MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG, DANH MỤC HÌNH
IV
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
V
MỞ ĐẦU
VI
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1
I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1
1.
Khái niệm ngân sách, chức năng, vai trò của ngân sách
1
1.1.
Khái niệm NSNN và phân loại thu NSNN
1
1.2.
Chức năng của thu ngân sách nhà nước
4
1.2.1
Chức năng phân bổ nguồn lực
4
1.2.2
Chức năng phân phối lại thu nhập
5
1.3
Vai trò của NSNN
7
2.
Các nhân tố tác động đến Thu ngân s
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách
8
2.1.
Thực trạng của nền kinh tế
8
2.2.
Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu NSNN
10
2.3.
Tổ chức, quản lý thực hiện thu ngân sách
12
II.
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ THU NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
15
1.
Khái quát quá trình xây dựng Luật ngân sách
15
2.
Các quy định hiện hành trong lĩnh vực thu ngân sách
17
2.1
Luật ngân sách 2002
17
2.1.1
Quy định về các khoản thu ngân sách địa phương
17
2.1.2
Phân cấp quản lý thu ngân sách
19
2.2
Tổ chức bộ máy thu và phân cấp quản lý thu ngân sách của thành phố Hà Nội
19
2.3
Một số Luật Thuế hiện hành
23
2.3.1
Luật thuế GTGT
24
2.3.2
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
25
2.3.3
Thuế xuất nhập khẩu
25
2.3.4
Thuế thu nhập doanh nghiệp
26
2.3.5
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
27
2.4.
Phí và lệ phí
28
Chương II:
THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2001-2005 CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
30
I.
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2001-2005
30
1.
Kinh tế Thủ đô chia theo ngành kinh tế
30
2.
Kinh tế Thủ đô chia theo thành phần kinh tế
33
II.
THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2001-2005
36
1.
Đánh giá tổng quát kết quả thu ngân sách 2001-2005
36
2.
Kết quả thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo từng khoản mục
39
3.
Kết quả thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội chia theo sắc thuế
52
4.
Kết quả phân cấp thu ngân sách thành phố giai đoạn qua
55
5.
Đánh giá chung lại tình hình thu NS giai đoạn qua, tổng hợp tồn tại và nguyên nhân chính
57
III.
ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG CƯỜNG NGUỒN THU CỦA HÀ NỘI
58
1.
Nhân tố tăng trưởng kinh tế
58
2.
Nhân tố cơ chế, chính sách
60
3.
Nhân tố tổ chức thực hiện thu
62
Chương III:
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THU NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2006-2010
66
I.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦ ĐÔ, NHỮNG QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU THU NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2006-2010
66
1.
Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến sự phát triển của Hà Nội
66
2.
Kế hoạch phát triển kinh tế Thủ đô và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu
68
II.
NHỮNG THUẬN LỢI KHÓ KHĂN VÀ XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NGÂN SÁCH Ở HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006-2010
74
III.
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THU NGÂN SÁCH
76
1.
Nuôi dưỡng nguồn thu
77
2.
Kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách thu ngân sách
80
3.
Các biện pháp hành thu nhằm xây dựng hệ thống quản lý thu thuế hiệu quả, trong sạch
83
3.1
Xây dựng bộ máy hành thu tinh giản, hiệu quả
84
3.2
Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa công tác thu
85
3.3
Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
86
3.4
Tăng cường biện pháp quản lý đối tượng chịu thuế
87
3.5
Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền thuế
88
3.6
Các biện pháp quản lý con người, phòng chống tiêu cực trong công tác hành thu NSNN trên địa bàn
89
KẾT LUẬN
IX
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
XI
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1
Tổng sản phẩm nội địa Hà Nội chia theo thành phần kinh tế
35
Bảng 2:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội địa Hà Nội chia theo thành phần kinh tế
35
Bảng 3:
Kết quả thu NSNN trên địa bàn Hà Nội 2001-2005
38
Bảng 4:
Kết quả thu NS trên địa bàn Hà Nội theo từng khoản mục
40
Bảng 5:
Thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất kinh doanh
43
Bảng 6:
Tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất kinh doanh
43
Bảng 7:
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa theo thành phần kinh tế
44
Bảng 8:
Thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo sắc thuế
52
Bảng 9:
Tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo sắc thuế
53
DANH MỤC HÌNH
Hình 1:
Kết quả thu NSNN trên địa bàn Hà Nội
38
Hình 2:
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng thu ngân sách
39
Hình 3:
Cơ cấu nguồn thu ngân sách
41
Hình 4:
Biểu đồ tốc độ tăng thu NS từ kinh tế ngoài nhà nước và tốc độ tăng trưởng sản phẩm nội địa khu vực này
50
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
NSNN Ngân sách nhà nước
NS Ngân sách
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NN Nhà nước
TƯ Trung ương
ĐP Địa phương
VĐT Vốn đầu tư
GDP Tổng sản phẩm nội địa
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA Viện trợ nước ngoài
HĐ SXKD Hoạt động sản xuất kinh doanh
XNK Xuất, nhập khẩu
GTGT Giá trị gia tăng
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, câu hỏi nghiên cứu
Điều 1 của Luật ngân sách 2002 quy định: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Một thực trạng đối với Ngân sách Việt Nam là luôn ở trong tình trạng bội chi với mức thâm hụt lớn. Cân bằng cán cân Thu - Chi ngân sách luôn là một trong những mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước. Để cân bằng Thu - Chi, có hai hướng đặt ra giải pháp là tăng thu và giảm chi. Nhiều năm qua, Chính phủ đã có nhiều cố gắng để giảm thiểu chi hành chính, sự nghiệp, tăng cường chi cho đầu tư phát triển và xây dựng cơ bản, chi đúng chỗ, chi hiệu quả, tiết kiệm. Bởi đầu tư của Nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, nên tình trạng thâm hụt ngân sách là không tránh khỏi, nhưng thâm hụt mức độ nào là hợp lý đòi hỏi nhiều nỗ lực. Nhằm đảm bảo cho nhu cầu chi rất lớn, tăng cường thu NSNN là rất cần thiết. Nguồn thu ngân sách chủ yếu từ Thuế (ngoài ra là từ phí, lệ phí, và một số nguồn thu khác). Thuế lại là một phương tiện điều tiết rất quan trọng của nhà nước, một thay đổi về thuế có thể gây biến động đến nền kinh tế - xã hội. Vừa đảm bảo cho tăng trưởng, phát triển kinh tế cùng nhiều mục tiêu khác, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách là nhiệm vụ vô cùng nan giải và có nhiều điều đáng bàn. Thực hiện nhiệm vụ này phải bắt đầu từ mỗi đơn vị thu ngân sách nhà nước, từ cấp tỉnh, thành phố.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị lớn của cả nước. Thành phố có tốc độ phát triển kinh tế hàng năm cao, đạt 11-13%/năm, đóng góp vào ngân sách nhà nước mỗi năm đạt khoảng 14-16%, là một trong những nguồn thu lớn của NSNN. Là thành phố có cơ sở hạ tầng hiện đại bậc nhất cả nước, có điều kiện thuận lợi về nhiều mặt, Hà Nội luôn có trình độ phát triển kinh tế - xã hội hàng đầu Việt Nam, là trung tâm kinh tế của vùng. Có thể nói nguồn thu ngân sách trên địa bàn Hà Nội là tương đối lớn, tuy nhiên thực tế thu còn chưa tương xứng. Với vai trò là Thủ đô, là trung tâm kinh tế lớn, trước nhiệm vụ đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, Hà Nội cần phải tiên phong trong việc cải cách, tăng cường công tác thu.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn lĩnh vực thu ngân sách, lấy Hà Nội làm địa bàn nghiên cứu, với đề tài: “Một số biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010”.
Sau một thời gian tìm hiểu công tác thu ngân sách của Thành phố, tôi nhận thấy vấn đề bức xúc nóng bỏng trong thời gian qua là số thu chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân có rất nhiều, trong đó những nguyên nhân chính nằm ở cơ chế chính sách, và tổ chức thực hiện thu còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng trốn thuế và gian lận thuế còn khá phổ biến. Qua đề tài này, tôi muốn kiểm chứng lại những nhận định trên thông qua phân tích thực trạng thu ngân sách của thành phố giai đoạn 2001-2005, từ đó đưa ra những biện pháp để hoàn thiện công tác thu trong giai đoạn tới 2006-2010.
2. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa trên số liệu thống kê, số liệu trong các Báo cáo quyết toán thu ngân sách hàng năm của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (thực tế đã thu được kết quả tốt), để tiến hành phân tích những biến động của thu, và các thành phần thu.
- Thu thập tài liệu về tình hình phát triển kinh tế Thủ đô giai đoạn 2001-2005 vừa qua. Chủ yếu trên những nội dung: tình hình tăng trưởng chung của nền kinh tế; cơ cấu thành phần, tốc độ tăng trưởng của một số ngành, thành phần chủ chốt. Từ đó chỉ ra tiềm năng thu ngân sách thành phố.
- Tiến hành đối chiếu thực trạng thu và tiềm năng thu để thấy được vấn đề đặt ra hiện tại. Phân tích sâu để tìm ra nguyên nhân dựa trên 2 tiêu chí: cơ chế chính sách, và tổ chức thực hiện thu, đồng thời qua đó đề xuất các giải pháp.
- Quá trình phân tích tìm hiểu sẽ kết hợp với phỏng vấn, xin ý kiến các chuyên gia, các cán bộ am hiểu thuế, về thu ngân sách.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác thu ngân sách của thành phố Hà Nội trên địa bàn trong giai đoạn vừa qua 2001-2005, đặt trong mối tương quan với quá trình phát triển kinh tế Thủ đô. Từ đó phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thu ngân sách của thành phố trong giai đoạn tới 2006-2010.
Đề tài hy vọng phân tích đúng, và đề ra được những giải pháp có tính khả thi, có ý nghĩa thực tiễn để tăng cường công tác thu ngân sách cho không chỉ thành phố Hà Nội, mà còn có thể vận dụng cho nhiều địa phương khác cũng như cả nước.
3. Nội dung chính của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được chia thành 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về thu Ngân sách nhà nước.
- Chương II: Thực trạng thu ngân sách giai đoạn 2001-2005 của thành phố Hà Nội.
- Chương III: Giải pháp tăng cường công tác thu ngân sách giai đoạn 2006-2010.
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách, chức năng, vai trò của ngân sách
1.1. Khái niệm NSNN và phân loại thu NSNN
Từ “ngân sách” xuất phát từ một thuật ngữ tiếng Anh thời Trung cổ “budjet” chỉ một chiếc túi của nhà vua, trong đó có chứa những khoản tiền cần thiết cho những khoản chi tiêu công cộng như: đắp đê phòng chống lũ lụt, xây dựng đường xá và chi tiêu cho bản thân hoàng gia không có sự tách biệt nhau. Khi giai cấp tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và đòi hỏi tách bạch hai khoản chi tiêu này, từ đó nảy sinh khái niệm ngân sách nhà nước.
Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách Nhà nước.
Từ điển tiếng Việt thông dụng định nghĩa: “Ngân sách: Tổng số thu và chi của một đơn vị trong một thời gian nhất định”.
Điều 1 của Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002 khẳng định: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Như vậy, khái niệm ngân sách được hiểu khá nhất quán, chuyên đề sử dụng khái niệm ngân sách, tìm hiểu về ngân sách theo những căn cứ của Luật ngân sách nhà nước 2002.
Trong khái niệm, ngân sách được hiểu là toàn bộ các khoản thu, chi. Về bản chất, đằng sau những con số thu, chi đó là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể khác như: doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
Ngân sách Nhà nước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, điều này thể hiện tính hệ thống của ngân sách nhà nước, bao gồm: ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay, ngân sách địa phương gồm: ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh), ngân sách cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện) và ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Thu ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận giá trị của cải xã hội hình thành quỹ ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thu ngân sách bao gồm rất nhiều loại, ngoài các khoản thu chính từ thuế, phí, lệ phí, còn có các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, từ đóng góp của các cá nhân trong và ngoài nước, hay các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Để cung cấp thông tin một cách có hệ thống, công khai minh bạch, đảm bảo trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu quản lý của các đối tượng thì việc phân loại các khoản thu theo những tiêu thức nhất định là rất cần thiết. Hiện nay, trong quản lý thu ngân sách thường dùng hai cách phân loại chính, đó là phân loại theo phạm vi phát sinh và theo nội dung kinh tế.
