Lời nói đầu
Trong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả, không thể có tăng trưởng trong khi hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng yếu kém và lạc hâụ. Như vậy, đòi hỏi Ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Điều hoà lưu thông tiền
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần Quân đội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tệ chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng, hoạt động tín dụng là xương sống của hệ thống Ngân hàng thương mại, cụ thể là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả của ngân hàng sẽ giúp cho các thành phần kinh tế phát triển ổn định và ngược lại.
Nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, với đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước đã tạo tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển các thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với những tiềm năng và ưu thế sẵn có đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu của mình trong công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Hoạt động của ngân hàng có nhiều bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đầy biến động rủi ro là điều không thể tránh khỏi đối với tất cả các thành phần kinh tế. Những nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung thực của khách hàng, vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản hay do suy thoái kinh tế… đều có thể biến một khoản vay có chất lượng cao thành một khoản nợ khó đòi. Đó là chưa kể đến những kẽ hở do hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh gây nên những phiền toái cho khách hàng và ngân hàng trong quá trình hoạt động cũng như tạo điều kiện cho những ý đồ xấu của khách hàng hay cán bộ Ngân hàng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của nhà nước. Đây là mối đe doạ mà bất cứ Ngân hàng nào cũng phải đương đầu .
Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của quản lý các Ngân hàng Thương mại, đặc biệt đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng.
Nhận thức rõ tính cấp bách của vấn đề trên, sau thời gian thực tập và nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Quân đội. Tôi xin được trình bày một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng qua đề tài :
“Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt nam.
bố cục của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Ngân hàng Thương mại và rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2. Thực trạng rủi ro tín dụng và vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với Công ty Đầu tư xây dựng công trình tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
Chương 3. Một số biện pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội đối với Công ty Đầu tư xây dựng công trình.
Lời cảm ơn:
Để hoàn thành bài luận văn này trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo, các cô, các chú các anh và các chị làm việc tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập tại Ngân hàng. Đặc biệt xin cảm ơn tới:
+ Ông: Lê Công – phó Tổng giám đốc
+ Anh: Lưu Trung Thái - Trưởng phòng tín dụng
+ Anh: Lê Hải – Cán bộ tín dụng.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Lục Diệu Toán-Vụ trưởng Vụ Tài chính-Kế toán, Bộ Khoa học và Môi trường, thầy đã có những bài giảng quý báu giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình xây dựng bài luận văn này.
Chương I
Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
Vài nét về ngân hàng thương mại
Nguồn gốc, định nghĩa
Khi sản xuất phát triển trao đổi hàng lấy hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của lưu thông hàng hoá, để đáp ứng được yêu cầu đó tiền đã xuất hiện đóng vai trò là vật trung giản trong quá trình trao đổi, lưu thông. Khi tiền ra đời lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn và sản xuất cũng phát triển hơn. Nhưng mỗi vùng lãnh thổ lại có một đồng tiền khác nhau, sự khác biệt giữa các đồng tiền của các khu vực đã gây khó khăn cho lưu thông hàng hoá cho các vùng này.
Có một số thương gia tách ra làm nhiệm vụ đổi tiền cho các thương gia kinh doanh, đó là những thương gia tiền tệ. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá, nhu cầu tiền tệ tăng lên vì thế đã phát sinh nghiệp vụ cho vay. Các thương gia tiền tệ đã chuyển hoàn toàn từ hoạt động kinh doanh hàng hoá sang kinh doanh tiền tệ, đó chính là tiền thân của ngân hàng thương mại.
Tại những nước phát triển ngân hàng thương mại ra đời sớm hơn Ngân hàng Quốc gia hàng thế kỷ, Ngân hàng Quốc gia ra đời trên cơ sở một trong những ngân hàng thương mại lớn, có nguồn gốc khổng lồ nhất, thoát ly hẳn việc trực tiếp cho vay đối với các doanh nghiệp, mà chỉ cho vay đối với các ngân hàng thương mại; ngân hàng này trở thành ngân hàng phát hành, sau đó được Nhà nước quốc hữu hoá bằng cách mua lại và trở thành Ngân hàng Quốc gia.
Mặc dù ngân hàng thương mại ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí với nhau về định nghĩa ngân hàng thương mại, đó là do sự khác biệt về luật pháp, phong tục tập quán, số lượng các nghiệp vụ ngân hàng, điều kiện nền kinh tế …
ở Việt nam theo nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng, sử dụng số tiền nàyđể cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Phân loại Ngân hàng thương mại
Ngày nay, trên thế giới và ở Việt nam hình thành nhiều loại ngân hàng thương mại khác nhau.
- Theo phạm vi nghiệp vụ người ta chia ngân hàng thương mại thành hai loại hình:
+ Loại hình kinh doanh đa năng: Thường là các Ngân hàng Quốc doanh được phép hoạt động rộng, sử dụng nhiều loại nghiệp vụ.
+ Ngân hàng thương mại chuyên môn hoá : Loại ngân hàng này hoạt động với phạm vi hẹp như ngân hàng phát triển nhà, ngân hàng cầm cố bất động sản.
- Theo đối tượng khách hàng, người ta chỉ ra:
+ Ngân hàng bán buôn: Loại ngân hàng này chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp lớn.
+ Ngân hàng bán lẻ: Loại ngân hàng này đầu tư vào các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cá nhân.
- Theo mô hình phổ biến hiện nay:
+ Ngân hàng thương mại Quốc doanh: Các ngân hàng này được Nhà nước cấp vốn.
+ Ngân hàng phát triển: Mục đích ngân hàng này là cung ứng vốn dài hạn cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Loại hình này có thể là Quốc doanh hoặc cổ phần.
+ Ngân hàng chính sách: Ngân hàng này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mà hoạt động theo những mục tiêu riêng do Chính phủ giao, như phục vụ người nghèo, phục vụ miền núi…
+ Các ngân hàng cổ phần có thể hoạt động đa năng, hoặc theo từng quy chế riêng, từng lĩnh vực phạm vi nhất định.
Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
Tạo tiền
Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại là tạo tiền và huỷ tiền.
Chức năng tạo tiền xuất phát từ chính nhu cầu bên trong của mỗi ngân hàng thương mại riêng lẻ và sự tăng trưởng của toàn hệ thống, thông qua các hoạt động tín dụng, đầu tư và thanh toán.
Trong mỗi ngân hàng riêng lẻ, khả năng tạo tiền chỉ đạt từ trên một lần đến giữa hai lần tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mỗi khoản tiền gửi của khách hàng gửi vào ngân hàng, được ngân hàng lưu giữ tại quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, đồng thời phản ánh trên tài khoản của khách hàng. Sau đó khách hàng trích tài khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Thông qua các bút toán này, dùng “tiền ghi sổ” và thanh toán chuyển khoản, để tạo ra một khoản tiền mới.
Đối với toàn hệ thống ngân hàng thương mại thì bội số tạo tiền còn lớn đến mức kinh ngạc.
Một khoản tiền mặt gửi vào ban đầu của khách hàng là U1, ngân hàng thương mại đầu tiên này để lại dự trữ 10% chẳng hạn. Còn lại số tiền U2 bằng 90% (tức 9/10) số tiền U1 đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán. Đến ngân hàng tiếp theo nhận được các giấy tờ thanh toán hoặc cho vay là U3 bằng 90% U2 nói trên. Cứ thế, hệ thống ngân hàng thương mại đã tạo ra một bội số tiền tệbằng tất cả U1,U2,U3,…,Un so với khoản tiền gửi U1 ban đầu.
Tuy nhiên khi chuyển dịch như vậy, chúng cũng có giới hạn nhất định, tức là khi n tiến tới vô cùng thì khoản tiền Un cũng tiến tới không(0). Tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra đã là một con số rất lớn, tính theo công thức của một cấp số nhân lùi vô hạn ta có:
Sn = U1 + U2 +…+ Un = U1(1- qn)/(1- q) (1)
Khi n Ơ, gỉa sử q = 10% = 1/10, tức q<1 thì qn 0
U1
Công thức (1) trở thành Sn =
1 - q
U1
Sn = = 10U1
9
1 - 10
Rõ ràng, nếu dự trữ của mỗi ngân hàng là 10% số tiền gửi mới, thì toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại đã tạo ra một khoản tiền gấp 10 lần khoản tiền gửi ban đầu.
Chức năng tạo tiền làm cho các ngân hàng thương mại có khả năng đẩy nền kinh tế phát triển quá nóng và ngược lại, huỷ tiền gây thiểu phát, gây khó khăn cho tăng trưởng kinh tế.
Chức năng tạo tiền có liên quan đến tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy các nhà khoa học coi chức năng này là chức năng số một của ngân hàng thương mại.
Thanh toán
Sự vận động vốn trong phạm vi toàn quốc và phạm vi toàn cầu đòi hỏi phải có sự thống nhất và quốc tế hoá cao độ giữa chức năng thước đo giá trị, chức năng phương tiện lưu thông trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy phát huy với tốc độ cao chức năng thanh toán của ngân hàng thương mại có liên quan đến việc cung ứng tổng khối lượng thanh toán cho toàn xã hội, một tác nhân của tăng trưởng kinh tế.
Chức năng thanh toán là chức năng cổ truyền của ngân hàng thương mại. Ngày nay những sản phẩm hiện đại của nó là những tấm các điện tử, những tấm mica thay cho vàng bạc châu báu, thay cho tiền tệ, là do sự phát triển của chức năng này.
Tín dụng
Phạm trù tín dụng trở thành chức năng của ngân hàng thương mại ngay từ thuở ngân hàng chào đời. Tín dụng bao hàm ý nghĩa huy động vốn, thu hút tiền gửi và cho vay.
Các nhà khoa học kinh tế đã coi ngân hàng là một ngành công nghiệp, thì việc cung ứng tín dụng được coi như việc thực hiện một trong các “sản phẩm” chủ yếu, một “sản phẩm gián tiếp”. Sản phẩm này đem ra tiêu dùng sẽ tạo ra việc làm, tạo ra sản phẩm xã hội do khai thác tài nguyên.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doang nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới cải tiến kỹ thuật công nghệ sản suất. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời.
Cung ứng dịch vụ Ngân hàng
Một xã hội văn minh được đánh giá bằng hệ thống cung ứng dịch vụ, một chức năng quan trọng của ngân hàng hiện đại cũng được phát triển theo sự tiến bộ của nền văn minh. Đó là dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu và khách hàng là cá nhân những loại dịch vụ thông thường và thanh toán chuyển tiền uỷ thác, tư vấn đầu tư, mua trả góp, các dịch vụ lữ hành…. Ngày nay hiện đại hơn là các loại thẻ điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chứng khoán, các dịch vụ ngân hàng tại gia, thẻ séc…Chức năng này trong nền kinh tế thị trường phát huy hơn bao giờ hết.
