LỜI GIỚI THIỆU
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 2000- 2005, tiếp tục công cuộc đổi mới của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá Thủ đô, Quận Đống Đa đã phát huy, khai thác triệt để các tiềm năng kinh tế, huy động tối đa mọi nguồn lực và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Chính vì vậy, những bài học trong giai đoạn trước thực sự sẽ là những kinh nghiệm đúc rút quý báu mang tính thực tiễn cao, những bài học quý giá, tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 2006-2010 thành công, góp phần vào
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Quận Đống Đa giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện những thắng lợi của Quận nói riêng và của Thành phố nói chung.
Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010 có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010, thực hiện thắng lợi nghị quyết 15 - NQ/TW của Bộ chính trị, Pháp lệnh Thủ đô và kỷ niệm trọng thể 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Bước vào 5 năm tiếp theo của giai đoạn ( 2001-2010) của thế kỷ 21, thế kỷ của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Quận Đống Đa sẽ được kế thừa những thành quả phát triển của kế hoạch 5 năm 2001-2005, tiếp tục phát huy những kinh nghiệm tích luỹ trong khai thác nguồn lực, trong chỉ đạo điều hành phát triển, trong đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, tận dụng được những cơ hội mới với vị thế là một phần của thủ đô Hà Nội. Song, cũng phải thừa nhận rằng là một bộ phận của Hà nội khi mà tình hình kinh tế xã hội Thủ đô cũng đứng trước nhiều thách thức gay gắt, trước sự biến động nhiều mặt của khu vực và thế giới, nhân dân và chính quyền quận Đống đa cũng xác định rõ những nhiệm vụ khó khăn trong giai đoạn 5 năm ( 2006-2010) tiếp theo. Trong đó, Quận cần tập trung vào việc bảo đảm ổn định vững chắc về chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế toàn diện và bền vững, góp phần xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại.
Với vai trò quan trọng của việc tăng trưởng kinh tế quận, em quyết định chọn đề tài:
Một số biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Quận Đống Đa giai đoạn 2006-2010
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là mong muốn tìm hiểu về hiện trạng tăng trưởng kinh tế Quận Đống Đa, từ đó rút ra một số giải pháp quản lý Nhà nước nhằm thúc đẩy kinh tế quận tăng trưởng hơn , phát huy tối đa tất cả các nguồn lực của quận và của nhà nước giành cho trong quá trình phát triển của đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của chuyên đề gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế của quận Đống Đa, tất cả các lĩnh vực mà ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của quận.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao quát tất cả các phạm vi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của quận Đống Đa trong những năm gần đây (2001-2005)
Nội dung và kết cấu chuyên đề
Lời mở đầu
ChươngI: Quản lý Nhà nước và tăng trưởng kinh tế
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế quận Đống Đa và vai trò quản lý Nhà nước của Quận
Chương III. Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quận Đống Đa đến năm 2010
Chương I:
Quản lý Nhà nước và tăng trưởng kinh tế quận
I. Tăng trưởng kinh tế quận
1. Khái niệm
Kinh tế quận là một khái niệm bao quát cả ba lĩnh vực: tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất quận. Đây là ba khía cạnh có quan hệ mật thiết, luôn luôn liên kết và tác động lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế là nhân tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển quận. Do đó, nắm bắt rõ và sâu sắc khái niệm về tăng trưởng kinh tế quận là điều kiện tiên quyết, cần thiết nhất nhằm phát triển các đề xuất về sau. Ba điểm tựa cơ bản và chủ yếu của quận là tính cách không gian khu vực của sự thống nhất hữu cơ của thực thể kinh tế, thực thể xã hội và thực thể vật chất, các ngành kinh tế, dân số và kiến trúc. Tuy nhiên xét về mặt lịch sử phát triển quận và phương thức trưởng thành của quận thì thực thể quận trước hết là thực thể kinh tế. Tựu chung lại, tăng trưởng kinh tế quận gồm: Kinh tế đô th ị- NXB Khoa Học và Kỹ Thuật-Tr117
Đầu tiên, kinh tế quận là tổ hợp có hệ thống đạo lý của một số ngành kinh tế phi nông nghiệp, mà các ngành này có đặc trưng cơ bản là tập trung về địa lý, tiến bộ về công nghệ, chuyên môn hoá hệ thống tổ chức và hiệu quả kinh doanh cao - chúng không chỉ phân bố ở các ngành sản xuất vật chất và các ngành kinh doanh như công nghiệp, thương nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, mà còn gồm các ngành sinh hoạt xã hội như dịch vụ, du lịch, tiền tệ, tài chính, bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội. Đó là tính đa dạng hoặc tính chất khau nhau về chất của quận, đồng thời cũng là toàn bộ cơ sở của tăng trưởng kinh tế quận.
Thứ hai, kinh tế quận là tập hợp của cải xã hội với các loại dạng xét theo khía cạnh nội dung vật chất, không chỉ bao gồm các yếu tố sản xuất vật chất như đất đai, tài nguyên, vốn, sức lao động, công nghệ và thông tin; mà còn bao gồm các yếu tố sinh hoạt quận hoặc yếu tố sản xuất vật chất gián tiếp như các loại hàng hoá lưu động, các loại kiến trúc và các công trình công cộng, phúc lợi xã hội không ngừng biến đổi trong quận, đây là tế bào vật chất của quận.
Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của kinh tế quận, điều kiện môi trường kinh tế xã hội khác nhau, tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất có ý nghĩa khác nhau đối với quá trình phát triển kinh tế quận. Sự phát triển các ngành kinh tế quận thời kỳ công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, dẫn tới niên đại 50 phát sinh ở Phương Tây cuộc cách mạng xây dựng và quy hoạch quận; sự gia tăng nhanh chóng dân số quận trong các nước đang phát triển đã làm phát sinh nhiều bệnh quận. Tuy nhiên, chỉ có xem xét từ quá trình tăng trưởng giá trị của quận, từ quá trình sản xuất ra các loại của cải vật chất và dịch vụ của quận, mới thấy các ngành phi sản xuất vật chất và các ngành kết cấu hạ tầng quận, cũng có ý nghĩa quan trọng ngang hàng với ngành sản xuất vật chất trực tiếp.
Tính tiên tiến của quá trình tăng trưởng kinh tế quận, không chỉ có tính hợp lý của tỷ lệ các yếu tố vật chất và tính hiệu quả cao của việc sản xuất ra các ngành sản xuất vật chất, mà còn ở tính tiên tiến và tính hợp lý của phương thức kết hợp toàn bộ các ngành kinh tế quận, nhất là giữa các ngành sản xuất vật chất với các ngành kết cấu hạ tầng, cũng như ở sự ăn khớp giữa các ngành kinh tế chủ đạo với toàn bộ các ngành kinh tế của quận.
Tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất của quận luôn quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Các ngành kinh tế hiện đại đều mang tính dung hoà kinh tế- xã hội rõ ràng, đặc tính này được biểu hiện tập trung ở sự phát triển của tổng hợp hoá, thông tin hoá, xã hội hoá của các ngành trong quận và sự tăng cường mức độ quan hệ giữa chúng. Điều này không thể không đưa chúng ta đến chỗ chúng ta phải suy nghĩ và nhận thức lại đối với cơ chế tăng trưởng kinh tế quận và chính sách đối với các ngành kinh tế đô thị.
2. Ý nghĩa
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các quận trong phạm vị thành phố, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn phát triển của bản thân quận đó. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển.
3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế quận
3.1. Chỉ tiêu chung đánh giá tăng trưởng kinh tế đô thị Giáo trình Kinh tế học đô thị, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr: 141
Đo lường tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề có tính bản chất của việc phân tích kinh tế quận. Cũng như muốn tìm hiểu sự thật về một sự vật thì phải làm rõ mối quan hệ biến đổi về mặt số lượng của các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Về điểm này, các nhà kinh tế học phương tây đã làm được nhiều việc. Nhưng đặt trong sự phát triển kinh tế như nước ta hiện nay, thì còn xa mới có đủ điều kiện để tiến hành phân tích thuần tuý về mặt số lượng.