- Căn cứ vào phạm vi phát sinh, các khoản thu NSNN được chia thành: Thu trong nước và thu ngoài nước.
Thu trong nước là các khoản thu ngân sách phát sinh tại Việt Nam, gồm:
Thu từ các loại thuế như (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao...). Ngoài ra còn có các khoản thu từ phí, lệ phí, tiền thu hồi vốn ngân sách, thu hồi tiền cho vay (cả gốc và lãi), thu từ vốn góp của Nhà nước, thu sự nghiệp...
Thu ngoài nước là những khoản thu phát sinh không tại Việt Nam bao gồm: các khoản đóng góp tự nguyện, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam.
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu chi, chính phủ có thể vay nợ trong nước, ngoài nước thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay ODA,...
Việc phân loại theo các khoản thu ngân sách trên cho phép đánh giá được mức độ huy động các nguồn thu ở các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế; cũng như tổng quan thu trong nước, ngoài nước. Từ đó có chính sách, biện pháp khai thác các nguồn thu hợp lý ở các khu vực, cân đối trong và ngoài nước.
- Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu NSNN ở nước ta gồm:
+ Thuế, phí, lệ phí do tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của pháp luật (tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi tiền cho vay; thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế…).
+ Thu từ hoạt động sự nghiệp; tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích; Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
+ Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước.
+ Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị nhà nước.
+ Thu từ Quỹ đất dự trữ tài chính; thu kết dư ngân sách.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
Cách phân loại này giúp cho việc xem xét từng nội dung thu theo tính chất và hình thức động viên vào ngân sách, đánh giá tính cân đối, bền vững, hợp lý về cơ cấu các nguồn thu. Trên cơ sở đó giúp cho việc hoạch định chính sách cũng như tổ chức điều hành ngân sách phù hợp với các mục tiêu nhà nước theo đuổi trong từng thời kỳ.
Ngoài ra trong quản lý NSNN, trong các biểu mẫu về thu NSNN người ta thường phân loại thu ngân sách theo nguồn hình thành nguồn thu thành các nhóm lớn là: Thu cân đối ngân sách; thu vay để cân đối ngân sách trung ương; thu để lại đơn vị chi quản lý qua ngân sách; thu chuyển giao giữa các cấp ngân sách; các khoản tạm thu và vay khác của NSNN.
1.2. Chức năng của thu ngân sách nhà nước
NSNN là thành phần chủ đạo trong tài chính công, gắn liền với vai trò và chức năng của nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đó là ba chức năng, phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập và điều chỉnh kiểm soát. Trong đó, thu NSNN tham gia rõ nét vào chức năng phân bổ và phân phối thu nhập. Đặc biệt là chức năng phân phối thu nhập.
1.2.1. Chức năng phân bổ nguồn lực
Chức năng phân bổ nguồn lực của NSNN là khả năng khách quan mà nhờ vào đó các nguồn tài lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước được tổ chức, sắp xếp, phân phối một cách có tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội của việc sử dụng các nguồn tài lực đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc và ổn định theo các tỷ lệ cân đối đã định của chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đó, hình thành chức năng này của NSNN, quá trình thu đóng vai trò huy động, tập trung một phần những nguồn lực mà xã hội sử dụng một cách hợp lý có tính đến khả năng của các đối tượng huy động cũng như thể hiện thái độ của Nhà nước với những thành phần đó.
Ở nước ta, trong những năm trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp nguồn tài chính từ ngân sách cho phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội. Bởi vậy, ngân sách nhà nước được hiểu như là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ nguồn lực xã hội đều tập trung trong tay nhà nước, và việc sử dụng các nguồn lực này không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước xóa bỏ dần những can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế - xã hội, chủ yếu thực hiện chức năng quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, việc bao cấp cho các hoạt động kinh tế - xã hội cũng giảm dần. Bởi vậy, thể hiện chức năng phân bổ nguồn lực, thu NSNN chỉ tập trung vào một phần những nguồn lực của xã hội để phục vụ cho những mục tiêu trọng điểm, những gì mà thị trường còn chưa tính đến.
Kết quả trực tiếp của việc vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực là các quỹ ngân sách được tạo lập, được phân phối và sử dụng. Việc tạo lập, phân phối và sử dụng một cách đúng đắn, hợp lý các quỹ ngân sách đó chính là sự phân bổ một cách tối ưu các nguồn lực tài chính thuộc quyền chi phối của các chủ thể công, nó tác động mạnh mẽ tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính của toàn xã hội: thúc đẩy hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế xã hội bằng việc tính toán, sắp xếp các tỷ lệ cân đối quan trọng trong phân bổ các nguồn tài chính. Một sự phân bổ như thế sẽ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế.
Chức năng phân bổ của thu NSNN, thể hiện ở việc thu ngân sách phải trên cơ sở thực lực nguồn lực tài chính của toàn xã hội, có cân nhắc cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước trong từng thời kỳ và theo sát các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng là một tiêu chuẩn quan trọng. Phân bổ nguồn lực tài chính phải nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô là hiệu quả, ổn định và phát triển kinh tế.
1.2.2. Chức năng phân phối lại thu nhập
Chức năng phân phối lại thu nhập của thu NSNN là khả năng khách quan mà nhờ vào đó ngân sách được sử dụng vào việc phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong phân phối và hưởng thụ kết quả của sản xuất xã hội.
Trong chức năng này, chủ thể phân phối là Nhà nước trên tư cách người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối là các nguồn tài chính đã thuộc sở hữu công cộng hoặc đang là thu nhập của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội mà Nhà nước tham gia điều tiết.
Công bằng về phân phối được biểu hiện trên hai khía cạnh: công bằng về mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội. Như đã biết, công bằng về kinh tế là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường. Do giá cả thị trường quyết định mà việc đưa ra các yếu tố đầu vào (chi tiêu) và việc thu nhận thù lao các yếu tố (thu nhập) là tương xứng với nhau, nó được thực hiện theo sự trao đổi ngang giá trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. Chẳng hạn, việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo lao động, trong đó, cá nhân bằng việc bỏ ra sức lao động mà có được thu nhập, nhưng thu nhập mà họ nhận được (thù lao cho lao động) là tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ bỏ ra. Đó là sự công bằng về kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do những yếu tố sản xuất của các chủ thể kinh tế hoặc các cá nhân không giống nhau, sức khỏe, trình độ, hoàn cảnh,... không giống nhau mà thu nhập của các chủ thể kinh tế hoặc của các cá nhân có sự chênh lệch. Sự chênh lệch thu nhập này vượt quá giới hạn nào đó sẽ dẫn đến bất công bằng xã hội. Như vậy, mặc dù đạt đến sự công bằng về mặt kinh tế thì vẫn có sự bất công bằng về mặt xã hội. Yêu cầu công bằng xã hội là duy trì sự chênh lệch trong phạm vi hợp lý, thích ứng với từng giai đoạn mà xã hội có thể chấp nhận được.
Trong lĩnh vực này, thu NSNN được sử dụng làm công cụ để điều chỉnh lại thu nhập mà các chủ thể trong xã hội đang nắm giữ. Sự điều chỉnh này được thực hiện theo hai hướng là điều tiết bớt các thu nhập cao và hỗ trợ các thu nhập thấp. Đối với những thu nhập do thị trường hình thành như tiền lương của người lao động, lợi nhuận doanh nghiệp, thu nhập về cho thuê, thu nhập về tài sản, thu nhập về lợi tức cổ phần... thì chức năng của thu NSNN là thông qua việc phân phối lại để điều tiết. Những nhu cầu như y tế, bảo vệ sức khỏe, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội... thì được đáp ứng thông qua phân phối tập trung từ nguồn thu NSNN.
Trong việc điều tiết thu nhập, thu thuế là biện pháp chủ yếu. Thông qua các thứ thuế gián thu để điều tiết tương đối giá cả của các loại hàng hóa, từ đó điều tiết sự phân phối các yếu tố sản xuất của các chủ thể kinh tế. Thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp để điều tiết lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông qua thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập lao động và thu nhập phi lao động của cá nhân (thu nhập về tài sản, tiền cho thuê, lợi tức...). Thông qua công cụ thuế, các thu nhập cao được điều tiết bớt một phần và được tập trung vào NSNN.
Trong việc hỗ trợ thu nhập, chi tiêu công là biện pháp chủ yếu. NSNN sử dụng các nguồn tài chính đã tập trung được, trong đó có một phần là nguồn tài chính điều tiết từ các thu nhập cao, để chi cho các biện pháp văn hóa xã hội kể trên nhằm hỗ trợ thu nhập cho những người có thu nhập thấp. Như vậy, với tư cách là chủ thể của chức năng tái phân phối thu nhập, Nhà nước đóng vai trò như người trung gian trong việc điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, hạ thấp bớt các thu nhập cao và nâng cao thêm các thu nhập thấp nhằm rút ngắn độ chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân.
Khác với chức năng phân bổ nguồn lực, chức năng phân phối lại thu nhập được đề cập với sự quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh xã hội của sự phân phối. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần nhận thức và xử lý hợp lý mối quan hệ giữa mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả của kinh tế vĩ mô. Trong nhiều trường hợp, để đạt mục tiêu công bằng, sự phân phối lại làm tổn hại tới mục tiêu hiệu quả. Chẳng hạn, một sự đánh thuế quá cao vào thu nhập sẽ hạn chế tác dụng thúc đẩy tăng tiết kiệm và tăng đầu tư của tư nhân, đồng thời, có thể dẫn đến hiện tượng tìm cách trốn thuế do tình trạng quá tải của thuế mang lại. Hay một sự trợ cấp xã hội tràn lan, thiếu tính toán cân nhắc dễ dẫn đến tâm lý chờ được cứu tế, giảm tính tích cực lao động, đồng thời làm giảm tác dụng tăng tiết kiệm của khu vực công...
Do đó, một sự tính toán cân nhắc trong chính sách phân phối và tái phân phối thu nhập để có thể đạt tới mục tiêu công bằng trên cơ sở đảm bảo tính hiệu quả kinh tế là rất quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả NSNN trong thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1.3. Vai trò của thu NSNN
Vai trò của thu NSNN được xem xét trên hai khía cạnh: là công cụ tập trung nguồn tài lực đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà nước và là công cụ của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Thu NSNN là để đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước: Để duy trì sự tồn tại và hoạt động, bộ máy nhà nước cần phải có nguồn tài chính đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu. Các nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước được đáp ứng chủ yếu bởi các nguồn thu NSNN. Vai trò trên được thể hiện ở việc khai thác, động viên và tập trung các nguồn lực tài chính để đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu đã được Nhà nước dự tính cho từng thời kỳ phát triển. Các nguồn lực này có thể được tập trung ở cả trong và ngoài nước, từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, có bắt buộc và tự nguyện, trong đó bắt buộc là nét đặc trưng.
Vai trò trong hệ thống tài chính, và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô: Gắn liền với vai trò lãnh đạo của Nhà nước, thu NSNN chi phối hoạt động của nền kinh tế. Thu ngân sách là một công cụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hoạt động thu cùng với chi như tấm gương phản ánh các định hướng phát triển đó. Ví dụ, Nhà nước thông qua chính sách thu của mình thể hiện sự ưu đãi với các ngành nghề cần bảo hộ hay khuyến khích phát triển, hoặc tỏ thái độ đối với những ngành nghề gây thiệt hại lợi ích chung của toàn xã hội,… Thông qua công cụ thuế, với các mức thuế suất, chính sách ưu đãi khác nhau, NSNN có vai trò định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo các định hướng phát triển của Nhà nước cả về cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh theo ngành hoặc theo sản phẩm... Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp cần nâng đỡ, khuyến khích,... sẽ góp phần tạo điều kiện sản xuất thuận lợi, hoàn thiện cơ cấu sản xuất, đảm bảo tính cân đối của nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững,...