Tóm lại bốn chức năng chủ yếu nói trên quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ Nợ
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế có tỷ lệ vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh thấp nhất, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Khoản vốn huy động này được phép gấp 20 lần so với vốn điều lệ.
Trong vốn huy động thì nguồn vốn lớn nhất là vốn do thu nhận tiền gửi ( còn gọi là vốn ký thác). Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tiền gửi như lãi suất, phương thức trả lãi, tình hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán, lòng tin của khách hàng…
ở Việt Nam các loại tiền gửi chủ yếu gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Các tổ chức, cá nhân ký thác ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả trong kinh doanh và tiêu dùng. Họ có thể rút ra, chuyển nhượng hoặc yêu cầu chi trả hộ bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với tiền gửi loại này không phải là lãi tiền gửi mà là các dịch vụ ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền có kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không nhằm mục đích thanh toán mà để an toàn tài sản và hưởng lãi suất. Với tiền gửi loại này khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào và thời gian gửi tiền thường ngắn.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian giữa khách hàng và ngân hàng. Về nguyên tắc thì khách hàng chỉ được phép rút tiền khi đến hạn nhưng để nâng cao tính cạnh tranh, ngày nay các ngân hàng thường cho phép rút tiền trước hạn nhưng hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Ngoài ra còn có các loại tiền gửi khác như: Tiền gửi theo thời gian thực gửi, tiền gửi báo trước( khi rút tiền phải báo trước 8- 15 ngày),…
Các khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân là rất quan trọng đối với ngân hàng nhưng không phải là tất cả. Trong những trường hợp nhất định ngân hàng cũng có thể đi vay các ngân hàng và các tổ chức khác, vay của Ngân hàng Trung ương hoặc của ngân hàng mẹ.
Thời hạn của các khoản vay khác nhau, có khi kéo dài vài năm, cũng có thể chỉ vài ngày ( vay qua đêm, vay hôm nay ngày kia trả…).
Trong các hình thức đi vay thì vay từ dân cư và vay từ các tổ chức thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có chi phí thấp hơn các hình thức khác. Còn khi vay qua các tổ chức tín dụng khác thì chi phí sẽ cao hơn do đã qua một trung gian ( tổ chức tín dụng ). Gần như cuối cùng các ngân hàng thương mại mới đi vay từ Ngân hàng Trung ương bởi mức lãi suất cao hơn và kèm theo những điều kiện khắt khe.
Vốn tự có của ngân hàng tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng nó rất quan trọng, nó quyết định quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng.
1.2.4.Nghiệp vụ Có
Đồng thời với việc thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, khả năng sinh lời cao để trang trải cho các hoạt động của ngân hàng và có lợi nhuận.
Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng được thể hiện qua các nghiệp vụ sau:
- Hoạt động ngân quỹ:
Là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên xác định số tiền mặt tại quỹ; số tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và tại các ngân hàng khác. Đây là các tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp, nhưng là khoản có tính lỏng cao. Ngân hàng phải duy trì lượng tài sản này ở một mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh khoản, vừa bảo đảm khả năng sinh lợi.
+ Tiền mặt tại quỹ: Bao gồm tiền giấy, tiền kim loại, ngân phiếu thanh toán đang có giá trị lưu hành, tồn quỹ ở các kho ngân hàng. ở các nước, khoản mục này chiếm tỷ trọng từ 8 đến 12%. ở Việt Nam chiếm tỷ trọng từ 15 đến 20%. Nguyên nhân chủ yếu hiện nay nền tiền tệ nước ta là “nền tiền tệ tiền mặt”; việc sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại, các loại tiền điện tử, các loại séc, thẻ thanh toán…chưa ưa chuộng, chưa phát triển. Các doanh nghiệp chi tiêu những khoản tiền rất lớn nhưng đều sử dụng tiền mặt, buộc các ngân hàng đều phải sử dụng tồn quỹ cao để đáp ứng.
+ Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng khác:
Các ngân hàng thương mại gửi tiền tại Ngân hàng Trung ương để thanh toán tại các ngân hàng khác trong trường hợp không thực hiện phương thác thanh toán liên hàng; tiền gửi này có thể rút để nhập vào quỹ nhằm chi trả cho khách hàng.
Tiền gửi tại các đại lý ở nước ngoài, trên tài khoản NOSTRO là tiền gửi để thanh toán đồng thời cũng nhằm mục đíchkinh doanh tiền tệ khi nhận định có sự thay đổi về tỷ giá.
- Hoạt động cho vay:
Là hoạt động quan trọng nhất, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao nhất (khoảng 60-70% tổng lợi nhuận) nhưng đồng thời là hoạt động chứa đựng nhiều tiềm ẩn của sự rủi ro. Vì vậy, Ngân hàng phải thực hiện tốt hoạt động này, quản lý tiền vay một cách chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Đặc biệt đối với những khoản cho vay trung và dài hạn.
- Hoạt động thuê mua tài chính:
Ngân hàng tham gia vào hoạt động thuê mua với tư cách là người cung cấp tài chính cho người thuê. Đặc điểm nổi bật của hoạt động thuê mua là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê và sau khi kết thúc hợp đồng người thuê có quyền mua lại tài sản thuê ở mức giá thấp hơn giá thị trường đã được thoả thuận ngay từ khi ký kết hợp đồng.
- Hoạt động đầu tư và kinh doanh:
Ngân hàng dùng tiền tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là người mua cổ phiếu để hưởng lợi tức hoặc góp vốn liên doanh… Mặt khác ngân hàng có thể kinh doanh chứng khoán bằng cách mua chứng khoán với gía thấp hơn và bán với giá cao hơn nhằm thu chênh lệch giá.
Nghiêp vụ trung gian.
Ngoài nghiệp vụ Nợ và nghiệp vụ Có, Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng hàng loạt dịch vụ qua đó ngân hàng nhận được thu nhập dưới hình thức hoa hồng. Khi hệ thống ngân hàng phát triển thì nghiệp vụ trung gian càng phát triển và đem lại tỷ trọng thu nhập ngày càng cao cho ngân hàng. Các họat động trung gian bao gồm:
Dịch vụ thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán: Ngân hàng thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng các khoản mua bán hàng hoá, dịch vụ thu hộ, chi hộ thông qua tài khoản của khách hàng hoặc dưới các hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ tín dụng…
Dịch vụ bảo lãnh: Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo lãnh thực hiện công trình, bảo lãnh thanh toán…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng làm việc mua bán các chứng khoán cho khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng thực hiện mua bán hộ chứng khoán, vàng bạc, đá quý, ngoại tệ.
- Dịch vụ ngân quỹ: Ngân hàng thực hiện thu hộ và phát tiền mặt cho khách hàng, ngân hàng đóng vai trò như một người thủ quỹ của doanh nghiệp.
- Dịch vụ chuyển tiền: Trong đó nổi bật là dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, đối với các ngân hàng trong cùng hệ thống thì chỉ cần sau 15 phút gửi tiền người nhận đã có thể nhận được.
- Dịch vụ tư vấn: Dịch vụ này giúp khách hàng trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, hoạt động tiền tệ.
- Dịch vụ bảo quản hộ các chứng từ tài sản cho khách hàng. Dịch vụ này đặc biệt phát triển ở các ngân hàng Thụy Sỹ.
2.Vai trò của Ngân hàng thương mại Cổ phần
Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, vai trò ngân hàng cũng có sự thay đổi về hoạt động. Trước đây, trong thờ kỳ bao cấp; ngân hàng như là một tổ chức cấp phát vốn Ngân sách. Chính vì vậy thường xảy ra tình trạng nơi cần vốn để sản xuất thì không có hoặc không kịp thời, nơi thì lại để vốn nằm ứ đọng trong một thời gian dài. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hầu như tình trạng đó đã chấm dứt. Với sự cải tổ hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp, hàng loạt các ngân hàng thương mại được thành lập, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng thương mại cổ phần được hình thành nhằm mục đích huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của toàn xã hội.
Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại Cổ phần là một thách thức đối với các Ngân hàng thương mại Quốc doanh. Các Ngân hàng thương mại Cổ phần luôn đổi mới công nghệ, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, gắn trách nhiệm của mình với công việc. Vì thế hoạt động của các Ngân hàng thương mại Cổ phần luôn đạt hiệu quả cao, góp phần tích cực cho quá trình phát triển của nền kinh tế. ở các nước tiên tiến thì các ngân hàng thương mại cổ phần chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các ngân hàng thương mại và hoạt động của các ngân hàng này đạt hiệu quả rất cao. Việt Nam đang trong quá trình CNH-HĐH đất nước, các Ngân hàng thương mại cổ phần mới được thành lập vì vậy còn có nhiều hạn chế. Sau đây là vai trò Ngân hàng thương mại Cổ phần trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế Quốc dân, là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ mà Ngân hàng Trung ương giao phó, các Ngân hàng thương mại cổ phần luôn luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa để tự khẳng định mình. Như với mọi ngân hàng thương mại khác, hoạt động chính của Ngân hàng thương mại cổ phần là hoạt động tín dụng, nó đem lại 70 - 80% thu nhập cho ngân hàng. Chính vì vậy thông qua hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã góp phần tích cực tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi cho các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó các Ngân hàng thương mại Cổ phần lại bơm nguồn tiền đó trở lại nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất và mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập trung và phân phối tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế Quốc dân. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và các Ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng là cánh tay đắc lực của Ngân hàng Trung ương, góp phần nâng cao chất lượng điều hoà tiền tệ, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, kìm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định.
2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau nếu không muốn tụt hậu và đào thải. Do đó, nhu cầu đầu tư phát triển không những là nhu cầu tự thân mà còn do đòi hỏi của cơ chế thị trường. Để có thể mở rộng, phát triển sản xuất các doanh nghiệp cần có nhiều yếu tố như: nguồn nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuột, vốn… Tuy nhiên, có thể khẳng định vốn là quan trọng nhất vì nếu có vốn doanh nghiệp sẽ có được các yếu tố khác do thị trường luôn sẵn sàng cung ứng. Để có vốn, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm ở các nguồn như chiếm dụng vốn của đơn vị cùng làm ăn, đi vay trên thị trường chợ đen … nhưng những hình thức này không ổn định mà chi phí lại lớn. Bởi vậy, thường thì các doanh nghiệp tìm đến Ngân hàng. Đối với hầu hết khách hàng, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp tư vấn và bổ sung vốn. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy Ngân hàng có vai trò quyết định đối với quá trình tái sản xuất mở rộng và đầu tư phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại Cổ phần cũng không nằm ngoài vai trò quan trọng đó.
