Một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long

LỜI NÓI ĐẦU Chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá sang nền kinh tế quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, nền kinh tế của đất nước đã có biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ. Các doanh nghiệp được Nhà Nước giao quyền chủ động trong hoạt động tổ chức và sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuát kinh doanh của mình. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào hiệu quả của sản xuất kinh doanh, có đủ sức cạn

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tranh trên thị trường. Để có thể cạnh tranh được trên thương trường, các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc tổ chức sản xuất kinh doanh, khai thác hiệu quả đến từng đồng vốn của doanh nghiệp. Vì vậy, một câu hỏi lớn đặt ra là: Làm thế nào để đẩy nhanh được tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp? Để trả lời chính xác và xác đáng cho câu hỏi này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở vững chắc về lý luận cơ bản để tiêu thụ sản phẩm, tình hình thực tiễn của doanh nghiệp, của thị trường, của đối thủ cạnh tranh… từ đó tìm ra lời giải đáp tốt nhất cho câu hỏi này. Vậy vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Từ thực tế trên, qua việc thực tập nghiên cứu tại công ty may Thăng Long, em chọn đề tài: “Một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài này được chia thành 3 chương: Chương I: Tiêu thụ sản phẩm và vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Chương II: Tình hình tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của Công ty may Thăng Long. Phần III: Một số giải pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại công ty may Thăng Long. CHƯƠNG I TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM. Vai trò của tài chính doanh nghiệp Tài chính là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ nảy sinh trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hoàn thành và sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ sản xuất và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn, tài chính doanh nghiệp là hệ thống các chỉ tiêu kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối của xã hội gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu chung xã hội. Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo địng hướng xã hội chủ nghĩa. Nó là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tính chất và mức độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Do đó, vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện trên những mặt sau: Hoạt động tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc chủ động tạo lập vốn, đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp có vai trò trong việc tổ chức, sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh. Tài chính doanh nghiệp còn là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp có thể trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí là tiêu cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý, mặt khác nó còn phụ thuộc vào chính sách quản lý kinh tế của nhà nước theo từng thời kỳ. Tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp Khái niệm tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là quả trình thực hiện giá trị của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nói một cách cụ thể: Tiêu thụ hàng hoá là quá trình người bán xuất, giao hàng cho người mua và người mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận việc thanh toán tiền hàng theo giá thoả thuận cho người bán. Đứng trên góc độ tài chính doanh nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là sự vận động của vốn kinh doanh qua các giai đoạn ( T – H…SX…H’ – T’), thực hiện ba chức năng (vốn tiền tệ, vốn sản xuất, vốn hàng hoá) rồi trở lại trạng thái ban đầu. Tiêu thụ sản phẩm chính là giai đoạn cuối cùng và không thể thiếu trong vòng tuần hoàn chu chuyển của vốn. Thông qua quá trình tiêu thụ sản phẩm, vốn hàng hoá đã thay đổi để chuyển thành vốn tiền tệ ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng để tồn tại và phát triển bền vững. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm Khi tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp sẽ có một khoản thu nhập bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ (đã trừ các khoản chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại…nếu có chứng từ hợp lệ). Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp còn bao gồm các khoản trợ giá, phụ giá, phụ thu…, được hưởng theo các quy định của pháp luật và giá trị sản phẩm hàng hoá làm quà biếu, tặng, cho, tiêu dùng nội bộ. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, phản ánh trình độ chỉ đạo tổ chức sản xuất – kinh doanh, tổ chức công tác thanh toán. Có được doanh thu từ bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp đã sản xuất và cung ứng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được người tiêu dùng chấp nhận. Song doanh thu tiêu thụ sản phẩm không dồng nhất với tiền bán hàng: tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và đã thu được tiền về. Còn doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ngay cả khi khách hàng chưa thanh toán tiền hàng nhưng đã chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó. Trong trường hợp có chiết khấu, giảm giá… doanh thu và tiền bán hàng còn khác nhau cả về mặt lượng. Khi đó tiền bán hàng chỉ là một phần của doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tương ứng với số tiền mà khách hàng thanh toán cho doanh nghiệp. Để thấy được sự khác nhau giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng, ta phải phân biệt rõ chúng trong từng trường hợp xác định tiêu thụ cụ thể. Nhìn chung doanh thu tiêu thụ được chia làm hai nhóm: Doanh thu bán hàng ra ngoài và doanh thu tiêu thụ nội bộ: Doanh thu bán hàng ra ngoài là bộ phận doanh thu do bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị hạch toán độc lập. Doanh thu bán hàng ra ngoài bao gồm: + Doanh thu bán các sản phẩm, hàng hoá thuộc sản xuất kinh doanh chính như: bán thành phẩm, bao gồm cả doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp và của người đặt hàng, doanh thu về bàn giao công trình… + Doanh thu về tiêu thụ khác như: cung cấp lao động, dịch vụ cho bên ngoài, bán bản quyền phát minh sáng chế, tiêu thụ những sản phẩm chế biến từ phế liệu, phế phảm… ra bên ngoài. Doanh thu nội bộ là bộ phận doanh thu được xác định từ việc bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một Công ty, hoặc giữa các đơn vị, các Công ty trực thuộc một tổng Công ty hạch toán toàn ngành. Doanh thu tiêu thụ nội bộ bao gồm: + Doanh thu bán các sản phẩm hàng hoá trực thuộc sản xuất kinh doanh chính được thực hiện giữa cá đơn vị thành viên trong cùng một Công ty với nhau. + Doanh thu cung cấp dịch vụ, lao động, sản phẩm phụ… cho các cho các đơn vị thành viên khác trong cùng một Công ty hoặc tổng Công ty. Như vậy, doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền hàng, tiền gia công và dịch vụ sau khi đã xuất bán hàng, trả hàng gia công hoặc cung cấp dịch vụ cho bên ngoài đã thu được tiền hoặc được khách hàng chấp nhận trả tiền. Vì vậy, trong công tác tiêu thụ các doanh nghiệp không nên xem nhẹ việc xác định nội dung của doanh thu tiêu thụ đồng thời cũng không nên áp dụng các khuôn mẫu mà phải tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh để xác định cho chính xác, phân chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện cho việc theo dõi và phản ánh doanh thu của mình. Khi nói tới những hành vi hình thành nên quá trình tiêu thụ sản phẩm thì hành vi doanh nghiệp xuất giao sản phẩm hàng hoá cho khách hàng có thể tiến hành ngay tại kho của doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp vận chuyển hàng tới kho của khách hàng theo thoả thuận của đôi bên. Đây mới chỉ là sự vận động của sản phẩm hàng hoá từ nơi này đến nơi khác để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm. Để hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết phải có hành vi thứ hai đó là thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó của khách hàng. Việc thanh toán được diễn ra dưới nhiều hình thức và tại nhiều thời điểm khác nhau: thanh toán ngay, thanh toán sau một thời gian đã giao hàng… Do vậy tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà doanh thu tiêu thụ được xác định ở những thời điểm khác nhau: Trường hợp thứ nhất: Trường hợp xuất giao sản phẩm hàng hoá và thanh toán diễn ra đồng thời. Khi doanh nghiệp xuất giao hàng hoá cho khách hàng thì đồng thời doanh nghiệp cũng đồng thời nhận được tiền hàng do khách hàng thanh toán, do đó doanh thu cũng được xác định luôn. Trường hợp thứ hai: Doanh nghiệp xuất giao sản phẩm hàng hoá được khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ sản phẩm đã được xác định nhưng tiền hàng chưa thu về