Thu NSNN đóng vai trò tạo nguồn đảm bảo giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội. Trong đó, thực hiện công bằng xã hội thể hiện ở chức năng phân phối lại thu nhập. Điều tiết chênh lệch thu nhập của các tầng lớp dân cư bằng cách đánh thuế thu nhập cao, giảm thuế tiêu thụ với hàng hóa thiết yếu, trợ cấp,...
Thông qua NSNN chính phủ thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Thể hiện rõ nhất qua việc điều chỉnh chi tiêu của Chính phủ, điều chỉnh mức thuế, mức lãi suất để kiểm soát lạm phát và hoạt động đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, những sự mất ổn định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội là điều không tránh khỏi, do đó, tăng cường sự can thiệp và điều chỉnh của Nhà nước trở nên cần thiết và tất yếu nhằm giữ vững sự ổn định của quá trình phát triển.
2. Các nhân tố tác động đến Thu ngân sách
2.1. Mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
Toàn bộ nền kinh tế quốc dân chính là nguồn thu của NSNN. Thu của NSNN được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và ngoài nước, từ mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau, cả sản xuất, lưu thông và phân phối. Bởi vậy, thu NSNN luôn gắn chặt với kết quả của hoạt động kinh tế trong nước và sự vận động của các phạm trù giá trị khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất,... Kết quả của các hoạt động kinh tế trong nước được đánh giá bằng các chỉ tiêu chủ yếu như: mức tăng trưởng GDP, tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế... Đó là các nhân tố khách quan quyết định mức động viên của NSNN. Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng giảm mức động viên của NSNN, vừa đặt ra yêu cầu sử dụng hợp lý các công cụ thu của NSNN để điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội cho phù hợp với sự biến động của các phạm trù giá trị.
Như vậy, trong tổng thu của NSNN phải coi trọng nguồn thu trong nước là chủ yếu, mà quan trọng hơn cả là nguồn của cải mới được sáng tạo ra trong các ngành sản xuất. Khái niệm sản xuất ngày nay được hiểu bao gồm không chỉ các hoạt động sản xuất vật chất, mà còn do các hoạt động dịch vụ tạo ra. Ở các nước phát triển và các xã hội văn minh, các hoạt động dịch vụ phát triển rất mạnh và nguồn của cải xã hội được tạo ra ở đây cũng có xu hướng ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao. Đối với Việt Nam, xu hướng đó cũng là tất yếu. Như vậy, cùng với các hoạt động sản xuất vật chất, các hoạt động dịch vụ là nơi tạo ra nguồn thu chủ yếu của NSNN.
Thu nhập của NSNN có thể được huy động từ nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc, có tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả, ngang giá và không ngang giá,... nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế bằng hệ thống luật lệ do Nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Mặc dù vậy, do có sự tác động ngược trở lại nền kinh tế của việc thu NSNN, mà sự cưỡng chế thu này phải đặt trong sự phù hợp với tăng trưởng phát triển, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đầy đủ đặc điểm này là ở chỗ, việc sử dụng các hình thức và phương pháp động viên của NSNN đòi hỏi phải xem xét đến tính chất đặc điểm của các hoạt động kinh tế - xã hội và yêu cầu phát huy vai trò đòn bẩy của các công cụ tài chính trong phân phối lại các nguồn tài chính phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng thời kỳ phát triển xã hội.
Do đó, để tăng thu cho NSNN, về lâu dài, con đường chủ yếu là phải nâng cao trình độ phát triển, tìm cách mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.
Đối với công tác thu NSNN của một tỉnh, thành phố, nhân tố quyết định tới nguồn thu NSNN trên địa bàn cơ bản vẫn là thực trạng phát triển của kinh tế trong phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên, khác với NSNN, nguồn thu trên địa bàn tỉnh còn chịu sự tác động của phạm vi địa giới, những chính sách, quy định riêng và nhiều đặc điểm khác. Chẳng hạn, tuy sự hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp không nằm trên địa bàn, nhưng trụ sở doanh nghiệp nằm trên phạm vi lãnh thổ tỉnh cũng mang lại nguồn thu theo quy định, và do đó, nguồn thu này không gắn với sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Vì lý do trên, khi xem xét sự tác động của nhân tố sự tăng trưởng nền kinh tế trên địa bàn tới nguồn thu NSNN phải loại bỏ các tác nhân đó.
Có thể khẳng định, nhân tố sự tăng trưởng kinh tế vừa là nguồn để thu NSNN lại vừa là đối tượng tác động của các chính sách thu. Nhận thức đầy đủ sự ảnh hưởng của nhân tố này, trong công tác thu, phải tránh tình trạng thu theo chủ quan, thu tách rời thực trạng tăng trưởng của nền kinh tế, phải đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu, thực hiện thu phải tạo được điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.
2.2. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu NSNN
Nếu như kết quả hoạt động của nền kinh tế tạo ra nguồn thu cho ngân sách, thì cơ chế, chính sách về nguồn thu và tổ chức thu chính là căn cứ, là quy định để chúng ta biết thu như thế nào, thu những gì ở nguồn ._.thu ấy.
Như trên đã nói, thu ngân sách có thể lấy về từ nhiều nguồn, dưới nhiều hình thức, nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Đối tượng thu là mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong nền kinh tế. Các luật lệ do Nhà nước quy định về nguồn thu và tổ chức quản lý thu là căn cứ cho quá trình động viên vào NS. Các quy định về nguồn thu bao gồm các luật thuế, các quy định về phí, lệ phí, về bán tài nguyên, tài sản quốc gia, về các doanh nghiệp nhà nước...
Yêu cầu đối với các chính sách huy động nguồn thu ngân sách là phải đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí cần thiết cho việc vận hành bộ máy cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đồng thời đảm bảo khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu ngày càng lớn. Đặc biệt, coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, điều tiết thu nhập giữa các thành phần trong nền kinh tế. Trước những yêu cầu đó, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu ngân sách được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhất định.
Thứ nhất, đó là nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tùy thuộc chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhận, quy mô của hệ thống bộ máy nhà nước, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, quan điểm phát triển,... mà hình thành nên nhu cầu chi tiêu thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và chi cho các vấn đề xã hội của mỗi quốc gia.
Thứ hai, đó là khả năng tạo ra nguồn thu ngân sách của nền kinh tế. Khả năng này này thể hiện qua nhiều tiêu chí, ví dụ như: Mức thu nhập GDP bình quân đầu người; tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế; khả năng khai thác và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên; tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân để đầu tư...
Việc căn cứ trên nhu cầu chi tiêu và khả năng tạo nguồn thu của nền kinh tế chính là khắc phục tư tưởng thu đơn thuần, thu thoát ly thực trạng kinh tế. Căn cứ trên hai tiêu chí này, đòi hỏi việc xây dựng hệ thống pháp lý để huy động các nguồn tài chính vào NSNN phải luôn luôn phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó để ra các chính sách, chế độ, biện pháp chỉ đạo thu thích hợp. Không vì yêu cầu đảm bảo nhu cầu trang trải các khoản chi phí của Nhà nước mà gia tăng các khoản thu một cách phi thực tế, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, làm hạn chế nguồn thu NSNN trong tương lai. Xây dựng hệ thống pháp lý trong lĩnh vực thu NS phải coi mục tiêu bồi dưỡng nguồn thu làm mục tiêu có tích chất quyết định đến sự ổn định và phát triển của thu ngân sách.
Thứ ba, đó là căn cứ trên quan điểm của Nhà nước về công bằng xã hội. Thu NSNN xét ở một góc độ nào đó là sự phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thông qua bộ máy quyền lực của Nhà nước. Sự phân phối đó là cần thiết cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Tuy vậy, sự phân phối đó cũng luôn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn về mặt lợi ích. Một sự động viên thiếu công bằng sẽ khoét thêm những mâu thuẫn đó. Khi mức độ mâu thuẫn đạt đến cực điểm sẽ bùng nổ những cuộc đấu tranh xã hội làm phương hại đến tính ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Chính vì lẽ đó, huy động nguồn tài chính vào ngân sách phải luôn luôn coi trọng khía cạnh công bằng xã hội. Nó đòi hỏi việc tổ chức động viên phải bám sát khả năng đóng góp của người dân theo nguyên tắc công bằng ngang và dọc. Đối với mỗi quốc gia, quan điểm về sự công bằng xã hội có những khác biệt nhất định, cho nên tùy thuộc những quan điểm riêng đó mà cơ chế, chính sách thu cũng có những nét đặc trưng riêng.
Qua những phân tích trên đây, có thể khẳng định kết quả thu NSNN phụ thuộc rất lớn vào hệ thống pháp lý trong lĩnh vực thu. Đây là nhân tố vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Mang tính chủ quan là ở chỗ, Nhà nước chính là chủ thể ra các quyết định này. Còn khách quan là ở chỗ, hệ thống pháp luật được xây dựng trong mối quan hệ chặt chẽ với nhân tố “thực trạng nền kinh tế” đã phân tích ở trên, nhằm xác lập một hệ thống chính sách thu đồng bộ, phù hợp đảm bảo lợi ích lâu dài.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, do được nghiên cứu kỹ và xây dựng có hệ thống, có tính chất lâu dài, nên sự tác động của nhân tố này tới thực trạng thu cũng như những vần đề còn tồn tại trong công tác thu ngân sách là không nhiều. Tính ổn định của hệ thống pháp lý về thu là tương đối cao. Bởi vậy, chuyên đề quan tâm nhiều hơn tới nhân tố thứ ba, “tổ chức, quản lý thực hiện thu ngân sách”, là nhân tố mang nhiều tính chủ quan, nguyên nhân chính của những tồn tại trong công tác thu ngân sách, và cũng là yếu tố cần được quan tâm cải cách mạnh mẽ trong thời gian tới.
2.3. Tổ chức, quản lý thực hiện thu ngân sách
Cách thức tổ chức thực hiện, phân cấp, quản lý thu ngân sách chính là trả lời cho câu hỏi thu như thế nào. Đó là quá trình thực hiện, cụ thể hoá các cơ chế, chính sách thu đối với nền kinh tế. Quá trình này quyết định số thu thực tế mà NSNN huy động được, đồng thời cho phép nhìn nhận lại các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, chính sách thu ngân sách, từ đó đưa ra các điều chỉnh, biện pháp tổ chức thu thích hợp. Đây chính là yếu tố quan trọng, tác động lớn tới thực tế kết quả thu ngân sách. Thu không đúng tiềm năng, thất thu chủ yếu là do sự tác động của nhân tố này. Bao gồm yếu tố: tổ chức bộ máy thu, tổ chức giám sát, thanh tra kiểm tra, phương tiện thông tin, kỹ thuật,... và rất quan trọng nữa là yếu tố con người, năng lực và đạo đức cán bộ.
Bộ máy quản lý thu ngân sách vừa là chủ thể chi phối công tác thu lại vừa chính là đối tượng của quá trình quản lý. Bản thân bộ máy quản lý thu NSNN cũng là đối tượng thụ hưởng, tiêu dùng nguồn tài chính huy động được. Vì thế, xác lập, tổ chức bộ máy quản lý thu ngân sách phải vừa đảm bảo đạt kết quả công tác thu vừa phải gọn nhẹ, hợp lý.
