Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

LờI NóI đầu Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc dân đến năm 2005 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế. Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong nước qua kênh n

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng. Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa qua, ta có thể thấy được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này. Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và với tư cách là một sinh viên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này thông qua đề tài : “Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”. Qua đây, tôi cũng đưa ra một vài biện pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Bài viết này được trình bầy làm 3 chương : Chương I : Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Chương III : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. T ôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng và nhất là thầy Nguyễn Văn Nam, đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, mà đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại phòng kinh doanh trong việc làm quen với hoạt động của Ngân hàng và trong việc thu thập và tổng hợp số liệu cho bài viết này. Đề tài : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Chương I Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. I - khái quát về Ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải qua quá trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai hoạt động của Ngân hàng chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh toán hộ thì cho đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được mở ra trên rất nhiều các lĩnh vực với công nghệ ngày càng hoàn thiện. Thực tế nhiều năm qua đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một ngành nghề không thể thiếu được trong nền kinh tế, nó đóng vai trò làm môi giới, làm trung gian cho sự gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá nhân, các tổ chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc độ quay vòng của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất kinh doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng phản ánh rất chính xác tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có rất nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM. Trong các định chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ phần lớn của xã hội. Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động trung gian tài chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua các quy chế, quy định về hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định hướng trong chính sách tiền tệ tài chính của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn đòn bẩy tác động quan trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất ... NHTM có một loên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở của nền kinh tế. NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu thông, tiêu dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó còn có quan hệ rộng rãi và có vai trò quan trọng về tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa nước ta với nước ngoài. Với mô hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội dung chủ yếu sau : + Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình thức: - Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn. - Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn. - Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. - Hậu tiền ký gửi v.v... Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước : vay các Ngân hàng Nhà nước, nhận vốn điều hoà trong hệ thống. + Sử dụng vốn tự có và vốn vay thông qua hoạt động tín dụng thực hiện các dự án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc, tài trợ xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc đá quý ... + Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành thực hiện các dịch vụ tư vấn khách hàng. Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách của Ngân hàng Nhà nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Bộ Tài Chính, bảo toàn vốn và có lãi. Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mô hình tổ chức trên, thì đây là mô hình tổ chức thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có trong mỗi NHTM và phát huy được hết vai trò của cả hệ thống NHTM nói riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói chung. II - vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế: Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua một thời gian dài trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nên bước vào cơ chế thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề lo đủ vốn để phát triển kinh tế được đưa lên hàng đầu. Đối với một nền kinh tế như nước ta thì vốn cần cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức lớn và không ngừng tăng lên. Công cuộc đổi mới mở ra toàn diện và bắt đầu đi vào chiều sâu, yêu cầu phải có vốn để tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế thưo chiều hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, tạo sự phát triển kinh tế quan trọng cho các năm tới. Đối với Ngân hàng thương mại, nó thể hiện được sự đáp ứng này đối với nền kinh tế, thông qua vai trò của mình là : 1) Ngân hàng thương mại là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu của nền kinh tế : Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn về sự thừa và sự thiếu vốn một cách tạm thời, tức là có tình trạng một thời kỳ nào đó người thì thừa tiền, trong khi lại có những người cần tiền. Đối với những người, những tổ chức có tiền tạm