Sự tăng trưởng của một nền kinh tế được biểu hiện ở sự gia tăng sản lượng hàng năm do nền kinh tế đó tạo ra. Vì vậy, số đo chung sự tăng trưởng kinh tế quận nói riêng hay đô thị và kinh tế quốc dân nói chung thường bao gồm các đại lượng sau:
Sự tăng trưởng của một nền kinh tế được biểu hiện ở sự gia tăng sản lượng hàng năm do nền kinh tế đó tạo ra. Vì vậy, số đo chung sự tăng trưởng kinh tế đô thị nói riêng và tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung thường bao gồm các đại lượng: Tổng sản phẩm quốc nội(GDP), tổng sản phẩm quốc dân(GNP), sản phẩm quốc dân thuần tuý(NNP), thu nhập quốc dân sản xuất(NI), thu nhập quốc dân sử dụng(NDI). Trong đó, GDP và GDP bình quân đầu người là số đo được áp dụng rộng rãi nhất trong việc phân tích tăng trưởng kinh tế.
GDP là đại lượng dùng để đo sản lượng ròng hay giá trị gia tăng của một nền kinh tế bằng các đo lường hàng hoá và dịch vụ được mua bằng tiền, không tính phần sản lượng không được mua vào và bán ra.
3.2. Các chỉ tiêu cụ thể đo lường sự tăng trưởng kinh tế quận
Số đo tăng trưởng kinh tế là một vấn đề cốt lõi của kinh tế học lý luận. Số đo cụ thể sự tăng trưởng kinh tế hết sức đa dạng, tuỳ theo các mục đích khác nhau của sự phân tích mà sử dụng các đại lượng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế bất kỳ được biểu hiện ở mức tăng phần trăm hàng năm sản lượng của nó, vì vậy xét về mặt nguyên tắc để đo lường sự tăng trưởng kinh tế quận thì phải tiến hành phân tích mối quan hệ hàm số giữa mức sản lượng với các nhân tố chế ước nó. Sự phân tích được bắt đầu từ hàm sản xuất sau:
Sản lượng = f ( vốn sản xuất, số lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên, kỹ thuật công nghệ)
Theo hàm sản xuất trên thì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng nhưng trong thực tiễn khi phân tích sự tăng trưởng kinh tế quận phải chú ý nhiều hơn đến nhân tố vốn sản xuất. Quan trọng là các nhân tố sau:
3.2.1. Lượng tăng nhu cầu và lượng tăng đầu tư: Sự gia tăng đầu tư được thực hiện thông qua hai hình thức.
+ Một là nhu cầu hàng hoá trên thị trường kéo giá cả lên cao, nó trở thành tín hiệu chỉ đạo của việc đầu tư không đủ cho ngành đó, trong điều kiện sử dụng đầu tư còn chưa đầy đủ ,có thể gia tăng đầu tư tự chủ ( tự đầu tư của ngành, doanh nghiệp ).
+ Hai là, đầu tư tự chủ dẫn đến sự mở rộng cơ cấu nhu cầu của các ngành và các doanh nghiệp khác, phát sinh sự gia tăng đầu tư dẫn xuất.
Quá trình vận doanh của toàn bộ cơ chế đầu tư là: Nhu cầu chủ đạo- Đầu tư tự chủ…, Nhu cầu phát sinh - Đầu tư dẫn xuất…, hình thành một quá trình phát triển tuần hoàn, không ngừng lặp đi lặp lại. Vì vậy, lượng tăng nhu cầu và lượng tăng đầu tư hàm số của nhau.
3.2.2. Hiệu suất công nghệ. Hiệu suất công nghệ ở đây đại diện cho sự ảnh hưởng lớn hay nhỏ của hình thái công nghệ và trình độ tiến bộ công nghệ kết tinh trong đầu tư đối với sự tăng trưởng kinh tế đô thị. Do đó, trong toàn bộ quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị, hiệu suất công nghệ không chỉ biểu hiện thành hệ số điều tiết của năng suất đầu tư mà còn trực tiếp là một yếu tố của tăng trưởng kinh tế. Thậm chí có trường hợp, tác dụng của nâng cao hiệu suất công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế đô thị, biểu hiện thành bội số của tác dụng nân cao hiệu suất đầu tư.
3.2.3. Năng suất đầu tư cận biên và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đô thị. Đầu tư đô thị mang lại ba loại hiệu quả trực tiếp: Sáng tạo sức sản xuất, tăng gia sản xuất và tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Mà sự biến đổi năng suất cận biên của đầu tư đô thị thì quyết định bởi hai nhân tố:
+ Một là, sự biến đổi điều kiện tài nguyên và thị trường đô thị, đây là yếu tố sản xuất trực tiếp và là mặt có tính quyết định.
+ Hai là, các nhân tố có liên quan trực tiếp tới việc tổ chức, quản lý… đây là mặt hiệu quả xã hội của đầu tư và tác dụng của nhân tố chính sách.
Vì vậy, xét về bản chất thì năng suất đầu tư cận biên có thể tạo ra tiềm lực cho tăng trưởng kinh tế đô thị, xu thế, mô thức đầu tư và hiệu suất công nghệ có ảnh hưởng to lớn đối với sự gia tăng sức sản xuất của đô thị.
3.2.4. Sự tổn thất của sức sản xuất đầu tư. Nguyên nhân gây ra sự tổn thất này là:
+ Sự hạn chế của việc cung cấp các yếu tố phi vốn. Tài nguyên thiên nhiên, sức lao động;
+ Sự tổn thất của việc thay thế đầu tư- lợi ích cơ hội;
+ Sự tổn thất của việc cung cấp đồng bộ vốn ( vốn tiền tệ, vốn hàng hoá) hoặc là sự tổn thất của việc đầu tư sai lầm do cơ chế điều phối đầu tư buông lỏng gây ra. Sự biến đổi của nhu cầu thị trường cũng có thể làm cho quy mô và cơ cấu đầu tư đã được hình thành không thể hoàn toàn thích ứng với sự biến đổi đó, dẫn đến giảm thiểu tỷ suất hiện thực của năng suất đầu tư. Mặc dù như vậy, ở đây vẫn coi các loại tổn thất nói trên là một hiện tượng không bình thường, mà thực ra hiện nay vẫn chưa có cách để tính toán chuẩn xác.
3.2.5 Hiệu quả ngoại vi và tài chính cộng cộng. Hiệu quả ngoại vi có nghĩa là đô thị cho phép người đầu tư khi đề ra quyết sách có thể xem nhẹ sự chênh lệch giữa hiệu quả xã hội với hiệu quả doanh nghiệp. Hiệu quả ngoại vi có thể là một lại lợi ích hoặc là một loại giá thành, vì vậy về mặt lý luận nó được chia ra thành: ngoại vi tích cực và ngoại vi tiêu cực.
Đặc tính của hiệu quả ngoại vi do hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trực tiếp gây ra, nhưng xã hội lại hưởng thụ thành quả hoặc gánh chịu toàn bộ hậu quả. Ở đây, tài chính công cộng đô thị giữ vai trò quyết định, sự điều tiết của chính sách cũng có tác dụng tương đối lớn.
4. Các điều kiện để tăng trưởng
Theo nhà kinh tế học người Anh Batơn đề ra ba điều kiện đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế đó là Kinh tế đô thị-NXB KHKT-tr129
:
- Mức độ tương tự của cơ cấu kinh tế đô thị với cơ cấu kinh tế quốc dân. Tính tương tự này quyết định bởi độ nhạy cảm của kinh tế đô thị đối với tổng mức kinh tế quốc dân.
- Tính co giãn về thu nhập của sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của đô thị. Tính co giãn thu nhập tương đối lớn chứng tỏ thu nhập quốc dân của đô thị có thể tăng trưởng càng nhanh so với thu nhập quốc dân của cả nước, còn tính co giãn thu nhập tương đối nhỏ nói lên rằng sự tăng trưởng của xuất khẩu hàng hoá đô thị gặp nhiều khó khăn.
