LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đồng thời từng bước tham gia hội nhập với nền kinh tế toàn cầu hóa thì ngoài việc tập trung phát triển các ngành sản xuất trong nước nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh tích lũy nội bộ nền kinh tế, việc mở rộng sản xuất, giao lưu kinh tế với bên ngoài cũng góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế của nước t
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp phát triển thị trường Nhập khẩu của Công ty Cổ phần vật tư nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nền kinh tế thị trường mở tạo ra nhiêu thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn cho các ngành nghề sản xuất trong nước, và trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay thì hoạt động xuất nhập khẩu luôn là một phần không thể thiếu trong các hoạt động giao lưu với các nước trên thế giới.
XNK là hoạt động giao lưu buôn bán với các nước mà trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải áp dụng. Hoạt động xuất khẩu mang lại cho đất nước một lượng ngoại tệ rất lớn, tuy nhiên bên cạnh đó thì hoạt động nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng không kém. Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động luôn tồn tại song hành, có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau, hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ nhằm phục vụ cho các hoạt động nhập khẩu, còn hoạt động nhập khẩu cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh của các nước và bổ sung những mặt hàng trong nước chưa thể sản xuất được, góp phần tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc xây dựng đất nước mà trọng tâm là công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trong đó công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nông nghiệp nông thôn đặc biệt được chú trọng. Hiện nay nông nghiệp nước ta vẫn là một ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế nông thôn chiếm 80% dân số và trên 77% lực lượng lao động toàn xã hội. Mục tiêu của chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là đảm bảo an toàn lương thực trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả. Để đạt được điều đó cần phải có vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại để hiện đại hóa nền nông nghiệp. Hiện đại hóa trong nền sản xuất nông nghiệp cần kết hợp áp dụng các loại giống tốt, phân bón thích hợp và những kỹ thuật tiên tiến tạo ra năng suất chật lượng cao hơn. Như vậy sự tham gia của phân bón hóa học vào sản xuất nông nghiệp đã là một yếu tố quan trọng không thể thiếu.
Công ty cổ phần vật tư nông sản là một trong những đơn vị tham gia kinh doanh nhập khẩu phân bón. Phát triển thị trường nhập khẩu và đa dạng hóa các mặt hàng kinh doanh luôn là vấn đề được Công ty quan tâm phát triển, tuy nhiên với đặc điểm cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường hiện nay thì việc kinh doanh nhập khẩu phân bón của Công ty vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy trên cơ sở những kiến thức đã học được trong đợt thực tập này, em xin chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển thị trường nhập khẩu của Công ty cổ phần vật tư nông sản” để có thể bổ xung thêm kiến thức thực tế cho mình đồng thời đề xuất một số biện pháp phát triển thị trường nhập khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần vật tư nông sản.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Lý luận chung về phát triển thị trường nhập khẩu của doanh nghiệp.
Chương II. Thực trạng phát triển thị trường nhập khẩu của Công ty cổ phần vật tư nông sản.
Chương III. Định hướng và một số biện pháp phát triển thị trường nhập khẩu của Công ty cổ phần vật tư nông sản trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của nhập khẩu hàng hóa ở nước ta
1.1.1.1. Sự cần thiết
Đã có lúc nước ta xem xét vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể đặt ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọng như vậy. Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Hơn nữa lịch sử thế giới đã chứng minh không có một quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cung tự cấp. Ngược lại những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đề là những nước biết phát huy vai trò của kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. Điều này lại càng không thể phù hợp với Việt Nam, bởi đặc diểm của nền sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất chỉ để tiêu dùng trong nước không có xuất khẩu và như vậy cũng không có hoạt động nhập khẩu từ bên ngoài.
Chính sách tự cung tự cấp đó không thể tồn tại lâu dài do những lý do sau:
- Những điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước giờ ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau và tích cực tham gia hơn vào các quá trình liên kết và hợp tác kinh tế quốc tế thì một chính sách biệt lập đóng của là không phù hợp.
- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh và trở thành nhân tố quyết định phát triển của sản xuất. Trong khi đó chính sách đóng cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chỉ dựa trên sản xuất nhỏ là phổ biến không có được sự bổ xung và tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến. Chính vì vậy dẫn đến kết quả tất yếu là năng suất lao động thấp hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp.
- Trong điều kiện hiện nay không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế trong nước một cách có hiệu quả bằng chính sách đóng cửa sản xuất. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc chỉ dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của các nước khác tiên tiến hơn để phát triển. Nền kinh tế mở cửa sẽ tạo ra cơ hội phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
- Hầu hết các nước nghèo, lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn. Trong khi đó quá trình phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải nhập khẩu một lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp do đó chính sách mở cửa sẽ tạo ra một nguồn cung cấp các sản phẩm này cho hoạt động sản xuất trong nước có chất lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn so với việc tự sản xuất trong nước kéo theo việc sản phẩm cuối cùng được sản xuất ra sẽ đáp ứng được nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu ra bên ngoài.
Chính từ những hạn chế của chính sách đóng cửa trên và xuất phát từ một nền kinh tế đang phát triển như nước ta, Đảng và nhà nước ta coi hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu hàng hóa nói riêng là một chính sách có vai trò rất quan trọng nhằm phục vụ cho quá trình của nền kinh tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa trong nước phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển nhập khẩu hàng hóa vừa phục vụ cho tiêu dùng vừa phục vụ cho các ngành sản xuất trong nước ngày càng có hiệu quả hơn.
1.1.1.2. Ý nghĩa
Từ những đòi hỏi thực tế của nền kinh tế cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trong đó nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Trước hết nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia, cho phép quốc gia đó tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn mức sản xuất. Nhập khẩu không những để bổ xung các hàng hóa trong nước không thể sản xuất được hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu mà nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất trong nước không hiệu quả bằng nhập khẩu. Hai mặt hàng nhập khẩu bổ xung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực đến việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Nhập khẩu sẽ làm đa dạng hóa mẫu mã quy cách các loại hàng hóa. Mỗi quốc gia dù to lớn như Mỹ hay đông dân như Trung Quốc cũng không thể tự mình sản xuất được tất cả các loại hàng hóa mà thế giới có thể sản xuất được trong khi nhu cầu của nhân dân lại cực kỳ đa dạng, vì vậy nhờ có nhập khẩu mà nhu cầu này sẽ được đáp ứng. Vai trò của nhập khẩu giải thích vì sao Mỹ sản xuất được ô tô mà vẫn phải nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản, Hàn Quốc và ngược lại, đơn giản chỉ vì chủng loại, mẫu mã sản phẩm của các nước này khác nhau.
Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Hàng hóa bên ngoài xâm nhập vào thị trường nội địa phá vỡ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng và chế độ tự cung tự cấp không còn tồn tại nữa. Do sự cạnh tranh giữa những nhà sản xuất trong nước và nước ngoài đã tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các nhà sản xuất trên thị trường.
Nhập khẩu tạo ra sự cạnh chuyển giao công nghệ. Vai trò này cực kỳ quan trọng đối với các nước có trình độ kỹ thuật công nghệ chưa phát triển như nước ta. Chúng ta có thể nhập khẩu hàng hóa nhưng cũng có thể nhập khẩu công nghệ vào đất nước. Vốn và công nghệ là hai yếu tố mà bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải có. Thông qua con đường nhập khẩu sẽ có được những công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà các nước khác nếu nghiên cứu cũng phải mất nhiều năm mới có được.
Nhập khẩu còn là cầu nối thông suốt nền kinh tế thị trường trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hóa. Cùng với xuất khẩu, nhập khẩu cũng giúp cho nền kinh tế thế giới thành một thể thống nhất.
Nhập khẩu hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong điều kiện nước ta hiện nay tác động của nhập khẩu còn được thể hiện ở các khía cạnh sau :
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- Bổ xung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân về hàng tiêu dùng,vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu vừa tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hóa ra thị trường thế giới.
1.1.2. Khái niệm và phân loại thị trường nhập khẩu hàng hóa ở nước ta
1.1.2.1. Khái niệm
Cùng với sự phát triển của các hoạt động ngoại thương cũng đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về thị trường nhập khẩu với nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Theo quan điểm hiện đại thì thị trường nhập khẩu là quá trình mà người mua và người bán ở những nước khác nhau tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa mua bán hay thị trường nhập khẩu là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ, tổng thể các mối quan hệ giao dịch mua bán và dịch vụ diễn ra giữa chủ thể quốc gia này với chủ thể ở một quốc gia khác. Theo quan điểm hiện đại cũng có thể nói thị trường nhập khẩu là tập hợp các khách hàng nước ngoài có nhu cầu, có khả năng thanh toán nhưng chưa được thỏa mãn và đang sẵn sang chờ đợi được thỏa mãn nhu cầu của mình. Như vậy theo quan điểm hiện đại thì thị trường nhập khẩu không cần thiết phải xuất hiện cùng một lúc cả ba yếu tố người mua, người bán và hàng hóa, người sản xuất nước không cần biết người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng của mình là ai, ở đâu và người tiêu dùng cũng không cần giao dịch trực tiếp với người sản xuất mà có thể thông qua trung gian. Đây có thể nói là một quan điểm được nhiều người chấp nhận nhất vì nó phù hợp với trình độ sản xuất kinh doanh của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
1.1.2.2. Phân loại
1.1.2.2.1. Theo địa lý
Thị trường khu vực ( Châu Á, châu Âu, châu Mỹ….).
Thị trường quốc gia và lãnh thổ ( như thị trường Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc….).
1.1.2.2.2. Theo tầm quan trọng của thị trường
Thị trường trọng điểm.
Thị trường thứ yếu.
1.1.2.2.3. Theo trình độ phát triển
Thị trường công nghệ nguồn.
Thị trường trung gian.
Thị trường thứ cấp.
1.1.2.2.4. Theo mức độ khai thác
Thị trường hiện hữu.
Thị trường tiềm năng.
1.1.2.2.5. Theo mức độ kiểm soát
Thị trường hạn ngạch.
Thị trường phi hạn ngạch.
1.1.3. Vai trò của thị trường nhập khẩu hàng hóa đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động ngoại thương chịu tác động rất lớn của sự bùng nổ thông tin và khoa học kỹ thuật, đồng thời hoạt động trong cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, xu hướng vận động và tác động của nó đến toàn bộ quá trình của hoạt động nhập khẩu, Bên cạnh đó là vấn đề nghiên cứu, tìm kiếm các thị trường nhập khẩu mới luôn được các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu chú ý.
Đi cùng với việc tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu thì hoạt động nhập khẩu luôn được các doanh nghiệp kết hợp nhằm tăng hiệu quả kinh doanh của mình. Để hoạt động nhập khẩu hang hóa của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao đòi hỏi các doanh nghiệp trước khi nhập khẩu một mặt hàng nào đó tại một thị trường nước ngoài cần phải tìm hiểu kỹ đặc điểm của mặt hàng và đặc điểm của thị trường đó, điều này các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần xem xét đến các thông tin ở đơn đặt hàng mà các nhà cung cấp chào mời, mà các doanh nghiệp còn phải nghiên cứu thực tế tại các thị trường đó, sự biến động về giá cả, điều kiện thanh toán….và dự báo được các thông tin đó trong tương lai nhằm đưa ra được một chiến lược kinh doanh nhập khẩu có lợi nhất cho doanh nghiệp.