2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trườngthường xuyên xuất hiện những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, trong khi các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện hiện tượng hặc thiếu vốn tạm thời, hoặc thiếu vốn bổ sung đầu tư tài sản cố định. Sự có mặt của Ngân hàng được coi như một giải pháp để giải quyết mâu thuẫn này. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, ngân hàng đã huy động được các nguồn tiết kiệm từ dân cư và các tổ chức để phân phối lại cho các thành phần kinh tế có nhu cầu vốn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động đạt hiệu quả cao, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Dựa vào quy luật lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay, Ngân hàng Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Việc này đôi khi gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng, dẫn đến lạm phát. Do đó sự vận động vốn của ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ. Hơn nữa, quá trình hoạt động của ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường thiến sự quản lý của nhà nước, từ đó ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này góp phần làm giảm lạm phát, căn bệnh kinh niên của nền kinh tế, nhất là đối với những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như nước ta. Tất cả mọi quốc gia đều dùng ngân hàng như là một công cụ hữu hiệu để điều hoà vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2.4. Thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là công cụ kinh tế phục vụ cho tất cả các mặt hoạt động kinh tế xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng nhanh vòng quay vốn. Cơ hội kinh doanh không nhiều và chỉ mang tính thời điểm. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này, vốn đầu tư là yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều tìm đến ngân hàng. Tuy nhiên, để được vay vốn không chỉ đối với Ngân hàng Quốc doanh mà cả đối với Ngân hàng thương mại cổ phần, các doanh nghiệp phải chứng tỏ được tính khả thi của dự án đầu tư, sự lành mạnh của tình hình tài chính cũng như khả năng hoàn trả lãi và gốc đúng hạn. Nguồn vốn của ngân hàng không phải là vô hạn nên chỉ những dự án có mức sinh lời cao mới được ngân hàng xét duyệt. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu không thực hiện đúng cam kết, các doanh nghiệp phải chịu lãi suất phạt, tài sản thế chấp bị phát mại và quan trọng hơn là uy tín của doanh nghiệp bị giảm sút. Đây là một khó khăn đối với doanh nghiệp trong lần vay vốn lần sau.
Chính vì những lý do trên, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành…nhằm tạo ra lợi nhuận cao hơn, đồng thời hoàn thiện công tác hạch toán kế toán. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác trong công cuộc chạy đua đầy khốc liệt này. Như vậy ngân hàng đã gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.5. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Nhưng việc cho vay này không phải trả đều cho các chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện qua một quá trình thẩm định kỹ lưỡng. Quá trình này là rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng cổ phần nói riêng, nó mang tính sống còn của ngân hàng. Tuy nhiên đất nước ta đang trên con đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, có những ngành kinh tế đòi hỏi phải được đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Mặc dù các ngành này tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm đòi hòi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, xương sống của nền kinh tế, là cơ sở để phát triển đất nước. Bên cạnh đó có những vùng kinh tế kém phát triển cần được đầu tư như đầu tư phát triển vùng nông thôn, miền núi… để nâng cao mức sống cho nhân dân. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những biện pháp chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại cổ phần cho vay hỗ trợ các dự án phát triển Nhà nước. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển kinh tế.
Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo cho nước ta thế và lực mới, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để phát huy vai trò và thế mạnh của từng thành phần kinh tế, song song với các chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế kém phát triển, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn.
II. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại và cơ chế phòng ngừa rủi ro tín dụng
1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng
Khái niệm về rủi ro nói chung
Trong cuộc sống, lao động cũng như trong sản xuất kinh doanh, mặc dù con người đã rất chú ý đề phòng, ngăn ngừa tai nạn nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra.
Nguyên nhân của rủi ro là:
-Thiên nhiên gây ra lũ lụt, bão, động đất…làm thiệt hại đến sản xuất, tài sản và thậm chí còn làm chết con người.
- Lực lượng sản xuất phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất nhưng mặt khác chính sự phát triển đó cũng gây ra nhiều tai hoạ cho con người như tai nạn giao thông (ô tô, máy bay, tàu biển, xe lửa…), tai nạn lao động…
- Môi trường xã hội cũng là một trong những nguyên gây ra rủi ro cho con người: mất cắp, mất trộm tài sản, ốm đau, bệnh tật, hoả hoạn…
- Một nguyên nhân chủ quan của con người đó là trình độ hiểu biết kém, không cập nhật những thông tin cần thiết dẫn tới rủi ro xẩy ra. Đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh, rủi ro có thể làm giảm lợi ích kinh doanh của con người và có thể sẽ làm cho con người bị phá sản. Sự tồn tại của rủi ro là một tất yếu khách quan, nó xẩy ra sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Để đảm bảo ổn định cuộc sống và đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, con người đã tìm đến các biện pháp để xử lý rủi ro. Các biện pháp để xử lý rủi ro gồm hai nhóm:
Nhóm một: Các biện pháp đề phòng rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng khi chưa có rủi ro xảy ra. Trên thực tế các biện pháp này đối với một số rủi ro chỉ có tính chất phòng ngừa chứ không làm mất đi tính rủi ro.
Nhóm hai: Các biện pháp khắc phục, hạn chế hậu quả của rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng sau khi có rủi ro xẩy ra. Để khắc phục, hạn chế hậu quả của rủi ro con người có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau như tiết kiệm, dự phòng, lập quỹ chung, cứu trợ…thực tế đã chứng minh cách khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua sự đảm bảo về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng là một trong n._.hững biện pháp khắc phục hậu quả của rủi ro có hiệu quả.
2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng Thương mại
Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đều phải đối đầu với các loại rủi ro khác nhau, nhưng nổi bật nhất vẫn là rủi ro tín dụng. Sau đây là một số rủi ro cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
2.1. Rủi ro tín dụng
- Rủi ro mất vốn: Là rủi ro cho vay không thu hồi được nợ. Bản chất của tín dụng ngân hàng chứa đựng nội dung ứng trước tiền cho doanh nghiệp (người vay), sau một chu kỳ sản xuất hoặc kỳ luân chuyển hàng hoá thì khách hàng mới có tiền trả nợ ngân hàng. Nội dung “ứng trước” của tín dụng ngân hàng càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn. Ngân hàng thương mại cho vay bằng tín chấp mức độ rủi ro cao hơn cho vay có tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp bằng giấy tờ có giá dễ chuyển đổi ra tiền thì rủi ro ít hơn tài sản thế chấp là bất động sản ( ruộng, vườn, ao hồ, nhà cửa kèm theo thổ cư). Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản kinh doanh. Vì hơn 2/3 tài sản có của ngân hàng là các món cho vay và đầu tư, đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, do đó nếu các khoản cho vay của ngân hàng không được hoàn trả, ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn lãi. Số tiền thiệt hại này khi đã vượt quá vốn tự có của ngân hàng sẽ khiến ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
Rủi ro sai hẹn: Là các khoản cho vay mà đến hạn khách hàng vẫn chưa thu hồi được vốn để trả cho ngân hàng. Thông thường trường hợp này khách hàng sẽ xin ngân hàng gia hạn thêm thời hạn trả nợ. Nếu lý do của khách hàng không được ngân hàng chấp thuận, họ sẽ phải chịu lãi suất phạt. Khoản tiền thu hồi chậm này có thể làm đảo lộn kế hoạt kinh doanh của ngân hàng và luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn.
2.2.Rủi ro lãi suất
Quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng bao gồm việc huy động vốn và việc sử dụng vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản nợ thường không cân xứng với kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản có làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/ năm. Sau năm thứ nhất, bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn hai năm, ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10% - 9% = 1%. Tuy nhiên lợi nhuận thu của năm thứ hai chưa biết trước là bao nhiêu cho nên sẽ là một số không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đôỉ là 9%; và do đó, mức lợi nhuận thu được trong năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất và bằng 1%. Vì lãi suất thị trường có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai, cho nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về sự thay đổi lãi suất. Giả sử, sang năm thứ hai ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo mức lãi suất thị trường hiện hành là 11%, do đó lợi nhuận của ngân hàng sang năm thứ hai sẽ là một số âm, tức là ngân hàng sẽ chịu lỗ 10% - 11% = -1%. Như vậy lợi nhuận của năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, trong mọi trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có kỳ hạn dài hơn so với tài sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn bổ sung trong những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn.
Trường hợp ngược lại, ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu tư có kỳ hạn ngắn. Ví dụ, ngân hàng huy động vốn với lãi suất là 9%/năm, kỳ hạn là hai năm và đầu tư vào tài sản có mức lãi suất là 10%/năm, kỳ hạn là một năm. Tương tự như trên, sau năm thứ nhất ngân hàng thu được lợi nhuận là 1%. Vì tài sản có chỉ có kỳ hạn là 1 năm, cho nên sau năm thứ nhất tài sản có đến hạn và ngân hàng lại tiếp tục tái đầu tư. Giả sử lãi suất đầu tư của thị trường trong năm thứ hai giảm xuống chỉ còn 8%. Điều này đã khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất, đó là lỗ 8% - 9% = -1%. Như vậy, lợi nhuận thu được của năm thứ nhất vừa đủ để bù đắp khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất tái đầu tư trong trường hợp tài sản có có kỳ hạn ngắn hơn so với tài sản nợ.
Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có, thì khi lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Như chúng ta đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của tài sản có và tài sản nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau, ví dụ tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của tài sản có sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị của tài sản nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng.
