nhau. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện ghi trong đơn chào hàng không có nghĩa rằng hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết. Như vậy, tuỳ thuộc vào ý định chào hàng của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một hình thức chào hàng phù hợp. Nếu doanh nghiệp thấy rằng khách hàng mà mình sắp chào hàng có nhiều khả năng mua hàng cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp nên sử dụng hình thức chào hàng cố định. Nếu doanh nghiệp thấy có nhiều khách hàng muốn mua lô hàng của mình thì doanh nghiệp nên sử dụng hình thức chào hàng tự do để có thể lựa chọn được khách hàng mua với giá cao hơn. Ngoài việc chào hàng mà các doanh nghiệp đưa ra, trong thực tế hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhiều khi khách hàng cũng có thể đưa ra lời hỏi giá cả hoặc đặt hàng để tìm kiếm người bán hàng phù hợp. Bước hai: Hoàn giá (Counter- offer) Thực tế hoạt động xuất khẩu cho thấy lời chào hàng của doanh nghiệp thông thường không được khách hàng chấp nhận ngay mà khách hàng thường đưa ra lời đề nghị mới, lời đề nghị này được gọi là hoàn giá hay sự mặc cả. Thực chất của sự hoàn giá là quá trình hai bên cố gắng giành lấy những điều kiện lợi khi mua bán. Do vậy, khách hàng thường trả giá thấp còn doanh nghiệp thì đòi giá cao. Kết quả cuối cùng của hoàn giá là một sự thoả thuận mà cả hai bên đều cảm thấy sự hài lòng. Nói chung, trong quá trình giao dịch đàm phán thường phải trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết quả cuối cùng. Bước 3: Chấp nhận (Acceptance) Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng ) mà phía bên doanh nghiệp hoặc khách hàng đưa ra. Chấp nhận là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì có nghĩa là hợp đồng đã được thành lập. Bước 4: Xác nhận (Confirmation) Xác nhận là sự chấp nhận bằng văn bản của hai bên doanh nghiệp và khách hàng về các điều kiện trong các đơn chào hàng (hoặc đặt hàng ) sau khi đã trải qua sự hoàn giá. Như vậy, doanh nghiệp cần phải nhớ rằng, đàm phán giao dịch trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình quyết định đến hiệu quả của việc xuất khẩu một mặt hàng cụ thể. Do vậy, để cho cuộc đàm phán thành công, doanh nghiệp phải hết sức chú ý tới công tác chuẩn bị trước khi bước vào đàm phán. 4.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Hợp đồng xuất khẩu là loại hợp đồng mua bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu một loại hàng hoá nhất định với một khối lượng cụ thể cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền tương đương với giá trị lô hàng bằng một phương thức thanh toán quốc tế nào đó. Về thực chất, hợp đồng xuất khẩu là những thoả thuận về các điều kiện mua bán hàng hoá như tên hàng, khối lượng hàng, chất lượng hàng hoá, giá cả, điều kiện giao nhận, điều kiện thanh toán… giữa doanh nghiệp ngoại thương và các khách hàng cụ thể. Những thoả thuận này được thể hiện trong các hình thức văn bản hợp đồng nhất định. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ của mình cũng như được hưởng các quyền lợi nhất định. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các khoản thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng. Doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài theo các: - Hai bên ký vào một văn bản hợp đồng mua bán - Doanh nghiệp xác nhận là người mua đã đồng ý các điều kiện của thư chào hàng. - Doanh nghiệp xác nhận đơn đặt hàng của khách hàng. 5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng, doanh nghiệp cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm, cố gắng không để xẩy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc. Thông thường trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Sơ đồ 1 Ký hợp đồng XK Kiểm tra L/C Xin giấy phép XK Chuẩn bị hàng hoá Giao hàng lên tàu Làm thủ tục hải quan Kiểm nghiệm hàng hoá Thuê tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại (nếu có) Đây là trình tự những công việc chung nhất cần tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng có thể bỏ qua một vài công đoạn. 5.1. Xin giấy phép xuất khẩu. Muốn thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, doanh nghiệp phải có giấy phép xuất khẩu hàng hoá. Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là một công cụ quản lý của nhà nước về hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp. Trước đây, khi muốn xuất khẩu một lô hàng nào đó, các doanh nghiệp xuất khẩu phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu và xin giấy phép xuất khẩu từng chuyến. Để giảm gánh nặng về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, ngày 03/03/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 55/1998/QĐ/TTG, kể từ ngày 18/03/11998 tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền xuất nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh trong nước của doanh nghiệp, không cần phải xin phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại nữa. Qui định này không áp dụng với một số mặt hàng đang được quản lý theo cơ chế riêng, cụ thể là những mặt hàng sau: gạo, sách, chất nổ, ngọc trai, đá quý, kim loại, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ. 5.2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Người xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm 3 công đoạn sau: - Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu: ở đây doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu về gia công, sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất hàng hoá, tổ chức đại lý thu mua hoặc nhận xuất khẩu uỷ thác. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Việc đóng gói bao bì là căn cứ theo yêu cầu trong hợp đồng đã ký kết, bên cạnh đó, công việc này có ý nghĩa nhất định với quá trình kinh doanh, bởi vì bao bì vừa phải đảm bảo được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện chho việc nhận biết hàng hoá, gây ấn tượng và làm cho người mua có cảm tình với hàng hoá, với doanh nghiệp. - Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Khi kẻ ký mã hiệu hàng hoá, phải đảm bảo những nội dung cần thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vận chuyển hàng hoá và bảo quản hàng hoá, đồng thời phải thoả mãn yêu cầu sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu không gây khó khăn cho việc nhận biết hàng hoá. 5.3. Thuê tàu lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau: - Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu hàng hoá - Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu - Điều kiện vận tải Chẳng hạn nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc CFR (cảng đến) thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thuê tàu biển để giao hàng. Nếu điều kiện giao hàng là FOB thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu có trách nhiệm giao hàng lên tàu tại cảng bốc qui định. Nếu hàng hoá xuất khẩu là hàng tươi sống cần phải bảo quản tốt thì phải thuê tàu có thiết bị đông lạnh. Nếu hàng hoá có khối lượng lớn như than đá, quặng, lương thực... và chở bằng đường biển thì thường thuê tàu chuyên chở hàng. Tuỳ theo điều kiện hàng đối lưu, người ta có thể thuê khứ hồi hoặc chuyên chở liên tục. Nếu hàng hoá mua bán có khối lượng nhỏ và đi trên đường có tuyến tàu chợ thì người ta đăng ký chỗ (gọi là lưu cước) của tàu chợ để chở hàng. Thông thường trong nhiều trường hợp, đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu cho một công ty vận tải thuê tàu. 5.4. Kiểm nghiệm hàng hoá (kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu) Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiêt và quan trọng, nhờ nó mà quyền lợi của khách hàng được đảm bảo, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu, phân định trách nhiệm của các khâu trong sản xuất cũng như tạo nguồn hàng, đảm bảo uy tín của hàng xuất khẩu và nhà sản xuất trong quan hệ buôn bán. Trước khi tiến hành xuât khẩu một lô hàng nào đó, doanh nghiệp phải có trách nhiệm kiểm tra phẩm chất, khối lượng, bao bì…của hàng hoá xuất khẩu. Quá trình kiểm tra này gọi là kiểm nghiệm hàng hoá. Nếu hàng hoá là động vật, thực vật thì phải kiểm tra khả năng lây lan bệnh tật (tức là kiểm dịch động vật, thực vật) . Việc kiểm tra và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành (có vai trò quyết định và triệt để nhất), kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước được thực hiện trước đó. 5.5. Mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu. Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy, việc mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu là cách tốt nhất để đảm bảo hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Doanh nghiệp mua bảo hiểm cho hàng hoá thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm bao (open policy) và hợp đồng bảo hiểm chuyến (voyage policy). Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: - Điều kiện bảo hiểm A: Bảo hiểm mọi rủi ro - Điều kiện bảo hiểm B: Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng - Điều kiện bảo hiểm C: Bảo hiểm không bồi thường tổn thất riêng . Ngoài ra, còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: Bảo hiểm chiến tranh, đình công bạo động… Doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu tại các công ty bảo hiểm. ở Việt Nam, các doanh nghiệp thường mua bảo hiểm ở tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Gọi tắt là Bảo Việt) 5.6. Làm thủ tục Hải quan Hàng hoá muốn được vận chuyển qua biên giới quốc gia thì phải làm các thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là công cụ của Nhà nước về quản lý các hành vi buôn bán xuất nhập khẩu theo pháp luật. Khi làm thủ tục Hải quan, Doanh nghiệp cần tuân theo cac thủ tục sau: - Khai báo Hải quan: Chủ hàng có trách nhiệm kê khai đầy đủ các chi tiết về hàng hoá một cách trung thực và chính xác lên một tờ khai để cơ kiểm tra thuận tiện theo dõi. Nội dung tờ khai hải quan gồm có: Loại hàng, tên hàng, số lượng, giá trị hàng hoá, nước xuất khẩu… Tờ khai Hải quan, được xuất trình cùng với 1 số giấy tờ như hợp đồng xuất khẩu, giấy phép, hoá đơn đóng gói... - Xuất trình hàng hoá và nộp thuế: Hàng hoá xuất khẩu phải được sắp xếp một cách trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát… - Thực hiện các quyết định của Hải quan: Đây là công việc cuối cùng trong quá trình hoàn thành thủ tục Hải quan. Đơn vị xuất khẩu có nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm túc nhất các quyết định của Hải quan đối với lô hàng cho phép xuất khẩu hoặc không cho phép xuất khẩu. 5.7. Giao hàng lên tàu Thực hiện điều kiện giao nhận hàng trong hợp đồng xuất khẩu, đến thời gian giao hàng, doanh nghiệp phải làm các thủ tục giao nhận hàng. Hiện nay, phần lớn hàng xuất khẩu của nước ta là vận chuyển bằng đường biển và đường sắt. Nếu hàng hoá được vân chuyển bằng đường biển, doanh nghiệp phải tiến hành các công việc sau: - Lập bảng đăng ký hàng chuyên chở căn cứ vào các chi tiết hàng hoá xuất khẩu. - Xuất trình bảng đăng ký chuyên chở cho người vận tải để nhận hồ sơ xếp hàng. - Trao đổi với các cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ giao hàng 5.8. Làm thủ tục thanh toán Thanh toán là khâu quan trọng và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Hiện nay, thanh toán trong xuất khẩu phải chú ý đến các vấn đề sau: - Tiền tệ trong thanh toán - Tỷ giá hối đoái - Thời hạn thanh toán - Phương thức và hình thức thanh