Do vậy đối vói các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vai trò của việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Sự cần thiết phải phát triển thị trường nhập khẩu của doanh nghiệp
Đất nước chuyển sang nền kinh tế mở, các doanh nghiệp không còn được nhà nước bao cấp và tìm kiếm thị trường cho nữa, giờ đây các doanh nghiệp có quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh của mình dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh, tự tìm đầu vào cho mình và tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm được sản xuất ra, kinh doanh trong tình hình mới không ít doanh nghiệp đã gặp phải khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn hàng kinh doanh và làm quen với những phương thức kinh doanh mới, tình trạng tồn đọng sản phẩm hàng hóa khi nhập khẩu từ nước ngoài về xảy ra thường xuyên do không kịp thích ứng với tình hình mới và hàng hóa nhập về từ các thị trường cũ không có khả năng cạnh tranh vì chất lượng kém, giá bán cao và đơn điệu về chủng loại. Do vậy trong thời đại mà thị trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như hiện nay để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần phải không ngừng củng cố và phát triển thị trường, tìm mọi cách đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường, đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh, đa phương hóa các mối quan hệ mua bán với các thị trường bên ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế trong nước và thế giới luôn có nhiều biến động như hiện nay, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ, thêm vào đó, ở tầm vĩ mô nhà nước ngày càng mở rộng quyền tự do kinh doanh cho tất cả các cá thể đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các hiệp định thương mại giữa các chính phủ ngày càng được quan tâm hơn do đó trên một thị trường sẽ có nhiều hàng hóa cạnh tranh với nhau hơn cả về chủng loại và nguồn gốc xuất xứ của chúng. Đi cùng với sự phát triển đó hệ thống phân tích, dự báo thị trường và các thông tin về sản phẩm mới ngày càng chính xác và kịp thời hơn, tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển ổn định thì các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát triển thị trường của mình, phải dự đoán được sự biến động của thị trường thế giới và nhu cầu của thị trường trong nước từ đưa ra các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Khi các được thông tin đầy đủ về thị trường nhập khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu từ những thị trường thích hợp nhât sẽ là điều kiện đầu tiên quyết định sản phẩm nhập về được tiêu thụ dễ dàng hơn, khi các sản doanh nghiệp được nhiều người tiêu dùng lựa chọn thì uy tín của các sản phẩm cũng như của doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng và điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển ổn định.
1.2.2. Nội dung của hoạt động phát triển thị trường nhập khẩu
1.2.2.1. Nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của thụ trường quốc tế
1.2.2.1.1. Nghiên cứu thị trường quốc tế
Thị trường không phải lúc nào cũng ổn định vì nó luôn chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Do thị trường luôn biến động nên nó tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự biến động của thị trường có thể tạo ra các cơ hội cho doanh nghiệp nhưng cũng có thể tạo ra những trở ngại, cạm bẫy cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy, để có thể tận dụng một các tốt nhất các cơ hội mà thị trường đem lại và hạn chế thấp nhất các rủi ro cho sự phát triển của mình thì các doanh nghiệp phải thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường của mình.
Khi doanh nghiệp muốn tìm kiếm một thị trường nước ngoài nào đó thì hoạt động nghiên cứu thị trường càng trở nên quan trọng hơn vì các nhân tố tác động tới thị trường đó rất đa dạng và phức tạo do vậy mức độ biến động thị trường là rất cao.
Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định và thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các chính sách thị trường. Hoạt động nghiên cứu thị trường trở nên đặc biệt quan trọng khi doanh nghiệp đang muốn tìm kiếm những thị trường mới.
1.2.2.1.2. Dự đoán xu hướng biến động của thị trường
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phân tích số liệu và dự báo thị trường nước ngoài. Dự báo thị trường nước ngoài có tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong việc hoạch định các chiến lược, chính sách trong tương lai trong đó có chiến lược phát triển thị trường của các doanh nghiệp. Để có được hình ảnh đầy đủ về thị trường tương lai của doanh nghiệp thì lí tưởng nhất là có thể dự báo mọi khía cạnh của thị trường, từ các đặc trưng khai quát đến các đặc điểm chi tiết của nó. Tuy nhiên trong thực tế khó có thể dự báo được chính xác động thái của thị trường do đó các doanh nghiệp chỉ nên tập trung dự báo những đặc trưng quan trọng nhất của thị trường như tổng mức cung của thị trường, quy mô của các nhà máy tại thị trường đó, cơ cấu sản phẩm bán ra trên thị trường. Về thời hạn dự báo cũng cần xem xét kỹ lưỡng. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới và thị trường thế giới đang có những biến động lớn thì các dự báo ngắn hạn có nhiều khả năng thực hiện hơn song điều đó không có nghĩa là xem nhẹ các dự báo trung và dài hạn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp chuẩn bị thâm nhập vào thị trường thị trường mới hay các lĩnh vực hoạt động mới. Đối với các doanh nghịêp này thì vấn đề quan trọng hàng đầu lại không phải là những lợi ích trước mắt mà chính là triển vọng lâu dài về thị trường mà họ quan tâm. Trong việc hoạch định các chính sách phát triển thị trường các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp dự báo khác nhau, mỗi phương pháp đề có những ưu điểm và hạn chế riêng.
Phương pháp chuyên gia: đây là phương pháp định tính để dự báo thị trường trên cơ sở trưng cầu ý kiến của một tập thể chuyên gia và xứ lý kết quả trưng cầu ý kiến theo nguyên lý hộ tụ độ đặc đám đông các ý kiến đánh giá cá thể dưới dạng các tham số làm ý kiến đại diện cho cả tập thể chuyên gia.
Phương pháp thống kê và toán kinh tế: đây là phương pháp dự báo xu hướng biến động của thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê và toán kinh tế để phân tích các số liệu, các nhân tố tác động tới thị trường trong thời gian qua từ đó tìm ra được sự phát triển của thị trường trong tương lai.
Phương pháp ngoại suy: dựa vào sự biến động của thị trường trong quá khứ hay hay các biến động chu kỳ của thị trường đó từ đó có thể thấy được xu hướng biến động của thị trường trong tương lai, Có thể nói, dự báo là khâu không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó là tiền đề của kế hoạch hóa hoạt động kinh doanh, lập ra các chiến lược kinh doanh, phát triển thị trường trong tương lai của mỗi doanh nghiệp.
1.2.2.2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường
1.2.2.2.1. Các chiến lược phát triển thị trường nước ngoài
Có hai chiến lược khác nhau trong việc phát triển thị trường nước ngoài là chiến lược tập trung và chiến lược phân tán.
- Chiến lược tập trung: có ưu điểm cơ bản là chỉ thâm nhập sâu vào một số ít thị trường nên dễ tập trung được các nguồn lực của doanh nghiệp, việc chuyên môn hóa trong các nghiệp vụ kinh doanh và sản phẩm cần tìm kiếm sẽ đạt được mức độ cao hơn. Mặt khác do tập trung được nguồn lực của doanh nghiệp nên sẽ tạo được ưu thế trội hơn tại các thị trường đó. Tuy nhiên chiến lược này có nhược điểm cơ bản là chỉ hoạt động trên một số ít thị trường nên tính linh hoạt trong kinh doanh bị hạn chế, các rủi ro tăng lên và khó đối phó khi có những biến động của thị trường.
- Chiến lược phân tán: được đặc trưng bằng việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cùng một lúc sang nhiều thị trường khác nhau. Chiến lược này có ưu điểm chính là tính linh hoạt trong kinh doanh cao hơn, hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh song do hoạt động kinh doanh bị dàn trải nên khó thâm nhập sâu hơn vào hoạt động thị trường và hoạt động quản lý cũng phực tạp hơn, chi phí thâm nhập thị trường cũng lớn hơn.
Xem xét trên thị trường cụ thể, các ưu điểm và hạn chế của hai chiến lược trên cũng thể hiện khác nhau. Chẳng hạn về chủng loại sản phẩm, việc mở rộng kinh doanh nhiều chủng loại sản phẩm hơn tại nhiều thị trường hơn cho phép doanh nghiệp có nhiều khả năng lựa chọn mặt hàng kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao hơn và có khả năng mua được những mặt hàng, loại sản phẩm thích hợp hơn với sự biến động tại thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp hay nói cách khác đầu vào của doanh nghiệp sẽ luôn theo kịp với những đòi hỏi của đầu ra luôn bị biến động trên thị trường.
Ngược lại việc lựa chọn có mục đích một số ít thị trường để phát triển chiều sâu lại tạo ra sự phân chia thị trường cao hơn, tạo nên vị trí cạnh tranh vững chắc hơn cho doanh nghiệp.
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về việc lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp. Nói chung rất khó có thể lựa chọn dứt khoát một trong hai chiến lược vì sự ảnh hưởng của các nhân tố theo những hướng khác nhau khiến cho doanh nghiệp rất khó trong việc lựa chọn chiến lược nào. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có được những phân tích cơ sở để đánh giá những cơ hội phát triển thị trường thì chúng sẽ tạo ra được một bức tranh toàn cảnh giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của mình phù hợp với chiến lược nào.
1.2.2.2.2. Các hình thức thâm nhập vào thị trường nước ngoài
Việc lựa chọn phương thức tìm kiếm thị trường nước ngoài được thực hiện trên cơ sở của hoạt động nghiên cứu, đánh giá thị trường và khả năng của các doanh nghiệp. Kết quả phân tích đánh giá sẽ cho phép các doanh nghiệp xác định những cơ hội kinh doanh, những mối đe dọa đối với doanh nghiệp, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp khi thực hiện các hình thức kinh doanh cụ thể ở từng thị trường lựa chọn.
Có thể đưa ra một số phương thức thâm nhập và tìm kiếm thị trường mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thường áp dụng sau :
- Nhập khẩu: Đây là phương thức đơn giản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Nhập khẩu có thể thực hiện dưới hai hình thức:
+ Nhập khẩu trực tiếp: trong hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch với các nhà sản xuất kinh doanh nhập khẩu ở nước ngoài để nhập khẩu những mặt hàng phù hợp.
+ Nhập khẩu gián tiếp: doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập ngay tại nước mình để tiến hành nhập khẩu các mặt hàng mà mình yêu cầu.
- Đầu tư trực tiếp:
Phương thức mở rộng hoạt động cao hơn của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là đầu tư trực tiếp để xây dựng các xí nghiệp đặt tại các nước đó hoặc liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để sản xuất ngay tại nước mình.
1.2.2.3. Triển khai chiến lược, kế hoạch thâm nhập và phát triển thị trường
Việc thâm nhập và mở rộng thị trường nước ngoài có thể được lựa chọn một trong hai cách tiếp cận khác nhau là cách tiếp cận thụ động và cách tiếp cận chủ động.
Cách tiếp cận thụ động là việc doanh nghiệp phản ứng lại các yêu cầu của thị trường nước ngoài không theo một kế hoạch định trước. Doanh nghiệp chỉ xem xét thực hiện các đơn đặt hàng của mình một khi được các nhà sản xuất nước ngoài đề nghị. Lựa chọn thị trường theo cách này không mang tính hệ thống và định hướng rõ rang do đó làm cho hoạt động của doanh nghiệp ít nhiều mang tính rời rạc.
Tuy nhiên để có thể hoạt động kinh doanh một cách vững chắc trên thị trường quốc tế thì các doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận thị trường quốc tế trong việc lựa chọn thị trường và cách thức thâm nhập vào thị trường đó.
Trong khi sử dụng cách tiếp cận chủ động để phát triển thị trường nước ngoài của doanh nghiệp, dù theo đuổi chiến lược tập trung phân tán thì doanh nghiệp cũng phải đạt được mụa đích, lựa chọn ra những thị trường có triển vọng nhất để tiến hành thâm nhập vào đó.
Việc lựa chọn thị trường mới để thâm nhập được tiến hành sau khi doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài và quá trình đánh giá khả năng của doanh nghiệp. Thực chất của việc đánh giá và phân tích khả năng của doanh nghiệp là xác định lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp ở từng thị trường, những cơ hội, mục tiêu và kết quả của doanh nghiệp có thể đạt được.