được. Trường hợp thứ ba: Trường hợp đơn vị mua ứng trước tiền hàng cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp xuất giao đủ hàng cho khách hàng theo số tiền mà khách hàng ứng trước thì lúc đó, đồng thời với việc xuất giao hàng cho khách hàng, tiền bán hàng trở thành tiền thu bán hàng của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ở thời điểm này. Trường hợp thứ tư: Doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng mới chỉ thu được một phần, phần còn lại sẽ được thu trong từng kỳ tiếp theo. - Trường hợp thứ năm: Doanh nghiệp thu được tiền hoặc được chấp nhận thanh toán số hàng đã gửi đi bán hoặc giao cho các đại lý. Trong trường hợp này thì hành vi xuất giao hàng và thanh toán tiền hàng cách nhau khá xa nên việc xác định sản phẩm đã được tiêu thụ hay chưa thường hay bị nhầm lẫn. Do đó có thể dẫn đế sự nhầm lẫn doanh thu giữa kỳ hạch toán này vời kỳ hạch toán khác. Vì vậy cần phải chú ý là khi doanh nghiệp xuất giao sản phẩm hàng hoá và đã thu được tiền hoặc được chấp nhận thanh toán thì mới xác định được doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Tóm lại, để xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm cần phải thoả mãn đủ hai điều kiện là: Doanh nghiệp đã thực sự xuất giao sản phẩm hàng hoá cho khách hàng và khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó cho doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa tiêu thụ sản phẩm với tình hình tài chính của doanh nghiệp Việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trong, nó ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xét về mặt tài chính, tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhưng ngược lại tình hình tài chính doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ đến tiêu thụ sản phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ tác động tương hỗ lẫn nhau hết sức chặt chẽ, thường xuyên liên tục. Trong mối quan hệ tài chính doanh nghiệp và tiêu thụ sản phẩm. Sự tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính doanh nghiệp có thể thấy rõ : Tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng sẽ làm tăng vòng quay của vốn, rút ngắn kỳ thu tiền bình quân,tăng hiệu suất sử dụng vốn cố định. Từ đó làm tăng lợi nhuận, tăng doanh lợi vốn có nghĩa là tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Bởi vậy, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, từ đó làm tăng tỷ trọng vốn tự có, giảm tỷ trọng vốn đi vay làm cho kết cấu tài chính của doanh nghiệp được thay đổi theo hướng an toàn, có lợi, từ việc giảm số vốn đi vay đồng thời với việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sẽ tác động tới tái sản xuất mở rộng sẽ làm tăng quy mô tài sản lưu động. Từ đó dẫn dến làm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Qua đó sẽ làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng ổn định và vững mạnh hơn. Ngược lại, nếu như việc tiêu thụ sản phẩm chậm chạp sẽ làm giảm vòng quay vốn lưu động, giảm hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Giảm tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là làm giảm lợi nhuận, giảm doanh lợi vốn, vốn tự có không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh, buộc doanh nghiệp phải tăng tỷ trọng vốn đi vay dẫn đế kết cấu tài chính của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thiếu an toàn, bất lợi. Hệ số nợ của doanh nghiệp tăng lên sẽ làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm đi, mức độ rủi ro tăng lên, tài chính của doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, công nợ chồng chất, doanh nghiệp bị thụ động về vốn. Nếu như sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp không tiêu thụ được thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động tài chính: Vồn sản xuất kinh doanh bỏ ra không thu hồi được, các khoản vốn vay của doanh nghiệp sẽ chịu lãi suất quá hạn, lãi mẹ đẻ lãi con, làm cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Từ đó có thể dẫn doanh nghiệp đến tình trạng phá sản. Đó là sự tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Xét về phía tài chính doanh nghiệp tác động đén tiêu thụ sản phẩm thì sự tác động này cũng không phải là ít. Tài chính doanh nghiệp có khả năng tổ chức huy động vốn, phân phối các nguồn vốn, đảm bảo các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh để có thể sản xuất ra khối lượng sản phẩm với quy cách, mẫu mã, chủng loại, chất lượng… như thiết