toán - Điều kiện đảm bảo hối đoái Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng, nhưng hiện nay người ta thường sử dụng rộng rãi hai phương thức thanh toán sau: + Thanh toán bằng thư tín dụng - chứng từ(L/C) Thư tín dụng (L/C) là một loại giấy tờ mà một ngân hàng xác định đảm bảo hoặc cam kết sẽ giả tiền cho bên xuất khẩu. Khi thanh toán theo L/C, doanh nghiệp phải đôn đốc khách hàng mở L/C đúng hạn và đúng nội dung như trong hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết. Sau khi nhận được L/C, doanh nghiệp phải kiểm tra tính chính xác thực của L/C, nếu thấy chỗ nào chưa phù hợp, phải yêu cầu khách hàng sửa chữa bằng văn bản. Khi có L/C, doanh nghiệp tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Giao hàng xong, doanh nghiệp lập bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với nội dung ghi trên L/C và sau đó đi nhận tiền thanh toán ỏ Ngân hàng. + Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu trong hợp đồng xuất khẩu có quy định thanh toán. Theo phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, doanh nghiệp phải hoàn thành việc lập bộ chứng từ và phải uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền nợ. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho Ngân hàng để thu tiền. 5.9. Khiếu nại với trọng tài (nếu có) Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu phía khách hàng vi phạm hợp đồng thì doanh nghiệp có thể khiếu nại với trọng tài về sự vi phạm đó trong trường hợp thật cần thiết. Việc khiếu nại phải thận trọng, kịp thời, tỷ mỉ… dựa trên các căn cứ của các chứng từ kèm theo. Nhìn chung, doanh nghiệp hạn chế tới mức tối đa việc vi phạm hợp đồng của các khách hàng nước ngoài. Bởi vì đưa ra kiên ở trọng tài quốc tế là một điều ít khi dễ dàng được giải quyết có lợi cho phiá doanh nghiệp. Trên đây là một trong những nội dung cơ bản của quá trình thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Doanh nghiệp với tư cách là nhà sản xuất thì cần phải thực hiện đầy đủ và tốt các công việc này, tránh xảy ra tranh chấp với khách hàng để đảm bảo chữ tín với khách hàng nước ngoài. 6. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả hoạt đông xuất khẩu của doanh nghiệp là rất quan trọng và cần thiết. Nó cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả thực hiện cuả mỗi hợp đồng xuất khẩu cũng như một giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ các đánh giá đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp đối với việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo cũng như thời gian hoạt động xuất khẩu tiếp theo. Để đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể sử dụng hai loại kết quả, đó là: 6.1. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng * Lợi nhuận xuất khẩu: Là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động xuất khẩu. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp để cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động. Công thức tính lợi nhuận xuất khẩu như sau: P = TR - TC (1) Trong đó: P là lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu TR là tổng doanh thu thu được từ hoạt động xuất khẩu TC Tổng chi phí bỏ ra cho hoạt động xuất khẩu Từ công thức (1) ta thấy để cho P lớn thì TR phải lớn và TC phải nhỏ, đây thực sự là 1 vấn đề không dễ dàng gì. Để tính toán P được chính xác, doanh nghiệp lưu ý thực hiện các điều sau: - Phải thống kê đầy đủ các chi phí có liên quan phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá (quá trình từ khi nghiên cứu tiếp cân thị trường cho đến khi kết thúc hợp đồng nhận tiền thanh toán) - Phải lưu ý đến giá trị theo thời gian của tiền (biểu hiện bằng lãi suất tiền gửi Ngân hàng và mức độ mất giá của tiền). * Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu: Là chỉ tiêu nói lên hiệu quả tương đối (so sánh) của một hợp đồng xuất khẩu đã được thực hiện. Nó có thể tính theo các cách: Tỷ suất lợi nhuận trên doah thu: P P = x 100% TR - Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí: P P = x 100% TC Trong đó: p là tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu P là lợi nhuận từ xuất khẩu TR là tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu TC là tổng chi phí từ hoạt động xuất khẩu * Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó. Chỉ tiêu này cho ta biết số thu ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước. Nó được dùng để xác định hiệu quả xuất khẩu của từng mặt hàng hoặc hiệu quả sang từng nước, từng khu vực thị trường . Công thức: Tx Hx = Cx Trong đó: Hx: Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu Tx: Doanh thu ( ngoại tệ ) từ việc xuất khẩu Cx: Tổng chi phí cho hàng hoá xuất khẩu 6.2. Các kết quả định tính Hoạt động xuất khẩu cũng như hoạt động khác của doanh nghiệp ngoại thương không chỉ nhằm vào mỗi mục tiêu lợi nhuận. Do vậy, khi đánh giá hoạt động này, doanh nghiệp cần kể đến các kết quả định tính khác ngoài chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận đạt. Các kết quả đó có thể là: - Khả năng xâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường: kết quả này có được sau một thời gian, nỗ lực không ngừng của doanh nghieep trong việc thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của mình. Kết quả này biểu hiện ở thị trường xuất khẩu có của doanh nghiệp, khả năng mở rộng sang các thị trường khác, mối quan hệ với các khách hàng nước ngoài, khả năng khai thác nguồn hàng cho xuất khẩu… các kết quả này chính là những thuận lợi quá trình mà doanh nghiệp có thể khai thác để phục vụ cho quá trình xuất khẩu tới để thu được lợi nhuận cao, khả năng về thị trường lơn hơn… - Kết quả về mặt xã hội: Những lợi ích mà doanh nghiệp có thể mang lại khi thực hiện các hoạt động xuất khẩu nào đó thì cũng phải đem lại lợi ích cho đất nước. Do vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích xã hội khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, kinh doanh những mặt hàng mà nhà nước khuyến khích xuất khẩu và không xuất khẩu những mặt hàng mà nhà nước cấm. Tóm lại, khi đánh giá các hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải đánh giá toàn diện để biết được nên làm gì và cái gì không nên làm. IV. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ngoại thương. Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động khinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vì những nhân tố này thường xuyên làm ảnh hưởng đến các kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khâu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ đó, doanh nghiệp có được những phản ứng kịp thời khi có những yếu tố thay đổi đó. Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng thành các nhóm dựa theo một số tiêu thức nào đó. ở đây, xin phân loại nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ngoại thương như sau: 1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng trong nước 1.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp. Các nhân tố đó là: - Chiến lược, chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại, mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân theo và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu cuả thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương. Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia x._.ăng cường công tác quản lý tài chính, sử dụng vốn có hiệu quả: công ty áp dụng chế độ ký kết hợp đồng đối với các tổ chức kinh doanh để đảm bảo hoạt động kinh doanh được ổn định . Phải cụ thể hoa các công việc cho người lao động, phân rõ trách nhiệm được gia cho từng cán bộ công nhân viên quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.2. Phương hướng trong những năm tới. Trên cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiền vốn và lao động hiện có, cùng với những thuận lợi của công ty, công ty đã đề ra phương hướng kế hoạch kinh doanh trong nhiều năm tới như sau: Năm 2000, công ty tiếp tục phát huy các kết quả đạt được của những năm sau, cụ thể là: Bảng 18: Một số chỉ tiêu dự kiến năm 2000 Chỉ tiêu Trị giá I. Tổng kim ngạch XNK (1000USD) Kim ngạch XK Kim ngạch NK 11 000 7 500 3 500 II. Tổng doanh thu (1000 VND) Doanh thu XK Doanh thu từ HĐ KD trong nước 190 000 000 105 000 000 85 000 000 III. Nộp ngân sách Nhà nước (1000VND) 3 954 500 IV. Lợi nhuận dự kiến(1000VND) Lợi nhuận từ XK Lợi nhuận từ kinh doanh trong nước 3 235 000 1 712 000 1 523 000 (Nguồn : Báo cáo của Công try VIEXIM) Năm 2000, công ty tiếp tuc xuất khẩu nhập khẩu những mặt hàng truyền thống phù hợp với nhu cầu của thị trường . Ngoài ra, công ty cũng đã liên doanh với Trung Quốc để sản xuất ra một số phụ kiện của xe gắn máy hai bánh, kết hợp với việc nhập một số linh kiện từ Trung Quốc để lắp ráp rồi tiến hành xuất khẩu sang một số thị trường như Lào, Campuchia. . . Theo dự tính doanh thu xuất khẩu hàng này khoảng hơn 5 triệu USD. - Công ty cố găng ngân sách tăng 20% so với năm 1999 kiên quyết không để nợ đọng khoản thuế và các khoản phải nộp khác. Phấn đấu ngay từ quý I năm 2000 nộp hết cac khoản phải nộp của năm 1999 sau khi quyết toán được công bố . Nộp đủ kịp thời không để nợ đọng các bảo hiểm xã hội. - Thực hiện bảo toàn vốn và phát triển nguồn vốn: Công ty có thể huy động vốn từ nhiều nguồn như do công ty tự bổ sung, vay Ngân hàng, vay các tổ chức, cơ quan có vốn nhàn rỗi, huy động vốn từ cán bộ công nhân viên... để đảm bảo vốn cho kinh doanh và mức vốn dự trù của công ty. - ổn định và nâng cao mức sống cho người lao động: phấn đấu tăng trung bình từ 12- 15% thu nhập cho cán bộ công nhân viên của công ty . Đặc biệt quan tâm hơn đến người lao động có hoàn cảnh khó khăn và thu nhập thấp. Thực hiện việc xem xét lương định kỳ, đúng hạn, có chính sách khuyến khích người lao động giỏi. - Nghiên cứu và tiếp tục mở rộng thị trường kinh doanh sang các nước có trình độ phát triển các mặt hàng truyền thống ngành hàng truyền thống. Cố gắng xác định cơ cấu mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu hợp lý, lựa chọn được mặt hàng chủ lực, tập trung và khai thác phù hợp. Chuyển dần sang xuất khẩu hàng tinh chế, hạn chế xuất khẩu hàng sơ chế để nâng cao giá trị xuất khẩu, chất lượng hàng xuất khẩu nhằm tạo lợi nhuận cao. II. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty VIEXIM 1. Các biện pháp về phía công ty Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty VIEXIM cho thấy cần thiết phải có các biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Mục đích của việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu không nằm ngoài việc đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của công ty hàng năm, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu cả về tuyệt đối, tương đối và hiệu quả kinh tế - xã hội khác, cũng như ngày một nâng cao uy tín và vị thế của Công ty trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được các mục đích đó, việc đề ra và thực hiện đồng bộ các biện pháp thúc đẩy là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động xuất khẩu của công ty hiện taị và tương lai. Hiện nay, khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của công công ty hiện tại và tương lai. Hiện nay, khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của công ty có lẽ vẫn là khách hàng, thị trường. Vì vậy, các biện pháp đưa ra chủ yếu tập trung theo hướng này. Tuy nhiên, vì là một đơn vị ngoại thương với tư cách là 1 trung gian thương mại nên việc thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu cũng cần được quan tâm. Các biện pháp đưa ra sẽ đề cập chủ yếu đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu, khuếch trương và thúc đẩy việc lựa chọn, tìm kiếm khách hàng, tạo lập nguồn hàng cho xuất khẩu. . và cuối cùng là các biện pháp huy động vốn và nâng cao trình độ của các cán bộ kinh doanh. Sau đây là những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty, việc thực hiện chúng đến đâu là tuỳ thuộc vào công ty cũng như tình hình thị trường. 