Sau khi nghiên cứu thị trường và đánh giá khả năng của mình thì doanh nghiệp tiến hành so sánh và lựa chọn để tìm ra một hoặc một số thị trường hấp dẫn nhất đối với doanh nghiệp. Việc so sánh và lựa chọn thị trường được tiến hành qua nhiều phương pháp như:
- Phương pháp lưới:
Đây là một phương pháp quan trọng thường được sử dụng trong so sánh và lựa chọn các thị trường của một công ty. Phương pháp lưới cho phép xác định những điều kiện có thể chấp nhận được hoặc không thể chấp nhận được của một công ty tại thị trường nhất định. Theo phương pháp này, các thị trường được sắp xếp theo giá trị của một số chỉ tiêu chủ yếu thay đổi theo từng sản phẩm, theo mỗi công ty, phụ thuộc vào tình hình bên ngoài và mục đích kinh doanh của công ty.
- Ma trận sức hấp dẫn quốc gia - sức mạnh công ty:
Phương pháp này cho phép nêu bất sự phù hợp về những thế mạnh của công ty đối với một quốc gia nào đó dựa trên một số chỉ tiêu để đánh giá như: quy mô thị trường, sự tăng trưởng của thị trường, vấn đề điều hành giá cả, yêu cầu xuất nhập khẩu, lạm phát cán cân thương mại, sự ổn định về chính trị.
Sức hấp dẫn
của quốc gia
B1
C1
A2
B2
C2
A3
B3
C3
Sức mạnh của công ty ở quốc gia đó
Theo phương pháp này, những thị trường xuất hiện ở gần góc C1 là những thị trường được chú ý lựa chọn và ngược lại, những thị trường xuất hiện ở góc A3 là các thị trường nên loại trừ.
- Ma trận cơ hội rủi ro:
Với ma trận cơ hội rủi ro một công ty có thể đánh giá được từng quốc gia, quy mô hoạt động ở từng quốc gia và có thể dự đoán sự vận động của các hoạt động đó trong tương lai. Theo phương pháp này, một công ty sẽ lựa chọn các quốc gia có cơ hội lớn nhất và rủi ro ít nhất cho hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.2.4. Đánh giá khả năng và thực tế phát triển thị trường
Kết quả phân tích đánh giá sẽ cho phép các doanh nghiệp xác định những cơ hội kinh doanh, những mối đe dọa đối với doanh nghiệp, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp khi thực hiện các hình thức kinh doanh cụ thể ở từng thị trường lựa chọn.
Dưới đây là một số phương thức thâm nhập và tìm kiếm thị trường và đặc điểm của từng phương pháp mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể lựa chọn dựa trên khả năng và thực tế phát triển thị trường của mình:
- Nhập khẩu: Đây là phương thức đơn giản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp thường bị động trong hoạt động nhập khẩu, chỉ chờ đợi các nhà sản xuất nước ngoài đến chào hàng.
Muốn hoạt động nhập khẩu được đẩy mạnh thì các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn hàng từ nhiều thị trường khác nhau. Hoạt động nhập khẩu có nhiều thuận lợi cho các Công ty nhỏ ở các nước đang phát triển vì chi phí cho hoạt động này thường rất nhỏ và với xu thế quốc tế hóa các hoạt động kinh doanh thì việc tham gia buôn bán với các doanh nghiệp nước ngoài cũng trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên hình thức này cũng sẽ gặp phải một số cản trở khi thâm nhập vào các thị trường có nhiều rào chắn phi thuế quan như vấn đề thanh toán giữa hai quốc gia chưa được ký kết, cơ chế giải quyết tranh chấp, các thủ tục hải quan chưa thông qua….
Nhập khẩu có thể thực hiện dưới hai hình thức:
+ Nhập khẩu trực tiếp: trong hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch với các nhà sản xuất kinh doanh nhập khẩu ở nước ngoài để nhập khẩu những mặt hàng phù hợp. Hình thức này tuy có làm tăng rủi ro trong kinh doanh song cũng có một số ưu điểm hơn so với hình thức nhập khẩu gián tiếp do mức độ chủ động trong việc tham gia đàm phán và giảm bớt các chi phí trung gian, doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và thường xuyên với các nhà sản xuất và kinh doanh nước ngoài,
+ Nhập khẩu gián tiếp: doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập ngay tại nước mình để tiến hành nhập khẩu các mặt hàng mà mình yêu cầu.
- Đầu tư trực tiếp: Phương thức mở rộng hoạt động cao hơn của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là đầu tư trực tiếp để xây dựng các xí nghiệp đặt tại các nước đó hoặc liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để sản xuất ngay tại nước mình. Thực hiện hoạt động phát triển thị trường nước ngoài bằng đầu ư trực tiếp sẽ đem lại cho các doanh nghiệp những thuận lợi lớn so với hình thức nhập khẩu như:
+ Vượt qua được các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của nước đó.
+ Tận dụng được các ưu đãi đầu tư đặc biệt của các nước đang phát triển.
+ Tận dụng được những lợi thế của d._.oanh nghiệp và huy động được các nguồn vốn nước ngoài cùng tham gia vào sản xuất.
+ Tạo ra một nguồn cung cấp sản phẩm luôn luôn ổn định cho hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.
+ Tạo thêm việc làm và làm tăng thu nhập cho người lao động trong công ty.
+ Thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền sở tại, khách hàng, nhà cung cấp.
+ Kiểm soát được hoàn toàn hoạt động đầu tư và kinh doanh do đó có thể triển khai những chính sách phát triển của doanh nghiệp một cách thuận lợi và lâu dài, tuy nhiên phương thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động nhập khẩu và đầu tư, dung lượng thị trường trong nước phải đủ lớn, vì vậy nó thường được thực hiện giữa các nước phát triển tới các nước đang phát triển.
Hiện nay, với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài chủ yếu được thực hiện dưới hình thức nhập khẩu vì đây là hình thức đơn giản, ít tốn kém và phù hợp với các doanh nghiệp chưa có vị thế và kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường thế giới. Một số ít các doanh nghiệp tham gia liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để sản xuất các mặt hàng trước đây phải nhập khẩu ngay tại trong nước nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của thị trường nội địa.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HÓA HỌC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.3.1. Đặc điểm của thị trường nhập khẩu phân bón
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống về nông nghiệp, chính vì vậy phân bón hóa học là một phần không thể thiếu trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nước ta. Hàng năm thế giới sản xuất khoảng 80 triệu tấn phân hóa học thì Việt Nam cần khoảng từ 1,5 triệu đến 2 triệu tấn phân đạm tiêu chuẩn, con số này cho thấy vai trò to lớn của phân hóa học trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta. Với điều kiện nước ta có thể nói 4 mùa đều có thể gieo trồng và canh tác nên cần một lương phân bón cung cấp thường xuyên cho từng mùa vụ. Hơn nữa do nền công nghiệp hóa chất của nước ta chưa phát triển nên phần lớn phải nhập khẩu từ các nước trên thế giới, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phân hóa học. Trong những năm gần đây nhận thấy tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp nên Nhà nước đã xóa bỏ cơ chế hạn ngạch, hạn chế lượng phân bón nhập vào Việt Nam hang năm, qua đó cho phép tất cả doanh nghiệp đều có thể tham gia vào kinh doanh nhập khẩu mặt hàng này.
Trong thời gian tới, nhu cầu về phân bón hóa học trong nước vẫn tăng do Việt Nam vẫn còn quỹ đất để đưa vào sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đã làm cho trình độ thâm canh của sản xuất không ngừng tăng lên, do vậy nhu cầu phân bón vì thế cũng tăng theo. Các loại phân hóa học phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như URE, Super tuy trong nước đã có những nhà máy sản xuất nhưng số lượng còn hạn chế, không đủ cung ứng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước, phần lớn vẫn phải nhập khẩu, các loại phân khác như KCl, SA, DAP cũng phải nhập khẩu do số lượng sản xuất không đáng kể. Phân bón nhập khẩu sẽ theo xu hướng là tăng về chất lượng và giảm về giá cả. Giá cả của thị trường phân bón do tinh chất thời vụ nên sẽ tiếp tục biến động theo mùa vụ.
Có thể khái quát xu hướng biến động của thị trường phân bón là : thị trường sẽ tăng mạnh về nguồn cung để đáp ứng được nhu cầu trong nước và giá cả sẽ được binh ổn do có sự điều tiết của Nhà nước.
Trong thời gian gần đây, giá phân bón thế giới tăng liên tục, kéo giá trong nước tăng theo, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống người nông dân, nhất là trong khi giá các mặt hàng nông sản chưa có dấu hiệu tăng. Tính từ đầu năm đến nay, giá phân urê đã tăng thêm 500- 700 đ/kg. Chỉ trong vài ngày nay, giá bán lẻ urê ở miền Bắc và miền Trung đã vượt ngưỡng 6.000 đồng/kg. Ở phía Nam, giá phân bón tăng mạnh hơn; một số vùng đã tăng hơn 25% cách đây 1 tuần. Dự kiến vào tháng 6 khi vào vụ hè thu, thị trường phân bón sẽ còn nhiều biến động khó lường. Nguyên nhân chính khiến giá phân bón tăng là do giá gas tại các thị trường sản xuất phân bón lớn như vịnh Ảrập, Nga, Belarus, Ucraina đều tăng. Hơn nữa, tình hình căng thẳng ở Trung Đông do quan hệ của Iran với Mỹ và các nước phương Tây. Nếu chiến tranh xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thị trường thế giới. Đặc biệt, những thay đổi chính sách XNK của Trung Quốc đã tác động mạnh tới thị trường thế giới. Năm 2004, Trung Quốc XK 3,9 triệu tấn urê nhưng năm 2006 chỉ xuất 1,9 triệu tấn. Ngoài ra, do nhu cầu phân urê của một số nước như Iran, Ấn Độ… tăng cũng tác động tới giá phân urê. Trong 15 ngày đầu tháng 3/2007, giá phân urê thế giới tăng thêm 5-15 USD/tấn, tại thị trường Yuzhnny là 328- 330 USD/tấn FOB, tại biển Ban Tích: 315- 320 USD/tấn, thị trường Trung Đông: 330- 335 USD/tấn. Thông tin từ Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT): Nhu cầu phân bón cả nước trong năm 2007 khoảng 1,8 triệu tấn. Riêng vụ hè- thu sắp tới, cả nước cần khoảng 420.000 tấn, trong đó miền Bắc là 40.000 tấn, miền Trung 80.000 tấn, Nam bộ cần 300.000 tấn. Cân đối cung cầu tạm đủ, chỉ cần nhập thêm rất ít. Tuy khối lượng nhập thêm không nhiều, nhưng đáng lo ngại là giá NK mấy ngày gần đây từ Nga và các nước Trung Đông tăng khá cao (khoảng 360 USD/tấn, tương đương 6.400 đồng/kg), nên DN nhập về rất khó bán, khó có lợi nhuận. Vì thế, trong thời gian này, nhiều DN chỉ nhập số lượng rất ít để theo dõi diễn biến của thị trường. Trong khi đó, các nhà máy sản xuất phân bón trong nước chỉ mới đáp ứng được 50% nhu cầu trong nước, còn lại phải nhập khẩu.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường nhập khẩu phân bón của doanh nghiệp
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về thị trường thế giới
Đặc điểm tổng quát của thị trường mục tiêu là điều chính yếu cần xem xét khi xây dựng cách thức thâm nhập vì môi trường cạnh tranh kinh tế-xã hội, chính trị, luật pháp ở các nước thường không giống nhau.
1.3.2.1.1. Ảnh hưởng của giá cả
Thị trường phân bón là một thị trường luôn biến động, giá cả liên tục thay đổi và dao động với biên độ mạnh trong những năm gần đây. Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phân bón trong cả nước, nhất là trong thời gian gần đây, giá phân bón thế giới tăng liên tục do nhiều nguyên nhân khác nhau, kéo giá trong nước tăng theo, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống người nông dân, nhất là trong khi giá các mặt hàng nông sản chưa có dấu hiệu tăng.