2.3.Rủi ro tỷ giá
Rủi ro hối đoái thường diễn ra dưới hình thức của một chênh lệch giữa giá đặt mua và giá chào bán của tiền tệ. Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước. Để thấy được rủi ro hôí đoái phát sinh như thế nào, chúng ta hãy xem một ví dụ sau:
Giả sử một ngân hàng Mỹ cấp tín dụng bằng đồng GBP cho một công ty của Anh với giá trị là 1 triệu GBP tại thời điểm 1 USD = 0,78 GBP, thời hạn là 6 tháng, lãi suất 0,5%/6th; như vậy giá trị tín dụng tính bằng đồng USD tại thời điểm này là 1.282.051,3(USD). Nếu như không có sự thay đổi về tỷ giá thì sau 6 tháng công ty Anh phải hoàn trả cho ngân hàng Mỹ số tiền cả gốc và lãi là 1.000.000 + 5000 = 1.005.000(GBP), Giả sử sau 6 tháng có sự thay đổi về tỷ giá, đồng bảng Anh tăng giá so với đồng đô la Mỹ. Lúc này tỷ giá giữa đồng USD so với đồng GBP là 1 USD = 0,8 (GBP) thì cả gốc và lãi khi phải trả cho ngân hàng Mỹ theo đồng Bảng anh là 1.005.000(GBP). Nhưng số tiền này quy đổi ra đô la mỹ là 1.256.250(USD). Như vậy sự thay đổi về tỷ giá không những không bù đắp vốn gốc cho vay ban đầu mà còn làm ngân hàng Mỹ mất một khoản tiền là 1.282.051,3-1.256.250 = 25.801,3(USD). Có thể nói rằng rủi ro về tỷ gía ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
2.4. Rủi ro bảo lãnh
Bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của Ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh. Khi rủi ro bảo lãnh xảy ra không những ngân hàng phải chịu một mức phí bảo lãnh cho khách hàng đựơc bảo lãnh mà uy tín của ngân hàng cũng bị giảm sút mạnh, ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của Ngân hàng.
Có các loại rủi ro bảo lãnh sau:
Rủi ro bảo lãnh đấu thầu
Rủi ro bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Rủi ro bảo lãnh tiền đặt cọc
Rủi ro bảo lãnh thanh toán
Rủi ro bảo lãnh bảo hành.
2.5. Rủi ro đầu tư
Ngoài hoạt động kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín dụng; Ngân hàng còn tham gia góp vốn liên doanh, đầu tư vào các dự án, đầu tư vào chứng khoán…
Trong quá trình đầu tư , những quyết định đưa ra dù rất cẩn thận chặt chẽ đến đâu vẫn có thể thất bại vì nhà đầu tư luôn đứng trước và đối đầu với những thay đổi lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Những biến đổi này nhiều khi không có khả năng lường trước được. Hoạt động đầu tư là lĩnh vực rủi ro và đầy mạo hiểm, đặc biệt là đầu tư vào chứng khoán. Thực tế này đặt ra cho các nhà đầu tư trong quá trình hoạt động luôn phải đối mặt với rủi rovà chọn biện pháp thích hợpđể ứng phó kịp thờikhi rủi ro xuất hiện. Những rủi ro này có thể gây ra những tổn thất không lường trước được không chỉ đối với đối tượng chịu rủi ro mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là đối với hệ thống ngân hàng - bộ xương sống của nền kinh tế.
3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
3.1. Rủi ro tín dụng, đặc trưng của nó
Cũng như bất kỳ nghành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh doanh nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó chịu rất nhiều loại rủi ro. Bản thân người quản lý ngân hàng và người lập chính sách cần phải biết và hiểu được những rủi ro này để tìm mọi cách để hạn chế chúng, hạn chế những vụ đổ vỡ dễ gây thiệt hại, trước hết là cho ngân hàng và sau là toàn bộ nền kinh tế. Trên thế giới người ta đã phân ra nhiều loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng, nhưng tiêu biểu nhất là rủi ro trong hoạt động tín dụng.
* Đặc trưng của rủi ro tín dụng:
Rất dễ xảy ra:
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế, ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Ngân hàng là người trung gian dẫn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, điều hoà lượng tiền trong lưu thông giúp nền kinh tế phát triển ổn định.
Ngân hàng cung cấp vốn cho các thành phần kinh tế chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng. Thực chất của tín dụng là cho các doanh nghiệp ứng trước một khoản tiền để sản xuất kinh doanh kèm theo những điều kiện mà hai bên đã ký kết, như vậy rủi ro không trả được vốn là không thể tránh khỏi. Mặc dù trong quá trình thẩm định hồ sơ xin vay vốn ngân hàng đã rất cẩn thận nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Đây là một trong những vấn đề đã và đang làm đau đầu các nhà quản trị Ngân hàng.
Phản ứng dây chuyền:
Hoạt động ngân hàng không chỉ giới hạn trong một nước mà nó còn có mối liên kết ra ngoài lãnh thổ. Như vậy một khi có rủi ro lớn xảy ra thì không những các ngân hàng trong nước bị ảnh hưởng mà các ngân hàng nước ngoài cũng bị ảnh hưởng theo, tuy mức độ ảnh hưởng thấp hơn.
Điển hình vừa qua là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 97 bắt đầu ở Thái Lan không những làm tê liệt hệ thống Ngân hàng của các nước trong khu vực và còn ảnh hưởng tới các cường quốc có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật bản…
Các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng
3.2.1. Thông tin không cân xứng
Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì mà người ta cần biết về bên kia để có được những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin không cân xứng. Ví dụ một người vay một món tiền thường có thông tin tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà người này có dự tính tiến hành so với người cho vay. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
Chọn lựa đối nghịch là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên thị trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) – tức là những rủi ro không trả được nợ – là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do việc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Sự lựa chọn đối nghịch trên thị trường cho vay nảy sinh vì những người rất kém tín nhiệm ( những người rất dễ có thể không trả món vay của mình) lại là những người thường sắp hàng để vay tiền. Nói cách khác, những người dễ có thể tạo ra một kết cục đối nghịch nhất lại dễ có thể được lựa chọn nhất. Những người vay tiền với những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để được lợi nếu các dự án của họ thành công và như vậy họ là những người khao khát nhận được món vay nhất. Tuy thế, họ là những người vay tiền ít được ưa chuộng nhất vì có nhiều khả năng hơn rằng họ sẽ không thể hoàn trả được những món nợ của họ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt ( thiếu đạo đức) xét theo quan điểm người cho vay, bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ hoàn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có thể quyết định thôi không cho vay nữa. Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý thức muốn thực hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người cho vay, trong tình trạng như vậy, dễ có thể là người cho vay này sẽ bị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Một khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đầu tư vào những dự án có rủi ro cao – những dự án đem lại lợi tức cao cho những người vay tiền nếu thành công. Tuy nhiên, sự rủi ro cao này khiến họ có khả năng hoàn trả lại món tiền vay.
Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn luôn đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực, mặc dù những số liệu này đều đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán, thống kê đã được ban hành, nhưng phần lớn các doanh nghiệp đều thực hiện không nghiêm túc. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị, để qua đó có thể đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho ngân hàng. Nhiều khi các ngân hàng thương mại có những quyết định đầu tư không căn cứ vào số liệu báo cáo của đơn vị mà thường dựa vào những cảm nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất nguy hiểm.
3.2.2. Môi trường kinh tế
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong thời gian qua, nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có những biến động gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực tuy không tác động trực tiếp nhưng ít nhiều cũng gây chao đảo hệ thống ngân hàng Việt Nam. Những điều chỉnh liên tục về lãi suất nhằm kích cầu trong năm 1999 cũng gây thiệt hại không ít cho các ngân hàng thương mại. Năm 2000 do những biến động về tỷ giá đã gây nên tình trạng đola hoá, người ta đua nhau rút tiền gửi tiết kiệm mua ngoại tệ rồi gửi vào ngân hàng và đặc biệt là việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài. Do nền kinh tế khó khăn và sự sụt giảm nguồn vốn đầu tư, cuối năm 2001 Ngân hàng Trung ương Mỹ liên tục cắc giảm lãi suất đồng USD cộng với sự sụt giảm lãi suất đồng VND đã đẫn tới mọi ngươì đổ xô đầu tư vào bất động sản dẫn đến giá bất động sản tăng một cách chóng mặt, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn để đầu tư vào nền kinh tế.
Bất kỳ một biến động nào của nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Như một cá thể tự nhiên, ngân hàng “khoẻ mạnh” hay không cũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế ổn định hay nhiều “bão tố”.
3.2.3. Môi trường pháp lý
Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng hiện nay, tuy đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn chưa thực sự khoa học và thiếu đồng bộ, chưa đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong thực tế kinh doanh của ngân hàng thương mại. Một vấn đề quan trọng là người thi hành luật, có nhiều người đã không thi hành đúng theo luật Nhà nước đã ban hành. Đứng trước vụ lợi họ quyên mất vai trò quan trọng đó là đem lại lợi ích cho quốc gia và công bằng cho xã hội. Nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể cách thi hành luật và có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người không làm trọn trách nhiệm.
Nhiều doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu bằng vốn ngân hàng, nhưng khi doanh nghiệp giải thể thì chủ thể đầu tiên được thanh toán nợ từ nguồn thanh lý còn laị của doanh nghiệp lại không phải là ngân hàng cho vay, dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng là điều không tránh khỏi. Những doanh nghiệp “có vấn đề” thì các cơ quan pháp luật phải can thiệp và ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị trong quá trình điều tra, tài sản thế chấp sẽ không được tiếp tục khai thác hoặc khai thác một cách kém hiệu quả, gây thất thoát vốn cho các doanh nghiệp và ngân hàng.
Hiện nay, điều kiện vay vốn, đặc biệt đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như bắt buộc phải có tài sản thế chấp, trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu nên chưa có cơ quan nào có trách nhiệm cấp chứng nhận sở hữu tài sản và việc chuyển quyền sở hữu. Vì thế mà ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm tra tính xác thực của chủ sở hữu tài sản. Tín dụng thương mại đang rất phổ biến trong giao dịch nhưng các quy định về lưu thông thương phiêú chưa có, dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn dây dưa, lừa đảo, trốn thuế…gây khó khăn trong việc kiểm soát. Hệ thống các văn bản quy định về đảm bảo tiền vay còn nhiều bất cập, mang tính áp đặt, chưa nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng vay vốn.
Bên cạnh đó các cơ quan hữu quan chưa có được cái nhìn thấu đáo về ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên chưa có được sự phối hợp đồng bộ, tích cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay không ít người còn cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ vay chỉ đơn thuần là việc của ngân hàng, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thực hiện theo đúng mọi quy định của nhà nước mà vẫn không thu hồi được nợ. Lúc đó việc thu hồi nợ đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dầu đã có nhiều thông tư liên tỉnh giữa ngân hàng nhà nước và các bộ ngành liên quan hướng dẫn thực hiện những vấn đề có liên quan đến hoạt động của ngân hàng, nhưng thực tế đòi hỏi phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong thời gian tới.
3.2.4. Những nguyên nhân bất khả kháng
Đó là những nguyên nhân như bão lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn..., các vụ ăn cắp, lừa đảo.. gây thiệt hại về tài sản của ngân hàng hoặc của khách hàng khiến người vay mất khả năng trả nợ vay. Đối với loại rủi ro này, ngân hàng phòng ngừa bằng các biện pháp như mua bảo hiểm, tăng cường bảo vệ trực tiếp, giáo dục ý thức trách nhiệm cho nhân viên ngân hàng…
Những hình thức cơ bản để phòng ngừa ruỉ ro tín tín dụng
4.1. Tính tất yếu khách quan phải có đảm bảo tín dụng
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao mà nghiệp vụ tín dụng là một trong những lĩnh vực nhiều rủi ro nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng từ 85% -95% doanh thu, nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu, đồng thời là nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của ngân hàng thương mại.