kế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng theo đúng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, với khối lượng sản phẩm, kết cấu, chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy sẽ tác động mạnh đến tiêu thụ sản phẩm. Trước khi tiến hành sản xuất, bằng sự phân tích đánh giá của mình, tài chính doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án sản xuất với dự toán chi phí sản xuất hợp lý nhất, đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt với mức giá thành thấp nhất, từ đó doanh nghiệp có thể định giá bán thấp hơn mặt bằng giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường, tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh. Tài chính doanh nghiệp tham gia định giá bán sản phẩm trong việc xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Có thể thấy kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có hai bộ phận chính đó là chính sách sản phẩm và chính sách giá cả. cho nên, việc quy định mức giá bán sản phẩm trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nếu việc định giá sản phẩm không căn cứ vào tình hình thị trường, xa rời thực tế thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu việc định giá bán sản phẩm bám sát nhu cầu thị trường, tình hình thực tế của doanh nghiệp, đưa ra một mức giá hợp lý thì sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp cũng là “Người” lập nên dự toán chi phí bán hàng. Nhờ có tài chính doanh nghiệp mà các khoản chi phí bán hàng như: Chi phí bao bì, đóng gói, vận chuyển bốc dỡ, bảo quản, quảng cáo… được thiết lập một cách khoa học, hợp lý thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm được nhanh chóng hơn. Trong khâu tổ chức sản xuất thông qua các sổ sách số liệu kế toán, định mức kinh tế kỹ thuật… Tài chính doanh nghiệp kiểm tra giám sát đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng thiết kế, tránh lãng phí, hao hụt, mất mát… Làm cho giá thành sản phẩm hạ, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, từ đó làm cho sản phẩm được tiêu thụ dễ dàng. Trong khâu bán hàng, tài chính doanh nghiệp kiểm tra giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản chi phí bán hàng đã được lập trong kế hoạch, trong dự toán, từ đó ngăn chặn, tránh được mọi hiện tượng bớt xén, sử dụng sai mục đích, lãng phí. Nhờ vậy, sản phẩm được bao gói đúng theo tiêu chuẩn quy định, công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm được xúc tiến hợp lý hơn, có hiệu quả hơn. Tất cả các công tác đó sẽ thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp nhiều hơn vì vậy sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Đặc biệt tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ sắc bén của mình như: Tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp… để kích thích sản xuất, dáp ứng dủ sản phẩm cho nhu cầu của thị trường, kích thích nhân viên bàn hàng năng động trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ như chính sách chiết khấu, giảm giá bán hàng, khuyến mại… để kích thích tiêu thụ. Bên cạnh đó tài chính doanh nghiệp còn sử dụng giá bán như một công cụ kích thích quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: Doanh nghiệp sử dụng một cơ chế giá linh hoạt, mềm dẻo (giá bán cao, thấp, hạ giá bán…) nhờ đó mà sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Trong khâu thanh toán, tài chính doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh toán linh hoạt: thanh toán ngay, chậm, thanh toán bằng séc, thanh toán qua ngân hàng( mở L/C) , thanh toán bằng tiền mặt… nhờ vậy mà thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp. Từ đó đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy, tài chính doanh nghiệp thực sự có ý nghĩa quan trọng trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, tài chính doanh nghiệp đã và đang khẳng định vai trò to lớn của mình mà bao lâu nay đã bị cơ chế bao cấp coi nhẹ. Thấy được điều này, các doanh nghiệp cần phải tìm mọi biên pháp nâng cao hơn nữa hoạt động tài chính doanh nghiệp của mình, đưa tài chính doanh nghiệp về đúng vị trí xứng đáng của nó. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. 