- Tính linh hoạt và tính nhạy cảm đối với sự biến động của kinh tế đô thị. Đô thị cần xây dựng một hệ thống các ngành kinh tế linh hoạt, năng động thì mới có thể thích ứng đầy đủ với yêu cầu biến đổi của thị trường không ngừng đổi mới và hợp lý hoá hệ thống tổ chức các ngành kinh tế.
Như vậy, các điều kiện tác động tới tăng trưởng kinh tế quận có thể tựu chung xem xét dưới hai khía cạnh sau:
4.1 Xét trêm khía cạnh tình trạng kinh tế và trình độ phát triển của các ngành kinh tế xung quanh quận.
Quận, đô thị với tính cách là một thực thể kinh tế mở cửa nó có mối liên hệ kinh tế rộng rãi với khu vực xung quanh. Quận cùng với khu vực xung quanh không chỉ hình thành chỉnh thể của hệ thống sản xuất, mà còn hình thành mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, thông tin tương đối độc lập. Trong mối liên hệ kinh tế với khu vực xung quanh, quận do điều kiện kinh tế ưu việt của mình, nó có tác dụng thu hút và tác dụng khuyếch tán to lớn đối với các khu vực xung quanh. Các điều kiện kinh tế chủ yếu là:
- Hình thức công nghiệp hiện đại tiến bộ, có thể sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, có hiệu quả kinh tế tương đối cao.
- Điều kiện kỹ thuật tiên tiến, làm cho quận có ưu thế cạnh tranh, do vậy có thể thu hút vào quận một số lượng lớn tài nguyên.
- Hệ thống thương nghiệp, tiền tệ hoàn thiện, làm cho quận trở thành thị thường tài nguyên về sản phẩm rất lớn, do đó trở thành nơi tập trung các nguồn tài nguyên của khu vực.
- Hệ thống dịch vụ hoàn hảo, tăng cường công năng và nâng cao hiệu suất của quận.
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế quận lại chịu sự chế ước và ảnh hưởng của tình trạng kinh tế và trình độ phát triển của các ngành kinh tế của khu vực xung quanh. Không chỉ kinh tế quận gặp phải có sự cạnh tranh của khu vực xung quanh đối với tàinguyên và các yếu tố sản xuất, hơn nữa trình độ phát triển các ngành kinh tế của khu vực xung quanh cũng ảnh hưởng đến thị phần chiếm lĩnh thực tế của quận.
4.2. Xét trên khía cạnh trình độ tương quan của kinh tế quận với quận và với nền kinh tế quốc dân, ảnh hưởng tới tốc độ và tính ổn định của tăng trưởng kinh tế quận.
Do đó, tính tương quan của kinh tế quận với đô thị và nền kinh tế quốc dân, sẽ từ hai mặt ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế quận.
Mặt thứ nhất, sự khác biệt giữa trình độ chuyên môn hoá các ngành kinh tế quận với cơ cấu các ngành kinh tế quốc dân. Sự khác biệt này không chỉ ảnh hưởng đến thị phần mà quận chiếm lĩnh trong thị trường quốc nội, đồng thời cũng ảnh hưởng đến độ nhạy cảm của kinh tế quận. Nói chung, nền kinh tế quận với trình độ chuyên môn hoá cao, có tính độc lập lớn và sức cạnh tranh thị trường mạnh, nhưng tính co giãn kém và thích ứng thị trường yếu.
Mặt thứ hai, tính không ăn khớp giữa chu kỳ đổi mới các ngành kinh tế quốc dân sẽ giảm bớt sự ảnh hưởng của đại tuần hoàn đầu tư trong nước đối với sự tăng trưởng kinh tế quận, đồng thời cũng lan truyền đến sự biến đổi tính co giãn thu nhập của sản phẩm xuất khẩu của quận. Bởi lẽ, thị trường thống nhất quốc nội với chu kỳ đổi mới kinh tế quốc dân trên mức độ lớn là ăn khớp với nhau, cơ cấu của nhu cầu thị trường về căn bản quyết định bởi cơ cấu và mức thu nhập, nhưng chịu sự ảnh hưởng rất lớn của hệ thống sản xuất.
BIẾN SỐ ĐẦU VÀO SỰ CÂN BẰNG BIẾN SỐ ĐẦU RA
CỦA THỊ TRƯỜNG
Tổng sản phẩm quốc nội
Mức thu nhập
Giá tiêu dùng
Các chính sách kinh tế
Vốn sản xuất
Lao động
Tài nguyên
Khoa học, công nghệ
Quản lý tổ chức
Quy mô sản xuất
……………….
- Cầu
B
- Cung
A
A
B
Sơ đồ1: Mối quan hệ các nhân tố kinh tế của sự tăng trưởng Giáo trình Kinh tế phát triển, tập 1, NXB Thống kê, tr 32
II. Vai trò Nhà nước trong tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm- tỷ lệ thất nghiệp, mức giá- tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Mặt khác, một chiều hướng nổi bật trong lịch sử hiện đại là vai trò ngày càng tăng của Chính phủ trong đời sống kinh tế. Việc mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước không chỉ vì thị trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, Nhà nước có 4 chức năng chính cơ bản: thiết lập khuôn khổ pháp luật; xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế. Theo ông, Nhà nước cần tạo ra môi trường ổn định để cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình có thể tiến hành sản xuất và trao đổi sản phẩm một cách thuận lợi.
Nhà nước cũng cần đưa ra những sản phẩm một cách thuận lợi. Chính phủ cũng cần đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế và những hướng ưu tiên cần thiết cho từng thời kỳ và sử dụng các công cụ như thuế quan, chương trình tín dụng, trợ giá để hướng dẫn các ngành, các doanh nghiệp hoạt động.
Nhà nước cũng thường xuyên tìm cách duy trì công ăn, việc làm ở mức cao bằng cách đưa ra cách chính sách thuế, chi tiêu và tiền tệ hợp lý. Đồng thời, khuyến khích một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống lạm phát và giảm ô nhiễm môi trường. Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập của cải giữa các doanh nghiệp và các hộ gia đình thông qua thuế thu nhập, thuế tài sản và những biện pháp khác. Chính phủ cũng thực hiện các hoạt động phúc lợi công cộng như cung cấp phúc lợi cho người già, người tàn tật và những người thất nghiệp. Tóm lại, các vai trò to lớn của Nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế gồm bốn vấn đề chủ yếu:
1. Vai trò định hướng phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, cơ chế thị trường không thể giải quyết có hiệu quả những vấn đề cơ bản, những khuyết tật nảy sinh trong quá trình hoạt động. Nó chỉ có thể được giải quyết bằng sự can thiệp của Nhà nước thông qua các loại hình kế hoạch và các công cụ quản lý khác nhau. Để các thành phần kinh tế có thể phát triển nhanh và bền vững mặt khác lại không đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa thìvai trò to lớn của Nhà nước lại càng được khẳng định hơn bao giờ hết.
Vai trò định hướng phát triển kinh tế là vai trò quan trọng nhất của Nhà nước đối với tăng trương kinh tế. Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện kinh tế của từng thời kỳ nhất định để tiến hành lựa chọn chính xác mục tiêu phát triển kinh tế và phương án thực thi cho thời kỳ nhất định trong tương lai. Cụ thể là Nhà nước phải lựa chọn mục tiêu chung dài hạn của phát triển kinh tế trong một thời kỳ dài và các biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu chung dài hạn đó cùng với những kế hoạch trong từng giai đoạn cụ thể. Xuất phát từ góc độ toàn cục, tổng thể mà Nhà nước xác định phương hướng, quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân, phối hợp và điều hoà sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực, các khu vực.