Việc xây dựng bộ máy quản lý thu NSNN phải căn cứ vào sự hình thành hệ thống các cấp chính quyền và quá trình thực hiện phân cấp quản lý kinh tế - xã hội các cơ quan Nhà nước. Quá trình hình thành hệ thống chính quyền các cấp là một tất yếu khách quan của mọi thể chế chính trị, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ. Sự ra đời của hệ thống chính quyền nhiều cấp là tiền đề cần thiết xuất hiện hệ thống NSNN nhiều cấp. Phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống ngân sách nước ta gồm NS trung ương và NS các cấp chính quyền địa phương.
Để đảm bảo công tác thu đạt hiệu quả, tổ chức bộ máy phải đảm bảo một số những yêu cầu nhất định. Thứ nhất, phải đảm bảo thống nhất, tập trung dân chủ. Tức là phải làm sao để vừa phát huy được sức mạnh sáng tạo của mọi cấp vừa đảm bảo thống nhất, tập trung nguồn tài lực quốc gia. Yêu cầu này đòi hỏi việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý thu ngân sách phải rõ ràng, mang lại hiệu quả cao nhất. Chính quyền các cấp có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, đảm bảo thực hiện nghiêm túc các chính sách, chế độ thu ngân sách. Thứ hai, tổ chức bộ máy thu ngân sách phải đảm bảo kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, tức là phải phát huy tính tích cực sáng tạo của địa phương trên cơ sở có tính đến nét đặc trưng của từng ngành. Những nét đặc thù của ngành, những điều kiện đặc trưng riêng của từng địa phương đòi hỏi phải có sự khác biệt trong tổ chức nhất định, nhằm đạt hiệu quả thu cao nhất. Chuyên môn hóa theo ngành đảm bảo việc quản lý thu theo nguồn hình thành phù hợp đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng lĩnh vực. Tổ chức quản lý thu theo phân cấp chính quyền đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng địa phương, đồng thời nâng cao hiệu quả thu nhờ hiểu biết, sát thực tình hình kinh tế trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó. Ngoài ra, tổ chức thu tốt cũng còn thể hiện ở việc nhiệm vụ và quyền hạn được giao phù hợp cho từng bộ phận. Điều này sẽ đảm bảo tính khả thi trong công tác thu ngân sách.
Một cách thức tổ chức khoa học, sự phân cấp quản lý phù hợp sẽ là tiền đề đảm bảo hiệu quả công tác thu. Điều đó cũng đồng nghĩa việc tổ chức quản lý quyết định đến kết quả thu có đúng như mong đợi hay không.
Yếu tố kỹ thuật, công nghệ, phương tiện thông tin phục vụ cho việc quản lý thu, giám sát, thanh tra kiểm tra cũng tác động không nhỏ tới kết quả thu ngân sách. Cơ chế, chính sách thu không, hoặc ít có những thay đổi, trong khi tình hình kinh tế xã hội vận động và biến đổi hàng ngày. Trong hoàn cảnh đó, kỹ thuật công nghệ đóng vai trò quan trọng giúp việc quản lý thu theo sát thực tế, thu đúng, thu đủ. Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, các quan hệ kinh tế diễn ra ngày càng phức tạp, trình độ gian lận thuế, các thủ thuật trốn thuế cũng ngày càng tinh vi, yếu tố thông tin, kỹ thuật rất cần được chú trọng. Hiệu quả của công tác thu, kết quả của việc chống trốn và gian lận thuế bị tác động nhiều ở yếu tố này.
Cuối cùng, cũng giống mọi hoạt động quản lý, hoạt động kinh tế khác, công tác thu ngân sách cũng là công việc của con người, do con người thực hiện. Bởi vậy, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định. Nhân tố con người được xem xét trên hai khía cạnh; năng lực và đạo đức. Dù có cơ chế chính sách tốt, có cách thức tổ chức phù hợp, nhưng nếu cán bộ không hội đủ chuyên môn, công tác thu cũng không thể hoàn thành tốt được. Những hành vi trốn thuế, gian lận thuế là những hành động ở thế chủ động, trong khi công việc phòng chống lại luôn ở thế bị động. Do vậy, để thực hiện tốt công việc của mình, các cán bộ chuyên trách rất cần có năng lực cao. Tuy nhiên, trên thực tế, gây tác hại nhiều hơn tới kết quả thu ngân sách lại không phải chủ yếu do năng lực cán bộ yếu. Vấn đề bức xúc từ xưa đến nay vẫn là đạo đức cán bộ. Việc quản lý một khối lượng lớn nguồn tài chính quốc gia đã tạo cơ hội cho những cán hộ tha hóa, biến chất vi phạm pháp luật. Lợi ích cá nhân luôn là động cơ thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật, để các cán bộ thu ngân sách bắt tay với đối tượng thu, gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Bởi vậy, nhân tố con người có tác động lớn tới kết quả thu ngân sách.
Qua những phân tích trên, có thể khẳng định, phương thức tổ chức quản lý và quá trình tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định tới kết quả thu ngân sách. Quá trình thu vừa là hiện thực hóa các cơ chế chính sách huy động nguồn lực tài chính vào NSNN, vừa là sự kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chính sách đó, để rồi thông qua những nảy sinh trong thực tiễn mà có những gợi mở để hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực thu.
II. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ THU NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
1. Khái quát quá trình xây dựng Luật ngân sách
Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã củng cố và xây dựng pháp luật về ngân sách phù hợp với vai trò và tính chất của nhà nước cách mạng nhằm kế thừa những tiềm lực tài chính của chế độ cũ, huy động sự đóng gớp của đồng bào dưới các hình thức quỹ “Tuần lễ vàng hay “Quỹ Độc lập”. Cùng với việc bãi bỏ các thứ thuế hà khắc, Chính phủ lâm thời đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh để tạo lập, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho nhà nước cách mạng còn non trẻ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong thời kỳ trước 1954, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Vì vậy, NSNN trong giai đoạn này chủ yếu phục vụ cho nhiệm vụ kháng chiến, đồng thời nhằm duy trì bộ máy chính quyền kháng chiến các cấp. Dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, NSNN được thiết lập vào Tháng 1 năm 1946. Một số văn bản pháp luật đầu tiên về NSNN được ban hành, đó là Sắc lệnh số 11 ngày 7-9-1945 quy định thống nhất chế độ thuế trong cả nước, bãi bỏ thuế thân; Sắc lệnh ngày 27-9-1945 điều chỉnh thuế môn bài nhằm khuyến khích tiểu thương và những người buôn bán nhỏ; Sắc lệnh hủy bỏ các thứ cống nạp vô lý của chế độ thuộc địa... NSNN trong giai đoạn này bao gồm: NS trung ương, NS địa phương, NS hỏa xa, NS trong 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam) và NS của 2 thành phố Hà Nội, Hải phòng. Nguồn thu ngân sách được huy động khá tùy tiện từ các địa phương, việc sử dụng cũng theo cách tùy tiện.
Trong giai đoạn 1955-1975, miền Bắc tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước. NSNN được chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế phân cấp theo hướng tăng thêm một số quyền hạn cho địa phương. Địa phương có dự toán độc lập, được giao những khoản thu đích danh cho các chương trình trong khuôn khổ địa phương. Văn bản quan trọng được ban hành trong giai đoạn này là: Điều lệ lập, chấp hành ngân sách nhà nước năm 1961 (Nghị định 168/CP ngày 20-10-1961), Điều lệ phân cấp quản lý tài chính - ngân sách cho các cấp chính quyền quy định tại Nghị Định số 119/CP ngày 118/67.
Từ sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, cùng với quá trình phục hồi và đi lên của đất nước, hệ thống pháp luật về NSNN cũng dần được hoàn thiện. Nghị quyết 108/CP (ngày 13-5-1978) nhằm hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách. Nghị định 138/HĐBT năm 1983 nhằm tăng cường quản lý thống nhất của trung ương về các chính sách, chế độ thu, chi tài chính ở địa phương. Nghị quyết này quyết định số thu vào ngân sách địa phương được xác định không phải khống chế theo số chi ngân sách địa phương do trung ương ấn định, mà căn cứ vào số thu thực tế trên địa bàn. Ngoài việc được trích một phần để lại cho ngân sách địa phương theo tỷ lệ điều tiết quy định đối với mỗi khoản thu, địa phương còn được trích thẳng khoản 35-50% trên số thu kế hoạch nộp vào NS trung ương. Nghị quyết số 186/HĐBT (ngày 27/11/1989), Quyết định số 168/HĐBT (ngày 16/5/1992). Tuy nhiên, đây đều là những văn bản dưới luật.
Ngày 20-3-1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997 (gọi tắt là Luật Ngân sách nhà nước năm 1996). Ngày 20-5-1998, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân sách sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước (gọi tắt là Luật Ngân sách nhà nước năm 1998). Ngày 16-12-2002, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước (mới) thay thế Luật Ngân sách nhà nước năm 1996, và Luật Ngân sách nhà nước năm 1998, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 (gọi tắt là Luật Ngân sách nhà nước năm 2002).
Như vậy, từ những năm đầu độc lập, trải qua 20 năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm, những năm đầu thống nhất đất nước cho đến gần 20 năm đổi mới, luật ngân sách nhà nước đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử. Từ chỗ chỉ là những văn bản, quy định, điều lệ, hệ thống pháp luật về NSNN đã dần được hoàn thiện và đến năm 1996 đã có bộ Luật đầu tiên. Qua một lần sửa đổi năm 1998, đến năm 2002, Luật NSNN mới một lần nữa được ban hành và cho đến nay là Luật hiện hành trong lĩnh vực ngân sách ở nước ta.
2. Các quy định hiện hành trong lĩnh vực thu ngân sách
2.1. Luật ngân sách 2002
Luật NSNN mới được ban hành năm 2002 và có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004, Luật NSNN điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý và điều hành các bộ phận chủ yếu là thu, chi, phân cấp, lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước tổ chức bộ máy quản lý ngân sách nhà nước. Khung pháp luật về NSNN ngoài Luật NSNN còn có hệ thống các Nghị quyết của Quốc hội, Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra cơ chế quản lý ngân sách mới, vừa thể hiện sự tập trung, thống nhất, vừa phân cấp mạnh mẽ theo hướng tăng quyền chủ động tài chính cho các địa phương, các ngành, các cấp, các đơn vị sử dụng ngân sách. Đồng thời cũng tăng cường kỷ cương, kỷ luật bằng các quy định cụ thể gắn quyền hạn với trách nhiệm, hướng tăng cường công khai, minh bạch thông qua cải cách hành chính, thanh gọn nhẹ các khâu thủ tục từ dự toán đến quyết toán.
2.1.1. Quy định về các khoản thu ngân sách địa phương
Các khoản thu, nguồn thu của Ngân sách thành phố Hà Nội được quy định tại Điều 10 Chương 2, Quyết định số 134/2003/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội, căn cứ vào điều 32, chương 3, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 qui định về các khoản thu của ngân sách địa phương.
Các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội được để lại 100%: (18 khoản)
- Thuế nhà, đất;
- Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí;
- Thuế môn bài;
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
- Tiền sử dụng đất;
- Tiền cho thuê đất;
- Tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu của Nhà nước;
- Lệ phí trước bạ;
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
- Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương;
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương;
- Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật;
- Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác;
- Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân ở trong và ngoài nước;
- Thu kết dư ngân sách địa phương;
- Thu bổ sung từ ngân sách trung ương;
- Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
Các khoản thu ngân sách Thành phố hưởng theo tỷ lệ phần trăm gồm:
- Thuế giá trị gia tăng (không kể các khoản trên);
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể các khoản trên);
- Thuế thu nhập cá nhân của người có thu nhập cao;
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, trừ lĩnh vực dầu, khí;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa trong nước;
- Phí xăng, dầu.
Trên cơ sở các khoản thu trên, Thành phố (Hội đồng nhân dân) sẽ phân cấp cụ thể nguồn thu cho từng cấp chính quyền địa phương theo nguyên tắc:
- Trong các nguồn thu của ngân sách xã, thị trấn, ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất;
- Trong các khoản thu của ngân sách thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, ngân sách thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất;
- Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu ngân sách các cấp chính quyền địa phương sẽ được Hội đồng nhân dân quyết định theo các căn cứ trên.