Vậy làm sao để nâng cao được chất lượng tín dụng? Chất lượng tín dụng có thể hiểu đơn giản là hiệu quả của việc cho vay ( hay đầu tư, bảo lãnh mang lại) là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi (hoặc phí ) theo dự định. Hiệu quả và khả năng thu hồi vốn càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Hay nói cách khác rủi ro, thất thoát tín dụng càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao. Điều đó có nghĩa là muối nâng cao chất lượng tín dụng phải giảm thiểu được rủi ro tín dụng, các ngân hàng phải thực hiện được những món cho vay hoàn hảo.
Để có được một khoản cho vay hoàn hảo, các ngân hàng thường sử dụng rất nhiều biện pháp như thẩm định dự án đầu tư kỹ càng, tìm hiểu về khách hàng, mục đích đầu tư, uy tín, lịch sử phát triển của khách hàng… Từ đó đánh gía khả năng hoàn trả khoản vay và ra quyết định có cho vay hay không. Tuy nhiên dù có thận trọng đến đâu chăng nữa, các ngân hàng vẫn không thể tránh hoàn toàn rủi ro. Có thể là một chính sách mới của nhà nước khiến cho khách hàng phải giải thể, hoặc những biến động bất lợi của nền kinh tế (suy thoái, khủng hoảng…) hoặc thiên tai, hoả hoạn… Mặt khác, nếu ngân hàng quá thận trọng trong việc ra quyết định cho vay, ngân hàng sẽ bị lỡ những cơ hội thu lợi nhuận và khó mà mở rộng được quy mô của ngân hàng. Bởi vậy, dù muốn dù không ngay từ đầu ngân hàng vẫn đòi hỏi khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ tách biệt. Hiển nhiên phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, việc cho vay thành công. Chẳng hạn khi xuất khẩu, công ty bán được hàng và thu được tiền, có lãi và trả được nợ cho ngân hàng. Xét trên phương diện cho vay thì đó là giải pháp hoạt động kinh doanh của công ty sinh lời dù để họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Phương án thứ hai là dự phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì doanh nghiệp lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ bao gồm cả việc sử dụng công cụ vay nợ trên thị trường. Đó chính là những hình thức đảm bảo an toàn tín dụng.
4.2. Những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
4.2.1. Tài sản thế chấp
Một trong những giải pháp cổ điển để tối thiểu hoá rủi ro tín dụng là yêu cầu người vay thế chấp tài sản khi vay vốn ngân hàng. Hình thức này thường được áp dụng đối với khách hàng không quen biết, khách hàng không có khả năng trả nợ và không có người bảo lãnh hay đảm bảo trả thay khi cần thiết.
Tài sản thế chấp có thê là động sản (vàng bạc, hàng hoá, chứng khoán…) và cũng có thể là bất động sản(nhà cửa, công trình, ruộng đất..). Theo khoản 5 điều 6 thì: “Khi thế chấp tài sản gắn liền với đất, khách hàng vay phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Giá trị quyền sử dụng đất thế chấp được xác định tại khoản 3 điều 8 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ.
Sau khi chủ nợ và con nợ thống nhất thời hạn, giá cả tài sản thế chấp bằng giấy tờ, có chữ ký của hai bên thì một bên nhận tiền vay, còn một bên nhận giấy tờ cam kết và nắm quyền chủ thể trực tiếp của tài sản thế chấp. Bên vay(con nợ) chỉ còn quyền sở hữu gián tiếp tài sản này.
Trên thực tế thì những vật có giá trị lớn như kim cương, vàng bạc, đá quý, chứng khoán.. thường chuyển vào gửi ở két bạc ngân hàng. Nếu vì lý do kỹ thuật thì tài sản thế chấp có thể được bảo quản, giữ gìn ở các kho chuyên dùng thích hợp với từng loại. Ví dụ thóc gạo, sắt thép, ti vi, tủ lạnh… Nếu là hàng hoá còn trên đường vận chuyển, thì lấy các vận đơn làm tài sản thế chấp.
Sau khi hết hạn vay, nếu con nợ không trả được nợ, thì chủ nợ “ngân hàng” có quyền phát mại (bán) tài sản thế chấp để lấy tiền trang trải số nợ ấy. ở đây ngân hàng chẳng những có quyền tính lãi tiền vay, mà còn có quyền bắt phạt người vay về việc nợ quá hạn không trả.
Nếu tài sản thế chấp là các phương tiện sản xuất, như ruộng đất, ô tô.. thì chủ nợ (ngân hàng) có thể cầm giấy tờ thế chấp còn hiện vật thế chấp thì giao lại cho con nợ tiếp tục sử dụng. Ưu điểm của cách làm này là tạo điều kiện cho con nợ làm ăn, có thu nhập để trả vốn và lãi cho ngân hàng. Nhược điểm là nếu con nợ bán tài sản thế chấp ấy cho người khác thì ngân hàng (chủ nợ) khó có thể đòi được nợ.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nếu ở con nợ phát sinh các hoá đơn yêu cầu đòi người thứ ba thanh toán, thì con nợ giao hoá đơn này cho ngân hàng làm căn cứ đảm bảo tiền vay. Cách này đang được áp dụng phổ biến trong các cơ quan tài chính ở các nước. So với vay thế chấp tài sản, thì vay theo cách này có lợi hơn vì không phải mất công bảo quản tài sản thế chấp. Hơn nữa, với cách này, thì con nợ luôn luôn phải ky cóp đủ số tiền nhất định ở các hoá đơn thanh toán rồi chuyển những hoá đơn yêu cầu thanh toán này cho ngân hàng, như vậy là ngân hàng sẽ quay vòng vốn nhanh hơn. Nhưng chỉ làm được như vậy nếu giữa ngân hàng và con nợ có quan hệ tín dụng thường xuyên và ở con nợ luôn xuất hiện các yêu cầu thanh toán mới và thường xuyên đối với ngân hàng.
Trong trường hợp chuyển nhượng toàn bộ các đơn yêu cầu thanh toán, thì con nợ tự động chuyển các đơn yêu cầu thanh toán của mình cho khách hàng nhất định. Có thể chuyển các đơn yêu cầu thanh toán ngay sau khi chúng phát sinh, chứ không phải sau khi chuyển cho ngân hàng các chứng từ thanh toán. Trên thực tế ở các nước, người ta thường chuyển giao các hợp đồng bảo hiểm, ví dụ bảo hiểm con người nhờ ngân hàng thu hộ và ăn hoa hồng.
Cầm cố tài sản
Cầm cố là hành vi giao nộp hoặc các chứng từ nhận quyền sở hữu tài sản của con nợ (người cầm cố) cho chủ nợ ( người được cầm cố) để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ. Nghĩa vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là người đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ đúng hạn theo hợp đồng.
Theo khoản 1, khoản 2 điều 12 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ thì:
“1) Khi cầm cố tài sản, khách hàng vay có nghĩa vụ giao tài sản cho tổ chức tín dụng giữ; nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có quyền thoả thuận tài sản do khách hàng giữ hoặc do bên thứ ba giữ, nhưng tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
2) Đối với tài sản cầm cố, thế chấp là phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản có giấy chứng nhận đăng ký, thì tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký, chủ phương tiện được dùng bản sao có chứng nhận của Công chứng Nhà nước và xác nhận của tổ chức tín dụng (nơi nhận cầm cố, thế chấp) để lưu hành phương tiện trong thời hạn cầm cố, thế chấp. Tổ chức tín dụng chỉ xác nhận vào một bản sao giấy chứng nhận đăng ký phương tiện sau khi đã có chứng nhận của Công chứng Nhà nước”.
Hành vi cầm cố tài sản hết hiệu lực khi người vay đã hoàn trả đầy đủ các khoản nợ được đảm bảo bằng cầm cố. Trong trường hợp người đi vay không thanh toán nợ đúng hạn theo hợp đồng thì ngân hàng được quyền bán tài sản cầm cố và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác.
Trong việc đảm bảo tiền vay thì cầm cố bất động sản, đặc biệt là nhà cửa, đất đai đóng vai trò quan trọng. Hình thức cầm cố này có một số ưu điểm; thứ nhất không thể chuyển dịch đất như tài sản thế chấp; thứ hai không thể bán tài sản cầm cố cho người thứ ba. Sau khi lập thủ tục cầm cố, chủ bất động sản nhận được ngay tiền vay. ở đây con nợ nhất thiết phải trả nợ đúng hạn, nếu không toà án buộc họ phải bán tài sản cầm cố để trả nợ.
Điều đáng quan tâm khi cho vay trong nền kinh tế thị trường là phải dự kiến trước trường hợp người đi vay không có khả năng trả nợ và các công ty có thể phá sản. Thật sai lầm nếu cho rằng, chỉ trong các thời kỳ khủng hoảng kinh tế các công ty mới bị phá sản. Người ta khuyên rằng, khi đánh giá khả năng đảm bảo tiền vay, không nên chỉ căn cứ vào người vay có một số tài sản nhất định, hoặc có một số quyền hạn về tài sản để coi đó là cơ sở vững chắc đảm bảo tiền cho vay. Thật ra thì chưa chắc đã như vậy, bởi vì khi con nợ gặp khó khăn về tài chính, thì số tài sản ấy có thể bị nhiều chủ nợ kéo đến tranh dành. Trong trường hợp này, chỉ có trách nhiệm giữa chủ nợ và con nợ, chứ không phải là trách nhiệm chuyển giao tài sản hoặc chuyển giao các quyền hạn nào đấy. Cần nói thêm rằng, các tài sản chỉ có thể được coi là vật đảm bảo sau khi những thoả thuận của hai bên (vay và cho vay) đã được ghi vào hợp đồng tín dụng có tài sản đảm bảo.
4.2.3. Bảo lãnh
Bảo lãnh là việc bên thứ ba là pháp nhân hoặc cá nhân dùng tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền quản lý của mình để cam kết với tổ chức tín dụng cho đối với việc trả nợ đúng nghĩa vụ của cho bên vay, nếu đến hạn trả nợ mà bên vay không hoàn trả được toàn bộ hay một phần nợ (bao gồm tiền gốc, lãi và tiền phạt quá hạn).