Bên cạnh việc kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia còn phải gắn kết hài hoà lợi ích khu vực và lợi ích tổng thể đất nước, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Sự can thiệp của Nhà nước nhằm ổn định và phát triển kinh tế đã được thừa nhận cả về mặt lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới song các hình thức và phương pháp can thiệp của các Chính phủ lại rất khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại là Chính phủ phải làm như thế nào để cân đối tổng cung cầu xã hội và cơ cấu sản xuất xã hội không chỉ trong bộ phận mà là trong tổng thể, không chỉ trong ngắn hạn và hình thức mà còn trong dài hạn và cơ bản, trong định hướng phát triển chung của cả quốc gia. Đây là phương hướng chỉ đạo quan trọng của phát triển lâu dài và ổn định của nền kinh tế; là hạt nhân của quản lý kinh tế, xuyên suốt quá trình quản lý nền kinh tế, là cơ sở để thực hiện và phát huy các chức năng khác của quản lý kinh tế. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân - tập 1, tr 18
2. Vai trò tạo môi trường cho tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế thị trường chứa đựng trong nó xu thế hội nhập khu vực và hội nhập thế giới. Hội nhập đem đến cho nền kinh tế quốc dân những cơ hội phát triển, song cũng không ít khó khăn thách thức. Nhất là đối với các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, còn thua kém những nước phát triển về nhiều phương diện như Việt Nam thì vai trò của Nhà nước để tạo ra môi trường thuận lợi, ưu đãi để tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết.
Nếu không có sự can thiệp hữu hiệu của Nhà nước bằng các chính sách đối ngoại thì sẽ không được các nguồn lực nước ngoài kể cả vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý, đồng thời khó có thể khắc phục được những bất cập do hội nhập sinh ra, kể cả những vấn đề kinh tế, văn hoá và chủ quyền quốc gia. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân - tập 1, tr 35
Nhà nước phải thiết lập đồng bộ hệ thống pháp luật và thi hành nhất quán các chính sách đã ban để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các nhà kinh doanh trong, ngoài nước yên tâm sản xuất kinh doanh, chú trọng bảo đảm sự hoạt động bình thường của các loại thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, bất động sản, vốn, sức lao động… trên địa bàn của quận, vì đây là những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế của một quận.
Vai trò tạo môi trường cho tăng trưởng kinh tế của Nhà nước quy định rõ chức năng và cơ cấu tương ứng của các phân hệ của hệ thống tổ chức và quản lý nền kinh tế, làm cho các phân hệ, bộ phận này ăn khớp với nhau, phối hợp chặt chẽ hình thành hệ thống quản lý kinh tế nhằm mục tiêu chung là tăng trưởng, phát triển lâu dài bền vững cho nền kinh tế quốc dân.
3. Vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế
Hạn chế độc quyền, khuyến khích cạnh tranh, giải quyết thoả đáng vấn đề ngoại ứng kể cả những ngoại ứng tích cực và tiêu cực thì chỉ có Nhà nước với các công cụ quyền lực trong tay mới có thể thực hiện được. Nền kinh tế quốc dân có tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ hay không không thể chỉ có sự nỗ lực phấn đấu của chỉ riêng các thành phần kinh tế bởi vì các chủ thể này chỉ chạy theo lợi nhuận tối đa của họ mà còn rất cần sự can thiệp với vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước ở đây với vai trò là tài phán viên và huấn luyện viên của thị trường sẽ tạo ra sân chơi bình đẳng, công bằng trong cạnh tranh để tạo điều kiện tốt nhất cho các thành phần kinh tế phát huy tác dụng, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Nhà nước phải vận dụng tổng hợp, linh hoạt các phương pháp hành chính, kinh tế, giáo dục và pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp để điều tiết các quan hệ kinh tế giữa các cấp, các khâu, các ngành, các khu vực của nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt hành vi của các chủ thể vi mô theo định hướng chung của toàn bộ nền kinh tế vĩ mô.
Vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng trong việc thực thi kế hoạch kinh tế quốc dân. Nền kinh tế được sự hỗ trợ bởi những công cụ, kế hoạch, chính sách của Nhà nước sẽ phát triển đầy đủ, bền vững và nhanh chóng hơn.
4. Vai trò cung cấp các dịch vụ công
Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá công cộng không được cung cấp đầy đủ, bởi vậy vai trò của Nhà nước trong vấn đề này là rất quan trọng. Đối với các lĩnh vực hoạt động công cộng với đặc trưng tiêu dùng công như quốc phòng, công an, bảo vệ môi trường, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế giáo dục, giao thông, thông tin… thị trường không thể phát huy tác dụng, do đó Chính phủ cần phải có sự can thiệp. Những hàng hoá công cộng khó có thể được cung cấp đầy đủ cho mọi người thông qua hệ thống thị trường tư nhân là vì: mọi người trong xã hội đều có nhu cầu, do tính chất sử dụng miễn phí của hàng hoá công cộng và do lợi ích riêng của người sản xuất hàng hoá côgn cộng ít hơn nhiều và phục tùng lợi ích toàn xã hội. Chính vì vậy mà hầu như không tồn tại khái niệm doanh nghiệp tư nhân sản xuất hay cung cấp hàng hoá công cộng cho xã hội. Có chăng thì điều đó là rất hiếm và hãn hữu. Qua đó ta có thể thấy được tầm quan trọng đến thế nào của Nhà nước trong lĩnh vực này.
Sự can thiệp của Chính phủ nhằm đảm bảo hàng hoá công cộng được thực hiện thông qua hai phương thức chủ yếu.
Thứ nhất, Nhà nước trực tiếp cung cấp những hàng hoá này thông qua các cơ quan và tổ chức của minh đó là các cơ quan và các doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước gián tiếp cung cấp những hàng hoá công cộng thông qua định hướng và chính sách nhằm thu hút các tổ chức trong xã hội tham gai vào việc cung cấp các hàng hoá công cộng cho xã hội. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân - tập 1, tr 33
III. Các công cụ quản lý Nhà nước
Một nền kinh tế vận hành một cách bình thường, và điều kiện truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó như là các quận, huyện, thành phố. Chính vì vậy mà hệ thống các công cụ đó có tác dụng to lớn trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao hiệu suất của hoạt động quản lý kinh tế quốc dân.
Cũng giống như tất cả các quân huyện khác trên địa bàn Hà Nội hay cả nước, Quận Đống Đa trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển cần phải áp dụng toàn bộ hệ thống các công cụ quản lý kinh tế quốc dân một cách toàn diện và ứng biến linh hoạt. Đó là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nền kinh tế phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà Nhà nước ta đã xây dựng trong giai đoạn qua.
Để quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải sử dụng các công cụ quản lý của mình với tư cách là vật truyền dẫn các tác động quản lý của chủ thể quản lý xã hội lên các đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Như vậy, các công cụ quản lý kinh tế quốc dân chính là các phương tiện hữu hình hoặc vô hình mà Nhà nước dùng để tác động lên các chủ thể kinh tế nhằm đạt được các ý đồ, mục tiêu của mình. Chính nhờ các công cụ quản lý mà Nhà nước truyền tải được các ý định và ý chí của mình lên mỗi con người, mỗi hệ thống trên toàn bộ các vùng đất nước và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài.
Các công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước nói chung, các công cụ điều hành nền kinh tế quốc dân nói riêng bao gồm các quyết định quản lý điều hành, được phân thành các loại kế hoạch; pháp luật, chính sách kinh tế,….
1. Công cụ kế hoạch
Kế hoạch Nhà nước là một hệ thống, bao gồm tất cả các khâu, các giai đoạn hoạt động từ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hàng năm, chương trình, dự án. Chính vì vậy nâng cao chất lượng kế hoạch hoá là một đòi hỏi mang tính cấp bách không thể không giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Do đó, cần phải tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin kinh tế - xã hội, phân tích và dự báo xu hướng vận động, phát triển của nền kinh tế quuốc dân và của xã hội.
Kế hoạch là tập hợp các mục tiêu và phương thức để đạt được mục tiêu.
Lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? Làm như thế nào? Làm bằng công cụ gì? Khi nào làm và ai làm? Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán chính xác được tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cả những kế hoạch tốt nhất đã có, nhưng nếu không có kế hoạch thì các sự kiện sẽ diễn ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
Kế hoạch xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn khách quan và do đó mục đích của nền sản xuất xã hội là sản xuất ra tối đa của cải vật chất đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Bởi vậy nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan là điều kiện bắt buộc để bảo đảm tính hiện thực và tính có căn cứ khoa học của các giải pháp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, kế hoạch Nhà nước là lấy đường lối, chính sách của Đảng làm căn cứ cơ bản, xem thị trường là đối tượng và là căn cứ quan trọng nhất; kết hợp với kế hoạch hoá với vận dụng cơ chế thị trường. Điều đó hoàn toàn có nhiều chuyển biến tích cực và phát triển hơn về chất so với kế hoạch Nhà nước thời bao cấp, kế hoạch mới mang tính định hướng và tổng quát, điều tiết gián tiếp thông qua các đòn bẩy kinh tế, hướng vào hiệu quả kinh tế - xã hội, kết hợp kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân với kế hoạch phát triển xã hội, cân đối hài hoá phương hướng, mục tiêu phát triển với nguồn lực, phương tiện thực hiện phương hướng, mục tiêu đã định.
Để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác kế hoạch cần được đổi mới theo hướng: Tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình và dự án lớn cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực; chuyển dần sang kế hoạch 5 năm là chính, có phân ra chỉ tiêu từng năm, giảm nhẹ khối lượng công việc lập và xét duyệt kế hoạch hàng năm. Kế hoạch Nhà nước không được phiến diện, phải bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Trong quá trình lập kế hoạch có thể xuất hiện những sự thay đổi không lường trước về điều kiện phát triển kinh tế -._. xã hội, xuất hiện những khả năng mới về ứng dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn, những biện pháp giải quyết từng vấn đề riêng biệt trong từng giai đoạn của sự phát triển… Do đó cần thiết và có khả năng điều chỉnh một số điểm trong lập kế hoạch đã thông qua trước đây.
Như vậy công cụ kế hoạch cũng như quá trình lập kế hoạch không thể chấm dứt bằng việc lựa chọn các giải pháp phương án tối ưu thông qua hệ thống những chỉ tiêu và nhiệm vụ cân đối với nhau, có tính chất pháp lệnh và được phân công cụ thể mà đòi hỏi còn phải có giai đoạn phân tích quá trình thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch có tính đến những kết quả thu được trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch, sự tác động của những nhân tố mới và sự thay đổi những điều kiện trong nước cũng như tình hình kinh tế - chính trị bên ngoài. Có như vậy, kế hoạch mới trở thành một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu và phát huy toàn bộ tính ưu thế tuyệt đối của nó.
Hệ thống kế hoạch của Nhà nước bao gồm những loại kế hoạch cơ bản sau:
- Chiến lược: Là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa hệ thống đạt đến các mục tiêu dài hạn.
Nội dung của chiến lược bao gồm:
+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà hệ thống sẽ thực hiện trong một thời gian đủ dài,
+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của hệ thống và
+ Các phương thức chủ yếu để đạt được những mục tiêu đó.
Sau một thời gian chiến lược, hệ thống phải đạt tới một trình độ phát triển vượt bậc với những mục tiêu đặc trưng cho trình độ này.
- Các kế hoạch trung hạn ( thường là 5 năm) để cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn là loại kế hoạch rất quan trọng, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Các chương trình mục tiêu: được xây dựng rất phổ biến nhằm xác định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng để thực hiện một số ý đồ lớn, một mục đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương trình thường gắn với các ngân sách cần thiết.
- Các chương trình: có thể là những chương trình lớn và dài hạn như chương trình bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc hay chương trình trung hạn nhằm đào tạo lại cán bộ quản lý… Một chương trình lớn thường bao gồm nhiều chương trình bộ phận và được giao cho những đơn vị khác nhau thực hiện.
- Các kế hoạch năm: là sự cụ thể háo nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược, kế hoạch trung hạn, vào kết quả nghiên cứu, điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
- Các dự án: nhằm triển khai, thực thi các chương trình mục tiêu.
2 .Công cụ pháp luật
Bất kỳ một Nhà nước nào muốn tồn tại, phát triển và hoạt động có hiệu quả thì không thể không áp dụng và điều chỉnh linh hoạt loại hình công cụ quan trọng này. Để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho nền kinh tế quốc dân hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, Nhà nước cần phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo một trình tự pháp lý nhất định.
Pháp luật đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành, đấu tranh phòng ngừa và chống lại các tội phạm và các vụ việc vi phạm pháp luật; mọi hành động xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền lợi hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Chính vì tính nguyên tắc của nó mà các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều chủng loại song tựu chung lại có thể gộp thành 2 nhóm lớn như sau:
- Các văn bản luật: Bao gồm Hiến pháp và luật. Các văn bản luật do Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất và ổn định nhất. Chúng có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ và có giá trị pháp lý cao nhất so với các văn bản dưới luật.
- Các văn bản dưới luật: Bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật, đồng thời nội dung của chúng không được trái với các văn bản luật. Trong đó lại chia ra các văn bản dưới luật mang tính chất luật và các văn bản pháp quy.
+ Các văn bản dưới luật mang tính chất luật bao gồm: Nghị quyết của Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Các văn bản pháp quy gồm nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp.
Ngày nay, trong xã hội Nhà nước pháp quyền, các quan hệ xã hội chủ yếu được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Pháp luật trở thành công cụ tối quan trọng của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý sự vận hành của nền kinh tế xã hội theo mục tiêu đã định.
Điều 12, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 ghi rằng: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Chính vì vậy, để phát huy vai trò của công cụ pháp luật trong quản lý kinh tế quốc dân, đi đôi với việc xây dựng và ban hành pháp luật, cần tăng cường công tác tổ chức thực thi pháp luật.Vì Pháp luật bao gồm một hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành và được Nhà nước đảm bảo thực thi trong một thời gian dài để điều chỉnh quan hệ xã hội. Nên muốn toàn dân hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật thì công tác quan trọng đầu tiên là phải chú trọng phổ cập pháp luật rộng rãi, phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý; mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo các luật gia, nhất là luật gia về kinh tế; kiện toàn bộ máy thực thi và kiểm tra việc thực thi pháp luật. Hiệu lực thực thi pháp luật phụ thuộc tương đối lớn vào tình hình vận dụng các hình thức thực thi pháp luật:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật trong đó chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật trong đó chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể pháp luật có thể thực hiện hay không thực hiện quyền được pháp luật trao, chứ không bị ép buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật mang tính tổ chức, quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền theo trình tự, thủ tục do Nhà nước quy định nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.
Vì là một công cụ đặc thù và hết sức quan trọng để Nhà nước dùng điều hành nền kinh tế quốc dân, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra, bảo vệ và thực hiện nhằm mục tiêu duy trì và phát triển xã hội nói chung, kinh tế nói riêng theo các đặc trưng xã hội mong đợi.
Pháp luật của mỗi nước là một tổng thể quy phạm pháp luật và chế định pháp lý thuộc nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước; trong đó có tác động trực tiếp là pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế là tổng hợp những quy phạm pháp luật, những chế định pháp lý do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra trong các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quản lý kinh tế và kinh doanh trong và ngoài xã hội, các quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các danh nghiệp với nhau trong hoạt động kinh doanh, các quan hệ giữa doanh nghiệp với người lao động mà doanh nghiệp thuê mướn, sử dụng và các quan hệ xã hội khác( sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường thiên nhiên…)
Việc sử dụng công cụ pháp luật để điều hành nền kinh tế quốc dân bao gồm:
- Xây dựng và thực thi hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý kinh tế, bao gồm:
+ Các yếu tố cần chi phối để quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương diện, bảo đảm cho xã hội, phát triển ổn định, an toàn, bền vững.
+ Các quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước về kinh tế từ Trung ương đến tận cơ sở bao gồm: Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ; chính quyền địa phương các cấp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước được thành lập theo luật định.
+ Các quy định chế độ công vụ và các quy chế công chức trong quản lý kinh tế.