1.3.2.1.2. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp
Sự biến động của môi trường kinh doanh nước ngoài, sự thay đổi của truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chính trị xã hội, cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin….cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu phân bón của doanh nghiệp. Tác động của sự phát triển công nghệ trên thế giới làm đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, cũng tạo ra các phương tiện hiện đại trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, sản xuất chế tạo….Đây là nhân tố khách quan mà bản thân doanh nghiệp phải nhận thức để thực hiện hoạt động nhập khẩu cũng như kinh doanh phân bón có hiệu quả.
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp nhập khẩu
1.3.2.2.1 .Nhân tố nguồn nhân lực
Đây là nhân tố đóng vai trò quyết định trong kinh doanh nhất là kinh doanh nhất là kinh doanh thương mại. Trình độ năng lực của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của một doanh nghiệp bao gồm:
Ban giám đốc xí nghiệp.
Các cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp.
Các cán bộ quản lý cấp trung gian.
Đốc công và công nhân.
1.3.2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính
Cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính là những yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói đó là nền tảng quan trọng để thực hiện các hoạt động kinh doanh, đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông thì nhân tố này lại càng đặc biệt quan trọng.
1.3.2.2.3. Các chủ trương chính sách của Nhà nước và chiến lược phát triển kinh doanh hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp
Đây là nhân tố sẽ chi phối và tác động trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nó liên quan trực tiếp đến việc lập kế hoạch kinh doanh, thực hiện và giám sát các hoạt động kinh doanh, do đó cần phải có chủ trương, chính sách phát triển kinh doanh nhập khẩu hợp lý và phù hợp với sự biến đổi của thực tế, góp phần đẩy mạnh hoạt động phát triển thị trường nhập khẩu của doanh nghiệp.
1.3.2.2.4. Các đối thủ cạnh tranh
Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh và tình hình hoạt động kinh doanh của họ đã tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của của doanh nghiệp, đó vừa là động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức đồi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng vươn lên. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần phải xác định rõ số lượng các đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của họ, nghiên cứu chiến lược nhập khẩu của họ, từ đó có những kế hoạch hợp lý. Ngoài ra , sức ép của các nhà cung ứng, của khách hàng và của sản phẩm thay thế cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG SẢN
2.1 .KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG SẢN
2.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần vật tư nông sản
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam, nông nghiệp đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong những năm đầu quá độ đi lên CNXH. Chính vì vậy ngày 1/6/1960 Nhà nước đã thành lập “Cục tư liệu sản xuất nông nghiệp” nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ cho sản phẩm sản xuất ra như nông sản, lúa, ngô, sắn….Cục tư liệu hoạt động trên phạm vi cả nước với một mạng lưới cơ sở rộng khắp từ trung ương đến địa phương. Năm 1968 Cục tư liệu sản xuất đổi tên thành cục vật tư nông nghiệp trực thuộc Bộ nông nghiệp và năm 1972 đổi tên thành Tổng công ty vật tư nông nghiệp và giữ tên đó cho đến nay.
Công ty cổ phần vật tư nông sản xuất phát là một đơn vị thành viên của Tông công ty vật tư nông nghiệp, trước kia có tên la Trạm dịch vụ kỹ thuật Nông nghiệp tổng hợp trực thuộc Tổng công ty vật tư nông nghiệp. Ngày 3/1/1990 theo quyết định của số 46 – HĐBT của Chính phủ quyết định chuyển từ trạm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp thành Xí nghiệp đầu tư và thu hồI nông sản thuộc Tổng công ty.
Đến ngày 15/9/1992, xí nghiệp đầu tư và thu hồi nông sản lại đổi tên thành Công ty đầu tư phát triển Nông nghiệp và đến năm 1997 đổi tên thành công ty cổ phần vật tư nông sản và giữ tên gọi đó đến nay.
Công ty cổ phần Vật tư nông sản là đơn vị thành viên của Tổng công ty Vật tư nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Công ty được thành lập trên cơ sở sát nhập công ty Vật tư - Dịch vụ nông nghiệp vào công ty Vật tư nông sản theo quyết định số 1111 NN-TCCB-QD ngày 31/5/1997 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thi hành Nghị định số 41/CP của Thủ tướng chính phủ về việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra quyết định số 3037 QD/BNN-ĐMDN ngày 03/11/2005 về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước công ty Vật tư nông sản thành công ty cổ phần. Cho đến thời điểm này công ty cổ phần Vật tư nông sản chính thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phẩn do nhà nước chi phối (cổ phần nhà nước chiếm 51% trên tổng vốn Điều lệ).
Mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh của công ty là doanh nghiệp có cơ quan quản lý là Hội đồng quản trị, cơ quan điều hành là ban giám đốc. Công ty là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản nợ trong phạm vi phần vốn do đơn vị quản lý.
Công ty có Điều lệ tổ chức hoạt động, bộ máy quản lý và điều hành, có con dấu riêng và được phép mở tài khoản giao dịch tại các hệ thống ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Công ty cổ phần Vật tư nông sản có những đặc trưng cơ bản dưới đây:
Tên gọi đầy đủ bằng tiêng Việt: Công ty cổ phần Vật tư nông sản.
Tên viết bằng tiếng Anh : AGRICULTURAL PRODUCTS AND MATERIALS JOINT STOCK COMPANY.
- Tên viết tắt APROMACO.
- Vốn điều lệ của Công ty tại thời điềm thành lập Công ty cổ phần Vật tư nông sản là 31.000.000.000 VNĐ ( Nhà nước nắm giữ 51% ).
- Lao động bình quân : 69 người.
- Trụ sở chính: Số 14 Ngô Tất Tố phường Văn Miếu quận Đống Đa thành phố Hà Nội.
- Điện thoại: (04) 8 230 584 - FAX: (04) 8 434 913.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần vật tư nông sản hiện nay
2.1.1.2.1. Cơ cấu tổ chức hoạt động bộ máy của Công ty
Căn cứ Điều lệ của Công ty cổ phần vật tư nông sản, Công ty xây dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống quản lý mà theo đó bộ máy quản lý và điều hành sẽ chịu trách nhiệm và nằm dưới sự lãnh đạo của Hội đồng quản trị. Hệ thông quản lý, bộ máy quản lý và cơ chế quản lý do Giám đốc xây dựng phương án trình Hội đồng quản trị phê duyệt.
Công ty có một Giám đốc điều hành và 2 Phó Giám đốc giúp việc Giám đốc, một kế toán trưởng do Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Giám đốc điều hành hoặc 2 Phó Giám đốc có thể là các thành viên Hội đồng quản trị và do Hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm bằng một nghị quyết được thông qua hợp thức.
Về tổ chức bộ máy quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Vật tư nông sản được phân ra như sau:
- Mô hình tổ chức bộ máy văn phòng Công ty.
- Mô hình các cơ sở sản xuất kinh doanh trực thuộc.
a) Mô hình tổ chức bộ máy cơ quan văn phòng Công ty
Sơ đồ tổ chức bộ máy văn phòng Công ty :
Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Tài chính kế toán
Phòng kế hoạch kinh doanh
Chi nhánh Công ty tại Hồ Chí Minh
Chi nhánh Công ty tại Thái Bình
Cửa hàng Tổng hợp Văn Điển
Cửa hàng Tổng hợp Ngọc Hồi
Cửa hàng Tổng hợp Trường Chinh
Cửa hàng Tổng hợp Cầu Giấy
Xưởng sản xuất bao bì
- Hội đồng quản trị : bao gồm 5 thành viên.
- Ban kiểm soát : bao gồm 3 thành viên.
- Ban giám đốc : gồm có 3 thành viên là Giám đốc điều hành và 2 Phó Giám đốc.
Văn phòng của công ty có 17 người, gồm các phòng chức năng sau:
- Phòng Tổ chức hành chính : bao gồm 8 thành viên.
- Phòng Kế hoạnh kinh doanh : bao gồm 3 thành viên.
- Phòng Kế toán tài vụ : bao gồm 6 thành viên.
b) Các cơ sở sản xuất kinh doanh trực thuộc
- Trạm kinh doanh tổng hợp Văn Điển ( Thanh Trì, Hà Nội ).
- Trạm kinh doanh tổng hợp Ngọc Hồi ( Thanh Trì, Hà Nội ).
- Cửa hàng kinh doanh tộng hợp Cầu Giấy ( quận Cầu Giấy, Hà Nội ).
- Cửa hàng kinh doanh tổng hợp Phương Liệt (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội )
- Xưởng sản xuất bao bì ( Thanh Trì, Hà Nội ).
- Kho số 1 Văn Điển ( Thanh Trì, Hà Nội ).
- Chi nhánh công ty tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Chi nhánh công ty tại thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Chi nhánh công ty tại thị xã Thái Bình, tỉnh Thái Bình
2.1.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận
a) Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý toàn bộ hoạt động của công ty, gồm 5 người, chịu trách nhiệm vể sự phát triển của công ty theo nhiệm vụ được giao. Hội đồng quản trị là cơ quan có đầy đủ quyền hạn để thực hiện tất cả các quyền nhân danh Công ty trừ những thẩm quyền thuộc về Đại hội cổ đông.
Hội đồng quản trị có trách nhiệm chỉ đạo, giám sát Giám đốc điều hành và những người quản lý khác trong quá trình họ thực hiện nhiệm vụ và các nghị quyết của Hội đồng quản trị.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị do pháp luật, Điều lệ, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông và các Quy chế nội bộ của Công ty quy định cụ thể .
Thành viên Hội đồng quản trị gồm 05 người, mỗi thành viên Hội đồng quản trị có nhiệm kỳ tối đa không quá 05 năm và có thể được bầu lại tại Đại hội đồng cổ đông tiếp theo.
b) Ban kiểm soát
Ban kiểm soát là công cụ giúp việc của Hội đồng quản trị gồm 3 người, tư vấn cho Hội đồng quản trị trong lĩnh vực hoạt động SXKD. Ban kiểm soát của Công ty có tốI đa 3 thành viên theo quy định của Điều lệ Công ty. Ban Kiểm soát có những quyền và nhiệm vụ chủ yếu sau :
- Kiểm tra tính hợp lý,hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh,trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính.
- Thẩm định báo cáo tài chính hàng năm của Công ty, kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của Công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội cổ đông.
- Thường xuyên thông báo với Hội đồng quản trị về kết quả hoạt động, tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình các báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội cổ đông.
- Kiểm tra báo cáo tài chính hàng năm, sáu tháng và hàng quý trước khi trình Hội đồng quản trị.
- Xem xét báo cáo của Công ty và các hệ thống kiểm soát nội bộ trước khi Hội đồng quản trị chấp nhận.
c) Ban Giám đốc
Ban Giám đốc Công ty gồm có 1 Giám đốc điều hành và 2 giám đốc giúp việc. Giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Giám đốc điều hành hoặc các Phó Giám đốc có thể là các thành viên Hội đồng quản trị và do Hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm bằng một nghị quyết được thông qua hợp thức.
- Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về điều hành hoạt động của Công ty, thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị, tổ chức và điều hành hoạt động sản xuất thường nhật của Công ty theo phương thức quản lý tốt nhất; quyết định tất cả vấn đề không cần phải có quyết nghị của Hội đồng quản trị và quyết nghị của Đại hội cổ đông trong lĩnh vực điều hành kinh doanh thực hiện theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị.
- Phó Giám đốc là người giúp việc Giám đốc điều hành hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ mà Giám đốc đẫ giao phó.
Các phòng chức năng
*) Phòng Tổ chức hành chính
Gồm 8 người có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu đề xuất hệ thống tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh, bố trí cán bộ phù hợp với từng bộ máy để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ kinh doanh từng thời kỳ.
- Lập quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo và SXKD, lập kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
- Xây dựng kế hoạch tiền lương theo khối lượng SXKD hàng năm, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch lao động tiền lương và thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động trong Công ty theo quy định.
- Quản lý CBCNV trong Công ty,cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các đơn vị trực thuộc Công ty.
