Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hết sức gay gắt. Doanh nghiệp nào yếu kém tất yếu sẽ bị thị trường loại bỏ, doanh nghiệp nào không ngừng đổi mới, thay đổi linh hoạt, thích ứng được đối với thị trường thì doanh nghiệp đó thành công.
Để tồn tại và phát triển thì nhất thiết các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chủ sở hữu, thu nhập của cán bộ công nhân viên tăng và sẽ là
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty XNK & hợp tác đầu tư GTVT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động lực khuyến khích tăng năng suất lao động, đồng thời tăng phần đóng góp vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, lợi nhuận là nguồn nội lực tăng cường và biểu hiện trực tiếp sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, là đích cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp phải vươn tới nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường.
Việc nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động như quản trị kinh doanh và đặc biệt là quản trị tài chính sao cho đồng vốn đem lại nhiều hiệu quả nhất.
Xuất phát từ định hướng trên, trong thời gian thực tập tại Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội, trên cơ sở kiến thức đã được học tại trường và tình hình thực tế tại Công ty cùng với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Lê Văn Chắt, em đã chọn đề tài “Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội”.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Phần II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco - Hà nội )
Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải hà nội
Phần I
Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm và nội dung cơ bản của lợi nhuận.
Khái niệm.
Chúng ta đã biết, doanh nghiệp là những đơn vị kinh tế và là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Nó trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh để sản xuất, chế tạo sản phẩm và thực hiện cung cấp các loại lao vụ, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để tồn tại và phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu hàng đầu của mình, đòi hỏi các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận. Vậy lợi nhuận của doanh nghiệp là gì?
Lợi nhuận của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ. Với khoản thu nhập này, doanh nghiệp tiến hành bù đắp các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí quản lý... nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện một cách thường xuyên liên tục. Phần thu nhập còn lại sau khi đã bù đắp các khoản chi phí chính là lợi nhuận. Thực chất lợi nhuận phản ánh phần giá trị thặng dư vượt quá phần giá trị tất yếu mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nội dung của lợi nhuận.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh : là số lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động khác: là số lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác của doanh nghiệp như lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
2. Vai trò của lợi nhuận đối với hoạt động của doanh nghiệp
2.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
Lợi nhuận là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận giữ một vị thế hết sức quan trọng trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế “ Lấy thu bù chi bảo đảm có lãi” thì doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó phải phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không và lợi nhuận nhiều hay ít. Với ý nghĩa là kết quả, mục đích, động lực, đòn bẩy của sản xuất kinh doanh, lợi nhuận được coi là thước đo cơ bản và quan trọng nhất đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận có tác động đến tất cả các mặt hoạt động, quyết định trực tiếp tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực hiện tốt chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp lành mạnh và vững chắc.
2.2. Vai trò của lợi nhuận đối với Nhà nước.
Lợi nhuận của doanh nghiệp một phần được đóng góp vào Ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, lợi nhuận là một trong những khoản thu nhập của Ngân sách Nhà nước
Lợi nhuận là động lực phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhà nước thông qua chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp bằng nhiều công cụ khác nhau trong đó có thuế.
2.3. Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động.
Việc tăng lợi nhuận sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bổ sung vào các quỹ như: Quỹ tiền lương, quỹ khen thưởng, phúc lợi, trợ cấp khó khăn, trợ cấp mất việc làm ... Từ đó giúp cho việc tái sản xuất sức lao động được tốt hơn làm tăng năng suất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là số chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, được xác định như sau:
Lợi nhuận = Tổng thu - Tổng chi
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tối đa hóa lợi nhuận thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh, mà còn có thể tiến hành các hoạt động khác. Khi đó lợi nhuận của doanh nghiệp được tổng hợp từ 3 nguồn lợi nhuận khác nhau, đó là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh( SXKD), lợi nhuận từ hoạt động tài chính(HDTC), và lợi nhuận bất thường(HĐBT). Như vậy, ta có công thức xác định lợi nhuận của doanh nghiệp như sau:
Lợi nhuận doanh nghiệp
=
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
+
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng khi lập kế hoạch lợi nhuận và lập báo cáo thu nhập hàng năm của doanh nghiệp thường được áp dụng theo 2 phương pháp sau:
Phương pháp trực tiếp.
* Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp. Đây là yếu tố cơ bản nhất quyết định lãi lỗ của doanh nghiệp sau kỳ kinh doanh.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
=
Doanh thu thuần
-
Trị giá vốn hàng bán
+
Chi phí bán hàng
+
Chi phí QLDN
Hoặc:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
=
Doanh thu thuần
-
Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu thụ trong kỳ
Trong đó:
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ
Doanh thu thuần: Là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu của doanh nghiệp(giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu)
Tổng doanh thu(doanh thu bán hàng): Là tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ được thực hiện do việc bán hàng hóa, sản phẩm, cung ứng, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng.
Các khoản giảm trừ bao gồm:
Chiết khấu hàng bán: Là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng
Giảm giá hàng bán: Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt: hàng kém phẩm chất, hàng không đúng quy cách.
Hàng bán bị trả lại: Là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua trả lại do không tôn trọng hợp đồng kinh tế như đã ký kết.
Các khoản thuế phải nộp: Thuế VAT tính theo phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu...
Trị giá vốn hàng bán: Đối với doanh nghiệp sản xuất là giá thành sản xuất của khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại (chỉ mua vào bán ra) thì trị giá vốn hàng bán là trị giá hàng mua và chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản.
+ Đối với doanh nghiệp hoạt động sản xuất:
Trị giá vốn hàng bán
=
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+
Chi phí sản xuất chung
+
Chi phí nhân công trực tiếp
+ Đối với doanh nghiệp thương mại kinh doanh lưu chuyển hàng hóa:
Trị giá vốn hàng bán
=
Giá mua sản phẩm hàng hóa
+
Các chi phí thu mua, vận chuyển, bảo quản sơ chế
Chi phí bán hàng: Là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như: tiền lương, các khoản phụ cấp cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu, hao phí dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo...
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các khoản chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như: chi phí tiền lương cho nhân viên quản lý, chi phí vật liệu dùng cho quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho quản lý doanh nghiệp, thuế, phí, lệ phí.
* Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như tham gia góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác, do chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng: cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá chứng khoán.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
=
Thu nhập từ hoạt động tài chính
-
Chi phí hoạt động tài chính
-
Thuế gián thu (nếu có)
Trong đó:
Thu nhập từ hoạt động tài chính: Là các khoản thu từ hoạt động góp vốn tham gia liên doanh, hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, hoạt động đầu tư khác, cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá...
Chi phí về hoạt động tài chính: Là chi phí cho các hoạt động nói trên.
* Lợi nhuận bất thường.
Lợi nhuận bất thường là số chênh lệch giữa thu nhập bất thường với chi phí bất thường.
Lợi nhuận bất thường
=
Thu nhập bất thường
-
Chi phí bất thường
-
Thuế gián thu (nếu có)
Thu nhập bất thường: Là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc có dự tính đến nhưng ít khả năng thực hiện được hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên. Những khoản thu bất thường có thể do chủ quan hay khách quan đưa tới bao gồm các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xóa sổ, không xác định được chủ, thu do hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Các khoản thu nhập kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót hay lãng quên ghi sổ kế toán, năm nay mới phát hiện ra.
Chi phí bất thường: Là khoản chi phí cho các hoạt động trên.
Do lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp được cấu thành từ các bộ phận của lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường nên tổng hợp cả ba lợi nhuận, ta xác định được chỉ tiêu tổng lợi nhuận của doanh nghiệp (lợi nhuận trước thuế).
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
=
LN từ hoạt động SXKD
+
LN từ hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận bất thường
Theo quy định về quản lý tài chính của Nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc có thu nhập nhất định phải có nghĩa vụ đóng một khoản nhất định vào Ngân sách Nhà nước, khoản đó gọi là thuế thu nhập doanh nghiệp. Phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế thu nhập gọi là lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng).
Từ đó,có thể xác định lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong kỳ
=
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
-
Thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ
Phương pháp gián tiếp (xác định lợi nhuận qua bước trung gian).
Ngoài phương pháp xác định lợi nhuận ở trên, còn có thể xác định lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ bằng cách tiến hành tính dần lợi nhuận của doanh nghiệp qua từng khâu hoạt động, trên cơ sở đó giúp cho người quản lý thấy được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động hoặc của từng yếu tố kinh tế đến kết quả hoạt động kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế hay còn gọi là lợi nhuận ròng. Phương pháp xác định lợi nhuận như vậy được gọi là phương pháp xác định lợi nhuận qua các bước trung gian. Tùy theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, người ta có thể thiết lập các mô hình khác nhau trong việc xác định lợi nhuận qua các bước trung gian. Dưới đây là mô hình xác định lợi nhuận theo phương pháp này đang được sử dụng tại nước ta hiện nay.