1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình hình thị trường luôn luôn biến động đã tạo ra các cơ hội, cũng như những rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều này lại càng được khẳng định đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, vì phạm vi thị trường vượt khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vây, các doanh nghiệp ngày nay không thể không thường xuyên nghiên cứu- tiếp cận thị trường và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Chỉ có như thế, các doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được các cơ hội của thị trường và tận dụng nó dựa trên khả năng có của mình. Qua thời gian thực tập tại công ty VIEXIM cho ta thấy, công ty hình như còn rất bị động trước những biến đổi của thị trường xuất khẩu. Chẳng hạn như năm 1999, thị trường Hồng Kông và Liên Bang Nga có nhiều biến động, nhu cầu của người tiêu dùng có sự thay đổi; vì không có những phản ứng kịp thời trước những thay đổi đó nên trong thời gian này việc xuất khẩu của Công ty sang các thị trường này gặp rất nhiều khó khăn và kim ngạch xuất khẩu sang khu vực đã giảm xuống một cách nhanh chóng. Do đó, trong thời gian tới công ty nên quan tâm hơn nữa đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Các công việc có thể được thực hiện là: - Khẩn trương hình thành một nhóm ( Hay phòng ban) chuyên nghiên cứu thị trường xuất khẩu với các nhân viên am hiểu về marketing xuất khẩu. - Tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như phòng Thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại, Đài phát thanh và truyền hình, các viện nghiên cứu về các nước và Châu lục, các đại sứ quán của Việt Nam tại nước ngoài. - Có thể lập các văn phòng đại diện tại các thị trường xuất khẩu mà công tky cho là có triển vọng và thuận lợi để thu thập các thông tin cập nhật tại các thị trường đó. Chẳng hạn như Công ty nên lập các văn phòng đại diện tại Trung Quốc, Hồng Kông, Liên Bang Nga ... Mục đích của các biện pháp này là để nắm được các thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu của công ty để tìm ra các cơ hội phù hợp với công ty. Chính nhờ các biện pháp này công ty có thể nắm bắt nhanh, kịp thời, chính xác tình hình các thị trường xuất khẩu nhất định để qua đó tìm ra các cơ hội tốt nhất cho công ty. 1.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty còn rất yếu. Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài; chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt. Vì vậy,Công ty cần phải thực sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của công ty cần phải dựa trên 3 vấn đề cơ bản sau: - Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà công đưa ra để đáng gia sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của công ty trên mỗi loại thị trường. - Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, công ty xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lươcj và chiến thuật Marketing MIX - Sử dụng các khả năng của công ty để thực hiện Marketing MiX Hoạt dông xuất khẩu của công ty tác động của các nhân tố thuộc về công ty ( như vốn, mặt hàng kinh doanh, nguồn vốn nhân lực của công ty. . . ) về thị trường, chiến lược xuất khẩu được công ty lựa chọn. Cụ thể, việc lựa chọn hoạt động Marketing xuất khẩu, công ty nên thực hiện theo mô hình sau: Sơ đồ 4: Mô hình Marketing xuất khẩu Lựa chọn kế hoạch chiến lược xuất khẩu Đánh giá cơ hội thị trường 1. Đánh giá thị trường tiềm năng 2. Ước tính lượng bán ra tiềm năng 3. Phân loại thị trường Triển khai các kế hoạch, chiến lược Marrketing xuất khẩu 1. Đề ra mục tiêu xuất khẩu 2. Kế hoạch hoá Marketing MIX Sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến. Xác lập chiến lược xuất khẩu, các hoạt động: 1. Dự kiến bán ra 2. Ngân sách cho việc bán 3. Giấy phép bán 4. Danh mục hàng hoá bán 5. Kiểm kê các bản kiểm kê 6. Nhu cầu nhân lực 7. Ngân sách cho khuếch trương 8. Quỹ tài chính 9. Quỹ lợi nhuận Chiến lược Marketing xuất khẩu Dòng thông tin Phản hồi Thị trường xuất khẩu Trong 4 nhân tố của Makerting Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến ở công ty, vấn đề đáng nói nhất là các chính sách về xúc tiến khuếch trương . Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác này vì nó tác động rất lớn hành vi của người mua( người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng( bao gồm cả người trung gian ) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng của công ty . Các hình thức xúc tiến bán hàng công ty nên áp dụng là gửi Cataloge ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài . Ngoài ra công ty còn có thể sư dụng hình thức gửi hàng mẫu qua các bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết và hình dáng, chất lượng hương vị của hàng hoá. . . . Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong nước và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của công ty sẽ tăng lên . Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài công ty phải chọn địa điểm và hình thức bố trí phù hợp nhằm thu hút được nhiều nhất lượng khách hàng. 1.3.Tạo lập được các nguồn hàng xuất khẩu ổn định, phù hợp, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu Nguồn hàng cho xuất khẩu khi là quyết định cho sự thành công của các doanh nghiệp ngoại thương. Đặc biệt nó có ý nghĩa quan trọng khi doanh nghiệp chưa tạo lập được các nguồn hàng ổn định. Chính vì vây, một mặt công ty VIEXIM phải thường xuyên quan tâm đến các biện pháp mở mang thị trường, tìm kiếm khách hàng, mặt khác công ty cũng phải chú ý đến các biện pháp nhằm từng bước tạo lập nguồn hàng cho xuất khẩu của công ty. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty thời gian qua cho thấy nguồn hàng xuất khẩu của công ty còn bấp bênh, thiếu ổn định dẫn đến chất lượng hàng hoá thu gom nhiều khi khó khăn. . . Nguyên nhân là do công ty chưa có nguồn hàng truyền thống đảm bảo cung cấp khối lượng hàng hoá đủ lớn với chất lượng đồng bộ. Do đó, trong thời gian tới công ty nên quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn . Công ty nên áp dụng một số biện pháp sau để từng bước tạo lập các nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu: - Cần duy trì quan hệ bởi vì các nguồn hàng đã có: để thực hiện ý đồ này, công ty phải thường xuyên quan hệ với các nguồn hàng đã có cả về phương diện hợp đồng mua bán, cả trên cơ sở thân thiện. - Trong quan hệ hợp đồng mua bán, công ty cần giữ chữ tín với các đơn vị chào hàng bằng cách không ép giá và thanh toán sòng phẳng . - Trong quan hệ thân thiện, các cán bộ thu mua nên có những thái độ và hành động làm hài lòng các đơn vị chào hàng. - Tích cực tìm kiếm các nguồn hàng mới, đây là biện pháp đa dạng hoá nguồn hàng . Biện pháp này có tác dụng rất lớn nó cho phép công ty tìm được nguồn hàng có lợi. Vì vậy, công ty cần chủ động giao dịch- tiếp xúc phát hiện ra, có thể hỗ trợ vốn cho các nguồn hàng mới đang gặp khó khăn, tăng cường thu thập thông tin về các nguoonfhanf có liên quan. - Từng bước tạo lập các nguồn hàng truyền thống: Công ty nên lựa chọn một vài nguồn hàng lớn và có uy tín, sau đó tích cực củng cố mối quan hệ với các nguồn hang này bằng cách thường xuyên mua hàng của họ, duy tốt mối quan hệ tình cảm, giúp đỡ họ khi có khả năng và họ cần. Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Hiện nay, công ty vẫn theo đuổi chủ trương đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu để tạn dụng các cơ hội của thị trường khi cần thiết. Theo ý tôi, công ty nên tập trung vào vài mặt hàng có triển vọng nhất và quyết tâm theo đuổi ý đồ này thì hơn. Bởi vì thực tế trong thời gian qua công ty đã xuất khẩu tương đối nhiều mặt hàng nhưng lại không đạt về chỉ tiêu khối lượng mà chất lượng của từng mặt hàng nên hiệu quả đạt được chưa cao hơn. Hơn nữa, với khả năng tài chính như hiện nay thì việc ôm đồm quá nhiều mặt hàng là vượt quá khả năng. Vả lại, nhiều khi lo quá sa đà vào nhiều mặt hàng dẫn đến việc phân bố các nguồn lực cho từng mặt hàng không đủ mạnh làm cho không mặt hàng nào đem lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì những lý do này mà việc tập trung vào những mặt hàng có thế mạnh là rất cần thiết cho công ty. Sau khi công ty đã có thế lực đủ mạnh thì việc thực hiện chiến lược đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu cũng chưa muộn. Các mặt hàng Công ty nên tập trung vào đó là rau quả, nhãn quả khô, hải sản, cao su, hạt tiêu. Với các mặt hàng này Công ty nên tập trung cho việc thu mua, tổ chức bảo quản, chế biến để nó trở thành những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế và có giá trị kinh tế cao. Để thực hiện được ý đồ naỳ, công ty nên thu thập thông tin về tình hình xuất khẩu của Việt Nam để biết được mặt hàng nào là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mặt hàng nào còn ít được xuất khẩu, mặt hàng nào chưa được xuất khẩu. Đồng thời công ty cũng cần có thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu như mặt hàng xuất khẩu naò của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường xuất khẩu nào, khối lượng xuất khẩu và khả năng xuất khẩu dự đoán, mặt hàng nào có nhu cầu nhưng ít được xuất khẩu. . . tình hình cạnh tranh và khả năng tham gia. Qua sự phân tích này, công ty sẽ phán đoán được tình hình và sự tiến triển của các mặt hàng xuất khẩu, qua đó tìm ra cho mình mặt hàng xuất khẩu phù hợp để lập kế hoạch xuất khẩu và thực hiện kế hoạch này. Đa dạng hoá các tình hình xuất khẩu của công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu của công ty cho phép công ty tận dụng được khả năng về con người, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thờinó cũng cho phép công ty mở rộng các mối quan hệ, đặc biệt là các mối quan hệ với các bạn hàng và khách hàng. Thời gian qua, công ty mới thực hiện được hai loại hình xuaat khẩu trực tiếp và xuaat khẩu uỷ thác. Thời gian tới, công ty nên tích cực mở rông thêm các loại hình xuaat khẩu của mình bằng cách: Mở rộng quan hệ với các đơn vị có nhu cầu về uỷ thác xuất khẩu . Công ty nên chủ động giới thiệu với các doanh nghiệp mà công ty thấy họ có nhu cầu thuê uỷ thác về khả năng làm dịch vụ này của công ty. Chủ động bỏ vốn vào kinh doanh, tích cực tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng. Tích cự quan hệ với các cơ quan trong chính phủ để nắm các thông tin về xuất khẩu theo nghị định thư. Qua đó công ty có thể đệ đơn xin chính phủ cho công ty thực hiện theo hình thức xuất khẩu này. Tích cực kết hợp trao đổi buôn bán hai chiều nếu thấy cần thiết Công ty nên tìm hiểu về các nghiệp vụ gia công xuất khẩu và tích cực quan hệ với các cơ sở làm gia công trong nước đồng thời mở rộng quan hệ với các bạn hàng nước ngoài, khi cần thiết có thể gợi ý và ddungsra làm trung gian cho khách hàng uỷ thác và các đơn vị nhận uỷ thác Tuy nhiên, cần chú ý rằng công ty không nên đi quá sâu vào nhiều hình thức xuất khẩu