- Theo dõi công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật, đồng thời sơ kết và giúp cho lãnh đạo công ty xét duyệt tổng kết đối với các đơn vị và các cá nhân trong Công ty.
- Văn thư, lưu trữ tài liệu, phục vụ yêu cầu hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Quản lý tài sản đang sử dụng, lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa và bổ sung trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh để trình lãnh đạo duyệt.
- Tiếp khách giao dịch đối nội, đồng thời tổ chức hoạt động TDTT, VHVN phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và đời sống cho CBCNV.
- Xây dựng và kiểm tra việc thực hiện các quy chế, nội quy cơ quan để đảm bảo hoạt động nhịp nhàng giữa các bộ phận trong công ty.
*) Phòng Kế hoạch kinh doanh
Gồm 3 người có nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hang năm của Công ty trình Hội đồng quản trị thông qua và phê duyệt.
- Giao kế hoạch sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị trực thuộc Công ty, hướng dẫn tổ chức thực hiện.
- Xác định giá bán sản phẩm do Công ty kinh doanh.
- Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh của Công ty, phương án tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra và phương án thu gom nông sản, hàng hóa khác.
- Thường xuyên cập nhật thông tin, báo cáo nhanh về tình hình XNK vật tư hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm hoăc tồn hàng hóa theo yêu cầu của lãnh đạo công ty.
- Tổng hợp, theo dõi, hướng dẫn và quản lý kinh doanh đầu tư xây dựng của Công ty và công tác XDCB khu vực văn phòng Công ty.
*) Phòng Kế toán tài vụ
Gồm 6 người có những chức năng va nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch tài chính bảo đảm thực hiện kế hoạch SXKD của Công ty hàng năm.
- Tổ chức hạch toán kinh tế cho hợp đồng kinh doanh của Công ty. Trực tiếp hướng dẫn các đơn vị hạch toán và quyết toán của các đơn vị cơ sở và tổng hợp quyết toán toàn Công ty báo cáo với cấp trên và các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
- Kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị chấp hành chế độ chính sách về kế toán tài chính đã ban hành.
- Xây dựng cơ chế quản lý tài chính, tiền bán hang từ các đơn vị trực thuộc Công ty và phân cấp để các đơn vị trực thuộc thực hiện.
- Tổ chức theo dõi, trực tiếp quản lý tiền – hàng từ các đơn vị thành viên đến Công ty.
- Hướng dẫn các đơn vị thành lập kế hoạch thu chi, kiểm tra tổng hợp báo cáo. tổ chức thực hiện khi đã được duyệt.
- Theo dõi việc thanh toán quyết toán hàng quý, báo cáo cho lãnh đạo, đối chiếu cùng phòng kế hoạch kinh doanh với các hợp đồng trong nước và hợp đồng thương mại khi quyết toán và thanh lý hợp đồng.
- Chỉ đạo công tác kiểm kê định kỳ và đột xuất, đánh giá lại tài sản hàng hóa và đề xuất xử lý nếu có.
- Quản lý tài chính cho hoạt động bình thường của Công ty ( lương, thanh toán các chi phí ….).
- Báo cáo thông kê và quyết toán hàng năm với cơ quan chức năng có thẩm quyền đồng thời thực hiện các khoản nộp nghĩa vụ cho Nhà nước.
2.1.2. Tình hình sản xuất kinh doanh chung của Công ty cổ phần vật tư nông sản
2.1.2.1. Khối lượng hàng hóa phân hóa học mua vào bán ra
Bảng 01. Khối lượng hàng hóa mua vào, bán ra của Công ty
Đơn vị: tấn
STT
Năm
Mua vào
Bán ra
KH
TH
%KH/TH
KH
TH
%KH/TH
1
2003
346.000
413.362
119.47
373.000
418.110
120.94
2
2004
300.000
410.289
136.76
340.000
382.641
125.41
3
2005
321.000
481.175
149.90
418.000
471.126
127.10
4
2006
243.000
447.832
184.29
386.000
449.354
164.13
5
2007
260.000
-
-
400.000
-
-
Nguồn: phòng kế hoạch kinh doanh
Từ bảng trên cho thấy khối lượng hàng hóa mua vào bán ra hàng năm bình quân khoảng hơn 400.000 tấn phân các loại, đây là con số rất lớn so với mức kế hoạch được giao, Công ty luôn thực hiện vượt mức kế hoạc đề ra hơn 20% tuy nhiên nếu so sánh lượng mua và và bán ra qua từng năm thì khối lượng hàng hóa mua vào bán ra của Công ty lại có xu hướng giảm xuống, đặc biệt là năm 2006, khối lượng hàng hóa mua vào và bán ra của Công ty chỉ bằng 93.07% và 95,38% so với năm 2005, nguyên nhân chủ yếu là do thị trường phân bón diễn biến phức tạp, giá cả dao động với biến động lớn và ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường nhập khẩu phân bón. Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có phần khó khăn hơn.
2.1.2.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Bảng 02. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
1
Tổng doanh thu
1.656.024
1.717.029
1.755.048
1.500.795
1.800.000
2
Tổng chi phí
1.596.134
1.654.943
1.691.587
1.446.528
1.734.000
3
Nộp ngân sách
58.495
60.650
61.993
53.012
63.600
4
Lợi nhuận
1.385
1.436
1.468
1.255
1.500
Nguồn: phòng kế hoạch kinh doanh
Tổng doanh thu
Với lượng hàng hóa mua vào và bán ra như trên cũng ảnh hưởng đáng kế đến tổng doanh thu của Công ty.
Từ năm 2003 đến 2005 tổng doanh thu của Công ty tăng năm sau cao hơn năm trước, để đạt được kết quả đó là do mộ số nguyên nhân sau:
- Cơ chế chính sách Nhà nước về điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa nhập khẩu nói chung và nhập khẩu phân bón nói riêng có sự điều chỉnh với nhu cầu thực tế của nền kinh tế về phát triển các ngành hàng trong nước và chính sách đối ngoại của chính phủ thông qua các hiệp định song phương và đa phương.
- Do chính sách khuyến khích sản xuất trong nông nghiệp, mà mục tiêu của chính sách là đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất cây trồng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy để đạt được những mục tiêu đề ra thì việc phải sử dụng phân bón hóa học là điều tất yếu.
- Công tác nghiên cứu thị trường phân bón, nắm bắt thông tin của Công ty đang từng bước được hoàn thiện ngày càng tốt hơn do vậy việc xác định thời điểm nhập và khối lượng nhập khẩu cho thị trường trong nước ngày càng kịp thời và chính xác hơn.
Tuy nhiên sang đến năm 2006 do tình hình trong nước và thế giới diễn biến vô cùng phức tạp, giá phân bón dao động với biên độ mạnh, giá xăng dầu tăng dẫn đến giá cả các mặt hàng khác cũng tăng theo gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chính vì vậy hoạt động tiêu thụ phân bón trong nước của Công ty trong năm 2006 là rất khó khăn, tổng doanh thu giản xuống chỉ bằng 85,51% so với năm 2005. Do tình hình thị trường trong nước và thế giới ngày càng có những biến đổi phức tạp và khó nắm bắt nếu không theo dõi thường xuyên, vấn đề này đòi hỏi Công ty cần phải có những biện pháp thich hợp nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt và lâu dài.
Nộp ngân sách nhà nước
Nhìn vào bảng ta thấy khoản nộp ngân sách Nhà nước của Công ty từ năm 2003 và 2005 tăng năm sau cao hơn năm trước tuy nhiên đến năm 2006 hoạt động kinh doanh của Công ty có giảm và biểu hiện là tổng doanh thu giảm do đó khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng giảm xuống còn 53.012 triệu chỉ đạt 85,51% so với năm 2005. Sang đến năm 2007 Công ty đề ra kế hoạch phải nộp ngân sách Nhà nước 63.600 triệu, để đạt được mục tiêu đó Công ty sẽ phải cố gắng nỗ lực rất nhiều trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đưa doanh thu của Công ty tăng hơn so với năm 2006 vừa qua.
Lợi nhuận
Lợi nhuận các năm 2003, 2004, 2005 đều tăng hơn so với năm trước, mặc dù tốc độ tăng không cao nhưng đó là dấu hiệu tốt cho Công ty. Điều đó chứng tỏ rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã phần nào thích ứng được với những thay đổi của thị trường và làm ăn có hiệu quả, có được kết quả đó là từ những cố gắng lớn của tập thế CBCNV trong Công ty. Điều này cũng gáp phần nâng cao thu nhập cho đời sống các nhân viên trong Công ty.
Năm 2006 hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn do đó lợi nhuận của Công ty cũng trực tiếp bị ảnh hưởng, giảm xuống còn 1.255 triệu, chỉ bằng 85,49% so với năm 2005. Trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cuối năm 2006 Công ty đề ra mục tiêu về lợi nhuận phải đạt 1.500 triệu, để đạt được con số này Công ty sẽ phải nỗ lực rất nhiều và cần có những kế hoạch, chiến lược cụ thể nhằm hướng vào kinh doanh có hiệu quả.
2.1.3. Đặc điểm nguồn lực của Công ty cổ phần vật tư nông sản
Hiện nay số lao động của Công ty gồm 69 người, trong đó 14 người có trình độ đại học và trên đại học chiếm 20,29%, 13 người tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 13,84%, 18 người tốt nghiệp các trường dạy nghề chiếm 26,09% và 16 lao động xã hội chiếm 23,18%. Đội ngũ cán bộ này được đào tạo kỹ, có cơ sở vững chắc và kinh nghiệm lâu năm, đây chính là lực lượng lao động nòng cốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, ưu điểm nổi bật của lực lượng này là có trí tuệ, có trình độ học thức, sẵn sàng tiếp thu những cái mới và nhanh nhạy trong kinh doanh. Muốn nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh phải lấy yếu tố con người là chính, đưa con người vào trung tâm, Công ty đã luôn coi trọng nguyên tắc này trong mọi hoạt động kinh doanh của mình, do đó nên hang năm đều có chương trình đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho các CBCNV trong Công ty, đặc biệt tại văn phòng Công ty hiện nay có 88% số người đã tốt nghiệp đại học và trên đại học, trong đó có nhiều người nắm giữ trọng trách quan trọng của Công ty như Tông giám đốc có trình độ tiến sĩ, hai Phó giám đốc có trình độ Thạc sĩ kinh tế.
Về thu nhập bình quân của CBCNV trong Công ty: Mặc dù năm 2006 có phần giảm xuống do lợi nhuận giảm nhưng nhìn chung thu nhập bình quân của CBCNV trong công ty vẫn được giữ vững và có chiều hướng tăng, tốc độ tăng tuy chậm nhưng đó là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty. Để đạt được những kết quả đó phải kể đến nhưng cố gắng rất lớn của toàn thể cán bộ và lãnh đạo trong Công ty, kết quả đó góp phần cải thiện đời sống cho CBCNV trong Công ty, là nguồn động lực để người lao động trong Công ty gắn bó hơn với các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiện nay Công ty cổ phần vật tư nông sản có số vốn khoảng 31 đồng.
Trong đó:
Vốn lưu động 13 tỷ đ ồng chiếm 41,94%.
Vốn DDTXDCB 14 tỷ đồng chiếm 45,16%.
Vốn cố định và dự trữ lưu thông 4 tỷ đồng chiếm 12,9%.