Tổng doanh thu bán hàng, cung ứng dịch vụ
(Doanh thu của các nghiệp vụ kinh doanh)
Doanh thu hoạt động khác
Hoạt động tài chính
Hoạt động bất thường
- Giảm giá
- Hàng bị trả lại
- Thuế gián thu
Doanh thu thuần
Lợi nhuận hoạt động khác
Chi phí hoạt động khác
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận hoạt động khác
- Chi phí bán hàng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận hoạt động khác
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế
III. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Sau đây là một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá lợi nhuận tại các doanh nghiệp.
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và doanh thu tiêu thụ trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện khi thực hiện một đồng doanh thu thuần trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận ròng trong kỳ. Thông thường tỷ suất này càng cao càng tốt, nhưng khi phân tích và so sánh với doanh nghiệp khác cùng ngành cần phải căn cứ vào đặc điểm loại hình sản xuất kinh doanh của ngành để có nhận xét đánh giá phù hợp.
2. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế trong kỳ và vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ, được xác định theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh trong kỳ
=
Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng đưa lại cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay. Như vậy, nó cũng phản ánh mức sinh lời của đồng vốn có tính đến ảnh hưởng của lãi vay nhưng chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp.
3. Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh là mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ, được xác định theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ mỗi đồng vốn bỏ ra kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng hay đưa lại bao nhiêu đồng thực lãi
4. Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh hay tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay của vốn kinh doanh
Hệ số này là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước lãi vay, thuế với vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ, được tính theo công thức:
Hệ số khả năng sinh lời vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh phản ánh khả năng sinh lời của đồng vốn kinh doanh không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh. Nó thể hiện rõ nhất kết quả công tác quản lý và hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
5. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Tỷ suất này thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ, được xác định bằng công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu trong kỳ
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả mỗi đồng vốn chủ sở hữu ở trong kỳ có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hiệu quả vốn chủ sở hữu một mặt phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh hay phụ thuộc vào trình độ sử dụng vốn, mặt khác phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn hay trình độ tổ chức nguồn vốn của doanh nghiệp.
6. Tỷ suất lợi nhuận chi phí (hoặc giá thành)
Tỷ suất lợi nhuận chi phí là mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế so với chi phí hoặc giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa đã tiêu thụ.
Tỷ suất lợi nhuận chi phí
=
Lợi nhuận sau thuế
Chi phí (giá thành)
Thông qua chỉ tiêu này có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí hoặc giá thành toàn bộ bỏ vào hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó cho biết cứ mỗi đồng chi phí hoặc giá thành thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tóm lại, quá trình hoạt động của mỗi doanh nghiệp là quá trình hình thành và sử dụng vốn kinh doanh. Mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh doanh là thu được lợi nhuận. Vì thế, hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lời của một đồng vốn kinh doanh. Lợi nhuận thể hiện kết quả tổng thể của nhiều biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng.