Những quy định mới của Luật Ngân sách đã mang lại quyền chủ động cho chính quyền thành phố Hà Nội cũng như các địa phương khác trong việc phân cấp, tổ chức thực hiện thu một cách hiệu quả, phù hợp đặc điểm từng địa phương.
2.1.2. Phân cấp quản lý thu ngân sách
Phân cấp quản lý NSNN được nhìn nhận như một biện pháp quản lý hoạt động của NSNN. Thực chất của việc phân cấp quản lý NSNN là việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp chính quyền nhằm làm cho hoạt động của NSNN lành mạnh và đạt hiệu quả. Phân cấp quản lý thu được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ, trên tinh thần phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ thu cho từng cấp ngân sách. Phân cấp quản lý thu NSNN phải nhằm tập trung đại bộ phận thu lớn, ổn định cho NS trung ương, đồng thời tạo cho NS địa phương có nguồn thu gắn với địa bàn. Các cơ chế, chính sách thu, phương thức quản lý ngân sách phải thống nhất, đồng thời mỗi cấp chính quyền địa phương được đề cao vai trò tự chủ, sáng tạo trong hoạt động quản lý và điều hành ngân sách cấp mình. Luật NSNN quy định nguồn thu ngân sách địa phương gồm: Các khoản thu NS trung ương hưởng 100%, các khoản thu để lại địa phương 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa trung ương và địa phương. Thu ngân sách cấp tỉnh lại được phân cấp tiếp tục cho các quận huyện, xã phường trên cơ sở các quyết định của HĐND-UBND tỉnh, thành phố căn cứ nhiệm vụ và khả năng quản lý nguồn thu, khả năng khai thác nguồn thu, chống thất thu của từng quận huyện.
Như vậy, phân cấp NSNN của Việt Nam được hình thành và điều hành theo hệ thống chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương, theo nguyên tắc tập trung nguồn lực cho trung ương đồng thời phát huy tính sáng tạo, linh hoạt của mỗi địa phương.
2.2. Tổ chức bộ máy thu và phân cấp quản lý thu ngân sách của thành phố Hà Nội
Công tác ngân sách được bắt đầu từ lập, thẩm định, quyết định, rồi thực hiện, giám sát ngân sách, quy trình đó diễn ra theo trình tự như sau:
+ Cơ quan tài chính chủ trì tổng hợp dự toán ngân sách từ các Quận - Huyện - Sở - Ngành, phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác nhất là sở Kế hoạch và đầu tư (liên quan tới việc xây dựng dự toán thu ngân sách), đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch ngân sách mà TW giao để lập dự toán ngân sách năm.
+ Sau đó, cơ quan tài chính trình UBND Thành phố xem xét cho ý kiến bổ sung, chỉnh lý hoàn thiện và trình HĐND Thành phố.
+ Nhận được bản dự toán ngân sách do UBND trình, Thường trực HĐND trước hết giao cho Ban Kinh tế - Ngân sách chủ trì phối hợp với các ban nghiên cứu, thẩm định để có ý kiến báo cáo thuyết trình tại kỳ họp HĐND; đồng thời tài liệu báo cáo dự toán ngân sách cũng được gửi cho các đại biểu HĐND để nghiên cứu cho ý kiến tại kỳ họp.
+ Trên cơ sở báo cáo thẩm định của Ban Kinh tế - Ngân sách và ý kiến của các đại biểu HĐND tại kỳ họp, Hội đồng nhân dân sẽ ra Nghị quyết về dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách.
+ Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND, Ủy ban nhân dân cụ thể hóa và giao chỉ tiêu ngân sách xuống các Quận, Huyện, Sở, Ngành.
+ Quá trình tổ chức thực hiện ngân sách được Chính quyền các cấp phối hợp với các cơ quan chức năng như: Hải quan, Cục Thuế, các Chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước Thành phố, các đơn vị hành chính, sự nghiệp có thu,... Trong đó: Hải quan là cơ quan thực hiện nhiệm vụ thu thuế từ hoạt động xuất, nhập khẩu; Kho bạc Nhà nước thu một số khoản phí, lệ phí, thu phạt vi phạm pháp luật,...; các đơn vị hành chính, sự nghiệp có các khoản thu như thuế môn bài (của các đơn vị có mức thuế môn bài bậc 3 đến 6), một số loại phí lệ phí, hay các khoản thu khác; Cục Thuế và các Chi cục Thuế có trách nhiệm đối với khoản thu chính của NSNN, đó là các khoản thu Thuế, phí, lệ phí thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong công tác thu, các cơ quan chính quyền, cơ quan chuyên môn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau theo cả chiều ngang và ngành dọc, đảm bảo việc phân công thực hiện nhiệm vụ thu một cách hợp lý.
Trong lĩnh vực quản lý ngân sách, Luật NSNN năm 2002 đã quy định cụ thể về nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, đồng thời giao quyền cho HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố, quận huyện, phường, xã, thị trấn) và định mức huy động vốn của địa phương. Thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 và các quy định tại các văn bản pháp luật liên quan, Kỳ họp thứ 10 HĐND Thành phố Hà Nội đã thông qua Nghị quyết số 43/2003/NQ-HĐ về việc phân cấp quản lý ngân sách và định mức phân bổ ngân sách, chế độ chi ngân sách thành phố Hà Nội. Trong lĩnh vực thu, căn cứ trên Nghị quyết của HĐND, UBND Thành phố đã ban hành các quyết định: Quyết định số 134/2003/QĐ-UB ngày 24/10/2003 về việc phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền thuộc thành phố Hà Nội (trong đó quy định cụ thể về nguồn thu của mỗi cấp ngân sách chính quyền các cấp: thành phố, quận, huyện, xã, phường, thị trấn); Quyết định số 177/2003/QĐ-UB ngày 27/4/2004 về việc ban hành quy chế quản lý và điều hành ngân sách các cấp chính quyền thuộc Thành phố Hà Nội. Theo các quy định đó, nguồn thu NSNN của thành phố Hà Nội được phân cấp như sau:
Đối với các khoản thu để lại 100% ở các cấp ngân sách:
1/ Thuế môn bài: thu từ các Doanh nghiệp Nhà nước Trung ương, Doanh nghiệp Nhà nước địa phương; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn; các cơ sở kinh tế của cơ quan hành chính, sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể, lực lượng vũ trang Thành phố, ngân sách thành phố hưởng 100%.
Thuế môn bài để lại 100% ngân sách quận huyện: thu từ các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, cá nhân và hộ kinh doanh (bậc 1, bậc 2) đóng trên địa bàn (không kể thuế môn bài thu của cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 3 đến bậc 6); Thuế môn bài thu từ các cơ sở kinh tế của cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc quận, huyện, quản lý do Chi cục Thuế thu.
Thuế môn bài ngân sách xã, thị trấn, phường hưởng 100%: thu từ cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 3 đến bậc 6 trên địa bàn xã, phường, thị trấn (do Chi cục Thuế thu hoặc ủy nhiệm cho xã, phường, thị trấn thu).
2/ Thuế nhà đất ngân sách cấp xã hưởng 100%
3/ Thuế tài nguyên (không kể thu từ dầu khí) thu từ doanh nghiệp Nhà nước Trung ương, doanh nghiệp nhà nước địa phương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do ngân sách Thành phố hưởng 100%. Thuế tài nguyên thu từ các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngân sách cấp huyện hưởng.
4/ Tiền sử dụng đất do Cục Thuế thu do ngân sách Thành phố hưởng, do Chi cục Thuế thu do ngân sách cấp huyện hưởng.
5/ Thuế chuyển quyền sử dụng đất do ngân sách cấp xã hưởng.
6/ Thuế sử dụng đất nông nghiệp do ngân sách cấp xã hưởng.
7/ Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước (không kể tiền thuê mặt nước từ hoạt động dầu khí) ngân sách Thành phố hưởng.
8/ Tiền cho thuế, bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước do ngân sách Thành phố hưởng.
9/ Lệ phí trước bạ do Cục Thuế thu ngân sách Thành phố hưởng. Lệ phí trước bạ xe máy ngân sách cấp huyện hưởng. Lệ phí trước bạ nhà đất ngân sách cấp xã hưởng.
10/ Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết (Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt và các khoản thu khác) của Công ty Xổ số kiến thiết thủ đô nộp ngân sách Thành phố. Thu từ các Tổng đại lý Xổ số quận, huyện thì nộp ngân sách cấp huyện.
11/ Tiền thu hồi vốn góp của ngân sách Thành phố, từ quỹ dự trữ tài chính, góp vốn với các cơ sở sản xuất kinh doanh do ngân sách Thành phố hưởng.
12/ Các khoản viện trợ (theo quy định pháp luật) của cấp nào thì nộp ngân sách cấp đó.
13/ Các khoản phí, lệ phí (trừ phí xăng dầu và lệ phí trước bạ) do các cơ quan đơn vị thuộc cấp nào quản lý thì ngân sách cấp đó hưởng.
14/ Các khoản phạt, tịch thu do cơ quan, đơn vị cấp nào thu thì nộp ngân sách cấp đó.
15/ Thu từ hoa lợi công sản, quỹ đất công ích ngân sách cấp xã hưởng.
16/ Các khoản đóng góp cho ngân sách các cấp được hưởng 100%.
17/ Tiền huy động vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng theo nghị quyết của HĐND thành phố hưởng 100%.
18/ Thu sự nghiệp, phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật ngân sách Thành phố và ngân sách cấp huyện được hưởng.
19/ Các khoản thu khác của ngân sách các cấp được giữ lại 100%.
Các khoản thu ngân sách các cấp chia theo tỷ lệ phần trăm theo (đảm bảo các quy định của pháp luật ở phần II.2.1.2. ở trên) gồm:
- Thuế giá trị gia tăng (không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hóa nhập khẩu, từ hoạt động xổ số kiến thiết). Trong đó, thu từ kinh tế ngoài quốc doanh (không thuộc nguồn thu của ngân sách cấp xã) ngân sách cấp huyện được trích %. Thu từ các hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 3 đến bậc 6 (đối với xã, thị trấn), từ bậc 4 đến 6 (đối với phường) ngân sách cấp xã được hưởng %.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành (Công ty điện lực thành phố Hà Nội; Ngân hàng Công thương Việt Nam; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; Ngân hàng chính sách xã hội; Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam; Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam; Hoạt động vận doanh của Tổng công ty đường sắt Việt Nam), không kể thuế thu nhập từ hoạt động xổ số kiến thiết. Trong đó, thu từ cá nhân, hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến 6 đối với phường và từ bậc 3 đến 6 đối với xã, thị trấn ngân sách cấp xã được hưởng %. Thu từ những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn lại ngân sách cấp huyện được hưởng %.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngân sách Thành phố hưởng % phân chia với ngân sách Trung ương.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa, dịch vụ trong nước (không kể thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết). Trong đó, thu từ cá nhân và hộ kinh doanh có thuế môn bài từ bậc 3 đến 6 ngân sách cấp xã hưởng % phân chia, thu từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn lại ngân sách cấp huyện được hưởng % phân chia.
- Phí xăng dầu ngân sách Thành phố hưởng % phân chia.
Trong tổ chức thực hiện thu, nhìn chung bộ máy thu của thành phố Hà Nội so với các địa phương khác cũng không có nhiều khác biệt. Việc phân cấp thu ngân sách tất nhiên do Thành phố chủ động quyết định theo các quy định của pháp luật cho phù hợp với đặc thù của Thủ đô. Vì vậy, trong tổ chức thực hiện thu, luận văn quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh vận hành bộ máy thu đó. Việc triển khai trên thực tế của đội ngũ cán bộ thu, quản lý thu gắn liền với kết quả thu ngân sách.