Công ty có một số cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối mạnh. Hiện nay, diện tích kho của Công ty tại các đơn vị cơ sở trong cả nước gần 3000m2, với sức chứa 50.000 tấn hàng.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG SẢN
2.2.1. Khái quát về tình hình nhập khẩu của Công ty
2.2.1.1. Khối lượng hàng nhập khẩu
Bảng 03. Khối lượng nhập khẩu phân bón qua các năm
Đơn vị: tấn
Chỉ tiêu
Năm
2003
2004
2005
2006
2007(KH)
KL hàng NK
324.941
246.173
256.466
279.336
300.000
Tăng(+) giảm(-)
+5,7
-24,24
+4,18
+8,92
-
Tỷ trọng NK so với tổng lượng mua (%)
67,21
60,00
53,30
60,32
-
Nguồn: phòng kế hoạch kinh doanh
Khối lượng phân bón nhập khẩu của Công ty đã liên tục tăng trong những năm gần đây, năm 2003 khối lượng phân bón nhập khẩu của Công ty là 324.941 tấn, tăng 5,7%. Sang đến năm 2004 do tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động do vậy lượng phân bón nhập về chỉ bằng 75,76% so với năm 2003, tuy nhiên từ năm 2005 khối lượng phân bón nhập khẩu của Công ty tăng dần, dự kiến sang năm 2007 Công ty sẽ cố gắng nhập khẩu 300.000 tấn phân bón các loại nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu trong nước.
Về tỷ trọng hàng nhập khẩu so với hàng hóa mua vào của Công ty hàng năm có xu hướng giảm xuống còn 60,32% vào năm 2006 mà nguyên nhân chủ yếu là do Công ty đang tập trung mở rộng sản xuất phân bón trong nước thông qua việc liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước và tại các đơn vị trực thuộc của Công ty cũng đang tự đầu tư để xây dựng các nhà máy trong nước. Trong năm 2006 Công ty đã mở rộng nhập khẩu phân bón ở Móng Cái, Lào Cai và mở rộng địa bàn kinh doanh vào miền Trung bước đầu có hiệu quả.
2.2.1.2. Mặt hàng nhập khẩu
Đ._.ng gay gắt, thị phần của Công ty cung giảm đi so với trước kia, đối thủ cạnh tranh xuết hiện ngày cang nhiều, hơn nữa thị trường phân bón trên thế giới ngày càng có nhiều biến động khó nắm bắt được. Từ những lý do trên, Công ty cần phải đặt công tác nghiên cứu và dự báo thị trường là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trước khi đi đến các quyết định kinh doanh. Nếu các thông tin về thị trường được thu thập đầy đủ sẽ giúp Công ty giảm thiểu được những rủi ro trong kinh doanh và đúng vững được trên thị trường trong nước.
3.2.1.2 .Từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức nghiên cứu và dự báo thị trường của Công ty
Trong thời gian tới Công ty cần chính thức thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu và dự báo thị trường, nhằm đi sâu nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời để đảm bảo mô hình tổ chức của bộ phận chuyên nghiên cứu và dự báo thị trường hoạt động có hiệu quả, Công ty sẽ phải tạo lập quy mô về mặt nhân sự cũng như ngân sách hợp lý để duy trì hoạt động trên. Các chuyên viên trong phòng nghiên cứu thị trường sẽ được nâng cao trình độ và đào tạo chuyên sâu, bài bản. Trong tương lai, bộ phân này sẽ trở thành một hệ thống hoàn chỉnh, đủ sức đảm nhiệm toàn bộ công việc nghiên cứu và dự báo thị trường, thậm chí cả công việc Marketing, kể cả việc lập kế hoạch kinh doanh cho Công ty.
3.2.1.3. Cần phải tổ chức nghiên cứu thị trường phân bón trong nước và nước ngoài một cách khoa học, phù hợp với từng vùng, từng khu vực và từng thời điểm
3.2.1.3.1. Đối với thị trường trong nước
Công ty cần phải nắm vững được nhu cầu của thị trường, hướng vào khách hàng, yêu cầu về chủng loại, chất lượng, số lượng, mẫu mã của từng vùng, từng loại đất, cây trồng và từng thời vụ. Hiện nay nhu cầu sử dụng phân bón hóa học cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta là rất lớn nhưng vẫn còn thấp so với các nước khác trên thế giới và việc sử dụng còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do :
Đặc điểm khách hàng là người nông dân có thu nhập thấp, do giá cả nông sản sản xuất ra lại rẻ, chất lượng sản phẩm còn hạn chế, chưa thay đổi được cơ cấu sản xuất theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng hóa nên ảnh hưởng lớn đến nhu cầu sử dụng phân bón hóa học.
Những tiến bộ khoa học công nghệ áp dụng và nông nghiệp nước ta chưa phát triển nên việc đầu tư phân bón mang lại hiệu quả không cao do đó không tạo dựng được niềm tin cho người nông dân vào lợi ích của phân bón hóa học mang lại. Ngoài ra do việc phân phối tiêu thụ chưa được đồng đều, còn nhiều khu vực còn thiếu phân bón như các tỉnh miền Nam, vùng sâu vùng xa mà nguyên nhân là chi phí vận chuyển còn gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy nghiên cứu thị trường trong nước sẽ giúp Công ty mở rộng thị trường, tăng khả năng thâm nhập vào các thị trường mới, qua đó tăng thêm thị phần, tìm kiếm được nhiều cơ hội kinh doanh, tăng thêm doanh thu và lợi nhuận.
Để nghiên cứu và dự báo thị trường được chính xác, Công ty cần thu thập các thông tin về nhu cầu phân bón hóa học ở các vùng, các khu vực sau đó tiến hành phân tích, xử lý các số liệu đó. Sau đó mới xác định nhu cầu về phân bón hóa học của từng vùng, từng địa phương mà Công ty có thể cung ứng.
Nghiên cứu thị trường giúp cho Công ty biết được thói quen sử dụng phân bón hóa học ở mỗi vùng gắn liền với điều kiện khí hậu, đất đai, giống cây khác nhau. Từ đó Công ty có thể thực hiện cung ứng phân bón hóa học cho người nông dân theo yêu cầu về số lượng, đảm bảo về chất lượng, từ đó tăng khả năng tiêu thụ. Mặt khác, thời điểm sử dụng phân bón ở mỗi vùng khác nhau nên nhu cầu sử dụng phân bón cũng khác nhau, ở miền Bắc vụ Đông xuân từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau còn ở miền Nam thì từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Trong một vùng thì loại phân được sử dụng và tác dụng cũng khác nhau, ở miền Nam thì vụ Hè cần nhiều Lân còn vụ Đông xuân cần nhiều đạm. Nắm vững được quy luật này sẽ giúp Công ty có được kế hoạch kinh doanh hợp lý.
Để công tác nghiên cứu và dự báo thị trường trong nước được tiến hành tốt Công ty nên sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phỏng vấn trực tiếp khách hàng, hoặc thông qua phiếu điều tra gửi tới một số khách hàng tại thị trường nào đó, với hình thức này để đảm bảo thông tin được chính xác và sự nhiệt tình của khách hàng khi cung cấp, Công ty nên sử dụng những biện pháp khuyến khích như giảm giá, tặng quà….
Để có hiệu quả phỏng vấn được cao Công ty nên tổ chức hội nghị khách hàng, hội thảo đánh giá sản phẩm với sự tham gia của phần lớn khách hàng tại các thị trường và khu vực khác nhau.
Với các phiếu điều tra, Công ty nên tiến hành soạn thảo với nội dung ngắn gọn, hình thức câu hỏi đóng hoặc mở.
Công ty nên tham gia các hội nghị, triển lãm để có thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và lắng nghe ý kiến phản hồi thông qua việc mua hàng trực tiếp của họ.
3.2.1.3.2. Đối với thi trường nước ngoài
Công ty cần nắm được tình hình và các khả năng cung ứng, chất lượng các loại hàng hóa cung ứng, giá cả cá phù hợp với công ty của mình không, các dịch vụ đi kèm như bao gói, vận chuyển, xếp dỡ….cung ứng như thế nào, các phương thức thanh toán, giao nhận được tiến hành như thế nào….để có được nhiều lợi nhuận nhất và có thể lựa chọn được nhà cung ứng tốt nhất với chất lượng tốt nhất với chất lượng giá cả và phương thức thanh toán phù hợp nhất với khả năng của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu còn giúp Công ty có thể dự báo trước được những biến động của thị trường, đặc biệt là về giá cả để từ đó có thể thay đổi được những chính sách, chiến lược và kế hoạch kinh doanh hợp lý mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó có thể đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh của Công ty luôn có lãi. Việc thực hiện nghiên cứu thị trường trong nước là có thể thực hiện được. Nhưng đối với thị trường nhập khẩu thì tính khả thi của nó không cao vì có một khó khăn là nguồn thông tin về các thị trường là rất hạn chế, chủ yếu là thông tin thứ cấp qua sách báo….do vậy độ chính xác và tính cập nhật không cao, không giúp được nhiều cho việc ra các quyết định của doanh nghiệp trong khi đó nguồn thông tin sơ cấp co đọ chính xác và độ tin cậy cao thì doanh nghiệp lại khó có thể có được do có khó khăn là chi phí cung cấp cho việc thu thập thông tin là rất cao nên Công ty khó có thể đáp ứng được trong thời gian hiện nay. Tuy gặp nhiều khó khăn như vậy nhưng nếu Công ty có những biện pháp và chính sách hợp lý là lập ra các quỹ dành cho công tác nghiên cứu và dự báo thị trường thì có thể thực hiện được.
3.2.1.4. Xây dựng hệ thống các điều kiện để thực hiện tốt công tác nghiên cứu và dự báo thị trường của Công ty
3.2.1.4.1. Tạo lập ngân sách
Ngân sách chi cho hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường hàng năm của Công ty khoảng chưa được 100 triệu, số tiền này so với doanh thu của Công ty là rất nhỏ. Chính vì vậy Công ty cổ phần vật tư nông sản cần tạo lập một ngân sách hợp lý cho hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường. Cách tạo lập ngân sách có thể là một trong hai cách sau:
Cách 1: Lập ngân sách chung cho tất cả các hoạt động nghiên cứu thị trường.
Cách 2: Chia ngân sách thành 2 phần định phí và biến phí. Định phí là các khoản cơ bản cần thiết để duy trì hoạt động phòng ban và các trang thiết bị đi kèm. Biến phí sẽ liên hệ với mỗi dự án nghiên cứu cụ thể. Cách tiếp cận này rõ ràng liên quan tới việc tiên đoán số lượng dự án trong năm và các phí tổn trực tiếp cho mỗi dự án khi dự trù ngân sách.
3.2.1.4.2. Dự kiến nhân sự
Con người trong công tác nghiên cứu thị trường hiển nhiên là một nhân tố không thể thiếu được. Ban lãnh đạo Công ty luôn quan tâm đến đội ngũ này. Trong tổ chức này, các chuyên viên nghiên cứu là những người được Ban lãnh đạo Công ty thường xuyên quan tâm, vì họ là trọng tâm của các công việc nghiên cứu.
Thể hiện sự quan tâm đó, Công ty cần phải tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ và nâng cao khả năng, trình độ, kinh nghiệm của những cán bộ tham gia công tac nghiên cứu và dự báo thị trường, từ đó đẩy mạnh, giúp hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất.
3.2.2. Biện pháp bảo đảm khách hàng ổn định
3.2.2.1. Biện pháp bảo đảm nguồn cung ứng ổn định
Hiện nay phân bón hóa học là mặt hàng nhiều nước sản xuất và xuất khẩu cho nên khả năng mở rộng thị trường của Công ty là rất lớn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu, Công ty cần nắm vững nguồn hàng và quan hệ tốt với người cung ứng. Xác định mặt hàng nhập khẩu giúp cho Công ty tìm được đối tác thuận lợi cho mình ( thuận lợi về giá cả, chi phí, thuận lợi cho tạo nguồn hàng ổn định ), qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của Công ty và mở rộng thị trường. Do vậy việc xác định bạn hàng nhập khẩu là không thể thiếu được cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường nhập khẩu phân bón của Công ty trong thời gian tới.