IV. các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Để tối đa hóa lợi nhuận thì một vấn đề tiên quyết là các doanh nghiệp phải luôn xem xét và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm kích thích hoặc hạn chế những nhân tố ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giữa doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận. Ngoài ra, lợi nhuận còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế xã hội: tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của ngành và doanh nghiệp, thị trường thế giới và thị trường trong nước... Tất cả những nhân tố đó có thể tác động có lợi hoặc bất lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố 1: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Khi các nhân tố khác cấu thành nên giá cả hàng hóa không thay đổi thì lợi nhuận của doanh nghiệp thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng hàng hóa tiêu thụ trong năm nhiều hay ít. Nhưng số lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ trong năm nhiều hay ít phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và chất lượng sản phẩm. Khi cung nhỏ hơn cầu thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn và ngược lại, với điều kiện chất lượng hàng hóa phải đảm bảo. Chất lượng hàng hóa thể hiện được chữ “tín” của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Nhân tố 2: Giá thành hoặc giá vốn hàng bán
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tiêu hao lao động sống và lao động vật hóa để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phảm nhất định. Đây là một trong những nhân tố quan trọng chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận, có quan hệ tác động ngược chiều đến lợi nhuận. Nếu giá vốn hàng bán giảm sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố giá vốn hàng bán thực chất phản ánh kết quả quản lý các yếu tố chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Nhân tố 3: Giá bán đơn vị sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc định giá sản phẩm của mình. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Việc thay đổi giá bán cao hay thấp một phần quan trọng do quan hệ cung cầu quyết định. Các doanh nghiệp khi định giá sản phẩm thường căn cứ vào chi phí bỏ ra để làm sao giá cả có thể bù đắp phần chi phí tiêu hao và tạo nên lợi nhuận thoả đáng để tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, trong thực tế sự biến động của giá cả sẽ tác động trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ vì thế giá bán sản phẩm tăng chưa chắc đã tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc sản xuất kinh doanh phải gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố 4: Tổ chức quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp
Tổ chức quá trình quản lý kinh doanh là rất quan trọng, có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý bao gồm các khâu cơ bản như: định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình tổ chức các hoạt động kinh doanh, nếu làm tốt sẽ làm tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ giảm được chi phí quản lý và chi phí bán hàng. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí liênquan tới việc tiêu thụ hàng hóa và quản lý doanh nghiệp. Đây là nhân tố có quan hệ tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Nếu các chi phí này tăng thì lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại. Những nhân tố này có ảnh hưởng tương đối lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại). Vì vậy, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp làm giảm hai loại chi phí này bằng việc giám sát quản lý chặt chẽ, căn cứ vào tình hình nhu cầu thực tế và mục tiêu lợi nhuận, xây dựng các định mức cho từng khoản mục chi phí cụ thể. Có làm được như vậy, doanh nghiệp mới có khả năng đảm bảo thu được lợi nhuận cao.
Nhân tố 5: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của nó không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế thị trường mà còn chịu sự chi phối của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách thuế, tín dụng, tiền tệ, các văn bản và quy chế quản lý tài chính. Tất cả những điều đó đều gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong đó thuế là một công cụ giúp cho Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô của mình. Nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chính sách thuế:
Thuế là hình thức động viên bắt buộc theo luật định và không hoàn trả trực tiếp đối với mọi tổ chức kinh tế và mọi công dân cho Nhà nước.
Thuế phải nộp
=
Thuế suất
x
Giá trị tính thuế
Tuỳ theo tính chất, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất, thuế tài nguyên. Các loại thuế này được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có một số loại thuế gián thu như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế này được tính trong giá bán và đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng.
Đây là nhân tố khách quan do Nhà nước quy định tuỳ thuộc vào giá tính thuế và thuế suất từng mặt hàng. Bởi vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải theo dõi, giám sát sao cho đúng vì khi có những thay đổi về thuế phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận.
Nhân tố 6: Khả năng về vốn của doanh nghiệp
Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp, do vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào có “trường vốn”, có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp giành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện để mở rộng thị trường, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.
Nhìn chung trong tất cả các nhân tố cơ bản đã được trình bày ở trên, mỗi nhân tố có vị trí quan trọng khác nhau, tác động đến lợi nhuận doanh nghiệp khác nhau. Điều chỉnh các nhân tố chủ quan, khắc phục các nhân tố khách quan là việc làm mà các doanh nghiệp luôn mong muốn để tăng lợi nhuận. Để làm được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý đồng thời phải có sự nghiên cứu tìm ra nguyên nhân chủ yếu làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp để từ đó có biện pháp hữu hiệu. Song, bên cạnh những giải pháp góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp đòi hỏi phải có những giải pháp đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững. Đây chính là mục tiêu các doanh nghiệp hướng tới.
V. Một số biện pháp tài chính nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
Từ ảnh hưởng của các nhân tố nói trên, đứng ở góc độ tài chính doanh nghiệp, để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới các biện pháp chủ yếu sau:
1. Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Đây là biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi vì giá thành sản phẩm là 1 chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội, bao gồm lao động sống, lao động vật hoá trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư lao động, tiền vốn của doanh nghiệp. Việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn trên sẽ xác định việc hạ giá thành và ngược lại. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan khi các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đã biết, đối với các doanh nghiệp sản xuất, việc hạ giá thành sản xuất là con đường chủ yếu để tăng lợi nhuận cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cũng là tiền đề để hạ giá bán nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, kể cả trong và ngoài nước. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ giá thành sản phẩm của các ngành sản xuất sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế nói chung. Đặc biệt khi chính sách thuế của Nhà nước thay đổi. Thuế là hình thức thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, trong đó có thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hạ giá thành sản phẩm sẽ làm tăng số lợi nhuận do đó làm tăng nguồn thu cho ngân sách. Như vậy, vấn đề hạ giá thành sản phẩm không phải chỉ là vấn đề quan tâm của từng ngành sản xuất, từng doanh nghiệp mà còn là vấn đề của toàn ngành, toàn xã hội.