2.3. Một số Luật Thuế hiện hành
Thời kỳ trước 1990, nước ta thu NSNN chủ yếu từ kinh tế quốc doanh và được thực hiện dưới hình thức thu quốc doanh và trích nộp lợi nhuận. Thuế chỉ áp dụng với kinh tế ngoài quốc doanh, với một số sắc thuế như thuế nông nghiệp, thuế công nghiệp, thuế môn bài... Thời kỳ này, vai trò của thuế rất hạn chế trên cả phương diện huy động nguồn lực cho NSNN và phương diện điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, cải cách thuế được bắt đầu thực hiện từ năm 1990 với quan điểm và mục tiêu là đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau 2 quá trình cải cách thuế ( 1990-1995, và 1996-2001) và bước vào giai đoạn thực hiện cải cách thuế bước 3 từ năm 2002, hệ thống hiện hành Việt Nam gồm 9 loại: Luật thuế GTGT; Thuế TTĐB; Thuế XNK; Thuế TNDN; Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế tài nguyên; Thuế nhà đất; Và các sắc thuế khác.
Phần tiếp theo luận văn sẽ khái quát nội dung cơ bản của những sắc thuế quan trọng.
2.3.1. Luật thuế GTGT
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (trừ những hàng hóa và dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT. Đó là 28 nhóm hàng._.đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, nâng cao nguồn thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Xu thế mở cửa mạnh từ năm 2006 sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho HN thu hút đầu tư. Mặc dù được ưu đãi nhiều mặt, tuy nhiên thực tế nhiều năm qua, sức hấp dẫn Hà Nội đang có chiều hướng giảm sút, ngày càng chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ những vùng lân cận (Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên,...). Hà Nội cần chú trọng xây dựng biện pháp cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới.
Cần có những biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu giàu tiềm năng nhất, khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, với sự quan tâm đặc biệt. Nhìn vào mức độ và nhịp độ phát triển, cũng như mức đóng góp tăng lên, có thể thấy, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là vượt trội nhất. Khu vực này đã vượt lên xuất phát điểm rất thấp trước khi có Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời để đạt ngưỡng cao trong đóng góp chung vào GDP, xuất khẩu, đầu tư, phát triển công nghiệp, tạo việc làm... Thành phố Hà Nội tuy là địa phương tập trung nhiều DNNN lớn và làm ăn có hiệu quả vào bậc nhất cả nước cũng không thể phủ nhận sự lớn mạnh của kinh tế tư nhân. Thành phố Hà Nội cần coi trọng đúng mức đối với khu vực này. Trong bối cảnh hội nhập sắp tới, trước những thách thức rất to lớn từ bên ngoài, kinh tế tư nhân rất cần giúp đỡ. Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tư nhân vẫn là khu vực vừa và nhỏ, bởi vậy sức cạnh tranh kém. Hơn thế công tác quản lý thu ngân sách cũng manh mún nhỏ lẻ, khó kiểm soát. Do đó Hà Nội cần tạo điều kiện phát triển các DN cỡ trung bình và cỡ lớn nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ tới 2006-2010:
+ Cần có chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư lớn. Bằng cách nới lỏng, tinh giản cơ chế cho vay, khuyến khích DN đầu tư lớn vào sản xuất bằng chính các công cụ ngân sách (có thể là giảm nộp ngân sách cho những doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới,...). Hiện nay, thủ tục cho vay của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng Nhà nước còn rất rườm rà, gây cản trở lớn đối với những DN có nhu cầu vay vốn. Vừa đảm bảo những yêu cầu tối cần thiết về sự an toàn, lại vừa tạo cơ chế thông thoáng, khuyến khích các DN vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh là không đơn giản. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển, thành phố cần có những nỗ lực nghiên cứu, cải cách thích hợp trong thời gian tới.
+ Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất. Đẩy mạnh việc giao đất, lấp đầy các khu, cụm công nghiệp,... Nâng cao sự thông thoáng trong cơ chế, thủ tục hành chính. Cải tổ công tác tổ chức đấu thầu, nâng cao sự thông thoáng trong đấu thầu, cho thuê đất sản xuất kinh doanh. Vấn đề mặt bằng cho sản xuất đối với thành phố Hà Nội luôn là vấn đề nóng bỏng, là yếu điểm của thành phố trong cạnh tranh thu hút đầu tư. Với điều kiện dân số cao, diện tích eo hẹp, thành phố trong nhiều năm qua phải đối mặt với thực trạng đưa đất nông nghiệp vào sử dụng cho sản xuất công nghiệp. Công tác giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, đền bù cho người dân… của thành phố cần phải được nâng cao trong thời gian tới. Đồng thời, cần triệt để xử lý các vụ việc vi phạm, nhũng nhiễu, tiêu cực trong đấu thầu, gây cản trở tiến trình giao mặt bằng đến tay các DN.
+ Thực hiện tốt đấu thầu công khai, minh bạch nhằm khuyến khích tư nhân đầu tư vào các dự án lớn, kể cả những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công,... Trên thực tế, nhiều lĩnh vực trước đây thường chỉ giao cho NN làm thì nay tư nhân đã có thể tham gia và sẵn sàng tham gia. Bởi vậy, thực hiện tốt công tác đấu thầu sẽ tạo cơ hội phát triển các DN tư nhân có quy mô lớn mạnh, trung bình, giúp nâng cao tiềm năng thu NSNN.
Trên đây là những biện pháp tăng cường nguồn thu ngân sách mà thành phố có thể chủ động được. Đối với những khoản thu phát sinh trong kinh tế xã hội như phí, lệ phí, lệ phí trước bạ, các khoản thu về tài nguyên có tích chất hữu hạn như nhà đất, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu đề xuất các biện pháp tăng cường tận thu ngân sách.
2. Kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách thu ngân sách
Thực hiện chiến lược cải cách thuế theo Quyết định 201/2004QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong giai đoạn 2006-2010, ngành Thuế tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng diện chịu thuế đồng bộ với việc định các mức thuế suất hợp lý, đảm bảo hiệu quả, công bằng bình đẳng, công khai minh bạch, phục vụ tích cực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước.
Về cơ bản, pháp luật, luật thuế là những lĩnh vực thuộc thẩm quyền nhà nước, thành phố không can thiệp được. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thành phố cần chủ động trong phân cấp quản lý nguồn thu. Phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi là vấn đề trọng tâm của cơ chế phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Cả lý luận và thực nghiệm ở các nước, cũng như trong quan điểm, đường lối của Đảng ta đều cho thấy trong phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền địa phương phải luôn đảm bảo cho ngân sách cấp trên giữ vai trò chủ đạo, đảm nhận những nhiệm vụ chi chính và quan trọng để thực hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo sự phát triển cân đối, hợp lý giữa các vùng, các ngành trình độ, bước đi thích hợp.
Trên cơ sở đó, thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh phân cấp nguồn thu theo các hướng:
+ Các khoản thu mỗi cấp hưởng 100% phải được coi là nguồn thu chủ yếu của các cấp ngân sách. Vì vậy, cần phân cấp mạnh hơn về nguồn thu này cho ngân sách các cấp quận huyện để khuyến khích chính quyền các cấp làm chủ ngân sách cấp mình. Mở rộng danh mục đối tượng thu cho ngân sách cấp huyện, xã và tương đương trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại... Thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay phân chia theo tỷ lệ % cho 3 cấp (thành phố, huyện, xã) thành phố nên mạnh dạn phân cho cấp huyện, xã để đáp ứng nhu cầu chi tại cơ sở và khuyến khích quan tâm đến các nguồn thu này, đầu tư tại chỗ để phát triển kinh tế địa phương, nhất là cho nông nghiệp, nông thôn.
Trong quản lý ngân sách địa phương, có thể phân tổ thành 2 loại: loại thứ nhất thuộc diện phải bổ sung cân đối thì phân cấp tất cả các nguồn thu trên địa bàn và để lại 100% cho địa phương; loại thứ hai thuộc diện có khả năng cân đối cũng phân cấp tất cả các nguồn thu trên địa bàn (một số khoản thu đặc thù của trung ương như dầu khí, hàng không,... của thành phố như tiền cho thuê đất, xổ số kiến thiết...) nhưng theo một tỷ lệ quy định. Thực hiện cơ chế này sẽ có ưu điểm cơ bản là tạo nguồn lực cho ngân sách địa phương một cách đầy đủ, qua đó phản ánh thực chất cân đối của địa phương, địa phương sẽ thấy rõ tiềm lực tài chính của mình để chủ động phấn đấu. Đồng thời, các địa phương cũng quan tâm đầu tư đến các nguồn thu, giảm các khoản thu luân chuyển lòng vòng trong quản lý NSNN, có nguy cơ thất thu do tiêu cực nảy sinh. Như vậy, trong phân cấp nguồn thu ngân sách, luận văn mạnh dạn đề xuất:
+ Đảm bảo phân cấp nguồn thu phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội. Điều này thành phố cũng đã thực hiện khá tốt trong những năm qua.
+ Phân cấp cho địa phương đảm nhận thu (kết hợp với phân cấp nhiệm vụ chi) từ những hàng hóa dịch vụ công cộng cấp địa phương như nhà ở công cộng, cấp nước, cơ sở hạ tầng nông thôn,...
+ Phí tài nguyên, phí sử dụng đất nông nghiệp nên phân cấp cho cấp huyện và xã, nhằm để các cấp quan tâm đến các nguồn thu này.
+ Tiếp tục chuyển một số khoản thu từ doanh nghiệp tư nhân, dịch vụ, thương nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ kinh doanh cá thể,... về Chi cục Thuế quận huyện quản lý.
+ Ngoài ra, luận văn cũng đề xuất xóa bỏ cơ chế thưởng vượt thu như hiện tại (thưởng 50% số vượt thu cho ngân sách quận huyện). Bởi lẽ nhiệm vụ thu vốn dĩ là trách nhiệm của các cấp chính quyền. Thưởng vượt thu có thể phần nào khuyến khích các cấp chính quyền tích cực hơn. Nhưng theo quan điểm của luận văn, việc khuyến khích này là không cần thiết, cần có những cách khuyến khích khác như phân cấp nhiều hơn chẳng hạn. Thêm vào đó, việc sử dụng các khoản vượt thu không được kiểm soát dễ dẫn tới tiêu cực, gây lãng phí. Các khoản vượt thu cần được tiết kiệm vào ngân sách thành phố để tập trung cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo quy hoạch.
Đổi mới cơ chế thu thuế, để các doanh nghiệp tự kê khai tự nộp thuế. Quy trình nộp thuế hiện nay được thực hiện như sau: DN tự tính toán, kê khai với cơ quan thuế, cơ quan thuế tiến hành thẩm tra và thông báo thuế xuống DN, các DN theo số thuế được thông báo mà tiến hành nộp thuế. Đây tưởng như một cơ chế thu chặt chẽ nhưng trên thực tế lại tỏ ra kém hiệu quả. Từ khi DN kê khai đến khi cơ quan thuế ra thông báo thuế và DN tiến hành nộp thuế chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn là khép lại một chu trình thu. Một cơ quan thu thuế thực hiện theo cơ chế này sẽ phải đảm đương một khối lượng quá lớn các công việc nếu muốn làm tốt công tác thanh kiểm tra việc kê khai thuế của các DN. Trên thực tế, đòi hỏi này là quá sức đối với cơ quan thuế. Việc thanh kiểm tra của cơ quan thu thuế vì thế chỉ mang tính hình thức, hiệu quả công việc không cao. Kết thúc một quy trình nộp thuế, coi như việc thu nộp đã hoàn tất. Quy trình này vừa gây phiền hà, vừa kém hiệu quả lại vừa tạo cơ hội phát sinh những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ thu. Thời gian qua, Nhà nước và thành phố Hà Nội đã tiến hành thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp, kết quả rất thành công. Với cơ chế mới, việc DN đã nộp thuế thì quy trình quản lý vẫn chưa kết thúc, còn công tác hậu kiểm của các cơ quan chức năng. Việc hậu kiểm vừa giảm bớt gánh nặng công việc cho cơ quan thu, từ đó nâng cao chất lượng công tác thanh kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các DN; lại vừa mang lại sự tiện lợi cho đối tượng nộp thuế; đặc biệt là tăng trách nhiệm của các DN trong việc kê khai và nộp thuế, mang lại kết quả thu đúng hơn, sát thực tế tình hình phát triển của DN hơn. Hậu kiểm chọn mẫu các DN sẽ giúp giảm gánh nặng và nâng cao hiệu quả công tác thành kiểm tra.