Để có được bạn hàng tin cậy, Công ty cần phải mở rộng quan hệ với nhiều nước, nắm vững được nhiều nguồn hàng, giữ vững và củng cố mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống, các bạn hàng truyền thống của Công ty gồm: Inđônêsia, Philippin, Singapore, Nga và một số nước châu Âu. Riêng đối với các bạn hàng Đông Nam Á, đặc biệt là với Inđônêsia, Công ty thường nhập URE là chủ yếu, đây là bạn hàng lớn của Công ty. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, giữ mối quan hệ tốt với khách hàng rất khó, thậm chí còn khó hơn cả việc xây dựng mối quan hệ mới. Một trong những nhân tố giữ được sự thành công trong kinh doanh là phải giữ được sự tin tưởng đối với bạn hàng trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Nếu gặp bạn hàng có tiềm năng, Công ty có khi cần phải hy sinh lợi ích trước mắt để giữ mối quan hệ lâu dài.
Bên cạnh những nhà cung ứng truyền thống, Công ty cũng cần xây dựng mối quan hệ tốt với những nhà cung ứng tại Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc. Đây là những nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, chất lượng phân bón cao và có khả năng cung ứng phân bón với khối lượng lớn và chủng loại đa dạng. Việc xây dựng mối quan hệ với các nhà cung ứng mới này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho Công ty, tìm hiểu kỹ đối tác là cơ sở để thiết lập mối quan hệ làm cho lâu dài giữa hai bên, điều đó chỉ có thể xây dựng khi hai bên hiểu rõ về nhau.
3.2.2.2. Biện pháp bảo đảm khách hàng ổn định trong nước
Bên cạnh việc bảo đảm nguồn cung cấp phân bón nhập khẩu từ phía thị trường nước ngoài, Công ty cần phải cỏ những biện pháp thích hợp nhẳm ổn định lượng khách hàng trong nước. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh khách hàng luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chinh vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần áp dụng một số biện pháp nhằm ổn định lượng khách hàng trên thị trường trong nước như sau :
- Tăng cường đầu tư theo chiều sâu cho các hoạt động nghiên cứu thị trường tiêu thụ trong nước, tổ chức nắm bắt tốt những thông tin phản hồi từ phía khách hàng.
- Tiếp tục củng cố những mối quan hệ mật thiết, gắn bó chân thành giữa các đại lý với những khách hàng quen thuộc, thường xuyên liên hệ với khách hàng để nắm bắt được những thông tin về nhu cầu, mong muốn của họ, lắng nghe ý kiến người tiêu dùng, từ đó nắm được thị hiếu của họ và có kế hoạch phát triển sản phẩm mới.
- Chú trọng vào cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, bao bì, mẫu mã phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn hàng, đặc biệt là nguồn hàng nhập khẩu để nhập khẩu những loại hàng hóa có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước, bảo đảm an toàn vệ sinh công nghiệp và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng một hệ thống chuyên nghiên cứu về hành vi mua của khách hàng. Chú ý lắng nghe những ý kiến của người tiêu dùng đối với những sản phẩm của Công ty, thường xuyên liên hệ với khách hàng, thông qua những hộ nghị khách hàng, triển lãm có cơ hội tiếp xúc trực tiếp vớ khách hàng để thu thập ý kiến, thông tin phản hồi của họ, từ đó có kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp.
3.2.3. Biện pháp phát triển thị trường theo chiều rộng
Trong những năm tới, để phát triển quy mô của thị trường trong và ngoài nước, Công ty cần có những biện pháp sau :
3.2.3.1. Đối với thị trường trong nước
Đây là thị trường tiêu thụ hầu hết các mặt hàng sản xuất và nhập khẩu của Công ty, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, do đó giải quyết tốt khâu tiêu thụ sẽ bảo đảm cho Công ty đứng vững trên thị trường, tuy nhiên để đạt được những kết quả đó, Công ty phải :
- Quan tâm đúng mức đên việc mở rộng thị trường tiêu thụ, từng bước xây dựng những trọng điểm bán hàng, tiếp tục duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Tổng Công ty vật tư nông nghiệp, bên cạnh đó xây dựng những mối quan hệ với các công ty vật tư ở các tỉnh miền núi vì gần đây nhu cầu sử dụng phân bón hóa học tại các tỉnh miền núi có xu hướng ngày càng tăng, do đó để đảm bảo tăng sản lượng tiêu thụ hàng năm Công ty cần phải quan tâm nhiều hơn đên các khu vực thị trường này.
- Phân công nhiệm vụ cho các đơn vị thành viên đảm nhiệm xây dựng mạng lưới tiêu thụ nhằm hạn chế cạnh tranh trong nội bộ Công ty.
+ Đối với khu vực phia nam: thiết lập mối quan hệ tiêu thụ phân bón với các nhà máy và cơ sở tiêu thụ có uy tín nhằm tiêu thụ một khối lượng phân bón ổn định, tuy nhiên cần phải xác định mức độ dư nợ hợp lý đối với từng đơn vị nhằm bảo đảm an toàn và có hiệu quả trong quản lý nguồn vốn.
+ Đối với khu vực đại lý tư nhân cần rà soát, chọn lọc các đơn vị có trách nhiệm, có khả năng tiêu thụ và khả năng thanh toán, đồng thời cũng xác định khối lượng phân bón cung cấp cho các đơn vị này nhằm tránh tình trạng nơi thừa nơi thiếu khi vào chính vụ.
- Mở rộng hệ thống bán lẻ xuống các huyện thông qua việc thiết lập các đại lý, điểm bán hàng. Tùy từng khu vực thị trường tiêu thụ nhiều hay ít mà Công ty xác định số lượng các đại lý và điểm bán hàng đồng thời có các chính sách khuyến khích và hỗ trợ cụ thể cho các điểm bán lẻ này.
Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở từng vùng để đưa ra các loại phân bón hỗn hợp thích hợp.
3.2.3.2. Đối với thị trường nước ngoài
Đi đôi với các biện pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước, các hoạt động nghiên cứu phát triển thị trường nước ngoài cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của Công ty. Do vậy việc nhập khẩu phân bón cũng phải gắn chặt thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, cho nên Công ty cần phải tích cực tìm kiếm bạn hàng, các nhà sản xuất lớn để liên kết nhập khẩu. Hiện nay Công ty đã quan hệ buôn bán với các nhà sản xuất kinh doanh phân bón ở 10 nước khác nhau. Tuy nhiên Công ty cũng cần phải có những chính sách cụ thể về tìm kiếm và hợp tác với các nhà sản xuất kinh doanh và kinh doanh phân bón ở mỗi nước. Công ty có thể đưa ra các chính sách của mình cho 2 nhóm thị trường nhập khẩu khác nhau :
3.2.3.2.1. Đối với thị trường nhập khẩu truyền thống
Thị trường nhập khẩu truyền thống hiện nay của Công ty là Nga, Inđônêsia, Philippin và một số nước Châu Âu. Tại các thị trường này, Công ty đã có kinh nghiệm trong hoạt động nhập khẩu nên trong thời gian tới, Công ty nên hoàn thiện công tác nhập khẩu và hợp tác chặt chẽ với các nhà sản xuất kinh doanh phân bón ở đó. Bên cạnh đó, Công ty tiếp tục thường xuyên trao đổi thông tin về chủng loại phân bón và những thay đổi trong sử dụng phân bón trong nước để từ đó các nhà cung ứng sẽ cung cấp cho Công ty các loại phân bón mới, làm tăng khả năng cạnh tranh cho Công ty trên thị trường nội địa.
3.2.3.2.2. Đối với thị trường nhập khẩu mới
Ở các thị trường nhập khẩu truyền thống của Công ty trong những năm gần đây nguồn cung không ổn định, nhiều lúc Công ty không nhập được hang, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Vì vậy bên cạnh những nhà cung cấp truyền thống Công ty đã và đang xây dựng những mối quan hệ tốt với các thương gia tại các nước như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, đây là những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật cao, chất lượng sản phẩm tốt. Những nước này có khả năng cung cấp phân bón với khối lượng và chủng loại đa dạng.
Tuy nhiên các hoạt động tìm kiếm nguồn nhập khẩu tứ các thị trường này chưa được Công ty quan tâm, khối lượng phân bón nhập khẩu về chủ yếu vẫn là để bổ xung cho phần thiếu hụt từ các thị trường truyền thống. Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra được ổn định và lâu dài, Công ty cần phải đa dạng hóa nguồn hàng nhập khẩu của mình thông qua các hoạt động và mở rộng các thị trường nhập khẩu mới. Muốn như vậy Công ty cần tìm kiếm những đối tác mới, đi sâu vào nghiên cứu các hiệp định thương mại giữa 2 chính phủ, cách thức buôn bán của các thương nhân tại đó, xác định đặc điểm thị trường, phương thức thanh toán, tính toán các chi phí và giá mua hợp lý, co như vậy mới bảo đảm khả năng thanh công khi thâm nhập vào các thị trường này.
Như vậy, để tìm được đối tác chắc chắn Công ty không chỉ cần củng cố quan hệ với các thị trường truyền thống mà cần phải mở rông thị trường nhập khẩu và xây dựng mối quan hệ bền vững với các nhà cung ứng tại đó, trên cơ sở đó sẽ xác định nguồn cung cấp chính qua giá bán, điều kiện giao hàng, khả năng cung cấp theo những yêu cầu của Công ty và quan hệ lành mạnh trong buôn bán, có như vậy mới có thể đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thuận lợi và xuyên suốt.
3.2.4. Biện pháp phát triển thị trường theo chiều sâu
3.2.4.1. Phát triển và đa dạng hóa mặt hàng nhập khẩu trên thị trường hiện có
Trong những năm gần đây Công ty chỉ chú trọng nhập khẩu kinh doanh nhập khẩu những mặt hàng phân bón hóa học phục vụ cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp trong nước do đó kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty hoàn toàn phụ thuộc vào việc kinh doanh các mặt hàng này. Để giảm bớt rủi ro trong kinh doanh Công ty cần tìm kiếm những mặt hàng nhập khẩu khác phục vụ trong ngành sản xuất nông nghiệp như thuốc trừ sâu, các loại cây, con giống, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp….từ nước ngoài. Nếu tham gia nhập khẩu các mặt hàng này Công ty sẽ có nhiều thuận lợi trong khâu tiêu thụ bởi hoạt động này không những làm tăng thêm lợi nhuận, uy tín cho Công ty mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong Công ty.
3.2.4.2. Phát triển các nhà cung cấp trên thị trường hiện có
Tạo nguồn luôn là một khâu rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Muốn kinh doanh hàng hóa nhậy khẩu có hiệu quả cao Công ty cần tăng thêm các đầu mối có khả năng đáp ứng đầu vào cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón của Công ty. Nguồn hàng cung ứng chủ yếu của Công ty chủ yếu là từ nguồn hàng nhập khẩu. Các thị trường nhập khẩu quen thuộc của Công ty là Nhật Bản, Nga, Inđônêsia….Tuy nhiên nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi những bạn hàng truyền thông trên những thị trường này rất có thể Công ty sẽ bị thua thiệt như bị ép giá, điều kiện giao hàng bất lợi, thanh toán khó khăn….Vì vậy để tránh tình trạng trên Công ty cần mở rộng và quan hệ tốt với các thương nhân khác có trình độ khoa học kỹ thuật cao, chất lượng phân bón tốt giá thành lại rẻ. Mỗi khi có biến động trên thị trường có thể giúp cho Công ty có thể chủ động được nguồn hàng, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra ổn định. Để có thể phát triển các nhà cung cấp trên thị trường sẵn có, Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau:
- Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và xây dựng các mối quan hệ với các bạn hàng mới thông qua các đơn chào hàng, uy danh của những người cung cấp trên thị trường, mối quan hệ giữa họ và bạn hàng truyền thống.
- Xây dựng hệ thống thông tin có chất lượng cao trong Công ty. Hệ thống thông tin hiện nay của Công ty chưa bảo đảm nguồn thông tin có chất lượng càn thiết đối với thị trường phân bón. Do vậy việc xây dựng được hệ thống thông tin cần thiết về thị trường phân bón trong nước và thế giới là yêu cầu quan trọng đối với Công ty hiện nay.