Đứng trên góc độ quản lý, cần phải biết nguồn gốc, nội dung của giá thành để từ đó biết được nguyên nhân cơ bản nào, những nhân tố cụ thể nào đã làm tăng hoặc giảm giá thành và chỉ trên cơ sở đó ngành quản lý mới đề ra các biện pháp để hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, phát huy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng của việc quản lý sử dụng các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn, không ngừng hạ giá thành của từng sản phẩm cũng như của toàn bộ sản phẩm. Để hạ giá thành sản phẩm, biện pháp cơ bản nhất là phải tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình tạo ra sản phẩm cũng như chi phí để tiêu thụ sản phẩm. Nói cụ thể là, phải tiết kiệm về nguyên nhiên vật liệu, tiết kiệm nhân công, tiết kiệm chi phí sản xuất chung, chi phí bất thường, chi phí quản lý v..v. Tuy nhiên, tìm mọi biện pháp tiết kiệm trong điều kiện phải đảm bảo nâng cao năng suất lao động và năng cao chất lượng sản phẩm. Làm được điều đó mới thực hiện được mục đích hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường được chữ “Tín”, tăng tiêu thụ và cuối cùng là tăng lợi nhuận.
2. Tăng thêm sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là một biện pháp quan trọng nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Giả sử các điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ, tiêu thụ cung ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khả năng tăng sản lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp ở nước ta còn rất lớn vì đa số các doanh nghiệp mới chỉ sử dụng khoảng 50-60% công suất máy móc thiết bị. Nếu chúng ta biết tận dụng hết công suất máy móc, thiết bị thì việc tăng sản lượng ngay từ nội lực của doanh nghiệp là một việc hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Đi đôi với việc tăng sản lượng của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ cung ứng phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vì chất lượng của sản xuất kinh doanh nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Chất lượng của sản phẩm càng cao thì sản phẩm của doanh nghiệp càng có uy tín trên thị trường, tạo ra sức cạnh tranh lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ được sản phẩm, đó chính là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện các yếu tố sản xuất không thay đổi, việc đảm bảo và tăng được chất lượng sản phẩm là điều kiện cơ bản để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng, doanh nghiệp cần chú ý tới các yếu tố sau:
Tình hình trang bị, tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị cũng như việc quản lý sử dụng chúng.
Nguyên vật liệu được cung cấp trong quá trình sản xuất nếu đảm bảo cung cấp vật tư đúng chủng loại, đảm bảo chất lượng sẽ là tiền đề đảm bảo chất lượng của sản phẩm và ngược lại.
Vấn đề quản lý doanh nghiệp nói chung, quản lý sản xuất nói riêng như việc bố trí sắp xếp dây chuyền sản xuất, việc thường xuyên rà soát các định mức, việc tổ chức lao động khoa học, việc áp dụng thưởng phạt có liên quan đến chất lượng sản phẩm
Lực lượng lao động trong đó phải tính đến tay nghề và thái độ, ý thức trách nhiệm của từng người trực tiếp sản xuất
Tăng cường quản lý và sử dụng vốn hợp lý.
Đối với vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào quá trình sản xuất, lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại sau một chu kỳ kinh doanh. Tại một thời điểm nhất định, vốn lưu động tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua, điều này làm chúng ta khó kiểm soát chặt chẽ chúng. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn lưu động là:
Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết, tránh hiện tượng thiếu vốn để làm mất cơ hội kinh doanh hoặc không biết sử dụng nguồn vốn gây ra lãng phí.
Tuyệt đối không để bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài.
Xác định đúng tỷ lệ cho phép của tài sản thuộc các tài sản lưu động.
Liên tục đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động.
Thận trọng khi chuyển một bộ phận vốn lưu động thành vốn cố định hay ngược lại.
Muốn thực hiện thành công các biện phá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0162.doc