- Hệ thống các chế định về tài phán hành chính: nhằm giải quyết những mâu thuẫn phát sinh, khiếu tố, khiếu nại và sự vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước đối với công dân, đối với các tổ chức xã hội trong các hoạt động kinh tế.
- Hệ thống các thủ tục hành chính: nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, với các tổ chức xã hội trong và ngoài nước trong các hoạt động kinh tế. Hệ thống các thủ tục hành chính trong điều hành kinh tế quốc dân tạo ra hệ thống dịch vụ mềm, hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế được phát triển thuận lợi; giải phóng mọi trở ngại cho lực lượng sản xuất trong nước phát triển. Đây đang là một vấn đề bức xúc được đặt ra cho bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của mọi người.
3. Công cụ chính sách
Chính sách điều hành nói chung, chính sách kinh tế nói riêng là tổng thể các quan điểm, các chuẩn mực, các biện pháp, các thủ tục mà Nhà nước sử dụng nhằm tác động lên đối tượng và khách thể quản lý để đạt được những mục tiêu kinh tế trong số các mục tiêu chiến lược chung của đất nước một cách tốt nhất sau một thời gian đã định.
Các quan điểm chính là các nguyên tắc thể hiện bản chất của một chế độ xã hội được dùng để xem xét mọi vấn đề đặt ra trong tiến trình xây dựng đất nước, đánh mất nó Nhà nước sẽ bị tiêu diệt, xã hội sẽ biến mất.
Các quan điểm còn là kim chỉ nam chỉ đạo tất cả các hoạt động của các phân hệ ( địa phương, ngành). Nó là chuẩn mực để khi tiến hành lực chọn các mục tiêu bộ phận người ta không được phép gây tổn hại tới mục tiêu chung, lợi ích chung của cả đất nước.
Thực tế đã chỉ rõ, để tiến hành quản lý xã hội, Nhà nước phải giải quyết triển khai thực hiện rất nhiều mục tiêu khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề khác nhau theo các trình tự ưu tiên khác nhau. Như vừa phải lo phát triển kinh tế, vừa phải chăm lo đến vấn đề an ninh quốc phòng. Vừa phải giải quyết vấn đề lo vốn để phát triển vùng dân tộc miền núi, vừa chăm lo sự nghiệp giáo dục và nâng cao dân trí…
Như vậy, một hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định sẽ là bảo đảm vững chắc cho sự vận hành bình thường, hữu hiệu của nền kinh tế thị trường. Nhờ đó mà có thể khơi dậy được các tiềm năng, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, phát huy tính tích cực, sáng tạo và ý chí vươn lên làm cho dân giàu, nước mạnh của các tầng lớp dân cư. Ngược lại, chỉ cần một chính sách sai lầm sẽ gây ra phản ứng tiêu cực dây chuyền đến các chính sách khác, cũng như đến các bộ phận khác nhau của hệ thống công cụ quản lý kinh tế quốc dân, kết quả là dẫn đến là giảm thiểu hiệu suất tác động của hệ thống chính sách, làm suy yếu động lực phát triển kinh tế xã hội.
Chính sách kinh tế của mỗi nước, về thực chất, là một chủ trương tương đối dài của Nhà nước để sử dụng các nguồn lực và cơ hội nhằm hướng dẫn, khai thông con đường phát triển kinh tế của đất nước. Chính sách kinh tế thường hướng vào việc xử lý những lĩnh vực bức bách nhằm khai thông và phát triển lực lượng sản xuất trong nước, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, chống trả các mũi nhọn cản phá của thế lực thù địch cố ý hoặc vô tình gây ra. Cho nên mỗi chính sách đều có thời hạn tồn tại nhất định của nó.
Trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế quốc dân, chính sách là bộ phận năng động nhất, có độ nhảy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đã đặt ra. Thực tiễn nước ta và nhiều nước trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công trong công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế đều bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp dụng những chính sách thích hợp, có hiệu suất cao để khai thác tối đa các lợi thế so sánh của đất nước.
Mỗi chính sách cụ thể là tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình hướng tới đạt mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Một chính sách bất kỳ thường được kết cấu bởi hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt, các nhiệm vụ cần hoàn thành; các nguồn lực cần có, các biện pháp cần áp dụng. Chính sách là một hệ thống đa chủng loại, có thể ghép thành hai nhóm lớn:
- Các chính sách kinh tế: chủ yếu gồm các chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách kinh tế đối ngoại.
- Chính sách xã hội: chủ yếu gồm chính sách dân số và lao động, chính sách giáo dục, chính sách y tế, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách văn hoá, chính sách khoa học công nghệ, chính sách bảo vệ môi trường…
Chính sách là sản phẩm chủ quan của các nhà lãnh đạo và hoạch định đất nước trong quá trình thực thi quyền lực và ý đồ của mình; cho nên nó chỉ có thể thành công nếu nó phù hợp với các điều kiện thực tế khách quan diến ra của hệ thống và khắc phục được những tác động phản kháng nghịch chiều hay gây nhiễu khác từ mọi phía đối với hệ thống.
4. Kết cấu hạ tầng xã hội:
Kết cấu hạ tầng xã hội là công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế quận, bao gồm một hệ thống các công trình vật chất kỹ thuật, được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình sự nghiệp có chức năng bảo đảm sự di chuyển các luồng thông tin, vật chất, dịch vụ nhằm phục vụ cho các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống cộng đồng dân cư theo lãnh thổ ( hệ thống đường giao thông, bưu chính, viễn thông, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn quản lý, y tế, đào tạo, pháp luật…) quận nào có trình độ kinh tế phát triển hơn thí sẽ có kết cấu hạ tầng cao hơn. Ngày nay, một kết luận đã được thừa nhận, là để phát triển kinh tế quốc dân vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng xã hội phải được ưu tiên phát triển đi trước một bước.
5. Các doanh nghiệp Nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chức sản xuất kinh doanh, do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Các doanh nghiệp Nhà nước với tư cách là một trong các công cụ điều hành nền kinh tế quốc dân của Nhà nước được thể hiện qua vai trò quan trọng của nó đối với quá trình vận hành nền kinh tế quận phát triển
+ Tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cần thiết cho quận mà các thành phần kinh tế khác không muốn và không có khả năng sản xuất,
+ Góp phần tích cực trong việc khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên trong quận, tạo ra của cải, chỗ làm cho mọi công dân trong quận nói riêng và Nhà Nước nói chung, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển
Chính vì với vai trò to lớn này mà các nước Xã hội chủ nghĩa đều coi các doanh nghiệp Nhà nước là nền tảng của nền kinh tế nhà nước, giúp cho nền kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo của mình trong việc quản lý và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Các doanh nghiệp Nhà nước còn giúp Nhà nước xoá bỏ tình trạng độc quyền sản xuất kinh doanh bất hợp lý của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vì lợi ích chung của cộng đồng và xã hội.
Điều khó khăn nhất là việc sử dụng kết hợp các công cụ nói trên như thế nào cho mỗi giai đoạn phát triển; để một mặt duy trì được sự ổn định của xã hội về mặt chính trị, văn hoá, tư tưởng; mặt khác phải tung ra được các động lực đủ lớn và có hiệu quả để góp phần phát triển kinh tế đất nước với tốc độ cao nhất; không ngừng củng cố và phát triển địa vị đất nước góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ môi trường sống và trật tự kinh tế chung.
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế quận Đống Đa
I. Đặc điểm kinh tế xã hội Giới thiệu tổng quan về quận Đống Đa- Báo cáo phát triển kinh tế xã hội 2004
1. Đặc điểm tự nhiên
Quận Đống Đa là một trong 7 quận của thủ đô Hà Nội hiện nay với diện tích tự nhiên là 997.64 ha nằm ở khu trung tâm của bản đồ nội thành thành phố, có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc giáp quận Ba Đình.
- Phía Nam giáp quận Thanh Xuân.
- Phía Đông, Đông Bắc giáp quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm.