4. Những nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Trong điều kiện nền kinh tế phát triển như hiện nay, hoạt động tiêu thụ sản phẩm ngày càng sôi động, đa dạng và phức tạp. Sản phẩm có tiêu thụ được hay không, không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác. Có thể xét một số nhân tố cơ bản sau: a.Chất lượng sản phẩm hàng hoá Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự đa dạng, phong phu của sản phẩm cung cấp,chất lượng sản phẩm ngày càng đóng vai trò quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng cao được người tiêu dùng chấp nhận là cơ sở quan trọng nhất để tạo uy tín cho nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh, thu hút khách hàng, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng sản phẩm hàng hoá tốt không chỉ cho phép doanh nghiệp tăng cường mạnh mẽ khả năng tiêu thụ sản phẩm mà còn tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp khai thác triệt để các yếu tố về giá trong kinh doanh. Điều đó tác động cùng một lúc, trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp. Ngược lại những sản phẩm kém chất lượng thì việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn ngay cả khi bán giá thấp. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cho thấy cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm luôn là cạnh tranh sắc bén có hiệu quả và lâu bền nhất. Chính chất lượng sản phẩm hàng hoá làm tăng giá trị sản phẩm và tăng uy tín cho doanh nghiệp. Giá thành của sản phẩm hàng hoá Giá thành của sản phẩm hàng hoá bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành việc sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Giá thành của sản phẩm hàng hoá tác động rất lớn đến quá trình tiêu thụ. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, chiến lược về giá cả được coi là rất linh hoạt, mang tính nghệ thuật cao của các nhà kinh doanh. Quyết định về giá cả và cơ chế giá là vấn đề rất nhạy cảm, nó tác động mạnh mẽ đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng đặc biệt là ở những vùng thị trường có khả năng thanh toán thấp. chính sách giá đúng đắn có ảnh hưởng tích cực đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Nến doanh nghiệp đưa ra được mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm, được người tiêu dùng chấp nhận thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên doanh nghiệp không thể tăng giá bán để tăng doanh thu mà phải hạ giá bán để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp thực hiện quản lý một cách chặt chẽ, giảm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí vận chuyển, công tác thu mua… làm giảm giá thành sản phẩm từ đó hạ giá bán so với mặt bằng giá trên thị trường thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đẩy mạnh được tiêu thụ sản phẩm. Công tác tổ chức bán hàng và thanh toán + Công tác tổ chức bán hàng: Một doanh nghiệp nến áp dụng tổng hợp các hình thức bán buôn, bán lẻ, bán tại kho… tất nhiên sẽ tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn những doanh nghiệp chỉ áp dụng đơn thuân một hình thức bán hàng. Doanh nghiệp cũng cần phải tổ chức mạng lưới cửa hàng và các đại lý phân phối sản phẩm tiếp cận người mua. Trong công tác tổ chức bán hàng, doanh nghiệp luôn luôn phải tôn trọng khách hàng, coi “khách hàng là thượng đế” và luôn “làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, có như vậy thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mới đạt hiệu quả cao. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ , số lượng, chất lượng, mặt hàng. DN có thể sử dụng các kết quả kỳ trước hoặc các chỉ tiêu kế hoạch để so sánh và qua đó thấy được mức độ hoàn thành. Hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm thể hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm của DN , đó là lượng sản phẩm được đo bằng chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. * Thước đo bằng hiện vật : Sản lượng sản phẩm tiêu thụ Sản lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ Sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ Sản lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ Doanh thu tiêu thụ hàng hoá Khối lượng hàng hoá tiêu thụ Giá bán đơn vị hàng hoá Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ (số lượng) Khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế Khối lượng sản phẩm tiêu thụ kế hoạch * Thước đo bằng giá trị + Các phương thức thanh toán Trao đổi, mua bán hàng hoá trong nền kinh tế hiện đại gắn liền với sự đa dạng của các phương thức thanh toán như: bằng tiền mặt, séc, bằng chuyển khoản, mở L/C thanh toán qua ngân hàng, hàng đổi hàng, thanh toán ngay, thanh toán chậm, bán theo phương thức trả góp… Khi phải quyết định mua hàng của các doanh nghiệp có cùng một loại sản phẩm với chất lượng giá bán như