thời nhãn rỗi, thì vấn để đối với họ là làm sao bảo quản được số tiền đó được an toàn và nếu có thể sinh lợi được thì càng tốt. Nhưng để thực hiện được điều này, nó còn phụ thuộc vào khả năng, vào mối quan hệ của từng người, và thông thường những người có tiền tạm thời nhàn rỗi luôn tìm cách cho những người hay những tổ chức đang có nhu cầu về vốn vay trong một thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư vào sản xuất do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này hầu như rất khó thực hiện được. Do vậy, trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn này. Xét về mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay với những người đang có nu cầu sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho cả người có tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn nói riêng và đem lại hiệu quả kinh tế cho cả nền kinh tế nói chung, Ngân hàng thương mại chính là người thực hiện chức năng cầu nối này. 2) Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình ghóp phần tăng cường hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức lãi suất nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc mọi cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và phải sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo toàn vào sinh lợi được vốn đó, sau đó phải trả vốn vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn. Qua đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước khi quyết định một món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực hiện cho vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí tổ chức sản xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là động lực, là cơ sở giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế. 3) Ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia. Trong quá trình phát triển kinh tế của một nước và đặc biệt là các nước đang phát triển, thì hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các vùng diễn ra thường xuyên. Cho nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao thực hiện được việc tập trung vốn từ vùng có nhu cầu nhưng không có nguồn vốn sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển kinh tế. Chính Ngân hàng thực hiện hoạt động này thông qua hoạt động điều chuyển vốn của Ngân hàng thương mại trung ương. 4) Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động của mình ghóp phần quan trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế. Trong hoạt động của mình, Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào đồng thời tăng lãi suất ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ kinh tế có lạm phát cao, hoặc các Ngân hàng có thể hành động ngược lại khi nền kinh tế có hiện tượng giảm sút. Qua việc thay đổi trong chính sách huy động và cho vay như trên, Ngân hàng góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn chặn được sự tăng giá đột ngột, kiềm chế làm phát làm ổn định nền kinh tế. 5) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hòa nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế trên thế giới. Một Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi với rất nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá nhân, tổ chức ngoài nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó đảm bảo được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách có hiệu quả hơn, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, tư vấn tài trợ xuất nhập khẩu. Ngân hàng có thể làm đại lý cho các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài qua đó giúp các tổ chức kinh tế trong nước có thể vau vốn các tổ chức này để nhập công nghệ cao, nang cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh trạnh với thị trường quốc tế. Trên đây, là toàn bộ khái quát về vài trò của hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên góc độ một sinh viên nghiên cứu về hoạt động đầu vào của một ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn ta sẽ xem xét kỹ hơn vấn đền này thông qua việc huy động vốn của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Iii - cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại : Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt, vì vị trí và vai trò của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân hàng thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm : 1) Nguồn vốn tự có : Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là : + Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại, là tiêu chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy mô thì vốn điều lệ lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM quốc doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu (đối với NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn ra (đối với Ngân hàng tư nhân). Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban đầu của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn này (đối với NHTM quốc doanh). + Vốn tích lũy : Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thông qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào vồn tự có của Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định của từng nước. 2) Vốn dự trữ : Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các Ngân hàng trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm : - Dự trữ tối thiểu pháp định. - Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng. - Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định. 3) Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống. Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động nhiều nhưng không sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do : Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến động lớn ở thị trường đầu ra dẫn đến việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn phải duy trì việc huy động vốn vì mục đích giữ khách hàng. Còn về phía bên Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra mở rộng trong khi thị trường đầu vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến tình trạng thiếu vốn. Chính lúc này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện việc điều phối chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp Ngân hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường đầu vào vẫn còn bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng. 4) Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng : + Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước: NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng, họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước, tiền triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu là để đảm bảo kảh năng thanh toán của Ngân hàng. + Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế : Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát triển, bởi vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải được phép của Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp định. 5) Nguồn vốn huy động: Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể hoạt động để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình thức khác nhau. - Nhận tiền gửi của khách hàng. - Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng. - Vốn phát hành. Ngân hàng có quyền sử dụng số tiền này để phục vụ cho các mục đích của mình. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, việc huy động vốn của Ngân hàng theo quy chế tập trung toàn ngành và phụ thuộc vào chủ tiêu do trên giao thì này chuyển sang hạch toán kinh doanh, huy động vốn đuợc thực hiện một cách linh hoạt căn cứ vào các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và nhu cầu vay vốn của nền kinh tế. Chi tiết về các hình thức này sẽ được trình bầy trong phần “ Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng” IV - các hình thức huy động vốn của NHTM : 1 Tính chất vận động của nguồn vốn huy động :\ Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”. Do đó, khi huy động vốn, giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế hình thành một quan hệ tín dụng thông qua vận động giá trị tiền gửi, vồn huy động được vận động trên cơ sở hoàn trả và có lãi. Quá trình đó được thể hiện ở giai đoạn sau : - Giai đoạn tập trung nguồn vốn vào ngân hàng, ở giai đoạn này tiền được chuyển từ các tổ chức kinh tế, dân cư, người cho vay sang Ngân hàng - người đi vay. Như vậy, ta thấy rằng đặc điểm cở bản khác với việc đi mua bán hàng hoá là giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại. Mác viết : “Đối với hàng hoá đơn giản với tư cách là hàng hoá thì ở trong tay người mua hay người bán, nó cũng vẫn là một giá trị như thế, chỉ dưới hình thức khác nhau mà thôi”. Người bán và người mua đều có một giá trị như trước, giá trị này mà họ đã nhượng đi, người thứ 1 thì nhượng đi dưới hình thức hàng hoá, người thứ 2 nhượng đi dưới hình thức tiền tệ ... trong việc cho vay thì chỉ có một bên được nhận giá trị và chỉ có một bên nhượng đi giá trị mà thôi...? ( Các Mác tư bản tập 3 trang 32). - Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất sau khi huy động vốn ngân hàng (người đi vay) được quyền sử dụng vốn đó để thoả mãn những nhu cầu về vốn nhất định ở giai đoạn nàynguồn vốn huy động được sử dụng tham gia trực tiếp vào sản xuất hoặc đáp ứng những nhu cầu về tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị các khoản vay không có quyền sở hữu về gía trị các khoản vay đó mà chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. - ở giai đoạn hoàn trả: Đây có thể nói là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của nguồn vốn huy động. Sau khi vốn mà ngân hàng đã huy động tham gia hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì ngân hàng hoàn trả cho các tổ chức kinh tế và dân cư. Mác viết: “ Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữumột thời gian và chẳng qua chỉ là tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một thời gian nhất định” ( Các Mác- tư bản quyển 3 tập 2 trang 57). Như vậy, hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của vốn tín dụng. Mặt khác sự hoàn trả của mỗi nguồn vốn huy động là quá trình quay trở về giá trị. Hình thái vật chất của sự hoàn trả là sự vận động dưới hình thức giá trị. Tuy nhiên sự vận động đó không phải vơí tư cách là phương tiện lưu thông mà với tư cách là một lượng giá trị vận động. Chính vì lý do đosự hoàn trả luôn được bảo tồn về mặt giá trị và phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ngay cả trong điều kiện lạm phát sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được bảo đảm và tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi xuất. 2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động. Vốn huy động của ngân hàng chủ yếu được hình thành thông qua quá trình tập trung một bộ phận tiền tệ của dân cư, của các đơn vị kinh tế . Do vậy hoạt động huy động vốn của một ngân hàng thương mại chịu tác động của rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô đến các yếu tố ở tầm vi mô. Trong đó các yếu tố chính yếu được phân tích như sau: a. Yếu tố lãi xuất huy động: Không phải ngân hàng cứ đưa ra được mức lãi xuất cao là có thể thu hút được vốn nhàn rỗi của dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi xuất cụ thể do ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu, điều đó có nghĩa là mức lãi xuất mà ngân hàng đưa ra phải đảm bảo luôn lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Thông thường quy mô của tiền gửi ngân hàng biến động tỷ lệ thuận với lãi xuất huy động. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt thì quy luật này bị phá vỡ. Chẳng hạn khi lãi xuất huy động giảm nhưng người g ửi vẫn thu được một khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn lưu động ở ngân hàng vẫn có thể tăng lên. Như vậy, có thể nói lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng lơn đến quy mô nguồn vốn thu hút vào Ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất vấn ảnh hưởng lớn nhất đến tiền gửi tiết kiệm, Chính vì lẽ đó, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể, Ngân hàng cần phải căn cứ vào tình hình nền kinh tế, vào chính sách tín dụng phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. b) Tính chất ổn định của nền kinh tế xã hội : Một xã hội, một nền kinh tế được đánh giá là ổn định khi nó không có dấu hiệu xảy ra của làm phát, của khủng hoảng hay chiến tranh. Nếu nền kinh tế xã hội được ổn định thì đời sống nhân dân được nâng cao. Việc sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế được phát triển thì vốn Ngân hàng sẽ lớn. Còn ngược lại trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định giá cả và do đó sức mua của đồng tiền thau đổi thường xuyên, dân cư thường có xu hướng giữ tiền mặt hoặc quy đổi ra các đồng tiền khác có tính ổn định cao và cất giữ trong gia đình thay vì đem số tiền đó đến gửi tại các Ngân hàng, các quỹ tiết kiệm. Đặc biệt là trong các nước mà hệ thống Ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng trung ương trong vấn đề lãi suất thì hiện tượng trên rất phổ biến do sẹ thay đổi vủa lãi suất huy động mà Ngân hàng đưa ra không thau đổi kịp với sự biến động của giá cả trên thị trường. c) Yếu tố tiết kiệm trong nền kinh tế: Vốn huy động của một Ngân hàng thương mại chủ yếu được hình thành từ nguồn huy động trong dân cư. Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được chủ yếu là do tiết kiệm, chính vì vậy mà công tác huy động vốn của một Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tiết kiệm. Nếu có tiết kiệm sẽ làm tăng khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, qua đó có thể làm tăng quy mô và chất lượng công tác huy động vốn của Ngân hàng. Tuy nhiên, bản thân yếu tố tiết kiệm chịu sự tác động của các yếu tố khác như : Tâm ly người tiêu dùng trong dân cư : Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến yếu tố tích kiệmm, bởi vì tâm lý tiêu dùng của dân rất khác nhau giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia. Có thể với cùng một mức thu nhập, cùng một giá sinh hoạt như nhay nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ ra vào tiết kiệm rất lớn nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng của dân cư ở đây. Chính vì lẽ đó thu nhập cao chưa hẳn tiết kiệm đã cao. Thu nhập của dân cư : Dân cư có thu nhập càng cao thì khối lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể cũng tăng nhiều, bởi vì với mức thu nhập lớn thì khả năng thoả mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn d) Một số yếu tố khác: Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng : Nếu hình thức này mà Ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn đầu tư từ trong nền kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, mức độ đa dạng của các hình thức huy động mà Ngân hàng đưa ra còn phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm kinh tế khu vực, vào khả năng của Ngân hàng, chính vì vậy mà Ngân hàng cần phải lựa chọn xem hình thức huy động nào là mang tính hiệu quả cao nhất. Các dịch vụ kèm theo : Ngân hàng cũng là hoạt động dịch vụ, nhưng dịch vụ kèm theo các nghiệp vụ chính của nó không vì thế mà mất đi séc hấp dẫn, trong công tác huy động vốn Ngân hàng nào tổ chức tốt được công tác dịch vụ kèm theo các hình thức tổ chức huy động của mình sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn và việc tổ chức tốt công tác dịch vụ kèm theo trong công tác huy động vốn nói riêng, trong hoạt động của Ngân hàng nói chùng được xem là một trong những biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Trên đây, là nhữn nhân tố chính ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động của một Ngân hàng thương mại trong đó yếu tố tiết kiệm được xem là yếu tố chính nằm bên ngoài Ngân hàng, Ngân hàng chỉ có thể tác động đến yếu tố này thông qua hoạt động quảng cáo và sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức Nhà nước và dân cư trong xã hội. Các yếu tố còn lại là các yếu tố nội tại trong Ngân hàng, do vậy mọi Ngân hàng phải có chính sách và hoạt động một cách tích cực, có lợi và hiệu quả nhất đối với công tác huy động vốn. Tuy vậy, kết quả ra sao còn tuỳ thuộc vào đặc điểm, trình độ và khả năng của mỗi Ngân hàng. 3) Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng. Một trong những hoạt động chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay, để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại ta có thể phân loại ra nghiệp vụ vốn theo sơ đồ sau : Vốn đi vay của tài chính tín dụng Tiền gửi của khách hàng Vốn phát hành Nguồn vốn huy động của Ngân hàng thương mại Tiền tiết kiệm Tiền ký gửi Phát hành trái phiếu Phát hành kỳ phiếu Ký gửi có kỳ hạn Ký gửi không kỳ hạn Gửi rút ra phải báo trước Gửi để dành có hạn 3.1 Tiển gửi của khách hàng: Tiền gửi của khách hàng bao gồm : tiền gửi tiết kiệm và tiền ký gửi. a) Tiền ký gửi: Tiền ký gửi gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Lịch sử phát triển hoạt động Ngân hàng cho thấy để bảo quản tốt tiền vàng, người ta đã thuê sở đúc tiền giữ hộ và sở này sẽ có một khoản