- Phía Tây, Tây Nam giáp quận Cầu Giấy.
Quận có địa hình tương đối bằng phẳng, có nhiều ao hồ, kênh mương xen kẽ trong đó có một số ao hồ lớn như hồ Xã Đàn, hồ Ba Mẫu, hồ Láng Thượng…
Quận Đống Đa với diện tích tự nhiên 997.64ha ( chiếm 1.08% diện tích tự nhiên toàn thành phố Hà Nội) gồm có 21 phường: Cát Linh, Văn Miếu, Hàng Bột, Quốc Tử Giám, Văn Chương, Thổ Quan, Khâm Thiên, Trung Phụng, Trung Liệt, Ngã Tư Sở, Thịnh Quang, Khương Thượng, Phương Mai, Phương Liên, Kim Liên, Trung Tự, Nam Đồng, Quang Trung, Ô Chợ Dừa, Láng Hạ, Láng Thượng.
2. Đặc điểm kinh tế xã hội
Năm 2001 Quận Đống Đa có dân số 315.980 người với 79.200 hộ dân sinh sống và hơn 400 cơ quan tổ chức hoạt động trên địa bàn quận. Quận Đống Đa là một trong bốn quận nội thành cũ của Hà Nội, đang trong quá trình quận hoá với tốc độ nhanh, dân số tập trung đông, mật độ dân cư cao nhất thành phố, thành phần dân cư đa dạng và phức tạp từ Cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, quân nhân trong quân đội, dân lao động phổ thông và rất đông bà con làm nghề buôn bán nhỏ.
Trong những năm qua Quận Đống Đa luôn giữ được tốc độ tăng trưởng khá. So với năm trước giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17% trong đó kinh tế tập thể tăng 8.4%, kinh tế hỗn hợp tăng 20.5% đặc biệt kinh tế tư nhân tăng 54.3%. Hoạt động buôn bán trên địa bàn quận diễn ra cũng hết sức mạnh mẽ, tấp nập.
Với lợi thế nằm ở trung tâm thành phố, trên địa bàn quận Đống Đa lại có các trục giao thông chính của Hà Nội chạy qua hoặc tiếp giáp như: Giảng Võ, Nguyễn Thái Học, đường Giải Phóng, Lê Duẩn, Tây Sơn, Tôn Đức Thắng, Thái Hà, Huỳnh Thúc Kháng, Láng Hạ, Nguyễn Chí Thanh…Mật độ đường xá khá dày đặc, đặc biệt gần đây được nâng cấp tu sửa rất khang trang. Điều đó là một thuận lợi lớn cho việc giao lưu buôn bán phát triển kinh tế xã hội cũng như giao thông đi lại của nhân dân trong quận.
Nói tóm lại, trong những năm qua đời sống kinh tế văn hoá của nhân dân trong Quận được nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Cũng chính vị vậy quận trở thành một trong những địa điểm thu hút dân cư từ nơi khác chuyển đến làm ăn sinh sống, là nơi ngày càng tập trung đông các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội. Đây là thuận lợi đồng thời cũng là một vấn đề cần được quan tâm lưu ý của lãnh đạo Quận để Quận có thể phát triển ổn định, cân bằng, văn minh hiệu quả hơn trong những năm tới.
II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế quận Đống Đa
1. Các chỉ tiêu tăng trưởng đạt được từ năm 2000 đến nay
Tiếp tục công cuộc đổi mới, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá Thủ đô, bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, quận Đống Đa thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Đống Đa 5 năm 2001 -2005 căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước và thủ đô Hà Nội: tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội phải đảm bảo tính bền vững, kết hợp chặt chẽ hiệu quả kinh tế với văn hoá xã hội theo phương châm “ Phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, phát huy dân chủ cơ sở, đảm bảo công bằng xã hội, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Như những thành tựu mà quận Đống Đa đã đạt được trong giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn tiếp theo của “ bước đệm” 1996-2000 sau khi tách 5 phường về quận Thanh Xuân, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của quận Đống Đa đã đi vào ổn định với nhiều thuận lợi mới: quá trình quận hoá diễn ra, những tiềm lực và kết cấu hạ tầng quận được tăng cường đáng kể; sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của Đảng và Nhà nước cùng với sự ủng hộ phối hợp của các ban, ngành trên địa bàn Quận,sự trưởng thành của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn quận. Những thuận lợi trên cùng với những yếu tố tích cực của xu hướng hội nhập kinh tế của Thủ đô và cả nước đã tạo vận hội để quận Đống Đa có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Tuy nhiên, quận Đống Đa cũng gặp phải những khó khăn: tốc độ phát triển kinh tế của Quận chưa cao, sức cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp- đặc biệt là các hợp tác xã và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu; một số chỉ tiêu kinh tế chưa đạt được; quản lý quận còn nhiều tồn tại, hệ thống hạ tầng quận còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; công tác giải phóng mặt bằng còn chậm; tình trạng quá tải về giao thông, ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục.
Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn còn tồn tại, các mục tiêu được đặt ra là: khai thác và huy động tối đa mọi nguồn lực nhằm ổn định kinh tế, tăng dần các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tập trung cho các lĩnh vực phát triển hạ tầng quận, hoàn thành cơ bản việc cấc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, đổi mới sâu rộng và phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng, có cơ cấu hợp lý theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập trung giải quyết các vấn đề nhà ở, còn hộ nghèo, các tệ nạn xã hội; giữ vững ổn định an ninh chính trị trên địa bàn, bảo đảm trật tự kỷ cương, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu nhiệm vụ trong các hoạt động kinh tế - xã hội.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm ( 2001-2005) của Quận Đống Đa được thông qua là:
- Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn bình quân 5 năm là 11% -13%.
- Giá trị xuất khẩu địa phương tốc độ tăng bình quân 5 năm là 13.5%
- Mức giảm tỷ lệ sinh đến năm 2005 là 1.28 %
- Số lao động được giải quyết việc làm là 6500-7000 người / năm. Báo cáo kết quả thực hiện phắt triển KTXH quận Đống Đa 2001-2005
2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế quận
Từ năm 2001 đến nay, quận Đống Đa đã có những bước tiến toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội. Thực vậy, nền kinh tế liên tục tăng trưởng hàng năm với mức 15% - 30%, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh thuộc Quận quản lý tăng qua từng năm, năm sau giá trị sản lượng luôn cao hơn năm trước và vượt chỉ tiêu Thành phố giao.
Bảng 1: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh do Quận quản lý 2001-2004
Năm
2001
2002
2003
2004
Giá trị sản xuất công nghiệp NQD
253.270
297.846
376.477
494.365
Tốc độ tăng trưởng
117.3%
117.6%
126.4%
131.3%
Nguồn: Báo cáo kết quả tăng trưởng các năm 2001- 2004
Mặc dù có khó khăn, nhưng nhìn chung giá tị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên đáng kể, trong đó năm 2003 so với năm 2001 ( là năm đầu tiên thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm ) tổng giá trị sản xuất ngoài quốc doanh tăng lên 1.5 lần ( từ 253.270 triệu đồng lên 376.477 triệu đồng), đặc biệt phải kể đến năm 2004, ước thực hiện tăng 19.6% so với giá trị cùng kỳ so với giá trị gia tăng là 136.690 triệu đồng. Một số ngành có sự tăng trưởng khá và ổn định so với năm trước: ngành thực phẩm đồ uống ( tăng 63.4%), các sản phẩm in ( tăng 55.8), ngành sản xuất thiết bị máy móc ( tăng 15.2%),
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế tập thể
Trong quá trình thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao kinh tế tập thể trên địa bàn quận còn nhiều hạn chế vì các HTX hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật HTX, điều lệ HTX nên việc định hướng HTX phát triển còn gặp nhiều khó khăn. Đa số các HTX trê n địa bàn quận là sản xuất nhỏ, sản xuất các mặt hàng giản đơn chủ yếu là sản phẩm nhựa, cơ khí..., địa điểm sản xuất chật hẹp lại xen kẽ trong khu vực dân cư nên việc đảm bảo môi trườn là điều khó tránh khỏi, vì vậy mở rộng sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành, các lĩnh vực đã cố gắng phát huy nội lực, mở mang ngành nghề kinh doanh, đã sản xuất được nhiều mặt hàng kinh doanh đa dạng, đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống xã viên…
2.1.2. Thực trạng kinh tế tổ hợp tác
Hiện nay trên địa bàn Quận còn 20 tổ hợp tác, các tổ hợp tác hoạt động đơn điệu, nhỏ lẻ mang tính chất gia đình là chính hiệu quả thấp, còn lỏng lẻo, quy mô nhỏ khả năng cạnh tranh kém.