nhau. Khách hàng sẽ tìm đến doanh nghiệp đưa ra được phương thức thanh toán thuận lợi và phù hợp với điều kiện của khách hàng. Như vậy, phương thức thanh toán đa dạng và linh hoạt cũng là một phương thức cạnh tranh tốt trên thương trường. d. Hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm Quảng cáo là phương tiện để truyền tin định trước về sản phẩm tới thị trường và người tiêu dùng. Mục đích của quảng cáo là để giới thiệu và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng trong thị trường đã định, thuyết phục họ về lợi ích, sự hấp dẫn và những lợi ích của sản phẩm. Hiệu quả của một chiến dịch quảng cáo để thay đổi, củng cố thái độ và lòng tin của người tiêu dùng về sản phẩm làm tăng lòng ham muốn của họ. Có nhiều phương tiện quảng cáo phổ biến như: báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, pano, áp phích, tờ rơi hoặc thông qua hội nghị khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp. Ngoài ra, đường lối chính sách, phương thức phát triển kinh tế, các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, sự phát triển của cơ sở hạ tầng như: hệ thống đường giao thông,lưới điện, các dịch vụ bưu chính viễn thông… cũng đều ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Có sự tác động của nhiều nhân tố như vậy, việc tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và tìm ra cách giải quyết tối ưu là nhiệm vụ mang tính chất sống còn của doanh nghiệp. Chính vì vậy việc dựa vào các giải pháp về tài chính để hạn chế những tiêu cực và dần loại bỏ nó là một đòi hỏi cần thiết. III. Một số giải pháp tài chính để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp Giá cả của sản phẩm hàng hoá Trong cơ chế thị trường, giá cả của hàng hoá, dịch vụ là kết quả của một quá trình cạnh tranh, dung hoà về lợi ích giữa người bán và người mua. Chính vì vậy chính sách định giá của nhà kinh doanh phải rất linh hoạt và nhạy bén. Khi một hàng hoá mới được tung ra thị trường, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng là lúc doanh nghiệp định giá bán cao để nâng cao doanh thu. Lúc này giá có cao một chút cũng không cản trở người tiêu dùng đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Nhưng khi sản phẩm đã bước vào giai đoạn bão hoà thì doanh nghiệp lại hạ thấp giá bán để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn. Nhiều khi vì những nguyên nhân nào đó mà nhu cầu về sản phẩm, hàng hoá tăng cao hoặc giảm mạnh thì doanh nghiệp cũng cần phải điều tiết giá cả để bảo đảm doanh thu và tiêu thụ sản phẩm theo định mức. Trong công tác tiêu thụ sản phẩm, việc giảm giá được các doanh nghiệp đặc biệt chú trọng. Một số phương thức giảm giá thường được áp dụng là: Giảm giá theo khối lượng sản phẩm: Khách hàng mua sản phẩm với khối lượng lớn sẽ được doanh nghiệp giảm giá theo một mức nhất định. Mức giảm giá cũng có thể được chia thành nhiều cấp bập khác nhau. Khách hàng mua sản phẩm với số lượng lớn sẽ được hưởng mức giảm giá cao, mua sản phẩm với số lượng ít hơn sẽ được hưởng mức giảm giá thấp hơn… Giảm giá theo kỳ ngắn hạn: Theo phương thức này, trong một khoản thời gian ngắn mọi khách hàng mua it hay nhiều đều được giảm giá( mức giảm giá có thể đồng đều trên đơn vị sản phẩm hoặc kết hợp với phân bậc theo số lượng sản phẩm). Hết thời hạn, giá cả lại trở lại bình thường. Các doanh nghiệp đưa ra những lý do hết sức khôn khéo như: “Giảm giá nhân dịp năm mới” và nhân những ngày lễ lớn trong năm. Ngoài ra một số doanh nghiệp còn áp dụng hình thức giảm giá cho một số đối tượng khách hàng như: Học sinh, sinh viên, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình chính sách… Như vậy có thể nói rằng, giá cả là một công cụ sắc bén trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt mang lại hiệu quả cao trong việc tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường mà mức độ tiêu dùng và khả năng thanh toán còn thấp như ở nước ta. Chiết khấu bán hàng Chiết khấu bán hàng là hình thức doanh nghiệp khấu trừ cho khách hàng một số tiền tương ứng với tỷ lệ phần trăm số tiền tình trên giá trị số hàng hoá khách hàng mua của doanh nghiệp. Có hai loại triết khấu: Chiết khấu thanh toán: là số tiền người bán giảm trừ cho khách hàng đã thanh toàn tiền hàng trước thời hạn quy định nhằm khuyến khích việc thanh toán nhanh, tiền bán hàng không bị chiếm dụng, vón kinh doanh được quay vòng vốn. Chiết khấu bán hàng: Tính theo số lượng hàng hoá bán ra, khách hàng mua đạt đến mức độ nào đó sẽ được