mà trước hết chỉ nên chủ động trong hình thức xuất khẩu tự doanh, các hình thức khác chỉ là tận dụng những điều kiện thuận lợi có thể có. Không ngừng nâng cao uy tín của công ty Ngày nay, để đưng vững trên thương trường thì vấn đề không ngừng tạo ra uy tín của doanh nghiệp với khách hàng là rất quan trọng. Nhà kinh doanh phải nhớ rằng lừa đảo là 1 biện pháp thiển cận và đấng phê páh. Do đó nhà kinh doanh phải biết làm gì và sẵn sàng làm gì để nâng cao uy tín của mình cho khách hàng hiện tại và tương lai. Để làm được điều này thì cách tốt nhất là nhà kinh doanh phải thực hiện tốt, đầy đủ các nghiệp vụ và trách nhiệm của mình trong quá trình bán hàng, nghĩa là hàng hoá được bán ra phải có chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý, giao hàng đúng địa điểm và thời gian. . . . Trong hoạt động xuất khẩu, việc không ngừng nâng cao uy tín là việc làm hết sức khôn ngoan và khoa học . Nó vừa đảm bảo cho nhà xuất khẩu bán được hàng với giá cả hợp lý ở hiện tại, vừa hứa hẹn cho họ những hợp đồng xuất khẩu trong tương lai Về nâng cao uy tín của công ty có thể trực tiếp liên quan đến việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hoặc cũng có thể tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của công ty . Hiện nay, có rât nhiều các hoạt động để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp . Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức nào là rất quan trọng đảm bảo phù hợp với khả năng hiện tại của công ty . Sau đây là một số biện pháp công ty nên áp dụn nhằm nâng cao uy tín của mình trong hoạt động xuất khẩu: - Thực hiện tốt và đầy đủ các cam kết đã thoả thuận trong các hợp đồng xuất khẩu. Hiện nay có một vấn đề là Công ty VIEXIM thường ít quan tâm đến những hiêụ ứng sau khi bán hàng. Vì vậy, nhiều khi Công ty không quan tâm đến việc làm tốt và đầy đủ các cam kết trong hợp đồng . Ta đã biết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình trong đó nhà xuất khẩu cung cấp một loại hàng hoá dịch vụ, nào đó cho nước ngoài theo đúng những điều đã quy định trong hợp đồng Nói chung, khách hàng sẽ rất hài lòng khi họ nhận được hàng hoá có chất lượng đúng nhu cầu có khối lượng như đã thoả thuận . Ngoài ra, nếu có các điều kiện khác được thuận lợi thì các làm cho khách hàng hài lòng thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, công ty nên quan tâm đên các vấn đề sau: + Chuẩn bị hàng hoá đúng chất lương và khối lượng quy định . Để thực hiện yêu cầu này, công ty nhất thiết phải am hiểu hàng hoá, chọn được nguồn hàng có uy tín +Có kế hoạch thu gom hàng hoá, vận chuyển hàng hoá hợp lý: Công ty nên đề ra kế hoạch về thời gian thu gom và vận chuyển hàng hoá phù hợp. Điều đó có nghĩa là công ty phải căn cứ vào thời gian thực hiện hợp đồng đã ký kết với khách nước ngoài để lên kế hoạch thu mua va chuẩn bị hànghoá. Giúp đỡ khách hàng nước ngoài những điều ngoài phạm vi của hợp đồng xuất khẩu: nhằm gây thiện cảm với khách hàng. Công ty có thể chỉ dẫn cho họ về những gì công ty biết mà khách hàng muốn tham khảo nhưng nên gợi ý cho khách hàng trước. Để thực hiện được ý đồ này, công ty nên bố trí 1 nhóm tiếp tân để tiếp khach trong lúc phải chờ đợi hoặc trong lúc khách đang giao dịch vơi công ty hoặc khi khách đã kết thúc đàm phán với công ty. - VIEXIM nên quan tâm hơn nữa đến “bộ mặt" của công ty: Hiện nay, các phòng làm việc của công ty nhất là phòng kế hoạch tổng hợp còn chưa được khang trang và đẹp, Vì vậy, công ty sớm có kế hoạch trang trí lại phòng làm việc của công ty để tăng thêm uy tín của công ty bởi vì khách hàng sẽ để ý đến cả vấn đề này trong quan hệ với công ty. 1.7. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Ngoài các biện pháp huy động vốn hiện có, VIEXIM có thể huy động vốn bằng các cách sau: - Doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong nước những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc công ty tiến hàng liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vn và sử dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt dông mà công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Có thể nói, liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì phần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện, - Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng: Cụ thể là với một số trường hợp xuất khẩu, công ty nê yêu cầu người mua ( Người nhập khẩu) ứng trước 1 phần toàn bộ giá trị hợp đồng và công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đối với những trường hợp đồng có giá trị lớn, vượt quá khả năng của công ty thì công ty nên áp dụng hình thức này hoặc có thể thực hiện hợp động bằng cách mời một số nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận Như vậy, vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi vì có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Vì vậy, công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh chóng vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở hâu này mà lại thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra. 1.8. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ xuất nhập khẩu. Trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty VIEXIM là một trong những nguồn lực cơ bản của công ty. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên, cho đến nay, công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn với công việc . Vì vậy,để đảm bảo cho công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra, công ty cũng cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ công nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý sẽ khuyến khích được cán bộ nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thu nhập và thực hiện nhiệm vụ. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. 2. Một số kiến nghị với Nhà nước. Để khuyến khích hoạt động sản xuất và xuất khẩu, để nâng cao uy tín hàng hoá Việt Nam trên thị trường Quốc tế, để kim ngạch xuất khẩu là phần đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, chính phủ cần quan tâm đến một số giải pháp sau: 2.1. Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô Sự ổn định kinh tế vĩ mô trước hết phải hiểu là sự ổn định về các chính sách tài chính, thương mại, đầu tư, tiền tệ. Đó cũng là một trong những điều kiện tạo sự ổn định và quan tâm cho các nhà đầu tư, các công ty. Vì vậy Nhà nước cần: Kiểm soát lạm phát: Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách vĩ mô, nó góp phần tạo tiền đề cho quá trình thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và cho hoạt động xuất khâủ. Bởi vì, sự biến đổi về giá cả là sự kshó khăn cho công tác thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu và công tác xuất khẩu. - ổn định tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền: điều này sẽ thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được xuất khẩu. Sự điều tiết này sẽ làm hạn chế hay tạo cơ hội tham gia hoạt động xuất khẩu của công ty đến chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, thị trường kinh doanh của công ty. - Duy trì và ổn định chế độ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, có sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt, gắn nước ta với kinh tế và thị trường thế giới, thể hiện trong cả sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý. Do vậy, phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu vừa coi trọng thị trường trong nước với nhiều thành phần kinh tế khác là 1 vấn đề cần quan tâm hiện nay. 2. 2. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản hơn thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường. Những quy định về xuất khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của Nhà nước phải được đổi mới và hoàn thiện . Cụ thể là: Hệ thống các văn bản pháp lý, các quy định phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng rào nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm thì không được hướng các ưu đãi. Vì vậy, Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này. - Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với điều biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi có không ít những thiếu sót và nhược điểm càn khắc phục. Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Hiện nay, ở Việt Nam thủ tục xuất nhập khẩu vẫn còn rườm rà, gây nên những phức tạp và lãng phí thời gian, công sức cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu nhiều khi còn tỏ ra quan liêu cửa quyền đã gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì vậy để cho hoạt động xuất khẩu đạt được hiệu quả nhất đối với các mặt hàng có hạn ngạch thì Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trước mắt khi chưa đưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương mại phải lựa chọn ra các công ty đáng tin cậy để giao hạn ngạch. Các công ty này phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho bãi để mua hàng. Mặt khác Bộ Thương mại cũng cần phải giám sat chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho công ty cũng như với Nhà nước. 2.3. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu - Đầu tư vốn công nghệ cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu . Hiện nay, hàng xuất khẩu chủ yếu của chúng ta chủ yếu là hàng thô, hàng qua sơ chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xuất khâu thì Nhà nước cần khuyến khích đầu tư khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị kinh tế tạo ra nguồn hàng phong phú và đa dạng đảm bảo cho xuất khẩu, cần tập trung tiếp thu chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chú ý hạn chế các công nghệ sản xuất gây tốn năng lượng nguyên liệu và gây ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. - Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất. 2.4. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế Nhà nước chủ động đa dạng hoá hình thức hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Tạo điều kiện, để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường với khách hàng, bạn hàng một cách tốt nhất. Kết luận Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu khảo sát thị trường và định hướng cho hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Từ những đánh giá về hoạt động kinh doanh ở công ty VIEXIM ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của công ty và nhất là kinh doanh xuất khẩu đang từng bước được hoàn thiện tốt hơn, phù hợp với tình hình thị trường và khả năng cung ứng của công ty. Tuy nhiên, công ty còn gặp phải rất nhiều khó khăn do nhu cầu khắt khe của thị trường ngày càng cao. Để đạt mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài công ty nên có chiến lược kinh doanh dài hạn, nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nghiên cứu khả năng về nguồn hàng để có các quyết định chính xác kịp thời, đồng thời phải có các chính sách Marrketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu của đề tài đề cập đến một trong những hoạt động chính của công ty đó là hoạt động xuất khẩu. Với hệ thống kiến thức được trang bị ở trường cùng với việc tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của công ty VIEXIM trong thời gian thực tập, tôi xin đưa ra một số kiến nghị đã trình bày ở trên, với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Hy vọng trong thời gian tới công ty sẽ đứng vững và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29046.doc
Tài liệu liên quan