Trong quá trình bảo lãnh, bên thứ ba (tức người bảo lãnh) phải có trách nhiệm trả nợ thay cho con nợ nếu như đến hạn thanh toán con nợ không trả được nợ và đôn đốc bên được bảo lãnh (người vay) trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Mặt khác, người bảo lãnh cũng có quyền kiến nghị với ngân hàng kiểm tra việc sử dụng vốn vay của bên được bảo lãnh khi cần thiết. Khi họ đã trả nợ thay cho con nợ thì họ được thế chân vào tất cả quyền lợi vốn có của chủ nợ. Ngoài ra, người bảo lãnh còn được hưởng phí khi đứng ra bảo lãnh.
ở đây người bảo lãnh phải viết giấy cam kết bảo lãnh, trong đó có ghi tên con nợ và số tiền mình bảo lãnh. ý nghĩa của cam kết bảo lãnh ở chỗ nó bổ sung cho nghĩa vụ chính của con nợ. Điều này có nghĩa rằng, người bảo lãnh chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ được con nợ thừa nhận và có thể bác bỏ những yêu sách của chủ nợ đối với những kháng nghị chưa được toà án phán quyết.
Chẳng hạn, nếu khi cung cấp hàng mà chủ nợ phát hiện tình trạng thiếu tiền, nhưng người mua (con nợ ) lại không thừa nhận số tiền thiếu ấy, thì người bảo lãnh không chịu trách nhiệm thanh toán số nợ này chừng nào chưa được toà án phán quyết. Ngoài ra, người bảo lãnh cũng có thể thoả thuận không chịu trách nhiệm về những rắc rối như vậy, nghĩa là chỉ bảo lãnh cho các khoản nợ được con nợ thừa nhận. Đây là hình thức bảo lãnh thường gặp trong các nghiệp vụ tín dụng, hình thức cho phép ngân hàng coi người bảo lãnh như bị cáo chính của khoản nợ.
Trong lĩnh vực bảo lãnh tín dụng ngoài hình thức bảo lãnh chính, còn có bảo lãnh bổ sung cho tiền vay. Trong trường hợp này, trách nhiệm bảo lãnh bổ sung tương đương với trách nhiệm chính nếu không có trách nhiệm liên đới về nợ. Trong trường hợp bảo lãnh bổ sung, thì người bổ sung phải chịu trách nhiệm trả nợ, nếu con nợ và người bảo lãnh chính không có khả năng trả nợ.
4.2.4. Bảo đảm
Khác với bảo lãnh, bảo đảm không phải là đối tượng xử lý của pháp luật, không phải là hành động bổ sung cho hợp đồng chính, mà chỉ là việc người bảo đảm cam kết trả cho người được bảo đảm một số tiền nhất định khi phát sinh trường hợp bảo đảm.
Trong thực tế vay mượn thường xảy ra trường hợp con nợ phải cam kết bảo đảm trả tiền đúng hạn cho chủ nợ. Khi đó, người bảo đảm phải viết giấy cam kết rằng, nếu phát sinh trường hợp bảo đảm, người bảo đảm sẽ chịu trách nhiệm thanh toán số tiền ấy. Sự bảo đảm của ngân hàng trong nhiều trường hợp là bảo đảm trả lãi và trả một phần gốc(vốn) khi con nợ không có khả năng trả nợ đúng hạn. Những khiếu nại và phản đối của con nợ đối với chủ nợ không được giải quyết trong trường hợp ngân hàng cam kết bảo đảm.
4.3. Cơ chế phòng ngừa rủi ro tín dụng._.hục được những khoản tổn thất tín dụng do tình trạng nợ khoanh, nợ tồn đọng lâu dài… để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng.
- Thứ ba: Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. Như thế Ngân hàng sẽ tránh được những tổn thất khi rủi ro xảy ra đối với những khoản vốn đầu tư.
Xử lý món vay có vấn đề
Trong xử lý các khoản cho vay có vấn đề, có hai sự lựa chọn tổng quát: khai thác hoặc thanh lý. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc. Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp để đạt mục tiêu.
Món vay có vấn đề được hiểu là món vay đã quá hạn hoặc món vay tuy chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ Ngân hàng do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật như lừa đảo, trốn thuế, sản xuất kinh doanh trái với ngành nghề đăng ký… Xử lý món vay có vấn đề là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Theo kinh nghiệm của các nhà Ngân hàng thì giải pháp khai thác là khôn ngoan hơn. Bởi vì, sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Chính các giải pháp mềm dẻo, linh hoạt này đã cứu không ít khách hàng từ chỗ sắp “khuynh gia bại sản” đến chỗ “gượng” lại được, tiếp tục tồn tại, phát triển và ngày càng gắn bó với Ngân hàng. Các giải pháp khai thác bao gồm:
Thương lượng gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ.
Một khi khách hàng đã gặp phải khó khăn trong việc trả nợ gốc thì phần lãi càng khó có khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Vì vậy chế tài chuyển nợ quá hạn với lãi suất cao càng gây khó khăn thêm cho khách hàng. Trong trường hợp này, Ngân hàng phải tiến hành điều tra, xác minh xem nguyên nhân: thua lỗ do giá cả thị trường biến động mạnh ngoài dự kiến; sản lượng và doanh thu đạt thấp; thiên tai, dịch bệnh.. hoặc do Ngân hàng định kỳ hạn nợ không đúng chu kỳ kinh doanh, cho vay ngắn hạn các đối tượng trung dài hạn, thì món vay cần phải được xem xét cho gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn và giãn nợ. Vấn đề là thời gian gia hạn nợ là bao lâu? Một số trường hợp khách hàng không thể khôi phục khả năng trả nợ trong thời gian ngắn (trong vòng một năm chẳng hạn) mà cần phải có thời gian dài hơn có khi phải đến 2 hoặc 3 năm. Thế nhưng quyền cho gia hạn nợ của Ngân hàng Thương mại bị hạn chế bởi quyết định 324/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cụ thể: thời gian gia hạn tối đa là 12 tháng đối với khoản vay ngắn hạn và tối đa một nửa thời hạn cho vay đối với khoản vay trung, dài hạn. Thiết nghĩ, nếu trong thời gian gia hạn nợ mà khách hàng đã cố gắng trả được một phần vốn (gốc và lãi) và có nguyện vọng được kéo dài thêm thời hạn, thì Ngân hàng có thể tiếp tục xem xét cho gia hạn nợ.
Tiếp thêm vốn giúp khách hàng.
Trong những giai đoạn khó khăn, một số khách hàng không những không trả được nợ đáo hạn, xin gia hạn nợ mà còn có nhu cầu vay thêm vốn để giải quyết khó khăn tạm thời như: sản phẩm chưa tiêu thụ được nhưng vẫn phải tiếp tục mua vật tư, trả lương công nhân để duy trì hoạt động bình thường; khắc phục sự cố kỹ thuật; củng cố mạng lưới tiêu thụ; doanh nghiệp, cá nhân gặp rủi ro bất khả kháng mất vốn không đủ khả năng khôi phục sản xuất nếu không có sự tài trợ từ bên ngoài… Trong những trường hợp như vậy, thường Ngân hàng không dám tiếp tục tài trợ thêm mà sẽ đình chỉ quan hệ tín dụng, xúc tiến việc thanh lý tài sản để thu nợ càng sớm càng tốt. Sự yếu kém về khả năng phân tích, nhận định tình hình khiến cho Ngân hàng đi đến giải pháp thanh lý làm cho một số doanh nghiệp chưa đến nỗi “chết” sẽ đến chỗ “chết” thật. Vì vậy, cần phải cân nhắc thận trọng để nếu cần sẵn sàng tiếp thêm “sinh khí” giúp khách hàng của mình phục hồi.
Đảo nợ
Mặc dù biện pháp này đã được Ngân hàng Thương mại thực hiện từ lâu nhưng vẫn chưa có văn bản pháp quy chính thức nào quy định và điều chỉnh hành vi đảo nợ. Đa số khách hàng của Ngân hàng đều có nhu cầu vay vốn thường xuyên, liên tục để sản xuất kinh doanh. Nhiều khách hàng sau khi mua hàng và tiêu thụ, song chưa đến hạn trả nợ lại tiếp tục dự trữ hàng hoá, khi khoản vay đáo hạn không có tiền trả nợ liền đi vay “nóng” để trả nợ. Sau đó lập tức xin vay lại ngay trong ngày cũng số tiền ấy. Xét thấy việc này chỉ làm tăng thêm khối lượng công việc cho công tác kho quỹ nên Ngân hàng có thể cho phép khách hàng đảo nợ bằng nghiệp vụ “giả thu, giả chi”.
Hiện nay nợ quá hạn ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội còn khá lớn. Vì vậy Ngân hàng nên áp dụng các biện pháp khai thác nhằm thu hồi đủ nợ và tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục. Đây là biện pháp mang tính chiến lược lâu dài.
Các biện pháp mang tính thương lượng trên đây chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp có thiện chí trả nợ và có thể phục hồi. Nếu Ngân hàng thấy rõ là việc tổ chức khai thác không hiệu quả, thì Ngân hàng phải áp dụng các biện pháp để thanh lý tài sản khách hàng nhằm thu hồi khoản nợ. Trước hết Ngân hàng nên cố gắng thuyết phục doanh nghiệp tự nguyện bán tài sản thế chấp của mình. Việc doanh nghiệp tự nguyện bán các tài sản thường được giá cao hơn là bị buộc phải phát mại và khi đó doanh nghiệp cũng đỡ bị mất uy tín của mình trên thương trường và ngân hàng cũng tránh được các chi phí và các thủ tục pháp lý gắn liền với việc sở hữu và phát mại tài sản thế chấp, Trong số các giải pháp thu nợ thì việc doanh nghiệp bán tài sản một cách tự nguyện là có lợi nhất đối với cả Ngân hàng lẫn bên vay nợ.
Trường hợp khách hàng không có ý hợp tác với Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách bán tài sản thế chấp, cầm cố. Việc phát mại tài sản thế chấp thường phải chấp nhận giá thấp hơn giá thị trường, thời gian phát mại dài, qua nhiều khâu và chi phí phát mại không nhỏ. Bởi vậy, nếu việc phát mại quá khó khăn, để tránh ứ đọng vốn, Ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp sau:
Dùng tài sản đó để cho thuê và trực tiếp đứng ra thu tiền.
Dùng tài sản đó làm vốn góp liên doanh.
Liên hệ với các Ngân hàng khác thành lập một công ty thuê mua.
Nếu địa điểm giao dịch của tài sản là nhà ở thuận lợi, Ngân hàng có thể thu hồi và dùng nó làm địa điểm giao dịch, mở thêm đại lý.