Xu hướng chung của các tổ hợp tác là: có tiềm lực về tài sản, vốn quỹ, sẽ chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp hoặc HTX, các tổ hợp quy mô nhỏ hoạt động cầm chừng, đơn điệu sẽ chuyển sang mô hình kinh tế hộ.
2.1.2. Thực trạng kinh tế hợp tác xã
Tổng số HTX trên địa bàn quận Đống Đa tính đến ngày 31/05/2004 là 75 HTX .Trong đó:
- HTX TTCN: 52 HTX ( 03 HTX thành lập mới + 30 HTX chuyển đổi + 19 chưa chuyển đổi)
- HTX nông nghiệp: 09 HTX ( chưa chuyển đổi)
- HTX vận tải: 04 HTX ( 03 thành lập mới + 01 chuyển đổi)
- HTX thương mại: 05 HTX ( chuyển đổi)
- HTX khác: 01 HTX ( chuyển đổi)
Trong thời kỳ 2001- 2004, nhiều HTX tỏ ra sa sút, tốc độ tăng trưởng và giá trị tổng sản lượng bình quân liên tục giảm. Tổng số HTX trên địa bàn quận Đống Đa là 75 HTX. Trong đó:
Bảng số 2: Tình hình hoạt động của loại hình HTX giai đoạn 2001-2004
Loại hình HTX
Thành lập mới
Chưa chuyển đổi
Đã chuyển đổi
HTX TTCN
03
19
30
HTX nông nghiệp
-
09
-
HTX vận tải
1
-
3
HTX xây dựng
-
-
4
HTX thương mại
-
-
5
HTX khác
-
-
1
Nguồn: Dữ liệu thống kê kinh tế Quận Đống Đa
a. Đối với HTX đã chuyển đổi:
Quận Đống Đa là một quận đô thị hoá nhanh với mật độ dân cư đông tạo nên nhiều lợi thế về thị trường tiêu thụ. Để khai thác các tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn một số HTX đã huy động được vốn, đầu tư sửa chữa cải tạo nhà xưởng, đổi mới công nghệ trang thiết bị, củng cố đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra những sản phẩm mới thích ứng với cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đời sống xã viên càng ngày càng được nâng cao.
Nhiều HTX đã thu hút được xã viên có trình độ trẻ, có vốn vào HTX, đồng thời chăm lo đào tạo bồi dưỡng trình độ tay nghề cũng như trình độ quản lý cho cán bộ, xã viên bằng nhiều hình thức như: tự đào tạo, thông qua các lớp đào tạo do Liên minh HTX tổ chức. Mô hình HTX NN Láng Hạ là một điển hình đã chuyển đổi từ HTX NN sang mô hình HTX thương mại dịch vụ để đáp ứng với nhu cầu của thị trường.
Một số HTX đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, huy động vốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh dịch vụ như HTX Điện Biên, HTX Láng Hạ, HTX Nam Hồng, HTX Minh Hồng, HTX mua bán Nam Đồng… Một số HTX chủ động liên doanh liên kết với thành phần kinh tế khác như: HTX công nghiệp Tháng Mười đẩy mạnh liên kết lắp rắp xe máy với công ty quan hệ đầu tư quốc tế… Riêng việc liên doanh, liên kết giữa các HTX trong cùng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động chưa được các HTX chú trọng.
+ Tổng doanh thu: 62.865 triệu đồng
- Thương mại, dịch vụ: 7.020 triệu đồng
- Xấy dựng: 1.784 triệu đồng
- Vận tải: 2.833 triệu đồng
- TTCN: 51.228 triệu đồng
+ Thuế: 2.442 triệu đồng
+ Lương bình quân/xã viên: 500-600 ngàn đồng/ tháng
Mô hình HTX mới xuất hiện là HTX thương mại Láng Hạ ( KD dịch vụ chợ, trông giữ xe ôtô…) có xu thế phát triển mạnh, đầu tư mở rộng kinh doanh thương mại dịch vụ tổng hợp; HTX CN Con Quay ( sản xuất hàng thổ cẩm); HTX thương mại Nam Đồng ( trồng trọt, chăn nuôi, thả cả…); HTX cơ khí may ( lắp ráp đầu loa VCD…); HTX CN Nam Hồng ( sản xuất ruột nồi cơm điện…); HTX CN Minh Hồng ( đầu tư sản xuất tấm lợp…). Các HTX đã tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất ra những sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được, hoạt động của các HTX trên địa bàn quận những năm qua vẫn còn một số tồn tại hạn chế cần khắc phục như: vấn đề tài chính chưa được giải quyết triệt để, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, tổ chức quản lý yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, dây chuyền sản xuất lạc hậu, thu nhập còn thấp so với bình quân xã hội, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, một số HTX không tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ xây dựng nhà, kiốt để cho thuê lấy thu nhập và tồn tại.
b. Đối với HTX mới thành lập
Các HTX mới thành lập có quy mô vừa và nhỏ kể cả về vốn và số lượng xã viên, đội ngũ quản lý gọn, nhẹ, trẻ kết quả hoạt động sản xuất chưa cao.
c. Đối với HTX chưa chuyển đổi, giải thể:
Trên địa bàn quận hiện còn 28 HTX chưa chuyển đổi, giải thể trong đó có 19 HTX phi nông nghệp, 09 HTX nông nghiệp.
Các HTX phi nông nghiệp chưa chuyển đổi, giải thể do không còn cơ sở vật chất, không còn vốn, quỹ, xã viên quá già yếu. Một số HTX chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa.
2.2.Thực trạng tăng trưởng kinh tế tư nhân
Các doanh nghiệp của tư nhân trên địa bàn quận trong những năm qua được khuyến khích phát triển và ngày càng được tạo thuận lợi trong sản xuất kinh doanh. Theo số liệu điều tra của thống kê đến ngày 31/12/2003 có 2172 doanh nghiệp, trong đó: 1876 công ty TNHH, 137 công ty cổ phần, 159 DN tư nhân.
- Số công ty TNHH: trên địa bàn Quận là 2.240 công ty với tổng số lao động tham gia sản xuất kinh doanh là 27.878 lao động. Năm 2004 giá trị sản xuất của khu vực doanh nghiệp này ước đạt 489.869 triệu đồng, tăng 0.2% so với năm 2003 với giá trị tăng là 1.209 triệu đồng. Kết quả này là do công ty TNHH ATA chuyển đổi sang loại hình công ty cổ phần, đồng thời một số công ty ở loại hình này hoạt động ổn định và có giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng cao.
- Công ty cổ phần: Số công ty cổ phần là 260 công ty với tổng số lao động là 7.210 người, kinh doanh trên tổng nguồn vốn là 12.487 tỷ đồng. Năm 2004 ước đạt 174.245 triệu, tăng 4.2 lần so với năm 2003 với tổng giá trị tăng tuyệt đối là 132.650 triệu đồng. Kết quả khả quan này chính là do hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty đi vào ổn định và hiệu quả.
- Doanh nghiệp tư nhân: Tính đến thời điểm năm 2004, tổng số DN tư nhân trên địa bàn quận là 125 doanh nghiệp với số lao động tham gia là 1.175 người và mức vốn sản xuất là 145 tỷ đồng. Năm 2004, giá trị sản xuất ước đạt là 39.225 triệu đồng, tăng 8.5% so với năm trước với giá trị gia tăng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28227.doc