Vấn đề mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác la rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh hàng hóa nhập khẩu. Thông qua hoạt động này Công ty có thể lựa chọn được mặt hàng, bạn hàng phù hợp, giảm đáng kể chi phí kinh doanh. Do vậy Công ty cần phải có sự đầu tư thích đáng cho hoạt động này.
3.2.4.3. Biện pháp phát triển các mối quan hệ buôn bán ổn định lâu dài
3.2.4.3.1. Đối với thị trường trong nước
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh khách hàng luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chinh vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần áp dụng một số biện pháp nhằm bảo đảm các mối quan hệ buôn bán với khách hàng trên thị trường trong nước như sau :
- Tăng cường đầu tư theo chiều sâu cho các hoạt động nghiên cứu thị trường tiêu thụ trong nước, tổ chức nắm bắt tốt những thông tin phản hồi từ phía khách hàng.
- Tiếp tục củng cố những mối quan hệ mật thiết, gắn bó chân thành giữa các đại lý với những khách hàng quen thuộc, thường xuyên liên hệ với khách hàng để nắm bắt được những thông tin về nhu cầu, mong muốn của họ, lắng nghe ý kiến người tiêu dùng, từ đó nắm được thị hiếu của họ và có kế hoạch phát triển sản phẩm mới.
- Chú trọng vào cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, bao bì, mẫu mã phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn hàng, đặc biệt là nguồn hàng nhập khẩu để nhập khẩu những loại hàng hóa có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước, bảo đảm an toàn vệ sinh công nghiệp và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng một hệ thống chuyên nghiên cứu về hành vi mua của khách hàng. Chú ý lắng nghe những ý kiến của người tiêu dùng đối với những sản phẩm của Công ty, thường xuyên liên hệ với khách hàng, thông qua những hộ nghị khách hàng, triển lãm có cơ hội tiếp xúc trực tiếp vớ khách hàng để thu thập ý kiến, thông tin phản hồi của họ, từ đó có kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp.
3.2.4.3.2. Đối với thị trường nước ngoài
Với đặc điểm cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường như hiện nay thì việc giữ được mối quan hệ tốt với bạn hàng là rất khó khăn, thậm chí còn khó hơn cả xây dựng mối quan hệ mới. Một trong những nhân tố để giữ được sự thành công trong kinh doanh là phải giữ được chữ “tín”, giữ được sự tin tưởng của khách hàng và bạn hàng, phải xây dựng mối quan hệ hai bên cùng có lợi. Hiện nay Công ty có rất nhiều bạn hàng truyền thống, đây chính là tiềm năng cần phát huy trong thời gian tới. Các bạn hàng truyền thống của Công ty gồm các nước Cô Oét, Pakistan, Arập Saudi và các nước châu Âu. Đối với châu Á thì Inđônêsia là chủ yếu, đây chính là thị trường Công ty nhập khẩu URE là chính. Do khoảng cách ngắn nên vận chuyển nhanh, do vậy giá nhập khẩu thấp, đáp ứng nhanh nhu cầu sản xuất trong nước, do vậy trong thời gian tới Công ty nên thích cực giữ vững mối quan hệ với các bạn hàng này.
Đối với các nước ở châu Âu, lượng phân bón nhập khẩu của Công ty gần đây giảm xuống, kéo theo các mối quan hệ cũng giảm theo. Trong thời gian tới Công ty không nên chú trọng vào những thị trường này vì hàng hóa của những thị trường này chủ yếu là KCl, URE, DAP có chất lượng không cao, khoảng cách vận chuyển lại xa nên giá nhập khẩu tăng, khó đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất trong nước.
3.2.5. Biện pháp bảo đảm chất lượng hàng hóa nhập khẩu
Trong những năm qua, sản xuất phân bón trong nước mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ về phân lân NPK, còn nhu cầu tiêu thụ các loại phân khác như URE, SA, DAP, KCl hầu như vẫn do nguồn hàng nhập khẩu đáp ứng. Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phân bón thường nhập từ các nước như Inđônêsia, Nga, Philippin….Đối với các nước như Nga, Trung Đông….do kỹ thuật lạc hậu nên hàng của những nước này kém chất lượng. Hàng của Inđônêsia rắn chắc, phù hợp với công tác vậ chuyển, không bị vỡ nát nên dù giá có hơi đắt nhưng vẫn được người tiêu dùng chấp nhận,hàng năm lượng phân bón URE nhập về Công ty có đến 60% là hàng của Inđônêsia. Đối với KCl chủ yếu nhập từ Nga bằng 2 con đường thẳng từ Nga về Việt Nam hoặc chở hàng qua Trung Quốc rối tái xuất sang nước ta. Chất lượng của mặt hàng này tốt, giá nhập không cao nên có nhiều nước nhập khẩu mặt hàng này từ Nga. Đối với DAP, SA, NPK các doanh nghiệp nhập chủ yếu tư Mỹ , Hàn Quốc, Philippin, trong đó hàng của Philippin được đánh giá cao nhất.
Trong thời gian tới, để đảm bảo phân bón nhập khẩu về có chất lượng tốt nhất, đáp ứng nhu cầu trong nước, ngoài việc tiếp tục duy trì mối quan hệ buôn bán với các nước xuất khẩu phân bón với số lượng và chất lượng tốt, Công ty cần thực hiện những biện pháp trong quá trình nhập khẩu nhằm bảo đảm hàng hóa được nhập về với tiêu chuẩn cao nhất, không bị thất thoát và hư hại, bảo đảm nguồn cung ứng phân bón có chất lượng tốt và ổn định.
Do tính chất thời vụ và đặc điểm lý hóa của phân bón hóa học nên trong quá trình vận chuyển cần có những công tác bảo quản hợp lý. Tất cả các loại phân bón hóa học đều có một đặc tính là dễ tan trong nước nên rất khó để lâu và cần có một chế độ bảo quản thật tốt. Đồng thời phân bón hóa học rất có hại cho con người và vật nuôi, nếu để gần hoặc tiếp xúc sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và sức khỏe. Chính vì vậy khi vận chuyển phân bón hóa học cần tuân thủ mọi quy trình nghiêm ngặt, tránh xảy ra những đáng tiếc. Nhằm bảo đảm chất lượng phân bón nhập khẩu tốt, tránh thất thoát, trong công tác nhập khẩu Công ty cần có các biện pháp cụ thể sau :
- Phải có một hệ thống kho chuyên dụng đạt tiêu chuẩn và điều kiện cần thiết nhằm bảo quản tốt lượng phân bón nhập về.
- Phải có phương tiện vận tải chuyên dụng, dùng để vận chuyển phân bón.
- Hệ thống kho bản quản và các phương tiện vận tải phục vụ cho quá trình vận chuyển không được sử dụng chung với các hàng hóa khác như nông sản, thực phẩm, các chất hóa học khác….
- Đội ngũ nhân viên thực hiện quá trình vận chuyển chuyên nghiệp, được đào tạo nghiệp vụ vận chuyển kỹ lưỡng và có tinh thần trách nhiệm cao.
- Thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn công nghiệp và bảo vệ môi trường.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Đối với Công ty
- Hàng năm Công ty nên trích một phần lợi nhuận để đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường ở trong và ngoài nước, khoản trích này sẽ được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng cho các đơn vi thành viên trong Công ty.
- Về cơ cấu tổ chức của Công ty nên có thêm phòng nghiên cứu và dự báo thị trường, mỗi đơn vị thành viên sẽ cử một cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ tham gia vào các hoạt động này của Công ty.
3.3.2. Đối với các đơn vị thành viên
- Căn cứ vào chiến lược phát triển toàn Công ty, các đơn vị thành viên phải quán triệt sâu rộng các kế hoạch, chiến lược và chính sách kinh doanh của Công ty, bảo đảm các lãnh đạo của các đơn vị thành viên đều phải nắm vững được những định hướng, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển ngành trong quá trình chỉ đạo thực hiện và xây dựng chiến lược kinh doah của đơn vị, phù hợp với mục tiêu chung của Công ty, đáp ứng tốt các yêu cầu kinh doanh.
- Các đơn vị phải hợp tác, phối hợp hoạt động với nhau một cách nhịp nhàng và đồng bộ trên cơ sở phân định rõ lĩnh vực chuyên môn hóa của các đơn vị thành viên trong Công ty.
- Các đơn vị thành viên phải tự chủ trong kinh doanh, phát huy tính tự lập sang tạo trong công việc xây dựng các chiến lược kinh doanh và hạch toán kinh doanh độc lập, chủ động tìm kiếm và khai thác những nguồn hàng mới.
3.3.3. Đối với Nhà nước
3.3.3.1. Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu và kinh doanh phân bón hóa học
Sự quản lý của Nhà nước với thị trường phân bón trong thời gian qua còn có những buông lỏng, chưa chặt chẽ. Vì vậy trong những năm tới xin kiến nghị với Nhà nước tăng cường khâu quản lý, điều hành và nhập khẩu mặt hàng phân bón nước không để tình trạnh tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh như trước. Mặt hàng phân bón hóa học là mặt hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, Nhà nước cần có những chính sách quản lý chặt chẽ hơn nữa bằng cách tiếp tục chỉ định những đầu mối nhập khẩu chính và quản lý các hoạt động kinh doanh hàng hóa nhập khẩu ở trong nước.
3.3.3.2. Nhà nước nên có những chính sách thuế hợp lý vừa bảo đảm cho doanh nghiệp có khả năng tích lũy được nguồn vốn, giảm thuế nhập khẩu những loại hàng hóa trong nước chưa thể sản xuất được để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp trong nước đúng thời vụ, giảm giá thành tiêu thụ, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh hang hóc nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Tóm lại phát triển thị trường nhập khẩu là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu đối với một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế mà ở đây la Công ty cổ phần vật tư nông sản. Doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển ổn định được trên thị trường thế giới đầy biến động và cạnh tranh nếu không tiến hành công tác phát triển thị trường cho các mặt hàng kinh doanh của mình.
Đề tài Một số biện pháp phát triển thị trường nhập khẩu của Công ty Cổ phần vật tư nông sản đã nêu ra được một hệ thống cơ sở lý luận cho hoạt động phát triển thị trường, phân tích đánh giá công tác phát triển thị trường tại Công ty cổ phần vật tu nông sản, và trên cơ sở đó cũng nêu ra được một số biện pháp góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này tại Công ty.
Với trình độ còn hạn chế, chưa hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực kinh doanh cũng như những hạn chế về thời gian và lượng thông tin ít ỏi nên đề tài được hoàn than không thể tránh khỏi những thiếu sót, những đánh giá chưa thực sự chính xác. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các CBCNV trong Công ty cổ phần vật tư nông sản và các bạn sinh viên.
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại
Chủ biên:
- PGS. TS Hoàng Minh Đường
- PGS. TS Đặng Đình Đào
Giáo trình Kinh tế thương mại
Chủ biên:
- PGS. TS Nguyễn Duy Bột
- PGS. TS Đặng Đình Đào
Giáo trình Thương mại quốc tế
Chủ biên: PGS. TS Nguyễn Duy Bột
Giáo trình Marketing Thương mại quốc tế
Chủ biên:
- PGS. TS Nguyễn Duy Bột
- Thạc sỹ Nguyễn Quỳnh Chi
- Thạc sỹ Trần Hòe
Giáo trình Marketing căn bản
Chủ biên PGS. TS Trần Minh Đạo
Các chiến lược thâm nhập thị trường thế giới
Thời báo kinh tế các số năm 2004, 2005, 2006
Các chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển
Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội
Báo cáo Tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần vật tư nông sản các năm 2004, 2005, 2006
Ké hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần vật tư nông sản các năm 2004, 2005, 2006
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0445.doc