thu nhập từ việc bảo quản tiền vàng. Đây là hình thức ban đầu của nghiệp vụ ký gửi. Hiện nay có rất nhiều loại tiền ký gửi. Đó là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tài khoản của các cơ quan xí nghiệp. Để có được tuận lợi trong sản xuất kinh doanh các cơ sở kinh tế có thể lựa chọn một hay nhiều Ngân hàng thương mại để giao dịch nhằm giải quyết việc thu chi chuyển tiền thanh toán và các dịch vụ tài chính khác. Xét về mặt nghiệp vụ Ngân hàng thì tiền ký gửi có thể phân thành hai loại chính đó là : Tiền gửi không kỳ hạn : đây là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài khoản thanh toán và có thể rút ra vào kỳ lúc nào. Pháp luật một số nước không cho phép tính lãi đối với tiền tạm thời nhãn rỗi trong tài khoản cơ quan xn. Tuy nhiên, cũng có nước cho phép tính lãi nhưng rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn trước hết được dùng để thanh toán vãng lai, vịec thanh toán vãng lai này có thể tiến hành dưới dạng tiền mặt, séc hoặc uỷ nhiệm chi. Sau khi mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho Ngân hàng quyền ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ phát dinh trên tài khoản của họ ở Ngân hàng. Chi phí hoạt động này của Ngân hàng khá lớn nhưng trên thực tế Ngân hàng có thể bù đắp được khoản chi phí này qua việc sử dụng số dư các tài khoản này để cho vay lại, và đây chính là nguồn mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có thể để ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi. Hai loại tài khoản này khác nhau ở chỗ nếu để ở tài khoản tiền gửi thì chủ tài khoản được sử dụng số thực của mình nghĩa là tài khoản khách hàng phải luôn luôn dư có. Loại tài khoản này thuận lợi, an toàn, tuy có lãi suất thấp, thuận tiện trong thanh toán (có thể chuyển đổi thành tiền mặt 100%) nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn khách hàng, tạo ra một lượng vốn lớn phục vụ hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Nếu ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút tài khoản ra bất cứ lúc nào hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định vì tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có. Nhưng trên thực tế hiện này trong các tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ nếu có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng. Đối với tài khoản vãng lai có hai loại lãi suất được áp dụng đồng thời: lãi suất mà đơn vị phải trả cho Ngân hàng (nếu dư nợ trên tài khoản) và lãi suất lãi suất này do chủ tài khoản và Ngân hàng phải trả cho đơn vị (nếu tài khoản dư có), hai lãi suất này di chủ tài khoản và Ngân hàng thoả thuận trước và lãi suất trả cho số dư nợ luôn lớn hơn lãi suất trả cho số dư có. Chính vì vậy mà khách hàng luôn tìm cách bỏ tiền vào tài khoản nhằm giảm mức dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng nguồn vốn của Ngân hàng. Trong những năm qua ý nghĩa của tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng tăng lên rõ rệt. Nếu trước đây những tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng chủ yếu của doanh nghiệp và của những người thu nhập cao thì ngày nay đa số công nhân viên chức đều có tài khoản tiết kiệm bởi vì một mặt các công ty, xí nghiệp hợp lý nhất là trả lương không bằng tiền mặt, thêm vào đó ngân hàng thương mại lại có rất nhiều dịch vụ giúp cho chủ tài khoản thanh thanh toán kịp thời nhanh chóng các tài khoản chi tiêu thường kỳ của họ như : tiền thuê nhà, thuê bao điện thoại, nộp thuế ... Do đó tiền gửi không kỳ hạn đã trở thành một nguồn cho vay hết sức quan trọng đồng thười cũng đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng. Tiền g ửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi không dùng để thanh toán mà chủ yếu là để kiếm lời cao. So với tiền gửi vãng lai thì loại tiền gửi này có thời hạn gửi tiền dài hơn thông thường ít nhất là 1 tháng. Tiền gửi có kỳ hạn đối vơi snhh là số tiền gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho Ngân hàng nắm được vốn trong các thời kỳ đã có kế hoạhc cho vay không phải tồn quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường. Đo đó việc sử dụng nguồn vốn này cho vay rất hiệu quả, vì vậy lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. Đối với tiền có kỳ hạn đến hạn mới được lấy ra, nếu xét về nguyên tắc. Tuy nhiên trong trường hợp ngoại lệ người gửi muốn rút tiền ra trước thời hạn, trong trường hợp này có 2 cách giải quyết. Hoặc người gửi tiền ấy được vay của Ngân hàng một khoản tiền mà họ cần, sau đó khi đến hạn trả tiền sẽ sử dụng tiền đó để hoàn trả cho Ngân hàng. Hoặc thoả thuận với Ngân hàng rút trước thời hạn nhưng hưởng lãi suất thấp. Ta thấy trong mọi trường hợp thì Ngân hàng luôn tự chủ được về thời hạn hoàn trả tiền ký gửi cho khách hàng, vì vậy đấy là một nguồn rất quan trọng, có độ ổn định cao của Ngân hàng. b) Tiền gửi tiết kiệm: ở các nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp hoá phát triển tiền tiết kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này được coi như là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Gửi tiết kiệm là những người có được một số tiền tích luỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất định và muốn tích luỹ số tiền này theo kiểu “tích tiểu thành đại”, Hoặc do số tiền của họ không đủ lớn để đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc người chủ không có khả năng hoặc không thích kinh doanh, khi đó họ sẽ đến Ngân hàng để gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm chia làm 2 loại : - Gửi tiền có kỳ hạn. - Gửi tiền không kỳ hạn. Gửi tiền có kỳ hạn : ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34212.doc
Tài liệu liên quan