Cùng với các biện pháp thay đổi cơ chế thu ngân sách, còn rất cần nhiều biện pháp khác nhằm thực hiện được tốt cơ chế này như: nâng cao năng lực, trình độ quản lý... sẽ được trình bày ở phần sau.
3. Các biện pháp hành thu nhằm xây dựng hệ thống quản lý thu thuế hiệu quả, trong sạch.
Thu và chi ngân sách vốn dĩ là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Quản lý một nguồn tài chính công có quy mô lớn liên quan rất nhiều đến vấn đề lợi ích của mọi thành phần kinh tế. Giải quyết các mối quan hệ giữa lợi ích công và lợi ích tư đòi hỏi sự công minh đặc biệt. Tiêu cực, tham nhũng hiện nay vẫn là quốc nạn của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế tồn tại một quan niệm là quyền lực phải đi đôi với quyền lợi. Chính vì lẽ đó, quản lý ngân sách nếu không có một cơ chế chặt chẽ, một cách thức hợp lý thì không thể tránh khỏi vấn nạn tiêu cực. Trong công tác thu, cần tránh giao quyền quá lớn cho các cá nhân, thực hành một cơ chế quản lý tập thể là rất cần thiết. Mặt khác lại rất cần phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân, và cần cơ chế thưởng phạt công minh.
Có thể nói, lĩnh vực thu ngân sách là một lĩnh vực lớn, bao quát mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội. Hành thu là công việc hết sức phức tạp, vì giữa lý thuyết và thực tế, giữa cơ chế chính sách và kết quả thu còn cách xa nhau. Qua tìm hiểu thực tế có rất nhiều vấn đề phát sinh trong công tác tổ chức, thực hiện thu làm ảnh hưởng kết quả thu NSNN trên địa bàn trong giai đoạn vừa qua. Một số những biện pháp sau đây có thể góp phần khắc phục những tồn tại và mang lại hiệu quả thu cao hơn, thu đúng, thu đủ, thu sát với tiềm năng hơn.
3.1. Xây dựng bộ máy hành thu tinh giản, hiệu quả
Xây dựng đội ngũ quản lý, thực hiện công tác thu NSNN trên địa bàn tinh giản gọn nhẹ, đồng bộ, thống nhất đáp ứng được yêu cầu. Cùng với việc phân cấp thêm nhiệm vụ quản lý thu xuống các quận huyện cơ sở, thành phố cũng cần có biện pháp tăng cường bộ máy quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu mới như: cơ cấu cán bộ viên chức đủ đáp ứng yêu cầu công việc, trang bị các cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ hiện đại... Đối với những đơn vị giảm trách nhiệm, quyền hạn thu cũng cần biên chế lại, thu gọn bộ máy.
Phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cấp chính quyền, các đơn vị thu tránh chồng chéo nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý hành thu đối với từng khoản thu, sắc thuế, từng địa bàn, từng đối tượng nộp thuế: Tận thu các đối tượng nộp thuế, phí, lệ phí trên địa bàn, đảm bảo thu 100% đối tượng nộp thuế có địa điểm cố định; Quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế; Đôn đốc thu nộp và cưỡng chế các khoản nợ thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra; Chủ động triển khai các khoản thu liên quan đến đất đai... (thanh kiểm tra nắm bắt đối tượng sử dụng đất, nắm bắt diện tích đất của các đối tượng thuê đất, điều chỉnh giá đất hợp lý...).
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy từ Văn phòng Cục đến Chi cục Thuế các quận/huyện trực thuộc theo hướng thu hẹp các đầu mối quản lý trực tiếp và các khâu chức năng mang tính phục vụ nội ngành để hình thành và tập trung bổ sung nguồn nhân lực cho các bộ phận chức năng quản lý thuế chủ yếu như tuyên truyền - hỗ trợ, thanh tra - kiểm tra, xử lý tờ khai dữ liệu thuế, quản lý và thu nợ phù hợp với cơ chế tự khai - tự nộp. Trước mắt sẽ tăng cường phân cấp thu trước bạ các loại, thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho các Chi cục Thuế kết hợp với mở rộng ủy nhiệm thu phường/xã để thu hẹp, tiến tới giải thể phòng trước bạ, phòng quản lý doanh nghiệp dân doanh; thu hẹp và sát nhập dần các phòng quản lý doanh nghiệp nhà nước với chức năng chủ yếu theo dõi nợ và thu nợ làm nền tảng cho sự hình thành Phòng Quản lý nợ và Cưỡng chế thu nợ sau này; kiện toàn cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng các bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ thanh tra kiểm tra; quy định lại và rõ ràng chức năng nhiệm vụ của các bộ phận. Mục đích cuối cùng là đảm bảo tổ chức bộ máy thu vừa gọn nhẹ, vừa đầy đủ chức năng, không chồng chéo, trùng lắp.
3.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa công tác thu
Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa ngành thuế. Trên cơ sở kế hoạch chung của toàn ngành, một mặt tiếp tục hoàn thành các chương trình mà ngành Thuế đề ra, mặt khác phải tập trung chuyển đổi phương thức quản lý từ quản lý theo đối tượng nộp thuế sang quản lý theo chức năng với cơ chế tự kê khai - tự nộp thuế. Đó là:
Xây dựng cơ sở dữ liệu đối với đối tượng nộp thuế; Rà soát để mở rộng có chọn lọc các doanh nghiệp có đủ điều kiện đưa vào diện thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp thuế, từng bước tiến tới hoàn thành nhiệm vụ này.
Đồng thời phải xây dựng các đề án nghiên cứu nghiêm túc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các cơ sở dữ liệu đó. Vai trò của công nghệ thông tin là đặc biệt quan trọng, quản lý bằng công nghệ thông tin, giảm thiểu sổ sách sẽ giúp nâng cao hiệu quả, công khai minh bạch tránh được tiêu cực. Phải quan tâm nâng cấp chương trình thường xuyên, nhằm tra cứu thông tin kịp thời cho cả đối tượng nộp thuế cũng như cán bộ thu thuế. Nâng cấp, xây dựng trang WEB riêng, trong đó cần công khai nhiều số liệu để phòng ngừa tiêu cực. Để kịp thời nắm bắt tình hình phát triển của các đối tượng nộp thuế, thành phố phải chú trọng công tác điều tra thị trường, có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan chuyên môn, các ngành, chính quyền cấp cơ sở.
Thường xuyên đánh giá lại quy trình, thủ tục về thuế để đề xuất, kiến nghị nhà nước sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, tránh gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân nộp thuế. Chú trọng quản lý các vấn đề nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực như thủ tục cấp mã số thuế, mua hóa đơn, hoàn thuế...
Xây dựng cơ chế quản lý “một cửa”, không chồng chéo, không trùng lắp nhằm nâng cao chất lượng thu cũng như hạn chế tiêu cực, tránh phiền hà, nhũng nhiễu các đối tượng nộp thuế. Kiện toàn bộ máy thu trong toàn ngành thuế, hải quan,... theo hướng giảm số lượng phòng thu.
3.3. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
Như trên đã phân tích, trong lĩnh vực thu ngân sách, nạn trốn thuế, gian lận thương mại còn diễn ra khá phổ biến và ngày càng tinh vi. Thành phố Hà Nội trong thời gian tới cần chú trọng công tác thanh tra kiểm tra trong hành thu NSNN trên địa bàn. Công tác thanh tra bao gồm thanh tra tại các doanh nghiệp và thanh tra nội bộ ngành. Đối với các DN cần tiến hành thanh tra bất thường, chọn mẫu một số DN trong công tác kê khai, nộp thuế. Thanh tra nội bộ phải được thực hiện quyết liệt, coi đây như phương pháp thúc đẩy quá trình thanh tra các đối tượng nộp thuế.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu nhập thông tin, phân tích thông tin và phân loại doanh nghiệp để lựa chọn đúng những đối tượng có hành vi gian lận thuế (trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế) dưới mọi hình thức. Tập trung thanh tra, kiểm tra những doanh nghiệp, hộ có mức độ vi phạm nghiêm trọng, thất thu lớn, nhất là khu vực kinh tế dân doanh, các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của các đơn vị kinh doanh hóa đơn bất hợp pháp, chiếm đoạt tiền thuế GTGT và trốn thuế TNDN.
3.4. Tăng cường biện pháp quản lý đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế có xu hướng ngày càng tăng với tốc độ cao. Thực tế 5 năm qua kể từ khi có Luật DN năm 1999 cho thấy, số lượng DN đã tăng rất nhanh. Không những thế, đối tượng nộp thuế cũng thường xuyên biến động không ngừng, tăng nhanh về quy mô sản xuất, hoặc nhanh chóng bị giải thể… Bởi vậy, tăng cường biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế là biện pháp rất quan trọng.
Thành phố cần thường xuyên theo dõi sát tình hình phát triển kinh tế, xã hội và những nhân tố ảnh hưởng làm tăng, giảm thu ngân sách trên từng địa bàn, từng khoản mục từ đó đề ra các biện pháp chỉ đạo tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, nâng cao kết quả thu NSNN trên địa bàn. Cụ thể, trong thời gian tới, thành phố cần triển khai các công tác sau:
Phối hợp với các ngành liên quan, tổ chức giám sát chặt chẽ việc đăng ký thuế, kê khai thuế, tình hình nộp thuế trên địa bàn để có những biện pháp kịp thời đôn đốc, xử lý mọi vi phạm pháp luật, đảm bảo thu đầy đủ, kịp thời các nguồn thu phát sinh, các khoản thuế nợ đọng vào NSNN. Mọi hành vi phạm pháp luật thuế cần phải áp dụng các biện pháp xử phạt nghiêm minh theo đúng quy định.
Hiện nay, thành phố chưa có biện pháp nào hữu hiệu để kiểm soát tình trạng nhiều doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh khống để mua và bán hóa đơn nhằm thu lợi bất chính. Tình trạng này vẫn tiếp diễn chừng nào nạn buôn lậu còn diễn ra phổ biến như hiện nay, việc mua hóa đơn để hợp thức hóa các nguồn hàng trôi nổi trên thị trường đã gây thiệt hại nặng nề cho NSNN. Các doanh nghiệp mua được hóa đơn sẽ trốn được thuế TNDN cũng như thuế GTGT, còn các doanh nghiệp bán hóa đơn sau đó sẽ “bùng” gây thất thu NSNN trên địa bàn. Tình trạng này không chỉ diễn ra trên địa bàn Hà Nội mà là một “vấn nạn xuyên tỉnh”. Để khắc phục, thành phố cần tăng cường công tác Hải quan tăng cường chống buôn lậu, đồng thời thắt chặt khâu đăng ký kinh doanh, thường xuyên rà soát những đối tượng mới và những đối tượng giải thể, loại bỏ các “công ty ma”.
Để thực hiện tốt công tác quản lý các đối tượng thuế, thành phố cũng cần tích cực phối hợp với các tỉnh thành trong cả nước. Thực tế cho thấy, thành phố trong nhiều năm qua chưa có những trao đổi, tổng kết, học hỏi kinh nghiệm từ những địa phương khác trong cả nước trong công tác hành thu. Thực tế lĩnh vực thu diễn biến rất phức tạp, kinh nghiệm học hỏi được từ những tỉnh thành sẽ giúp ích cho Hà Nội rất nhiều. Cần tổ chức tổng kết kinh nghiệm qua những hội thảo, hội nghị chuyên đề về hành thu, về chống trốn thuế, quản lý đối tượng nộp thuế, tuyên truyền công tác thuế,… mỗi năm ít nhất một lần.