hưởng chiết khấu theo tỷ lệ số lượng hàng hoá bán ra. Hoa hồng các đại lý, cửa hàng ký gửi Để mở rộng thị trường tiêu thụ, việc mở rộng hàng loạt các đại lý là hết sức cần thiết, bên cạnh đó doanh nghiệp cần phải có những chính sách nhằm khuyến khích các đại lý hoạt động có hiệu quả hơn. Doanh nghiệp trích theo một tỷ lệ phần trăm (%) trên doanh thu bán hàng của đại lý để trả công cho đại lý. Số tiền này được gọi là tiền hoa hồng cho các đại lý. Vậy muốn các đại lý tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì doanh nghiệp phải đưa ra tỷ lệ phần trăm hoa hồng linh hoạt và thoả đáng. 4. Cước phí vận chuyển Để tạo thuận lợi cho khách hàng nhất là những khách hàng ở xa, phần lớn các doanh nghiệp đều đảm nhận phần vận chuyển hàng hoá cho khách hàng. Việc vận chuyển hàng hoá không phải là công cụ tài chính khi khách hàng trả đầy đủ tiền cước phí vận chuyển nhưng khi giảm giá cước phí vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí thì số tiền cước phí đó lại trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công tác tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. 5. Quà tặng kèm theo Trong công tác tiêu thụ hàng hoá, nếu chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì chưa đủ, để khuyến khích khách hàng lựa chọn hàng hoá và làm cho khách hàng thấy được những lợi ích khi chọn mua sản phẩm của mình thì ngoài quảng cáo giới thiệu sản phẩm, doanh nghiệp còn phải tạo ra sự quan tâm của mình đến khách hàng bằng cách tặng quà cho khách hàng khi mua hàng đạt đến một số lượng, giá trị nhất định hoặc tặng qua cho khách hàng trong những ngày lễ tết trong năm. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá sẽ khiến cho tình hình tài chính doanh nghiệp được ổn định và lớn mạnh, ngược lại phát huy vai trò của tài chính sẽ thúc đẩy mở rộng không ngừng việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Cũng giống như tất cả các doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong những năm đổi mới, Công ty may Thăng Long còn gặp rất nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Để đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự thành công cũng như những hạn chế, vướng mắc trong việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm của Công ty, ta sẽ tiến hành phân tích, đánh giá ở chương sau. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY MAY THĂNG LONG. I. Giới thiệu khái quát chung về công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long Tên gọi : Công ty May Thăng Long Tên giao dịch quốc tế : Thang Long Gament Company Tên viết tắt : Thaloga Trụ sở chính : 250 – Minh Khai – Hai Bà Trưng – Hà Nội Fax : 844 – 8623374 Điện thoại : (048)623372 – 623053 E-mail : Thaloga@fpt.vn Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam, được thành lập ngày 08/05/1958. Công ty ra đời trong bối cảnh miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ khôi phục và cải tạo nền kinh tế. Cuối năm 1958 hàng may mặc của Việt Nam do công ty may Thăng Long lần đầu tiên có mặt trên thị trường Liên Xô, đã dần dần chiếm lĩnh và thu hút được người tiêu dùng ở Matxcơva. Sản phẩm chủ yếu lúc bấy giờ là: Chermi, Pigama, áo Măng tô nam và nữ. Đến ngày 15/12/1958 công ty đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch đầu tiên của mình với tổng sản lượng là : 391.129 sản phẩm so với chỉ tiêu kế hoạch đạt 112,8% , giá trị tổng sản lượng tăng 840.822 đồng. Những năm hoạt động theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập chung, Công ty vẫn luôn đạt được thành tích xuất sắc, tỷ lệ thực hiện kế hoạch năm thấp nhất là 100,36% và năm cao nhất là 109,12%. Công ty đã được nhận nhiều Huân chương Lao động do Nhà nước trao tặng. Năm 1990, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường, tiến hành mạnh mẽ công cuộc đổi mới, lúc này một thị trường lớn của công ty là Đông Đức bị tan rã. Trước những vấn đề khó khăn đó, Ban lãnh đạo Công ty đã có những quyết định đúng đắn để vượt qua những khó khăn thử thách. Công ty đã quyết định đầu tư, trang bị thêm máy móc thiết bị, sắp xếp lại sản xuất, cải tiến bộ máy quản lý phù hợp với yêu cầu mới. Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh tiếp thị, tìm kiếm thêm thị trường mới, tập trung vào các thị trường như Tây Âu, Nhật Bản và chú ý hơn nữa đến các thị trường may nội đia. Kết quả đạt được năm 1991, Công ty đã được Nhà nước cấp giấy phép xuất ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3709.doc