Nếu không thuận lợi, nhưng diện tích rộng ngân hàng có thể xây dựng kho chứa hàng để tạo điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh cầm đồ, cho vay cầm cố.
Thời gian qua công tác thu hồi nợ ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội chưa được thực hiện tốt, nên số nợ quá hạn thu được còn thấp. Thời gian tới, Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa tới công tác này. Bên cạnh đó, Ngân hàng phải có biện pháp thẩm định và giám sát món vay chặt chẽ hơn, đồng thời sớm phát hiện các khoản cho vay có vấn đề để có hướng giải quyết phù hợp.
Mở rộng cạnh tranh
Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro
Hiện nay, phạm vi hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn hẹp, phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước và tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp xây dựng. Vốn cho vay lớn nhưng chưa năng động, Ngân hàng cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh. Theo số liệu cho thấy năm 2000 cho vay quốc doanh đạt 92% và cho vay ngoài quốc doanh đạt 8%; năm 2001, con số này tương ứng là 73% và 27%. Như vậy, Ngân hàng cần phải gia tăng tỷ lệ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh. Bởi vì, trong tương lai thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có nhiều hứa hẹn khả quan.
Biện pháp phân tán rủi ro là tránh tập trung vốn quá lớn vào một lĩnh vực đầu tư, vào một mặt hàng không có sức mạnh cạnh tranh… để đến khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ không chịu ảnh hưởng lớn. Vì thế, Ngân hàng phải phân tán rủi ro bằng cách cho vay vào nhiều đối tượng, nhiều khách hàng khác nhau với nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng
Đây là biện pháp nhằm phân tán rủi ro đã được các Ngân hàng trên thế giới áp dụng một cách có hiệu quả. Các Ngân hàng Thương mại ở Việt nam có đến 90% tài sản nợ là đầu tư trực tiếp nên khả năng rủi ro rất cao. Vì thế, muốn hạn chế được rủi ro tín dụng thì việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng rất cần được cọi trọng. Có đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ thì Ngân hàng mới có thêm lợi nhuận mà các dịch vụ đem lại. Năm 2001, tổng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chiếm 9% so với tổng doanh thu ( năm 2000 tỷ lệ này là 4%). Mặc dù kết quả còn kiêm tốn nhưng đã cho thấy tầm quan trọng của việc mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng.
Muốn đạt được mục đích đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, Ngân hàng phải tăng cường trang bị các thiết bị hiện đại như: máy vi tính, máy Fax, cũng như cơ sở vật chất, thiết bị kho tàng. Đồng thời phải đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính, thu thập thông tin thị thường… cho cán bộ Ngân hàng.
Ngân hàng nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm môi giới, tư vấn pháp luật để triển khai thực hiện các nhiệm vụ tư vấn, môi giới đầu tư, bảo quản, cất giữ tài sản quý hiếm, cho thuê két, tín dụng thuê mua, liên doanh liên kết... Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Ngân hàng phải từng bước chuyển dịch cơ cấu đầu tư vốn từ bán lẻ sang bán buôn, mở rộng và phát triển các dịch vụ đã có như thanh toán Quốc tế, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán L/C… Khi hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ mới, Ngân hàng không những thích nghi với nhu cầu của quá trình tái sản xuất mà bằng con đường đa dạng hoá việc cung ứng tín dụng sẽ thu hút được nhiều khách hàng, qua đó tăng thêm thu nhập cho mình và có một nguồn nhất định để bù đắp những rủi ro tín dụng mà Ngân hàng gặp phải. Tuy nhiên, muốn đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng đòi hỏi Ngân hàng phải có một khoản chi phí lớn về tiền của vì nó phụ thuộc vào quá trình Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng cả về máy móc thiết bị lẫn trình độ tinh thông nghiệp vụ mới của các cán bộ Ngân hàng.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, khách hàng vừa là người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là người sử dụng nguồn vốn này, nên khách có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách giúp Ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin có liên quan tới khách hàng, các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp Ngân hàng:
- Đánh giá đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát. Thông qua việc quan hệ tín dụng một cách thường xuyên, Ngân hàng có thể nắm bắt được những thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ, Ngân hàng sẽ biết được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, tiền mặt cũng như quan hệ khách hàng với các khách hàng khác trong việc mua nguyên liệu tiêu thụ sản phẩm…
Đây là cách tốt nhất để thu thập các thông tin về khách hàng và là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin, tránh được rủi ro về đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn cũng như các chi phí giám sát khách hàng khi đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng.
- Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu của khách hàng. Thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng, Ngân hàng có thể huy động được một khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng. Sự am hiểu của khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu của khách hàng về loại tín dụng, khối lượng tín dụng, giá cả cho vay để có kế hoạch bố trí nguồn vốn kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng. Do tiết kiệm được chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát khách hàng nên Ngân hàng sẽ có đủ điều kiện để hạ lãi suất cho vay, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm cho khách hàng gắn bó hơn với Ngân hàng. Mối quan hệ không những ngày càng củng cố đối với khách hàng sẽ càng có cơ hội để nâng cao được chất lượng tín dụng.
- Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ và xu hướng phát triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng thích nghi với sự biến động của thị trường, tìm kiếm cơ hội không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, nhất là rủi ro về đạo đức để vươn tới sự hoàn thiện về chất lượng tín dụng, nhằm tạo dựng được hình ảnh biểu tượng tốt của Ngân hàng trên thị trường.
Để thiết lập được mối quan hệ tốt lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải có kế hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều hình thức phục vụ, đổi mới tác phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng đối với Ngân hàng như những người bạn tin cậy.
II. Những tiền đề để thực hiện các giải pháp nêu trên
Về phía nhà Nước
- Trong tình hình và điều kiện mới của nước ta hiện nay, các chính sách kinh tế cần phải có những chuyển biến sao cho phù hợp với quy luật kinh tế-xã hội và thực tế khách quan . Vì vậy, về cơ chế, chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như đối với các tổ chức khác, cá nhân cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho bên vay hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Những đề xuất cụ thể là:
+ Việc định thời hạn cho vay vốn để bổ sung vốn lưu động thiếu cho doanh nghiệp cần quy định sao cho phù hợp với cả các doanh nghiệp có thời gian luân chuyển vốn của một chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hơn 12 tháng.
+ Về điều kiện đảm bảo nợ vay, ngoài hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh hiện hành cần có quy chế đảm bảo nợ bằng chính tài sản hình thành có sự tham gia của vốn vay.
+ Về nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng: Cần có cơ chế huy động vốn để đầu tư cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn sao cho đảm bảo đáp ứng đúng và phù hợp với từng loại đối tượng của các doanh nghiệp và áp dụng thời hạn cho vay phù hợp với thời gian luân chuyển vốn của đối tượng vay, tránh tình trạng tổ chức tín dụng gò ép doanh nghiệp vay vốn phải trả nợ theo thời hạn mà tổ chức tín dụng áp đặt chủ quan; không căn cứ vào thời gian thu hồi vốn của dự án do tuỳ thuộc vào tính chất nguồn vốn của tổ chức tín dụng.
+ Để nâng cao khả năng an toàn, hiệu quả và chất lượng hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng. Đề nghị cơ quan Nhà nước giao chức năng thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án. Khi thẩm định dự án cần cân đối nhu cầu thị trường với việc cung cấp sản phẩm khi các dự án đầu tư đi vào hoạt động trên phạm vi tổng thể toàn quốc, để đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian mà dự án đầu tư đi vào hoạt động. Cơ quan thẩm định dự án đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính hiệu quả kinh tế của dự án do cơ quan đó thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Đồng thời các Ngân hàng cũng cần phải nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư để cho vay có hiệu quả, cần đặc biệt chú trọng tham khảo các thông tin do trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cung cấp.
+ Về xử lý các khoản nợ rủi ro do nguyên nhân khách quan, cần tránh việc bao cấp cho các tổ chức tín dụng như hiện nay là khonh nợ, xoá nợ, để nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng được hưởng chế độ thu nhập theo đúng với thành quả và chất lượng kinh doanh của đơn vị mình tuỳ theo kết quả năm tài chính.
- Tăng cường biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, có biện pháp hữu hiệu buộc doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê và chế độ kiểm toán bắt buộc để đảm bảo thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính được phản ánh một cách đầy đủ, chính xác, nhằm đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng.
- Các cấp cần tiến hành và soát lại các doanh nghiệp đã được thành lập để cân đối giữa vốn và ngành nghề kinh doanh, đảm bảo nhiệm vụ kinh doanh phù hợp với thực lực của doanh nghiệp trên các mặt: Vốn, công nghệ lao động, môi trường. Đảm bảo tính đồng bộ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tạo diều kiện cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao.
- Đề nghị Chính phủ, các ngành pháp luật và chính quyền địa phương có biện pháp ngăn chặn để xoá bỏ các tổ chức cá nhân kinh doanh tiền tệ, tín dụng trái phép dưới mọi hình thức. Mọi tổ chức và cá nhân chỉ được vay vốn và được huy động vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Mọi hình thức vay vốn và huy động vốn từ các tổ chức cá nhân không được Nhà nước cấp giấy phép đều vi phạm pháp luật, cần được xử lý nghiêm minh như các hành vi buôn lậu và kinh doanh trái phép.
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam
- Môi trường kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại đòi hỏi phải có hành lang pháp lý là vấn đề cơ bản. Mặc dù hệ thống luật pháp hiện nay đã được cải thiện đáng kể, được đánh dấu bằng sự ra đời của bộ Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng, tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tập trung nỗ lực hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý qui định liên quan đến hoạt động Ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng, bảo đảm công tác quản lý Nhà nước đối với ngành Ngân hàng vừa toàn diện, vừa chặt chẽ trên cơ sở tiến bộ và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại.
- Đối với cơ chế trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại: ngày 8/2/1999, ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ban hành Quyết định số 48/1999/QĐ- NHNN5 về việc ban hành qui định về việc phân loại tài sản Có, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Theo quyết định này thì tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro sau khi đã tận thu mọi khoản phải thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố nếu có và các biện pháp khác theo qui định của pháp luật để thu nợ. Nhưng thực tế tồn tại nhiều trường hợp là sau khi tận thu mọi khoản thu, tổ chức tín dụng không thể phát mại tài sản đành phải treo nợ nhiều năm, những khoản nợ này nên được xử lý bằng dự phòng rủi ro để làm trong sạch cân đối tín dụng của ngân hàng trước khi kiểm toán, còn tài sản thế chấp cầm cố sẽ được theo dõi riêng để thanh lý thu hồi khi có điều kiện. Nên chăng Ngân hàng Nhà nước nên nới lỏng qui định về sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, giúp lành mạnh tình hình tài chính của các ngân hàng.