3.5. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền thuế
Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn pháp luật thuế cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nộp thuế theo hướng: Thu thập thông tin về đối tượng nộp thuế, đánh giá, phân loại theo mức độ tuân thủ pháp luật thuế để có biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ phù hợp. Đối với các tổ chức, cá nhân chưa hiểu rõ pháp luật thuế phải tăng cường đối thoại, tập huấn chính sách, chế độ và các thủ tục hành chính thuế, giải quyết kịp thời vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế. Đối với đối tượng nộp thuế có dấu hiệu kê khai thiếu, trốn thuế, chây ì nghĩa vụ thuế thì chính quyền địa phương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng, cơ quan thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan thuế để tuyên truyền, giải thích về bản chất ý nghĩa tốt đẹp của tiền thuế và trách nhiệm của công dân đối với nghĩa vụ thuế, lên án những hành vi trốn thuế, chiếm đoạt thuế... Tổ chức hướng dẫn, tập huấn và chỉ đạo thực hiện tốt luật thuế GTGT và Luật thuế TTĐB.
Thường xuyên thực hiện thăm dò nhu cầu và tổ chức các lớp tập huấn miễn phí phổ biến về chính sách thuế phù hợp với từng đối tượng. Tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp trên truyền hình, dưới hình thức hội thảo,... giải đáp các thắc mắc, lắng nghe các ý kiến đóng góp, nguyện vọng của các đối tượng nộp thuế. Một mặt tuyên truyền công tác thu, mặt khác lắng nghe những đánh giá khách quan để sửa đổi kịp thời khi cần thiết.
Tuyên truyền thuế qua phương tiện thông tin đại chúng, báo đài thường xuyên. Hàng tháng, hàng quý, khi có thay đổi về cơ chế chính sách thuế, cần phải tổ chức phóng sự, viết nhiều bài báo, cũng như có chuyên mục giải đáp về lĩnh vực thuế thường xuyên. Nâng cao nhận thức của người dân, của các chủ thể kinh tế là vô cùng quan trọng. Trốn thuế, buôn lậu, gian lận thuế có thể đến từ các đối tượng hiểu luật mà vẫn cố tình lách luật, hoặc không hiểu luật dẫn đến vi phạm. Công tác tuyền truyền vừa mang tính chất phổ biến luật vừa nhằm tính răn đe đối với các đối tượng nộp thuế.
3.6. Các biện pháp quản lý con người, phòng chống tiêu cực trong công tác hành thu NSNN trên địa bàn
Các biện pháp về vấn đề con người luôn luôn là quan trọng nhất. Mọi quy định của luật, các cơ chế vận hành, tổ chức bộ máy quản lý công tác thu suy cho cùng vẫn chỉ là lý thuyết. Nó chỉ thực sự đi vào thực tế nếu có sự tham gia của con người. Giải quyết các vấn đề về con người sẽ bao gồm 2 nhóm biện pháp, biện pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ, và nhóm biện pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, chống quan liêu, tiêu cực trong công tác.
Để nâng cao trình độ của cán bộ thu NSNN trên địa bàn, trước hết phải đi từ khâu tuyển dụng cán bộ. Thành phố cần kiên quyết đãi ngộ người tài, sử dụng người tài, chống nạn “ô dù”, cậy quyền cậy thế. Những cán bộ như vậy vừa không đảm bảo năng lực, vừa cậy quyền thế mà tham ô, tham nhũng rất nguy hại đến quá trình quản lý, vận hành ngân sách.
Việc sử dụng chế độ luân phiên các cán bộ thuế cũng rất đáng lưu tâm, không để cho các cán bộ và các đối tượng nộp thuế có thời gian, điều kiện móc ngoặc nảy sinh tiêu cực. Cản trở lớn nhất khi sử dụng biện pháp này là việc các cán bộ, viên chức nhà nước cần có thời gian làm quen môi trường làm việc mới nên có thể ảnh hưởng tới hiệu quả công tác. Tuy nhiên, cùng với việc công khai hóa và phổ thông hóa thông tin trong ngành, các cán bộ thuế hoàn toàn có thể đảm đương tốt công việc khi luân chuyển địa bàn công tác.
Tiếp đến phải đầu tư tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ứng xử đối với người nộp thuế, khả năng ứng dụng tin học trong công tác quản lý thu thuế của cán bộ công chức ngành Thuế. Cụ thể:
+ Mở các lớp bồi dưỡng công tác cấp lại mã số thuế.
+ Tập huấn tin học ứng dụng trong quản lý thuế.
+ Tập huấn công tác thanh tra.
+ Tập huấn bồ dưỡng thuế.
+ Kiểm tra chất lượng nghiệp vụ thanh tra và quản lý doanh nghiệp đặc biệt là những cán bộ thanh tra, quản lý khu vực ngoài quốc doanh.
Chống tiêu cực trong công tác hành thu là vấn đề nan giải. Thành phố cần ban hành các quy chế cụ thể quy định trách nhiệm từng cá nhân các cán bộ thu NSNN. Đồng thời kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Thành phố cần thực hiện thanh tra chéo, kiểm tra đánh giá chất lượng công tác thu qua phối hợp với các đối tượng thu, lắng nghe ý kiến đóng góp, phản hồi từ nhiều nguồn thông tin như báo chí, truyền hình, người dân qua đường giây nóng, khiếu nại tố cáo,...
Cuối cùng, luận văn cho rằng: Đối với các cán bộ ngành thuế, để khuyến khích mọi người làm việc đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, chuyên tâm công tác chuyên môn, thành phố cũng rất cần cải tổ tiền lương, mở rộng chế độ thưởng nâng cao thu nhập cho các cán bộ ngành thuế. Biện pháp này song song với việc mạnh tay xử lý các vụ việc tiêu cực, thắt chặt kỷ cương quản lý hành thu. Sự phối hợp này vừa cổ vũ vừa răn đe, vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa nghiêm khắc xử lý sẽ mang lại hiệu quả công tác tốt.
*********************
Trên đây là một số biện pháp vừa mang tính định hướng, lại vừa cụ thể nhằm nâng cao công tác hành thu ngân sách trong giai đoạn tới. Các biện pháp được đưa ra trên cơ sở phân tích, tìm hiểu kỹ những tồn tại, những đặc trưng, những việc đã và chưa làm được của công tác hành thu ngân sách trong giai đoạn vừa qua. Trong đó, luận văn nhấn mạnh các biện pháp về nuôi dưỡng nguồn thu từ DN ngoài quốc doanh; biện pháp hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng phân cấp nhiều hơn cho các quận, huyện, xã nhằm nâng cao hiệu quả thu; các biện pháp nâng cao hiệu quả hành thu bằng việc cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả thanh tra, đào tạo cán bộ và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thực hiện công tác thu ngân sách.
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ nội dung Luận văn thực tập tốt nghiệp với đề tài “Biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của thành phố Hà Nội giai đoạn 2006-2010”. Qua quá trình tìm hiểu và hoàn thành luận văn, có thể rút ra một số kết luận như sau:
- Khẳng định vai trò của NSNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hóa, là công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế, có vai trò định hướng phát triển, tái phân phối thu nhập, thực hiện các chức năng của Nhà nước.
- Thực trạng công tác thu ngân sách Hà Nội thành phố Hà Nội trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, số thu tăng khá và đáp ứng được yêu cầu chi của thành phố. Tuy nhiên, qua phân tích có thể thấy nguyên nhân mang lại kết quả thu cao phần nhiều do Hà Nội có những ưu đãi đặc biệt, và 5 năm qua có nhiều thay đổi trong cơ chế chính sách thu theo hướng chủ yếu tăng thêm nguồn thu NSNN trên địa bàn. Bởi vậy, thực tế công tác thu còn tồn tại những hạn chế nhất định. Đáng kể nhất là tình trạng trốn thuế, gian lận thuế còn khá phổ biến, vẫn còn nạn tham nhũng, tiêu cực, thủ tục hành chính ngành Thuế còn rườm rà.
- Trên cơ sở những kiến thức đã tiếp thu được qua quá trình nghiên cứu vừa qua, luận văn xin đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác thu ngân sách cho thành phố Hà Nội trong giai đoạn tới 2006-2010. Chủ yếu các biện pháp nhằm 3 mục tiêu: nuôi dưỡng nguồn thu, hoàn thiện cơ chế chính sách thu và nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Trong đó, luận văn nhấn mạnh nguồn thu từ khu vực DN ngoài quốc doanh là nguồn thu quan trọng cần triệt để khai thác. Trong cơ chế chính sách thu, chuyên đề quan tâm nhiều tới việc phân cấp nhiều hơn cho các cấp địa phương, nhằm khai thác nguồn thu trên, và nhiều nguồn thu khác một cách hiệu quả. Đồng thời luận văn cũng tán thành chủ trương thay đổi cơ chế tự khai, tự nộp thuế mà Nhà nước ta đang tích cực triển khai thí điểm. Đó là biện pháp hữu hiệu mà thành phố cần phải tiên phong đi đầu, nhanh chóng hoàn thành việc chuyển đổi trong giai đoạn tới. Trong công tác hành thu, luận văn nhấn mạnh tới việc thắt chặt kỷ cương trong lĩnh vực hành thu ngân sách, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời chống nạn trốn thuế và gian lận thuế bằng các biện pháp vừa mềm dẻo như giáo dục tuyên truyền các đối tượng nộp thuế, vừa mang tính cưỡng chế cao như tích cực giám sát, thanh tra và xử lý nghiêm…
Với thời gian eo hẹp để hoàn thành luận văn, nên mặc dù được quý cơ quan quan tâm giúp đỡ về nhiều mặt, luận văn đã hoàn thành chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, các cán bộ ngành thuế, các chuyên gia trong lĩnh vực ngân sách để luận văn ngày càng hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn các cán bộ, chuyên viên Ban Kinh tế - Ngân sách Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, các cán bộ phòng Tổng hợp HĐND cùng toàn thể các cán bộ đang công tác tại các Phòng, Ban giúp việc Thường trực HĐND thành phố đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu, tiếp cận với nhiều tài liệu quý trong thời gian qua. Đặc biệt là sự hướng dẫn trực tiếp hết sức tận tình của bác Lê Văn Hoạt, chú Nguyễn Văn Nam cán bộ Ban Kinh tế - Ngân sách trong suốt quá trình thực tập.
Chân thành cảm ơn thầy giáo, ThS Vũ Cương, giáo viên hướng dẫn tôi trong đợt thực tập vừa qua. Thầy giáo đã quan tâm, tận tình chỉ bảo, luôn theo sát quá trình thực tập, thường xuyên có những buổi làm việc hàng tuần rất bổ ích. Chính nhờ sự giúp đỡ của thầy mà luận văn đã hoàn thành như mong đợi. Một lần nữa, xin cảm ơn thầy giáo!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********************
1. Giáo trình quản lý tài chính công, PGS.TS Dương Đăng Chinh, TS. Phạm Văn Khoa, NXB Tài chính, Hà Nội 2005.
2. Tài chính công, Michel Bouvier, Marie-Christine Esclassan, Tean-Pierre Lassale, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
3. Luật Thuế đại cương và lý thuyết thuế, Michel Bouvier, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
4. 100 câu hỏi và giải đáp về Luật Ngân sách Nhà nước, Ban biên tập dự án “Hỗ trợ cải cách ngân sách”, Hà Nội 2003.
5. Một số vấn đề quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, PGS.TS Đặng Văn Thanh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
6. Thông tin kinh tế xã hội thành phố Hà Nội, Cục Thống kê thành phố Hà Nội, năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
7. Báo cáo Tình hình thực hiện sự toán thu, chi ngân sách các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
8. Báo cáo Tổng quyết toán thu chi ngân sách thành phố các năm 2001, 2002, 2003, 2004 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
9. Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
10. Báo đầu tư
11. Báo Hà Nội mới
12. Thời báo kinh tế Việt Nam
13. Báo Doanh nghiệp và Kinh tế Thủ đô
14. Tạp chí Tài chính
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28539.doc