- Ngân hàng Nhà nước cần rà soát các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao chứ không đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ. Nâng cao hiệu lực thanh tra và quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc khắc phục những khuyết điểm, xử ký kiên quyết những sai phạm đã được phát hiện và chủ động có giải pháp đồng bộ với các ngành liên quan.
Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
- Doanh nghiệp và Ngân hàng có mối quan hệ biện chứng, doanh nghiệp cần Ngân hàng để giải quyết vấn đề thiếu vốn hoặc dư vốn còn Ngân hàng tồn tại được nhờ hoạt động kinh doanh tiền tệ mà chủ yếu là hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Thu nhập của các Ngân hàng chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Do vậy vấn đề cố gắng hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là nhiệm vụ của các Ngân hàng Thương mại mà nó còn là nhiệm vụ trọng tâm của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần có những biện pháp để tự củng cố mình, sản xuất kinh doanh có hiệu quả để trả nợ đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp cần phải đổi mới cách nghĩ, cách làm; đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Có vay có trả, không nên nghĩ Ngân hàng là cái “mỏ” để cho mình đào bới. Phải xác định rằng khi đã đi vay là phải có trách nhiệm hoàn trả bằng mọi cách, không nên đi vay cho mục đích này lại sử dụng vào những mục đích khác, khi đến hạn trả nợ thì không muốn trả. Đây cũng là hệ quả của nền kinh tế bao cấp để lại.
- Ngoài ra cần phải cải thiện tình hình tài chính; trung thực trong việc lập báo caó kết quả sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư khả thi và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng kiểm tra, khảo sát tình hình sử dụng vốn vay. Các doanh nhiệp cần phải năng động trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, đổi mới trang thiết bị, nghiên cứu thị trường đưa ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Có như thế thì các doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ Ngân hàng cũng như trang trải các phí tổn cho chính mình.
- Các doanh nghiệp muốn đứng vững trong nền kinh tế thị trường phải nâng cao chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động; phải lựa chọn được người lãnh đạo cũng như người cán bộ giỏi, sáng suốt trong công việc, nhạy bén với thị trường, có trình độ chuyên môn cao. Có thể nói năng lực, uy tín của ban lãnh đạo doanh nghiệp là điều kiện tốt để Ngân hàng xem xét các khoản đầu tư của mình.
Kết luận
Trong quá trình phát triển của một đất nước, hệ thống Ngân hàng Thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Các Ngân hàng Thương mại góp phần điều hoà lượng tiền trong lưu thông giúp ổn định giá cả, chống lạm phát; cung cấp các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế giúp quá trình sản xuất - trao đổi - tiêu dùng diễn ra trôi chảy hơn. Ngân hàng Thương mại huy động với mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh , thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng đem lại hiệu quả cao nhưng kèm theo đó là rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Một Ngân hàng gặp rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Vì thế rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu không những đối với cán bộ Ngân hàng mà của cả toàn xã hội.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy động vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn có nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Với tính cấp thiết này, mong rằng một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh mà em đã trình bày sẽ góp một phần nhỏ nào đó vào hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung. Qua đó góp phần củng cố sự phát triển ổn định của hệ thống Ngân hàng, đáp ứng được yêu cầu HĐH-CNH đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết này không thể không tránh khỏi những khuyết điểm. Vì vậy em mong muốn được sự góp ý của các thầy cô giáo để có ý nghĩa với thực tiễn hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy ban lãnh đạo và tập thể cán bộ tín dụng của Ngân hàng đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Danh mục viết tắt:
TMCP :
Thương mại Cổ phần
CNH-HĐH:
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
TSCD :
Tài sản cố định
TSLĐ :
Tài sản lưu động
TNHH :
Trách nhiệm hữu hạn
NN & PTNT :
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
SXKD:
Sản xuất kinh doanh
HĐ:
Hoạt động
QL:
Quản lý
Mục lục
Trang
Lời nói đầu Chương I: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế …………………………………
3
I. Ngân hàng Thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế ……..
3
1. Vài nét về Ngân hàng Thương mại…………………………………..
3
1.1. Nguồn gốc, định nghĩa……………………………………………..
3
1.2. Phân loại Ngân hàng Thương mại………………………………….
4
1.3. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng Thương mại………………..
5
1.3.1. Tạo tiền…………………………………………………………...
5
1.3.2. Thanh toán………………………………………………………..
6
1.3.3. Tín dụng………………………………………………………….
7
1.3.4. Cung ứng dịch vụ Ngân hàng…………………………………….
7
1.4. Các nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại………………………...
8
1.4.1. Nghiệp vụ Nợ…………………………………………………….
8
1.4.2. Nghiệp vụ Có……………………………………………………..
9
1.4.3. Nghiệp vụ trung gian……………………………………………..
10
2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại Cổ phần………………………...
11
2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế…………………
12
2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển…...
12
2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ…………………………………
13
2.4. Thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả…………..
14
2.5. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế………………………...
14
II. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại và cơ chế…………...
16
1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng……………………………...
16
1.1. Khái niệm về rủi ro nói chung……………………………………...
16
2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng………...
17
2.1. Rủi ro tín dụng……………………………………………………..
17
2.2. Rủi ro bảo lãnh……………………………………………………..
18
2.3. Rủi ro đầu tư………………………………………………………..
19
3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng………...
20
3.1. Rủi ro tín dụng, đặc trưng của nó…………………………………..
20
3.2. Các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng………………………………
21
3.2.1. Thông tin không cân xứng………………………………………..
21
3.2.2. Môi trường kinh tế………………………………………………..
22
3.2.3. Môi trường pháp lý……………………………………………….
22
3.2.4. Những nguyên nhân bất khả kháng………………………………
23
4. Những hình thức cơ bản để phòng ngừa rủi ro tín dụng……………...
24
4.1. Tính tất yếu khách quan phải có đảm bảo tín dụng………………...
25
4.2. Những hình thức cơ bản phòng ngừa rủi ro tín dụng……………….
25
4.2.1. Tài sản thế chấp…………………………………………………..
25
4.2.2. Cầm cố tài sản……………………………………………………
28
4.2.3. Bảo lãnh…………………………………………………………..
29
4.2.4. Bảo đảm…………………………………………………………..
30
4.3. Cơ chế phòng ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng…………….
31
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng và vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với Công ty Đầu tư Xây dựng Công trình………….
35
I. Vài nét về tình hình hoạt động tín dụng của Ngân hàng…………..
35
1. Sơ lược về Ngân hàng Thương mại Cổ phần ………………………...
35
1.1. Quá trình hình thành và phát triển………………………………….
35
1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Thương mại Cổ phần……………...
37
2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại…………
39
2.1. Khái quát chung hoạt động của Ngân hàng………………………..
39
2.2. Những hoạt động chủ yếu………………………………………….
40
2.2.1. Đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh…………………………
40
2.2.2. Hoạt động tín dụng……………………………………………….
42
2.2.3. Các hoạt động dịch vụ……………………………………………
45
2.3. Thu chi tài chính……………………………………………………
46
2.4. Kết quả kinh doanh………………………………………………...
47
II. Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại ………………….
48
1. Giới thiệu chung về Công ty Đầu tư Xây dựng………………………
48
2. Tình hình Sản xuất kinh doanh của Công ty…………………………
49
3. Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần…………….
52
III. Những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động tín dụng……………..
57
1. Ưu điểm……………………………………………………………...
57
2. Tồn tại………………………………………………………………..
57
2.1. Về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng……………………...
57
2.2. Về xác định kỳ hạn nợ và thời điểm thu nợ………………………...
58
2.3. Về tài sản thế chấp…………………………………………………
58
2.4. Nợ quá hạn và tiến độ xử lý nợ quá hạn……………………………
59
2.5. Về đối tượng khách hàng…………………………………………..
60
3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng trong mối quan hệ……………………..
60
3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng…………………………………...
60
3.2. Nguyên nhân từ phía Công ty Xây dựng Công trình……………….
61
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội…………………….
62
I. Một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng……………
62
1. Nâng cao chất lượng cán bộ cuả Ngân hàng………………………...
62
1.1. Năng lực điều hành của ban lãnh đạo Ngân hàng………………….
62
1.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn……………
62
2. Nâng cao chất lượng thẩm định khác hàng………………………….
66
2.1. Phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp…………………...
67
2.2. Kết hợp các chỉ số tài chính với phân tích lưu chuyển……………..
69
2.3. Kết hợp phân tích năng lực tài chính định lượng…………………...
70
2.4. Xác định tín hiệu và đề nghị phê chuẩn……………………………
72
3. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp, cầm cố…………………….
73
3.1. Cần nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng………………………..
73
3.2. Bảo lãnh…………………………………………………………….
75
3.3. Thực hiện bảo hiểm tín dụng……………………………………….
76
4. Xử lý món vay có vấn đề……………………………………………..
77
5. Mở rộng cạnh tranh…………………………………………………..
80
5.1. Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro…………………...
80
5.2. Đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng………………………
80
5.3. Thiết lập quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng…………………...
81
II. Những tiền đề để thực hiện các giải pháp nêu trên……………….
83
1. Về phía Nhà nước…………………………………………………….
83
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam……………………………...
84
3. Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế……………..
85
Kết luận
87
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính - Frederic S.Mishkin – NXB Khoa học – kỹ thuật 1999
Ngân hàng thương mại – Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Tư – NXB Thống kê 2000
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam
Luật các tổ chức tín dụng
Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ về tổ chứ và hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng – Tín dụng Ngân hàng – Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội - năm 2000
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại (David Cox) – NXB Chính trị quốc gia 1997
Tạp chí Ngân hàng số 17 năm 1999
Tạp chí Ngân hàng số 12 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 4 năm 2001
Tạp chí Ngân hàng số 5 năm 2001
Tạp chí Ngân hàng số 11 năm 2001
Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng số 1 năm 2001
Tạp chí kinh tế và dự báo số 7 năm 2000
Báo cáo tổng kết năm 20001 của Ngân hàng TMCP Quân đội
Chuyên đề xử lý tài sản thế chấp của tạp chí Ngân hàng tháng 12/1998
Báo cáo tài chính và kết quả hoạt động SXKD Công ty đầu tư xây dựng công trình năm 1998,1999.
Đề tài “ Vai trò tín dụng ngân hàng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt nam” - Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng - tháng 10 năm 1999.
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1-9-1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0205.doc